Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

Thực trạng và giải pháp phát triển bền vững ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (515.23 KB, 48 trang )

ChÝnh trÞ häc ph¸t triÓn
MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài
Khi bước vào thế kỷ XXI, nhân loại đã đạt được nhiều thành tựu phát
triển vĩ đại trong lịch sử văn minh của mình, song đồng thời cũng đứng trước
những nguy cơ, những thách thức và nan giải, như: sự bùng nổ về dân số, sự
suy giảm nguồn lực tự nhiên (nước, năng lượng, đất đai…), ô nhiễm môi
trường sinh thái, đói nghèo, các bệnh nan y, khoảng cách giàu nghèo, bất
công xã hội trên thế giới, cũng như từng bước đã và đang trở thành vấn đề
mang tính toàn cầu cản trở sự phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc
sống, đe dọa sự sinh tồn và phát triển của nhân loại.
Trong bối cảnh toàn cầu như thế, những nhận thức và lý giải của loài
người đối với vấn đề phát triển bền vững không ngừng được nâng cao. Mục
tiêu lớn của loài người, cũng như bất cứ quốc gia nào trong thiên niên kỷ thứ
ba này là phát triển bền vững. Chính vì thế mà cộng đồng thế giới đã tổ chức
nhiều cuộc hội nghị thượng đỉnh bàn về phát triển bền vững, đáng chú ý nhất
là Hội nghị thượng đỉnh về môi trường và phát triển được tổ chức tại Rio de
Janeiro (Braxin) năm 1992. Hội nghị đã thống nhất quan điểm: Phát triển bền
vững là trách nhiệm chung của các quốc gia và toàn nhân loại. Nhận thức
được tầm quan trọng và tính tất yếu đó Việt Nam đã sớm hội nhập vào xu thế
phát triển bền vững.
Mục tiêu tổng quát của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn
2006-2010 của Việt Nam là “đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được
bước chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự
phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ rệt
đời sống vật chất văn hoá, tinh thần của nhân dân. Đẩy mạnh công nghiệp hoá
hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản
trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2010. Giữ vững
ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ


quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Nâng cao vị thế của Việt Nam
trong khu vực và trên trường quốc tế”.

1


ChÝnh trÞ häc ph¸t triÓn
Muốn nước ta đứng vững trên con đường phát triển thì cần phải hiểu
về phát triển bền vững và thực trạng phát triển bền vững ở nước ta hiện nay.
Vì vậy trong khuôn khổ của một bài Tiểu luận thuộc lĩnh vực Chính trị học
phát triển, em xin trình bày đề tài: “Thực trạng và giải pháp phát triển bền
vững ở Việt Nam hiện nay”. Qua đó thấy được những thành tựu, hạn chế và
trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp khắc phục nhằm đưa Việt Nam tiến
nhanh hơn nữa trên con đường “Phát triển bền vững” của mình.
2.

Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu về lĩnh vực phát triển bền vững không chỉ có ý nghĩa về
mặt lý luận mà còn thật sự có ý nghĩa về mặt thực tiễn rất sâu sắc. Nhất là
nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thời kỳ quá độ lên
nhà nước xã hội chủ nghĩa thì việc đề ra và thực hiện đường lối phát triển bền
vững không chỉ có ý nghĩa trong giai đoạn hiện nay mà còn cả các thời đại
tiếp theo. Chính vì vậy mà vấn đề phát triển bền vững từ trước tới nay luôn
giành được sự quan tâm và nghiên cứu của rất nhiều nhà khoa học trong và
ngoài nước với rất nhiều hội nghị quốc tế quan trọng.
Một số Hội nghị quốc tế quan trọng bàn về phát triển bền vững như:
Hội nghị thượng đỉnh về môi trường và phát triển tại Rio de Janeiro vào tháng
6 - 1992 tại Braxin, với sự tham gia của 70 nguyên thủ quốc gia và các nhà
hoạt động kinh tế, xã hội, môi trường và chính trị và đã thống nhất quan điểm:
phát triển bền vững là trách nhiệm chung của các quốc gia và toàn nhân loại,

đồng thời thống nhất tuyên bố chung về quan điểm phát triển bền vững gồm
27 nguyên tác cơ bản. Nguyên tắc bao trùm và chủ yếu của phát triển bền
vững là: kết hợp hài hòa các yếu tố tiến bộ xã hội; đáp ứng nhu cầu của mọi
người dân; bảo vệ môi trường sinh thái và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên
thiên nhiên; tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định.
Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển bền vững tại Johannesburrg
( cộng hòa Nam Phi) năm 2002 đã thống nhất khẳng định: phát triển bền
vững là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hòa ba mặt
của sự phát triển là: phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường

2


ChÝnh trÞ häc ph¸t triÓn
nhằm đáp ứng nhu cầu của đời sống con người trong hiện tại mà không làm
tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai.
Nhằm góp phần đáp ứng nhu cầu thực tiễn của hoạt động nghiên cứu
khoa học và đào tạo, đồng thời, để đánh dấu bước phát triển mới trong quan
hệ hợp tác giữa hai bên, Học viện Báo chí và Tuyên truyền cùng với Văn
phòng Viện Friedrich Ebert ( Đức) tại Hà Nội đồng tổ chức Hội thảo khoa
học quốc tế: “Chính trị và phát triển bền vững trong bối cảnh toàn cầu hóa
và hội nhập quốc tế - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”. Với 78 báo cáo
khoa học trong đó có hai phần viết về Phát triển bền vững trong bối cảnh toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế - thời cơ và thách thức và vai trò của chính trị đối
với phát triển bền vững. Hội thảo đã nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình của
các nhà khoa học trong nước và quốc tế, các nhà lành đạo, quản lý, các
chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực có liên quan.
3.

Đối tượng nghiên cứu

Tiểu luận tập trung nghiên cứu thực trạng phát triển bền vững ở Việt
Nam, qua đó thấy được những thành tựu đạt được, những hạn chế tồn tại về
các lĩnh vực kinh tế, văn hóa xã hội và môi trường từ đó đưa ra giải pháp khắc
phục nhằm đảm bảo cho Việt Nam ngày càng phát triển bền vững.

4.
a.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu một cách có hệ thống những cơ sở lý luận
của vấn đề phát triển bền vững như khái niệm, nội dung và lý luận về phát
triển bền vững ở Việt Nam hiện nay từ đó nhìn nhận và đánh giá thực trạng
phát triển bền vững ở nước ta - những thành tựu đạt được và những vấn đề tồn
tại qua đó đưa ra những giải pháp nhằm đảm bảo quá trình phát triển bền
vững ở Việt Nam hiện nay.

b.

Nhiệm vụ nghiên cứu
Tiểu luận có nhiệm vụ làm rõ những vấn đề lý luận xoay quanh phạm
trù phát triển bền vững như: khái niệm, nội dung và ý nghĩa của phát triển bền
vững nói chung và phát triển bền vững ở Việt Nam nói riêng. Phân tích những
3


ChÝnh trÞ häc ph¸t triÓn
thành tựu và tồn tại của phát triển bền vững của Việt Nam. Đưa ra những giải
pháp để đảm bảo phát triển bền vững hiệu quả.
5.


Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin:
phương pháp Duy vật Biện chứng và Duy vật lịch sử. Ngoài ra, để thực hiện
mục tiêu nghiên cứu của tiểu luận cũng như việc triển khai nội dung, tiểu luận
kết hợp sử dụng các phương pháp chung: lôgic - lịch, diễn dịch - quy nạp,
phân tích - tổng hợp và một số phương pháp cụ thể như: so sánh, thống kê, tra
cứu, phân tích tài liệu, phương pháp thu thập và xử lý thông tin.

6.

Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận
gồm có 3 chương:
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
CHƯƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành, tiểu luận còn nhiều thiếu
sót, kính mong Thầy Cô góp ý kiến để tiểu luận được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !

Hà Nội, ngày 20 - 11 - 2011
Sinh viên

Nguyễn Thị Loan

4



ChÝnh trÞ häc ph¸t triÓn
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
1.1 Khái quát chung về phát triển bền vững
Khái niệm phát triển bền vững bắt đầu thu hút sự chú ý của các nhà
khoa học cũng như các nhà chính trị từ những năm đầu của thập niên 70 của
thế kỷ XX, trong hội nghị Stockkholm (Thụy Điển). Ban đầu, đó là mối quan
tâm đối với bền vững môi trường. Tuy nhiên, về sau các nhà khoa học đã
nhận định rằng, để đạt được sự bền vững môi trường, không thể không chú ý
tới việc phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. Do đó, khái niệm
phát triển bền vững đã dần mở rộng, và đã có rất nhiều các định nghĩa về khái
niệm này được đưa ra.
Khái niệm phát triển bền vững thường xuyên được sự dụng nhất cho
dến nay là khái niệm trong Báo cáo Tương lai của chúng ta, của tổ chức
WCED của Liên hợp quốc, phát triển bền vững được định nghĩa là: sự phát
triển đền đáp được những yêu cầu của hiện tại, nhưng không gây trở ngại
cho việc đáp ứng các nhu cầu của các thế hệ mai sau.
Khái niệm phát triển bền vững này thường được gọi là Brundtland. Cho
đến nay, nó vẫn còn sử dụng rộng rãi và thường được trích dẫn. Điểm mạnh
của khái niệm này là đề cập đến sự công bằng giữa các thế hệ, dẫn đến việc
cân bằng lợi ích của các thế hệ hiện tại lẫn tương lai. Tuy nhiên, các nhà
nghiên cứu thường chỉ ra rằng khái niệm này thiếu sự rõ rằng, bởi “nhu cầu”
không được định nghĩa cụ thể.
Hội nghị thượng đỉnh trái đất về môi trường và phát triển, tổ chức tại
Rio de Janeiro năm 1992, đã phát triển khái niệm phát triển bền vững. Tuyên
ngôn Rio 1992 đưa ra khái niệm phát triển bền vững là: sự phát triển kinh tế xã hội lành mạnh, dựa trên việc sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên và môi
trường nhằm đáp ứng nhu cầu của các thế hệ con người hiện nay và không
ảnh hưởng bất lợi tới các thế hệ tương lai trong việc thỏa mãn các nhu cầu
của họ.

So với định nghĩa Brundtland, khái niệm phát triển bền vững trong
tuyên ngôn Rio đã nêu rõ ba mảng, hay còn gọi là ba trụ cột của phát triển bền
5


ChÝnh trÞ häc ph¸t triÓn
vững bao gồn phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Hơn
nữa khái niệm này cũng tập trung vào sự phát triển không phải chỉ cho thế hệ
hiện tại mà cả các thế hệ tương lai. Nói cách khác, khái niệm này cũng hướng
đến việc đảm bảo công bằng giữa các thế hệ.
Tóm lại, phát triển bền vững có thể hiểu là sự phát triển về kinh tế và
xã hội đi liền với bảo vệ môi trường và đảm bảo sự cân bằng lợi ích giữa các
thế hệ.
Nội dung của phát triển bền vững được thể hiện trên ba lĩnh vực nền
tảng: kinh tế bền vững, xã hội bền vũng và môi trường bền vững.
Sự bền vững về kinh tế hay tăng trưởng kinh tế bền vững là phải tạo ra
được hàng hóa và dịch vụ một cách liên tục với mức độ có thể kiểm soát
dược. Tránh tình trạng mất cân đối giữa các khu vực làm tổn hại đến mọi lĩnh
vực sản xuất. Phải bảo đảm sự gắn kết giữa sản xuất nông nghiệp, công
nghiệp và dịch vụ theo hướng nương tựa vào nhau, thúc đẩy nhau, không gây
tổn hại, mâu thuẫn nhau. Yếu tố kinh tế đóng một vai trò không thể thiếu
trong phát triển bền vững. Sự bền vững về kinh tế còn tạo sự ổn định để tồn
tại, phát triển cho các nghành kinh doanh, sản xuất, từ đó tạo ra sự thịnh
vượng chung cho tất cả mọi người.
Sự bền vững về xã hội phải đảm bảo được sự công bằng trong phân
phối, cung cấp các dịch vụ xã hội như: y tế, giáo dục, dịch vụ công cộng…
Đảm bảo sự bình đẳng về giới trong việc tham gia các hoạt động chính trị, xã
hội. Tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển con người và cố gắng tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển con người, để cho mọi người có cơ hội
bộc lộ, phát trển năng lực bản thân, đồng thời tạo ra những điều kiện cải thiện

cuộc sống.
Sự bền vững về môi trường phải duy trì nền tảng nguồn lực ổn định,
tránh khai thác quá mức nguồn tài nguyên thiên nhiên, khai thác phải đi đôi
với tái tạo, nâng cao đạo đức sinh thái trong cộng đồng. Duy trì sự cân bằng
giữa bảo vệ môi trường với sự khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ
lợi ích con người một cách hợp lý. Duy trì mức độ khai thác những nguồn tài
nguyên ở giới hạn nhất định cho phép. Tiếp tục hỗ trợ điều kiện sống cho con
6


ChÝnh trÞ häc ph¸t triÓn
người và các sinh vật sống trên trái đất. Duy trì sự đa dạng sinh học, bảo tồn
các loại gien quý hiếm, tạo sự ổn định khí quyển và các hoạt động sinh thái
khác. Các điều kiện có tính nguyên tắc về phát triển bền vững là: duy trì dân
số ở mức hợp lý; khai thác tối ưu các nguồn tài nguyên( không thể tái tạo và
tái tạo được); ngăn cản sự thoái hóa môi trường; cải thiện hiệu quả năng
lượng.
Nói tóm lại, để có thể phát triển bền vững phải bảo đảm sự tăng trưởng
kinh tế hiệu quả, xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ, giữ gìn. Để
thực hiện được điều này đòi hỏi sự nỗ lực của các nhân tố như: hệ thống chính
trị các thành phần kinh tế, các tổ chức xã hội, mọi người dân… cùng thực
hiện.
1.2

Phát triển bền vững ở Việt Nam
Chiến lược và kế hoạch phát triển bền vững được hoạch định khá sớm
và thực thi nhất quán ở Việt Nam. Trong đó có những mốc quan trọng sau:
“Kế hoạch quốc gia về môi trường và phát triển bền vững giai đoạn
1991-2000” được Chính phủ thông qua ngày 12- 6-1991, theo quyết định
số187- CT. Đây là một trong những kế hoạch quốc gia đầu tiên được xây

dựng theo quan điểm phát triển bền vững vừa được quốc tế chính thức công
bố, tạo tiền đề cho sự phát triển bền vững ở Việt Nam.
Chỉ thị số 36-CT/TW về việc tăng cường công tác bảo vệ môi trường
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ngày 25 - 6 -1998 của
Bộ Chính trị. Chỉ thị đã nêu quan điểm của Việt Nam là bảo vệ môi trường
phải gắn liền và là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững đất nước.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (2001-2010) được Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua năm 2001.
Chiến lược đã khẳng định phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng
kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường…
phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo
đảm sự hài hòa giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn
sự đa dạng sinh học.

7


ChÝnh trÞ häc ph¸t triÓn
Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (chương trình
nghị sự 21 của Việt Nam) được Thủ tướng Chính phủ đã ban hành ngày 17-82004 tại quyết định số 153/2004/QĐ_TTg. Chiến lược đã chỉ rõ phát triển bền
vững đất nước phải dựa trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa
phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Tháng 9-2005 Việt
Nam đã quyết định thành lập hội đồng quốc gia về phát triển bền vững.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006) đã phân tích quá
trình phát triển của Việt Nam trong những năm đầu của thế kỷ XXI và rút ra
những bài học kinh nghiệm lớn, đồng thời cũng là tư tưởng chủ đạo phát triển
kinh tế - xã hội trong những năn tới. Trong đó, bài học đầu tiên là bài học về
phát triển nhanh và bền vững. Nghị quyết của đại hội đã khẳng định, phát
triển nhanh phải đi đôi với phát triển bền vững, hai mặt tắc động lẫn nhau
được thể hiện ở cả tầm vĩ mô và vi mô, ở cả tầm ngắn hạn và dài hạn. Tăng

trưởng về số lượng phải đi liền với nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh
tranh của nền kinh tế. Trong khi khai thác các yếu tố phát triển theo chiều
rộng, phải đặc biệt coi trọng các yếu tố phát triển theo chiều sâu. Phải gắn
tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển toàn diện con người,
thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nhiều việc làm, cải thiện
đời sống, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo.
Từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển giữ các vùng. Phải đặc biệt coi
trọng vấn đề bảo vệ và cải thiện môi trường ngay trong từng bước phát triển,
không gây ô nhiễm và hủy hoại môi trường.
Phát triển kinh tế phải đi đôi với bảo đảm ổn định chính trị - xã hội là
tiền đề, điều kiện để phát triển nhanh và bền vững. Để đạt được mục tiêu của
phát triển bền vững, Việt Nam đã đưa ra và thực hiện những nguyên tắc chính
là: Con người là trung tâm của sự phát triển bền vững; phát triển kinh tế là
trung tâm của giai đoạn phát triển sắp tới; bảo vệ và cải thiện chất lượng môi
trường là một yếu tố không thể tách rời của quá trình phát triển; quá trình phát
triển phải bảo đảm đáp ứng một cách công bằng nhu cầu hiện tại và không
gây trở ngại cho quá trình phát triển của tương lai; khoa học và công nghệ là
nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa thúc đẩy phát triển
nhanh, mạnh và bền vững đất nước; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế,

8


ChÝnh trÞ häc ph¸t triÓn
phát triển xã hội nhằm bảo vệ môi trường, bảo đảm an ninh và trật tự an toàn
xã hội.
Phát triển bền vững đã, đang và sẽ trở thành một xu thế tất yếu của thời
đại ngày nay. Sự lựa chọn của nhiều quốc gia, dân tộc trên thế giới là kết hợp
hài hòa giữa các yếu tố kinh tế - xã hội - môi trường trong quá trình phát triển.


9


ChÝnh trÞ häc ph¸t triÓn
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 Quan điểm chỉ đạo
Ở nước ta, phát triển bền vững đã được Đảng, Chính phủ và xã hội
quan tâm, chú ý từ khá sớm. Vấn đề này lần đầu tiên được Đảng đề cập tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, nhưng mới chỉ nhấn mạnh ở khía
cạnh kinh tế: “tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi
với giải quyết các vấn đề bức xúc về xã hội”. Cùng với sự quan tâm chung
của thế giới, Đảng ta đã xác định vai trò hết sức quan trọng của phát triển bền
vững trong giai đoạn hiện nay: “phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững;
tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân”. Nội dung này cũng được thể hiện
trong chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam ban hành theo quyết định số
135/2004/QĐ - TTg ngày 17-8-2004 của Thủ tướng Chính phủ về định hướng
chiến lược phát triển bền vững. Năm 2004, Nghị quyết 41 - NQ/TW của Bộ
Chính trị về bảo vệ môi trường. Năm 2005, tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa IX
đã thông qua Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi. Gần đây, trong Báo cáo về
phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm (2006 - 2010) tại Đại
hội X, Đảng ta nhấn mạnh: “Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được
bước chuyển quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát
triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển… Nâng cao vị thế
của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế”. Các văn kiện, nghị
quyết, pháp luật, văn bản… của Đảng và Nhà nước ta là cơ sở quan trọng về
pháp lý cho việc thực hiện chiến lược phát triển bền vững của đất nước.
2.2 Những thành tựu đạt được của phát triển bền vững ở Việt Nam
2.2.1 Thành tựu đạt được về kinh tế

a. Tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế cao và liên tục
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo trong hơn 20
năm qua đã mang lại những thành quả hết sức quan trọng về mọi lĩnh vực,
trong đó nổi bật là lĩnh vực kinh tế. Nền kinh tế của chúng ta từ chỗ bị khủng
10


ChÝnh trÞ häc ph¸t triÓn
hoảng trầm trọng đến nay đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ, vượt
qua được thời kỳ khó khăn trầm trọng và đạt tốc độ tăng trưởng khá cao và
liên tục nhiều năm, năm sau cao hơn năm trước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế
GDP thời kỳ 1997- 2007 đạt bình quân 7,42% năm, riêng năm 2008, mặc dù
bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, song tốc độ tăng
trưởng kinh tế của chúng ta vẫn đạt được 6,23% (nông nghiệp tăng 5,6%,
công nghiệp tăng 6,33%và dịch vụ tăng 7,2%). Trong khi đó tốc độ tăng
trưởng kinh tế thế giới chỉ đạt 2,5% - thấp nhất trong thời gian qua. Các nước
có nền kinh tế đầu tàu như: Mỹ, Nhật, Đức, Pháp, Xingapo…có mức tăng
trưởng dưới 0. Giá trị GDP đầu người ở nước ta năm 2008 đạt khoảng trên
1.000 USD/ năm. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch rõ nét theo hướng công
nghiệp hóa, cụ thể tỷ trọng nghành nông nghiệp trong GDP giảm, tỷ trọng
công nghiệp trong GDP tăng. Nếu như năm 1990 tỷ trọng nông nghiệp - công
nghiệp - dịch vụ là 38,7% - 22,7% - 18,6%, thì năm 2008 là 21,9% - 41,7% 38,4%. Do tăng trưởng kinh tế tăng khá cao trong những năm qua nên tổng
thu ngân sách nhà nước cả năm 2008 ước vượt dự toán cả năm và tăng 26,3%
so với năm 2007.
Giai đoạn 1976 - 1985 chỉ đạt bình quân khoảng 2% năm, giai đoạn
1986 - 1990, đạt xấp xỉ 3,9% năm, nhưng đến giai đoạn 1991 - 1995, tốc độ
tăng trưởng bình quân đạt 8,2% năm, 1996 - 2000 (7,0%) và 2001 – 2005
(7,5%), 2005 - 2008 đạt 7,6% năm. Tốc độ tăng trưởng thuộc loại cao nhất so
với các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, chỉ sau Trung Quốc. Mặc dù việc
tăng trưởng kinh tế có những giai đoạn thăng trầm, nhưng nhìn chung, nhịp

độ tăng trưởng khá cao và ổn định. Nhờ đó quy mô GDP của Việt Nam tăng
lên nhanh chóng, năm 2008, tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 6,23% so
với năm 2007, trong đó khu vực nông, lâm và thủy sản tăng 3,79%; khu vực
công nghiệp và xây dựng tăng 6,33%; khu vực dịch vụ tăng 7,2%. Theo tổng
cục thống kê thì tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước năm 2008 tuy thấp hơn
tốc độ tăng 8,48% của năm 2007 và mục tiêu kế hoạch điều chỉnh là tăng 7%,
nhưng trong bối cảnh tài chính thế giới khủng hoảng, kinh tế của nhiều nước
suy giảm, mà nền kinh tế của nước ta vẫn đạt tốc độ tăng trưởng tương đối
cao như trên là một thành tựu lớn.

11


ChÝnh trÞ häc ph¸t triÓn
GDP bình quân đầu người tăng khá: theo tính toán, với giá USD hoạch
toán trung bình của năm 2008 là 16,700 đồng/ USD thì GDP trung bình của
người dân Việt Nam đã đạt 1.024 USD/ người (năm 2007 là 833 USD/
người). Tuy nhiên, năm 2008, lạm phát tính qua chỉ số CPI đã lên đến 19,89%
còn USD mất giá 2.35%. Nếu giá cả tăng và USD mất giá như năm 2007, thì
GDP bình quân chỉ ở mức 900 USD/ người.
b.Tăng trưởng kinh tế gắn với sự tiến bộ trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Về cơ cấu nghành kinh tế, cùng với tốc độ tăng cao liên tục và khá ổn
định của GDP, cơ cấu nghành kinh tế đã có sự thay đổi đáng kể theo hướng
tích cực. Đó là tỷ trọng trong GDP của nghành nông nghiệp đã giảm nhanh từ
38,1% năm 1990 xuống 27,2% năm 1995; 24,5% năm 2000; 20,9% năm
2005, và đến năm 2008 ước còn 20,6%. Tỷ trọng công nghiệp trong GDP đã
tăng nhanh, năm 1990 là 22,7%; năm 1995 tăng lên 28,8% ; năm 2000:
36,7%; năm 2005: 41% và đến năm 2008 ước tính sẽ đạt 41,6%. Tỷ trọng
dịch vụ trong GDP chưa biến động nhiều, năm 1990 là 38,6%; năm 1995:
44%; năm 2000: 38,7%; năm 2005: 38,1%; năm 2008 khoảng 38,7%.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã làm thay đổi cơ cấu lao động nước ta
theo xu hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Số lao động trong các nghành
công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng lên, trong khi số lao động nghành
nông nghiệp ngày càng giảm đi.
Về cơ cấu các thành phần kinh tế, kinh tế tư nhân được phát triển
không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những nghành nghề mà
mà pháp luật không cấm. Từ những định hướng đó, khung pháp lý ngày càng
được đổi mới, tạo thuận lợi cho việc chuyển dần từ nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường, nhằm giải phóng sức
sản xuất, huy động và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả, tạo đà cho tăng
trưởng và phát triển kinh tế.
Về cơ cấu vùng kinh tế, trong những năm vừa qua cũng đạt được nhiều
thành tựu quan trọng, đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế. Trên bình
diện quốc gia, đã hình thành 6 vùng kinh tế: vùng Trung du miền núi phía
Bắc: vùng Đồng bằng sông Hồng và trọng điểm kinh tế phía Bắc; vùng Tây
12


ChÝnh trÞ häc ph¸t triÓn
Nguyên; vùng Đông Nam Bộ và trọng điểm kinh tế phía nam; vùng Đồng
bằng sông Cửu Long. Các địa phương, các vùng đã phát huy được thế mạnh
của mình đồng thời có sự liên kết, hỗ trợ và tác động qua lại lẫn nhau tạo thế
và lực cho các vùng cùng phát triển.
c.

Tăng trưởng kinh tế kết hợp với những thành tựu xóa đói giảm nghèo
Kết quả của chiến lược phát triển kinh tế bền vững là nguyên nhân chủ
đạo đưa đến kết quả, thành tựu tăng trưởng kinh tế khả quan, tạo ra những
tiền đề vật chất trực tiếp để chúng ta giữ được các cân đối vĩ mô của nền kinh
tế như thu chi ngân sách, vốn tích lũy, cán cân thanh toán quốc tế… góp phần

bảo đảm ổn định và phát triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững. Các
chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo, chương trình về đầu
tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội cho các vùng khó khăn, các
chương trình tín dụng cho người nghèo và chính sách hỗ trợ trực tiếp đã mang
lại kết quả rõ rệt. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 17,2% năm 2006 xuống còn
14,7% năm 2007, và năm 2008 còn 13,1%.
Ngày 5 - 10 - 2009, Liên hợp quốc đã công bố đồng loạt trên toàn cầu
báo cáo phát triển con người 2009. Theo đó, về chỉ số HDI, Việt Nam xếp thứ
116/ 182 nước. Chỉ số này, lấy số liệu từ năm 2007 phản ánh mức sống lâu và
khỏe mạnh (đo độ tuổi trung bình); được học hành (đo tỷ lệ biết chữ ở người
lớn và tỷ lệ nhập học chung trong giáo dục) và mức sống tử tế (đo bằng thu
nhập theo sức mua ngang bằng PPP). Như vậy, trong giai đoạn 1985 - 2007,
HDI của Việt Nam tăng từ 0,561 lên 0, 725, bất kể có lúc kinh tế tăng trưởng
chậm lại.
Ngoài chỉ số HDI, hai chỉ số khác khá cao của Việt Nam là tuổi thọ
trung bình( xếp thứ 54 thế giới với tuổi thọ trung bình là 74,3%) và tỷ lệ biết
chữ ở người lớn xếp thứ 69, chiếm 90,3 % người từ 15 tuổi trở lên.
d. Thành tựu trong việc xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Thành tựu trong việc xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta thể hiện qua những nội dung sau:

13


ChÝnh trÞ häc ph¸t triÓn
Một là, hình thành khuân khổ luật pháp cho nền kinh tế thị trường.
Nguyên tắc pháp quyền này ngày càng được khẳng định: tạo khung khổ pháp
lý cho việc xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp tự do kinh doanh hoạt động.

Hai là, đổi mới hệ thống quản lý và chức năng quản lý của nhà nước.
Chuyển biến cơ bản, rõ nét nhất của thể chế kinh tế là nhà nước trước đây
quản lý kinh tế, xã hội chủ yếu bằng các chính sách, nghị quyết và mệnh lệnh
hành chính thì nay luật pháp trở thành công cụ quản lý chủ yếu của nhà nước.
Dân chủ hóa đời sống kinh tế - xã hội, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia
vào các hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế; Bộ máy nhà nước từ trung
ương đến địa phương đã có sự điều chỉnh cho phù hợp với cơ chế mới. Chính
phủ đã tập trung thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở tầm vĩ mô. Tổ chức
bộ máy nhà nước đã được sắp xếp lại gọn hơn. Thể chế công vụ được hoàn
thành phù hợp với cải cách hành chính, cải cách kinh tế.
2.2.2 Thành tựu đạt được về các vấn đề xã hội
Quán triệt quan điểm của Đảng: Gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát
triển. Trong những năm qua, chúng ta đã đạt được nhiều thành tích về mặt xã
hội. Thành tích đáng tự hào đầu tiên được cả cộng đồng thế giới thừa nhận là
công tác xóa đói giảm nghèo. Tỷ lệ nghèo đói trong những năm qua đã giảm
rất nhanh, theo chuẩn nghèo cũ, nếu năm 1992 là 30% thì năm 2005 chỉ còn
dưới 7%. Theo chuẩn nghèo quốc tế, năm 2006 tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam là
18,1%. Với kết quả này, Việt Nam đã được thế giới đánh giá là thành công
trong công tác chống đói nghèo. Trong những năm qua, nhờ việc thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế mà chúng ta đã giải quyết được nhiều việc làm cho người
lao động, bình quân mỗi năm giải quyết tăng thêm khoảng 1,5 triệu chỗ làm
mới. Do đó, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị giảm hẳn từ 6,13% năm 2001 xuống
còn 5,4% năm 2005. Bên cạnh đó, trong những năm qua công tác giáo dục,
đào tạo đã được nâng cao, góp phần tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục
vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Năm 2000, cả nước
hoàn thành chuẩn quốc gia về xóa nạn mù chữ và phổ cập tiểu học. Giáo dục
chuyên nghiệp và đại học đã có nhiều thành tích: hiện nay nước ta có khoảng
14



ChÝnh trÞ häc ph¸t triÓn
1,8 triệu người có trình độ từ cao đẳng trở lên, trong đó có 16.000 thạc sĩ,
14.000 tiến sĩ, 3.000 phó giáo sư và 800 giáo sư. Nhằm nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực đáp ứng cho nhu cầu nhiệm vụ cách mạng giai đoạn mới.
Trong những năm qua chúng ta đã tập trung đào tạo nghề cho người lao động.
Năm 2005, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 24%. Những thành tựu từ tăng
trưởng kinh tế mang lại đã góp phần cải thiện điều kiện vật chất và tinh thần
của nhân dân. Những năm qua tuổi thọ của nhân dân được cải thiện, năm
2005 tuổi thọ trung bình của người dân nước ta là 71,3%. Chỉ số HDI (chỉ số
phát triển con người) của chúng ta được cải thiện đáng kể, ví dụ năm 1995
mới chỉ đạt 0,539 đứng thứ 120/174 nước thì năm 2006 đạt 0,709 đứng thứ
109/174 nước trên thế giới.
Thành tựu về phát triển xã hội thể hiện trên ba vấn đề chủ yếu, đó là:
Thực trạng về phát triển con người, về cơ cấu xã hội, và việc giải quyết một
số vấn đề xã hội bức xúc.
-

Về phát triển con người
Từ khi đổi mới (1986) đến nay, Đảng ta đã đổi mới nhận thức về chủ
nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và con người. Quán triệt tư
tưởng Hồ Chí Minh: “công việc đầu tiên là công việc về con người”, Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng lần đầu tiên đưa ra luận điểm coi
trọng “yếu tố con người”, phát huy yếu tố con người trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc, gắn liền phát triển kinh tế với phát
triển xã hội, lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hành
động, lấy sự tôn trọng con người, quan tâm đến con người làm tiêu chuẩn đạo
đức thiết yếu…
Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội 1991 - 2000, được
thông qua Đại hội lần thứ VII, đã khẳng định: mục tiêu và động lực chính của

sự phát triển là vì con gười, do con người … đặt con người vào vị trí trung
tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Con người vùa là mục tiêu vừa
là động lực phát triển kinh tế xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã ghi rõ: “kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò
của xã hội, các đoàn thể, nhà trường, gia đình, từng tập thể người lao động và
tập thể dân cư trong việc chăm lo bồi dưỡng hình thành con người mới. Đó là
con người có ý thức làm chủ, ý thức trách nhiệm công dân, có tri thức, sức
15


ChÝnh trÞ häc ph¸t triÓn
khỏe và lao động giỏi; sống có văn hóa và tình nghĩa; giàu lòng yêu nước và
tinh thần quốc tế chân chính”.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng (1996) đã triển khai quan điểm lý luận
về con người qua các chính sách cụ thể, nhất là chính sách giáo dục - đào tạo
và khoa học công nghệ. Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương
khóa VIII (12 - 1996) về giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ, đã nhấn
mạnh nhiệm vụ xây dựng con người có lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội làm nền tẳng và động lực thúc đẩy phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội.
Đại hội lần thứ IX của Đảng (2001) coi phát huy nhân tố con người và
phát triển nguồn nhân lực, phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ
là những khâu đột phá trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
Với những đường lối đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong hơn 20 năm qua đã tạo nên những biến đổi
trong sự phát triển con người Việt Nam, biểu hiện tập trung ở sự chuyển động
thang giá trị, định hướng giá trị: khuyến khích con người tích cực, năng động,
sáng tạo, dám cạnh tranh vượt qua khó khăn, thử thách, không dựa dẫm vào
sự bao cấp của Nhà nước, tái tạo cho mình cuộc sống tốt đẹp hơn; đồng thời
góp ích cho gia đình và cho xã hội. Con người Việt Nam đã trở nên năng

động hơn trong việc thích ứng với yêu cầu phát triển của đất nước và hội nhập
quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, khoa học và công nghệ.
Vào thập niên 80 của thế kỷ XX, chương trình phát triển Liên hợp quốc
(UNDP) đã đưa ra khía niệm “phát triển con người” và xác định các tiêu chí
để đánh giá và xếp hạng trình độ phát triển của các nước trong Liên hợp quốc
theo hệ tiêu chí phát triển con người (HDI), gồm một tiêu chí về GDP/người
và 2 tiêu chí về năng lực con người (giáo dục và sức khỏe), nhấn mạnh ý
tưởng coi con người là nguồn nhân lực vô tận, là nhân tố quyết định và là mục
tiêu của sự phát triển.
Từ năm 1990, HDI trở thành công cụ xác định chiến lược phát triển của
các quốc gia, thước đo đánh giá trình độ phát triển hàng năm trên thế giới. Số
nước và vùng lãnh thổ được UNDP tính HDI hàng năm khác nhau. Kể từ khi
Việt Nam có mặt trong Báo cáo thường niên của UNDP, giá trị HDI của Việt
Nam có sự tiến bộ trong quá trình đổi mới, không chỉ tăng trưởng, phát triển

16


ChÝnh trÞ häc ph¸t triÓn
công nghệ hay hội nhập quốc tế mà là phát triển con người Việt Nam, nâng
cao thứ bậc HDI của Việt Nam.
Bảng dưới đây cho thấy, Việt Nam đã hết sức chú trọng các lĩnh
vực liên quan đối với con người như: phát triển giáo dục và đào tạo, chăm sóc
y tế và sức khỏe cộng đồng, giải quyết các vấn đề xã hội…
Thứ
bậc
so
sánh
với
các

nước
tham
gia
xếp
hạng
74/1
30
nước
120/
174
nước
108/
174
nước
112/
177
nước
108/
177

17


ChÝnh trÞ häc ph¸t triÓn
nước
109/
177
nước

Cùng với những đặc trưng phát triển con người có thể định hướng được

sự phát triển của con người Việt Nam trong thời gian qua còn biểu hiện ở một
số đặc trưng định tính, như: sự năng động, sáng tạo của con người được nâng
lên; vai trò của con người trong quá trình phát triển được đề cao; vị thế chủ
thể của con người trong xã hội ngày càng được đáp ứng tốt hơn.
Sự phát triển của con người Việt Nam trong những năm qua cho thấy
Đảng, Nhà nước ta và toàn thể cộng đồng đã có nhiều cố gắng trong việc
chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, khích lệ mọi người phấn
đấu vì mục tiêu phát triển con người, vì sự đổi mới.
-

Về cơ cấu xã hội Việt Nam
Cơ cấu xã hội thường dược tiếp cận và phân tích theo nhiều góc độ:
triết học, sử học, chính trị học và xã hội học.
Nhìn tổng quát, kể từ Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (12 1986) đến nay vấn đề xây dựng cơ cấu xã hội Việt Nam đã được đổi mới căn
bản, thể hiện ở hàng loạt chủ trương, chính sách mới của Đảng có tác dụng
thúc đẩy cơ cấu xã hội nước ta phát triển ngày càng hài hòa với quá trình xây
dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hơn 20 năm đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa với cấu trúc nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế và sự
đa dạng các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, cơ cấu xã hội của nước ta
đã có những thay đổi đáng kể theo hướng tiến bộ, từ cơ cấu tổ chức xã hội giai cấp đến cơ cấu xã hội - nghề nghiệp, cơ cấu xã hội - dân số, cơ cấu xã hội
- dân tộc đến cơ cấu xã hội - lãnh thổ. Tính cơ động xã hội khác hẳn so với
thời kỳ thực thi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp, thể
hiện ở tính linh hoạt, ở sự thay đổi vị thế, vai trò của cá nhân và các tầng lớp
18


ChÝnh trÞ häc ph¸t triÓn
trong cơ cấu xã hội cùng với sự chuyển đổi cơ chế, cơ cấu kinh tế và mở cửa,
hội nhập.

Cơ cấu xã hội nước ta hiện nay bao gồm:











Giai cấp công nhân, gồm: công nhân ở khu vực các doanh nghiệp nhà nước,
công nhân ở khu vực ngoài doanh nghiệp nhà nước, công nhân ở khu vực
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, công nhân Việt Nam đang lao động ở nước
ngoài và một bộ phận công nhân dôi dư.
Giai cấp nông dân: hiện nay không còn là nông dân tập thể như trước đây, số
lao động thuần nông giảm. Cơ cấu tổng thể của giai cấp nông dân hiện nay
gồm: chủ trang trại, hộ nông dân sản xuất cá thể (kinh tế hộ gia đình), nông
dân làm thuê, xã viên của các hợp tác xã kiểu mới. Giai cấp nông dân có sự
phân hóa mạnh nhất trong hơn 20 năm qua.
Đội ngũ trí thức có sự tăng trưởng cả về số và chất lượng.
Tầng lớp doanh nhân là lực lượng kinh tế - xã hội quan trọng của đất nước,
được hình thành và phát triển khá nhanh trong hơn 20 năm đổi mới và là con
đẻ của đường lối đổi mới và chính sách phát triển kinh tế thị trường nhiều
thành phần kinh tế, nhiều hình thức tổ chức sản xuất knh doanh.
Tầng lớp tiểu chủ, tiểu thương và những người làm dịch vụ.
Những người có công với nước. Đây là bộ phận mang tính đặc thù trong cơ
cấu xã hội nước ta.
Và một số người làm giàu phi pháp là một thực thể biểu hiện sự phân tầng

không hợp thức của cơ cấu xã hội nước ta.
Tóm lại, với sự tác động của đường lối đổi mới, cơ cấu xã hội nước ta
đã và đang thay đổi rõ rệt, sự cơ động xã hội diễn ra mạnh mẽ giữa các giai
cấp, các tầng lớp xã hội và trong từng con người. Các bộ phận bên trong cơ
cấu xã hội đang vận động, phát triển theo hướng tiến tới trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại.

-

Về giải pháp giải quyết một số vấn đề xã hội
Một là, vấn đề lao động và việc làm.
Lao động và việc làm là vấn đề hệ trọng của công cuộc phát triển ở
nước ta. Đảng và Nhà nước ta coi trọng việc giải quyết vấn đề lao động và
việc làm, đặc biệt quan tâm đến sự hình thành và phát triển thị trường sức lao
19


ChÝnh trÞ häc ph¸t triÓn
động đồng bộ với các thị trường cơ bản khác. Ở nước ta trong 5 năm đã tạo
việc làm cho 7,5 triệu lao động. Các thành phần kinh tế ngoài nhà nước đã thu
hút gần 91% lực lượng lao động xã hội và tạo 90% việc làm mới.
Hai là, vấn đề xóa đói giảm nghèo
Xóa đói giảm nghèo là một bộ phận cấu thành của chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội, là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế - xã
hội của Việt Nam. Xóa đói, giảm nghèo vừa là mục tiêu, vừa là điều kiện và
thước đo phát triển bền vững, đồng thời là yếu tố đảm bảo công bằng xã hội.
Trong những năm qua, công tác xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam được
đẩy mạnh bằng nhiều hình thức, đã thu được nhiều kết quả thông qua việc trợ
giúp điều kiện sản xuất, tạo việc làm, cải thiện kết cấu hạ tầng nhà ở, tạo điều
kiện cho người nghèo tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản, tăng thu nhập,

cải thiện đời sống…
Kết quả điều tra mức sống dân cư do tổng cục thống kê thực hiện cho
thấy, tiêu chuẩn quốc tế, tỷ lệ hộ nghèo của Việt Nam đã giảm từ 58% năm
1993 xuống còn 19,5 năm 2004. Theo đánh giá của Liên hợp quốc, Việt Nam
đã về đích trước 10 năm so với mục tiêu xóa đói, giảm nghèo trong thực hiện
mục tiêu thiên niên kỷ. Đến năm 2005, tỷ lệ hộ nghèo còn 7% (kế hoạch là
10%, theo tiêu chuẩn Việt Nam cho giai đoạn 2001 - 2005).
Ba là, vấn đề phát triển giáo dục, bảo vệ chăm sóc sức khỏe của nhân
dân.
Tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập của dân cư đã tạo điều kiện phát
triển giáo dục, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe của nhân dân có bước phát triển
cả về lượng và chất.
Kết quả là đã xóa bỏ mù chữ, tiếp tục duy trì phổ cập giáo dục tiểu học,
có hàng chục tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ
tuổi. Đến năm 2005, có 31 tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở,
số lượng người đi học ngày càng nhiều, tỷ lệ học sinh trong độ tuổi đi học ở
bậc tiểu học đạt 97,5%. Số học sinh trung học chuyên nghiệp tăng 15,1% năm
và dạy nghề dài hạn tăng 12% năm, sinh viên đại học và cao đảng tăng 8,4%
20


ChÝnh trÞ häc ph¸t triÓn
năm. Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe của nhân dân được chú trọng,
mạng lưới y tế, đặc biệt là y tế cơ sở được củng cố và phát triển, hầu hết các
xã phường trong cả nước đều có trạm y tế, trên 65% số trạm y tế có bác sĩ,
chế độ khám chữa bệnh cho người nghèo, khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ
em dưới 6 tuổi đang được thực hiện. Việc phòng chống HIV/AIDS được đẩy
mạnh hơn. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm từ 33% năm 2000
xuống còn 25% vào năm 2005; tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 1 tuổi còn 18%.
Tuổi thọ trung bình của dân số nước ta từ 67,8 tuổi năm 2000 đã tăng lên 71,5

tuổi vào năm 2005.
2.2.3 Thành tựu đạt được về môi trường sinh thái
Tài nguyên và môi trường có vị trí đặc biệt quan trọng đối với con
người và sự phát triển. Chính các nguồn tài nguyên và môi trường đáp ứng
nhu cầu cấp thiết nhất của con người và là đầu vào của nền kinh tế, của mọi
quá trình phát triển.
Trong những năm qua chúng ta chú ý nhiều tới việc cải thiện môi
trường sống. Việc trồng rừng đã được chú trọng. Năm 1990, diện tích rừng
trên cả nước dã bị suy giảm, độ che phủ chỉ còn 27%. Ý thức được sự nguy
hại do khai thác rừng kiệt quệ, năm 1991 với sự hỗ trợ của nhiều nguồn vốn,
chương trình, dự án ở trong và ngoài nước, chúng ta đã tiến hành trồng rừng
gắn liền với khai thác. Đặc biệt, với công bố “đóng cửa khai thác rừng tự
nhiên” của chính phủ năm 1996, các dự án khoanh nuôi và bảo vệ rừng tái
sinh, bảo tồn sự đa dạng sinh học tự nhiên được thực hiện. Tất cả sự cố gắng
trên đã khắc phục được một phần sự suy kiệt của những cánh rừng, nâng cao
độ che phủ lên 39,5% vào năm 2005, đến nay, diện tích rừng trồng mới tập
trung đạt 210 nghìn ha, tăng 6,57% so với cùng kỳ năm trước. Môi trường
sống của nhân dân ở một số vùng đã được cải thiện, tỷ lệ hộ gia đình được sử
dụng nước sạch tăng lên, năm 2005 ở nông thôn số hộ được sử dụng nước
sạch đạt 62%. Việc thu gom và xử lý rác thải được thục hiện khá tốt không
những ở thành thị mà bắt đầu thực hiện ở nông thôn. Ý thức bảo vệ môi
trường của nhân dân đã dược nâng cao hơn trước. Các khu công nghiệp đã
chú ý đến việc xử lý các chất thải độc hại trước khi đưa vào môi trường. Việc
bảo vệ môi trường ngày càng được tăng cường khi thành lập Cục Cảnh sát
21


ChÝnh trÞ häc ph¸t triÓn
môi trường vào tháng 11 năm 2006 và phòng Cảnh sát môi trường các tỉnh,
thành phố vào tháng 9 năm 2007. Lực lượng này đã có đóng góp rất lớn cho

việc ngăn chặn, phát hiện và điều tra các cơ sở, đơn vị gây ô nhiễm.
Thành tựu về bảo vệ tài nguyên môi trường thệ hiện qua những điểm
sau đây:
Một là, chống thoái hóa đất, sử dụng hiệu quả tài nguyên đất.
Nhà nước ta về cơ bản đã bổ xung, hoàn chỉnh hệ thống chính sách,
luật pháp về đất đai; tiến hành điều tra cơ bản về tài nguyên đất, quy hoạch lại
và sử dụng có hiệu quả và bền vững hơn; thực hiện các chính sách và biện
pháp chống thoái hóa đất, xa mạc hóa và ô nhiễm đất; giao khoán rừng cho hộ
gia đình, sản xuất theo mô hình nông - lâm kết hợp, phát triển việc trồng cây
trên sườn đất dốc, sử dụng bền vững đất ngập nước, quản lý theo khu vực
sông và đất ven bờ; điều tra, xác định, phân loại và xử lý dần các kho và khu
vực đất bị tồn lưu ô nhiễm do hóa chất bảo vệ thực vật, bị ô nhiễm chất độc
màu da cam và Dioxin tồn lưu từ chiến tranh.
Hai là, bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững tài nguyên nước.
Vấn đề này rất được quan tâm vì Việt Nam bị xếp vào các quốc gia
thiếu nước. Tổng lưu lượng nước bình quân đầu người Việt Nam là 4400
m3/người/năm, trong khi bình quân thế giới là 7400 m 3/người/năm; Quyết
định số 81/2006/QĐ-TTg, ngày 14/4/2006, đã phê duyệt chiến lược quốc gia
về tài nguyên nước đến năm 2020; Hoàn thành việc lập bản đồ Atlas điện tử
và bản đồ dạng số lưu vực của toàn bộ hệ thống sông, suối Việt Nam (khoảng
2.600 sông, suối); Lập các quy hoạch sử dụng tài nguyên nước bền vững đối
với các lưu vực sông chính của các vùng; Đang triển khai một số đề án: Đề án
kiểm kê tài nguyên nước quốc gia, Đề án bảo vệ các nguồn nước ngầm ở các
đô thị lớn, Đề án theo dõi kiểm kê khai thác sử dụng nước đầu nguồn của lưu
vực sông Hồng và sông Cửu Long; Đề án BVMT 3 lưu vực sông: Đồng Nai Sài Gòn, sông Cầu, Nhuệ - Đáy…
Ba là, khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và bền vững tài nguyên
khoáng sản.

22



ChÝnh trÞ häc ph¸t triÓn
Đã ban hành nhiều chính sách có liên quan: Luật khoáng sản, Luật thuế
tài nguyên, các Quy định về phí bảo vệ và phục hồi môi trường trong khai
thác khoáng sản, v.v… Khai thác khoáng sản đã có nhiều đổi mới về công
nghệ khai thác, sàng tuyển và chế biến nhằm tiết kiệm tài nguyên khoáng sản
và bảo vệ môi trường, đặc biệt là đối với khai thác than; Trong quản lý đã
thực hiện khâu phục hồi hoàn trả môi trường đất, tái tạo và cải thiện môi
trường sinh thái khu vực sau khai thác; hạn chế tối đa làm xáo trộn cuộc sống
của người dân địa phương; Hạn chế bớt nạn khai thác khoáng sản kiểu “thổ
phỉ”; Giảm dần xuất khẩu khoáng sản thô.
Bốn là, bảo vệ môi trường biển, ven biển, hải đảo và phát triển tài
nguyên biển.
Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách: Quy chế quản lý các khu
bảo tồn biển Việt Nam, Nghị định về quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ
môi trường biển và hải đảo; Thành lập Tổng cục Biển và Hải đảo tại Bộ Tài
nguyên và Môi trường; Phối hợp giữa các Bộ/Ngành và địa phương trong
thực thi nhiệm vụ quản lý biển và hải đảo từng bước được kiện toàn hơn; Đã
tiến hành một số dự án có hiệu quả như dự án xây dựng quy hoạch tổng thể
khai thác và sử dụng bền vững tài nguyên biển; Dự án thống kê, phân loại,
đánh giá tài nguyên thiên nhiên biển, hải đảo; ứng phó, phòng chống sự cố
tràn dầu.
Năm là, bảo vệ và phát triển rừng
Đã ban hành nhiều chính sách: Luật bảo vệ và phát triển rừng, chính
sách phát triển rừng sản xuất, quy chế quản lý các hoạt động du lịch sinh thái
tại các Vườn quốc gia và Khu bảo tồn thiên nhiên; Đẩy mạnh việc giao khoán
đất, khoán rừng cho các hộ và tập thể dân cư; Thực hiện chương trình trồng
mới 5 triệu ha rừng; Đưa độ che phủ rừng năm 2006 tăng 11% so với năm
1990, tỷ lệ che phủ rừng hiện nay đạt khoảng gần 40%.
Sáu là, giảm thiểu ô nhiễm không khí đô thị và công nghiệp

Quy định lộ trình áp dụng Tiêu chuẩn khí thải ERO2, ERO3 đối với các
phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, phát triển giao thông công cộng;
Nâng cao tiêu chuẩn chất lượng xăng dầu; Ban hành hệ thống Quy chuẩn
23


ChÝnh trÞ häc ph¸t triÓn
quốc gia về khí thải công nghiệp, chất lượng môi trường không khí xung
quanh; Nhiều cơ sở sản xuất áp dụng sản xuất sạch hơn, kiểm soát khí thải và
sử dụng năng lượng hiệu quả hơn; An toàn và vệ sinh môi trường lao động có
nhiều tiến bộ; Di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng
nằm xen kẽ các khu dân cư đông đúc; Cải tạo hệ thống giao thông đô thị,
giảm ách tắc giao thông, giảm ô nhiễm không khí; Tăng cường quản lý hoạt
động thi công xây dựng các công trình để bảo vệ môi trường không khí.
Bảy là, quản lý chất thải rắn và chất thải nguy hại
Đã ban hành nhiều Nghị định, quy định và quy chuẩn quốc gia về quản
lý chất thải rắn và chất thải nguy hại ; Tỷ lệ thu gom chất thải rắn sinh hoạt đô
thị bình quân toàn quốc từ 70% đã tăng lên 80% trong 5 năm qua, tỷ lệ chất
thải rắn được tái chế, tái sử dụng từ 10% đã tăng lên 20%; Đã đầu tư trang bị
43 lò đốt chất thải y tế và hàng chục lò đốt chất thải công nghiệp nguy hại,
đáp ứng yêu cầu xử lý khoảng 50% chất thải y tế và chất thải công nghiệp
nguy hại; Đã đầu tư xây dựng được một số khu liên hiệp xử lý chất thải rắn
hiện đại ở các đô thị lớn.
Tám là, bảo tồn đa dạng sinh học
Đã ban hành Luật Đa dạng sinh học, 2008 và nhiều Nghị định, quy
định về bảo tồn đa dạng sinh học; Bảo tồn hệ sinh thái ở các Khu bảo tồn
thiên nhiên, Vườn quốc gia (128 khu, chiếm 2,5 triệu ha, tăng 28% so với
năm 2000, trong đó có 30 Vườn Quốc gia, 59 Khu bảo tồn thiên nhiên và 39
Khu bảo vệ cảnh quan), 2 khu di sản thiên nhiên thế giới; 16 khu bảo tồn đa
dạng sinh học biển và bảo vệ rừng ngập mặn, đất ngập nước; Bảo tồn và phát

triển 6 khu dự trữ sinh quyển.
Chín là, ứng phó với biến đổi khí hậu và phòng chống thiên tai.
Đã xây dựng và từng bước thực thi “Chương trình mục tiêu quốc gia
ứng phó với biến đổi khí hậu” và “Chiến lược quốc gia phòng chống và giảm
nhẹ thiên tai đến năm 2020”; Nhiều Bộ đã xây dựng xong kế hoạch hành
động ứng phó với biến đổi khí hậu (Bộ Tài nguyên và môi trường, Bộ Công
thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Xây dựng, Bộ Giao
thông vận tải); Phát triển cơ chế phát triển sạch trong nhiều lĩnh vực hoạt
động.
24


ChÝnh trÞ häc ph¸t triÓn
2.3 Những vấn đề tồn tại cản trở sự phát triển bền
vững ở Việt Nam
2.3.1 Về vấn đề kinh tế
Nước ta trong hơn 20 năm kinh tế tăng trưởng và phát triển nhanh, ổn
định trong nhiều năm, đà tăng trưởng còn dư địa rộng, các lợi thế tiềm năng
gắn với vị thế địa - chiến lược, với sự ổn định chính trị - xã hội và các tiềm
năng khác. Tuy vậy, trong nền kinh tế đang có những điểm xung yếu tạo
thành “nút thắt” của tăng trưởng và phát triển, nếu không tập trung nỗ lực
khác phục thì nền kinh tế Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn trên con đường
phát triển và phát triển bền vững, khó cải thiện chất lượng tăng trưởng và
nâng cao sức cạnh tranh khi đã hội nhập sâu vào nền kinh tế toàn cầu, đó là:
Tăng trưởng kinh tế chưa đạt mức độ đưa đất nước thoát khỏi tình
trạng tụt hậu so với thế giới và khu vực
Trước hết, do quy mô của nền kinh tế nước ta quá nhỏ bé nên dù có
tăng trưởng cao và liên tục song vẫn chậm để rút ngắn khoảng cách phát triển
của nước ta so với khu vực và thế giới. Năm 2008, GDP bình quân mới đạt
900 USD. Nếu tính bằng PPP mới đạt trên 2.800 USD. Vì vậy nước ta vẫn

thuộc nhóm có thu nhập thấp theo tiêu chuẩn phân loại của WB.
Thứ hai, tăng trưởng kinh tế chủ yếu vẫn dựa theo chiều rộng
Mặc dù tốc độ tăng trưởng GDP khá ấn tượng trong nhiều năm, nhưng
chất lượng tăng trưởng vẫn là vấn đề đáng quan tâm: tăng trưởng chưa thật
bền vững, mức tăng trưởng còn thấp so với tiềm năng. Tăng trưởng kinh tế
chủ yếu dựa vào các nhân tố phát triển theo chiều rộng, vào những nghành và
những sản phẩm truyền thống, công nghệ thấp tiêu hao vật chất cao, sử dụng
nhiều tài nguyên, vốn và lao động. Nhìn từ góc độ đóng góp vào tăng trưởng
theo phương pháp tính năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) cho thấy phần
đóng góp của vốn và lao động còn cao, trong khi đó đóng góp của tiến bộ
khoa học, công nghệ còn thấp; hiệu quả đầu tư thấp và ngày càng giảm, thể
hiện qua chỉ số ICOR còn khá cao và liên tục tăng.
Năng suất lao động xã hội tăng chậm và không cao, chỉ khoảng 4 - 5%
năm, trong khi đó các nước trong khu vực là 10 - 15% năm. Sự tăng trưởng
25


×