Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

Tiểu luận: Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy – La cổ đại và ý nghĩa của nó trong lịch sử tư tưởng nhân loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (336.55 KB, 40 trang )

Tiểu luận: Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy –
La cổ đại và ý nghĩa của nó trong lịch sử tư tưởng nhân loại

MỤC LỤC


Tiểu luận: Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy –
La cổ đại và ý nghĩa của nó trong lịch sử tư tưởng nhân loại

Chương mở đầu:
1

KHÁI QUÁT VỀ ĐỀ TÀI

Tính cấp thiết của đề tài
Qúa trình giải quyết vấn đề cơ bản của triết học đã diễn ra cuộc đấu tranh giữa hai
khuynh hướng duy vật và duy tâm. Cuộc đấu tranh đó diễn ra quyết liệt trong suốt
chặng đường phát triển của lịch sử triết học, không chỉ diễn ra trong lĩnh vực triết học
mà còn trong các lĩnh vực khác. Nói cách khác, lịch sử ra đời và phát triển của triết
học là lịch sử của cuộc đấu tranh giữa chủ nghãi duy vật và duy tâm. Song song với
cuộc đấu tranh giữa hai chủ nghĩa này chính là mâu thuẫn giữa phương pháp nhận thức
tư duy biện chứng và siêu hình. Tuy nhiên sự phát triển của lịch sử triết học lại luôn
gắn lền với sự phát triển của loài người. Việc vận dụng tư duy duy vật biện chứng để
tìm hiểu sự đấu tranh tư tưởng của các trường phái triết học cùng là một quá trình
nhầm nâng cao tư duy nhận thứ của con người đối với thực tiễn xã hội nói riêng và thế
giới nói chung.
Văn minh Hy-La tuy là nền văn minh xuất hiện trễ nhất so với cái nền văn minh như
Trung Quốc, Ấn Độ, Ai Cập nhưng nhờ đó nó lại tiếp thu được nhiều tinh hoa của các
nền văn minh đi trước, nhào nắn và tạo ra triết học Hy-La, là đỉnh cao của nền văn
minh Hy-La. Triết học Hy-La cũng chính là cái nôi sản sinh ra triết học phương Tây
và thế giới, không những thế còn là tiền đề sâu xa của Triết học Mác-Lê Nin sau này,.


Trong triết học Hy-La, qua từng thời kì dù thăng trầm hay hưng thịnh đều luôn tồn tại
sự đối lập, phân chia rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái duy vật và duy tâm. Do đó
muốn tìm hiểu gốc rễ sâu xa của mâu thuẫn giữa chủ nghĩa duy vật và duy tâm chúng
ta có thể quay về quá khứ, tìm đến những nhà triết học lỗi lạc, những ông tổ của Triết
học phương Tây để hiểu rõ hơn về thế giới quan cũng như nhân sinh quan của con
người bấy giờ. Từ đó hiểu thêm về triết hoc Mác-Lenin cùng như sự vận động và phát
triển của thế giới xung quanh.
Do đó, đề tài “Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong
triết học Hy – La cổ đại và ý nghĩa của nó trong lịch sử tư tưởng nhân loại” đã được
chọn lựa.


Tiểu luận: Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy –
La cổ đại và ý nghĩa của nó trong lịch sử tư tưởng nhân loại
2

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của bài nghiên cứu:
-

Tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của hai xu hướng chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong long triết học Hy-La cổ đại

Nhiệm vụ nghiên cứu:

3

-

Tìm hiểu về lịch sử hình thành và phát triển của hai quốc gia cổ đia Hy Lạp


-

và La Mã
Tìm hiểu về điều kiện ra đời của triết học Hy – La cổ đại
Tìm hiểu về chủ nghĩa duy vật của triết học Hy – La cổ đại
Tìm hiểu về chủ nghĩa duy tâm của triết học Hy – La cổ đại
Hiểu được ý nghĩa của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa

duy tâm trong triết học Hy – La cổ đại đối với lịch sử tư tưởng nhân loại.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
-

Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy – La cổ đại

Phạm vi nghiên cứu:
Thời gian và không gian: Hy-La cổ đại
Lĩnh vực: Triết học
4 Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập và tổng hợp dữ liệu
Tài liệu về Hy-La cổ đại: lịch sử, xã hội, địa lí…
Tài liệu về Triết học Hy La cổ đại
- Phương pháp lịch sử và đối chiếu
Dùng lịch dử để đối chiếu ý nghĩa của triết học Hy-La cổ đại tới tiến trình phát
-

triển của con người.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp:
Phân tích nguyên nhân ra đời của Triết học Hy-La

Phân tích cuộc đấu tranh của chủ nghĩa duy vật và duy tâm
Phân tích và tổng hợp ý nghĩa của triết học Hy-La cổ đại
5 Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Đề tài là một bước đánh giá các mâu thuẫn đấu tranh giữa hai trường phái nổi trội của
triết học là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong cái nôi sản sinh ra triết học
phương Tây, do đó, nó có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu về
triết học Hy-La cũng như sự mâu thuẫn của hai trường phái này. Đề tài còn tìm ra
được thế giới nhân sinh quan của các triết gia Hy-La cổ đại, giúp còn người từ đó nhìn


Tiểu luận: Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy –
La cổ đại và ý nghĩa của nó trong lịch sử tư tưởng nhân loại

nhận về thế giới xung quanh, ứng dụng những lí thuyết đó vào cuộc sống hằng ngày
đồng thời khẳng định lại nguyên tắc, muốn phát triển phải có đấu tranh của Triết học.
6 Kết cấu của đề tài
Kết cấu đề tài như sau:
1 Tính cấp thiết của đề tài
2 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3 Đối tượng phạm vi nghiên cứu
4 Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5 Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Chương 1. Điều kiện ra đời của triết học Hy – La cổ đại
Chương 2. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong
triết học Hy-La cổ đại
Chương 3. Ý nghĩa của triết học Hy-La cổ đại trong tiến trình lịch sử nhân loại
Chương 4. Kết luận

Chương I:


ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC HY-LA
CỔ ĐẠI

1.1 Điều kiện ra đời của triết học Hy Lạp
1.1.1 Bối cảnh lịch sử

Cho đến nay các tư liệu lịch sử vẫn chưa được khám phá hết nên thời kỳ bắt đầu và kết
của thời kì cổ đại trên đất nước Hy Lạp. Thông thường thì người ta coi nó là toàn bộ
lịch sử Hy Lạp trước thời Đế chế La Mã. Một số học giả còn tính cả các thời kỳ của
nền văn minh Mycenae sụp đổ vào khoảng năm 1100 TCN. Tuy nhiên, thông thường,
nền văn minh cổ Hy Lạp được coi là thời điểm bắt đầu Thế Vận Hội vào năm 776
TCN, nhưng nhiều nhà sử học cho là vào khoảng 1000 TCN. Cũng theo tư liệu cổ thì
thời kỳ Hy Lạp cổ kết thúc vào thời điểm Alexandros Đại Đế chết vào năm 323 TCN.
Nhưng theo các nghiên cứu khảo cổ thì có còn tồn tại mãi đến thời kỳ Đạo Ki-tô vào
thế kỷ 3.
Vào thời kì đồ Đồng, tại Hy Lạp đã xuất hiện hai nền văn minh lớn là nền văn minh
Minoan trên đảo Crete và nền văn minh Mycenae trên bánđảo Peloponnese thuộc miền
nam Hy Lạp. Nền văn minh Minoan đạt đến đỉnh cao trên đảo Crete vào khoảng năm


Tiểu luận: Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy –
La cổ đại và ý nghĩa của nó trong lịch sử tư tưởng nhân loại

2700 đến 1450 trước Công nguyên. Nền kinh tế của họ chủ yếu dựa trên sản xuất nông
nghiệp và hoạt động ngoại thương với các quốc gia láng giềng. Người Minoan đã sản
xuất ra nhiều loại đồ gốm chất lượng cao và xây dựng được nhiều đền đài tráng lệ.
Dấu tích của những công trình vẫn còn tồn tại đến ngày nay trên đảo Crete, một trong
số đó là quần thể cung điện tại Knossos. Đến khoảng năm 1600 trước Công nguyên,
nền văn minh Mycenae trên bán đảo Peloponnese đã phát triển thịnh vượng và lấn át
nền văn minh Minoan đang tan rã. Họ đã xây dựng được nhiều thành phố lớn giàu có

và thiết lập các mối quan hệ ngoại thương với các quốc gia láng giềng. Thế nhưng đến
khoảng năm 1200 TCN, trước sự đe dọa của ngoại xâm, các thành trì tại Mycenae đã
bị bỏ phế, buôn bán với nước ngoài bị đình trệ. Nền văn minh Mycenae sụp đổ đã dẫn
tới một thời kỳ khủng hoảng tại Hy Lạp kéo dài hơn 3 thế kỉ với tên gọi Kỷ nguyên
Bóng tối.
Khoảng thế kỉ VIII trước Công nguyên, Hy Lạp bắt đầu thoát ra khỏi Kỷ nguyên Bóng
tối. Kinh tế, đặc biệt làngoại thương được đẩy mạnh với các cơ sở thương mại được
thành lập tại rất nhiều nơi. Dân số Hy Lạp tăng nhanh trong khi đất đai có hạn đã dẫn
tới dòng người Hy Lạp di cư ra khắp các vùng tại Địa Trung Hải, đặc biệt là miền
nam Ý và thành lập những thành phố mới độc lập với các thành phố quê hương của họ.
Nền kinh tế phát triển đã khiến Hy Lạp trở nên rất giàu có. Đơn vị hành chính cơ bản
ở Hy Lạp cổ đại là các thành bang. Thông thường giữa các thành bang hay xảy ra xung
đột với nhau để tranh giành lãnh thổ, trong đó hai thành bang Athena và Sparta là có
ảnh hưởng đặc biệt trong lịch sử của Hy Lạp. Thời kỳ đầu, các thành bang theo chế
độ quân chủ. Nhưng về sau, đặc biệt là ở Athena, nền dân chủ đã được thành lập. Tuy
nhiên chế độ dân chủ ở Hy Lạp cổ rất khác so với ngày nay vì chỉ có những công dân
nam giới mới được quyền bầu cử. Chế độ chiếm hữu nô lệ phát triển mạnh ở Hy Lạp
cổ đại.
Năm 490 trước Công nguyên, Hy Lạp đã đánh bại quân Ba Tư xâm lược tại trận
Marathon nổi tiếng. Và đến năm 480, người Ba Tư lại phải chịu thất bại nặng nề trong
trận thủy chiến Salamis. Những trận chiến này đã khẳng định sức mạnh quân sự hùng
hậu của Hy Lạp. Dưới thời Vua Alexandros Đại đế của Vương quốc Macedonia, người
Hy Lạp đã có những cuộc bành trướng rộng khắp sang Ai Cập, Ba Tư và Ấn Độ.


Tiểu luận: Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy –
La cổ đại và ý nghĩa của nó trong lịch sử tư tưởng nhân loại

Những cuộc chinh phục của ông đã dẫn tới sự định cư và thống trị của người Hy Lạp
tại nhiều vùng đất xa xôi và làm ảnh hưởng văn hóa của Hy Lạp lan rộng hơn bao giờ

hết. Thời kỳ này được gọi là Thời kỳ Hy Lạp hóa. Về sau, khi Đế chế La Mã thành lập
và trở nên hùng mạnh, Hy Lạp đã trở thành một tỉnh của La Mã nhưng những ảnh
hưởng văn hóa của Hy Lạp cổ đại vẫn được duy trì và phát triển.
1.1.2

Điều kiện tự nhiên

Hy Lạp cổ đại là một lãnh thổ rộng lớn bao gồm khu vực miền Nam bán đảo Ban-căng
(thuộc Châu Âu), nhiều hòn đảo nằm trên biển Êgiê và cả một vùng rộng lớn ở ven
biển bán đảo Tiểu á. Yếu tố địa lý tự nhiên này đã tạo điều kiện cơ bản để nền nông
nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp Hy Lạp cổ đại phát triển từ rất sớm. Quá trình
lịch sử lâu dài với không ít những thăng trầm của vùng đất Hy Lạp cổ đại gắn liền với
sự phát triển kinh tế - xã hội và tư tưởng triết học của nó trong đó sự phân chia xã hội
thành giai cấp, sự phân công lao động xã hội thành lao động trí óc và lao động chân
tay đã dẫn tới sự hình thành một đội ngũ các nhà trí thức chuyên nghiệp chuyên nghiên
cứu về khoa học, triết học..
Lãnh thổ nền văn minh Hy Lạp thời kỳ đầu bao gồm Hy Lạp ngày nay và các đảo
thuộc biển Aegaeum và vùng Tây Tiểu Á. Địa điểm xuất phát phát triển của nền văn
minh Hy Lạp là đồng bằng Thessalia màu mỡ, rộng lớn ở vùng bắc Hy Lạp cùng với
các đồng bằng Attike, Beotia ở trung Hy Lạp và bán đảo Peloponnese ở phía nam Hy
Lạp. Địa lý Hy Lạp đa dạng kết hợp với khí hậu tốt, cận nhiệt đới, vào mùa đông ít
tuyết. Khí hậu Hy Lạp mưa nhiều vào mùa đông sang mùa xuân rất thuận lợi cho trồng
trọt. Hy Lạp có nhiều khoáng sản như sắt, đồng, vàng và bạc. Đó là điều kiện thuận lợi
cho thủ công nghiệp phát triển khá sớm. Những điều kiện địa lý, tự nhiên rất thuận lợi
cho các ngành nghề như thương mại, thủ công nghiệp và một nền nông nghiệp tuy
không giàu có nhưng đủ đảm bảo các nhu cầu của cư dân trong vùng.
Lãnh thổ Hy Lạp xưa rộng lớn hơn so với hiện nay gấp nhiều lần, bao gồm phần đất
liền cùng vô số hòn đảo trên biển Egie, vùng duyên hải Balcan và tiểu Á. Từ cuộc di
thực ồ ạt vào các thế kỷ VIII - VI TCN, người Hy Lạp chiếm thêm miền nam Ý, đảo
Sicile, vùng ven biển Đen, lập nên Đại Hy Lạp. Những cuộc viễn chinh toàn thắng của

Alexandre xứ Macedoine vào cuối thế kỷ IV TCN đã đưa đến sự ra đời các cuốc gia


Tiểu luận: Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy –
La cổ đại và ý nghĩa của nó trong lịch sử tư tưởng nhân loại

Hy Lạp hóa trải rộng từ Sicile ở phía tây Ân Độ ở phía đông, từ biển Đen ở phía bắc
đến khu vực tiếp giáp sông Nil ở phía nam. Tuy nhiên trung tâm của Hy Lạp cổ đại,
trải qua bao thăng trầm, vẫn là vung biển Egie, nơi nhà nước và nền văn hóa Hy Lạp
đạt tới sự phồn thịnh cao nhất của mình. Hy Lạp nằm ở vị trí thuận lợi, án ngữ trên con
đường giao lưu của các dòng di cư trong lịch sử cổ đại của các dòng người từ châu
Phi lên, từ Trung Á sang, từ châu Âu xuống nên quốc gia này có thể tiếp thu nhiều nền
văn minh khác nhau, nhất là nền văn minh sang chói của Ai Cập thời bấy giờ.
1.1.3

Điều kiện kinh tế-xã hội

Những tư tưởng triết học đầu tiên tại Hy Lạp cổ đại xuất hiện vào thời kỳ diễn ra
những diễn biến sâu sắc trong quan hệ xã hội, trước hết là sự tan rã chế độ thị tộc và sự
thiết lập chế độ chiến hữu nô lệ, chế độ xã hội có giai cấp đầu tiên trong lịch sử loài
người. Đó là một quá trình lâu dài, phức tạp, với những cuộc chiến tranh và xung đột
triền miên.
Vào thời đại Homère (thế kỷ XI- IX TCN), ở Hy Lạp, đã chớm bắt đầu quá trình tan rã
của công xã thị tộc, được thú đẩy bởi sự phân công lao động, diễn ra trong nông
nghiệp giữa trồng trọt và chăn nuôi. Đồng tiền kim khí chưa xuất hiện, thương nghiệp
và nghề thủ công chiếm tỷ trọng không đáng kể trong đời sống. Chữ viết chưa ra đời,
truyền thống công xã còn khá mạnh với uy lực gần như tuyệt đối của các tộc trưởng.
Tuy nhiên, trong nội bộ công xã đã bắt đầu diễn ra những xung đột từ việc hôn nhân
đến việc phân chia tài sản giữa các thế hệ. Cuối cùng là sự việc phân định quyền lực.
Biểu hiện đầu tiên của phân hóa xã hội là xuất hiện hai loại người có địa vị và quyền

lợi đối lập nhau - những người được chia nhiều đất (policler) và những người không
có đất canh tác (acler).
Bước sang thế kỷ VIII TCN, kinh tế ở các thị quốc Hy Lạp tiếp tục phát triển với nhịp
độ nhanh. Thủ công tách khỏi nghề nông nghiệp và tiến những bước đáng kể. Nghành
đóng tàu được khuyến khích nhằm phục vụ cho thương nghiệp và chiến tranh. Sự
hưng thịnh của kinh tế kích thích quá trình vượt biển tìm đất mới, xâm chiếm lãnh thổ
các xứ láng giềng, bắt người làm nô lệ. Bên cạnh đó, công cuộc di thực cũng thúc đẩy
khả năng giao lưu văn hóa, khoa học giữa Hy Lạp và các dân tộc khác.


Tiểu luận: Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy –
La cổ đại và ý nghĩa của nó trong lịch sử tư tưởng nhân loại

Toán học và khoa học Hy Lạp đạt được khá nhiều thành tựu rực rỡ với các nhà khoa
học bậc thầy như Pythagoras, Archimedes. Họ đã phát minh ra những định lý cơ sở
cho toán học và khoa học hiện đại. Hy Lạp cũng là nơi ra đời Thế vận hội (Olympic)
đầu tiên vào năm 776 trước Công nguyên và được tổ chức 4 năm một lần, khởi nguồn
của Thế vận hội Olympic hiện đại ngày nay. Đặc biệt, sự ra đời và phát triển của Triết
học Hy Lạp là nền móng của triết học phương Tây với các nhà triết học nổi tiếng
như Thales, Platông, Aristote...
Vào khoảng cuối thế kỷ thứ VII – đầu thế kỷ thứ VI TCN, các thị quốc bước vào thời
kỳ phát triển khá thịnh vượng. Sự phân công lao động lần thứ hai (tách nghề thủ công
ra khỏi nghề nông) và xuất hiện đồng tiền kim khí đã tạo nên những khởi sắc trong các
lĩnh vực đời sống xã hội, đặc biệt là sự hình thành các nhóm người sống bằng lao động
trí óc, biết tích hợp những tinh hoa văn hoá, khoa học vào trong những cách ngôn,
những tản văn có giá trị nhận thức cao. Trong số họ nổi bật Thalès, người mà Aristote
gọi là nhà triết học đầu tiên của Hy Lạp cổ đại. Với Thalès triết học đã ra đời, thay thế
thần thoại và tôn giáo nguyên thuỷ, đồng thời thâu tóm các tri thức khoa học vào trong
một hệ thống mang tính khái quát cao. Triết học ra đời như sự giải quyết mâu thuẫn
giữa bức tranh thần thoại về thế giới, được xây dựng trên tưởng tượng, với nhận thức

và tư duy mới, như sự phổ biến tư duy từ diện hẹp ra diện rộng, từ tản mạn đến hệ
thống. Con đường từ thần thoại đến triết học, theo Hegel, là con đường đi từ lý tính
hoang tưởng đến lý tính tư duy, từ hình thức diễn đạt thông qua biểu tượng đến hình
thức diễn đạt bằng khái niệm.
Hy Lạp là đất nước của thơ ca và thần thoại. Nếu thần thoại là sự đối thoại giữa con
người với tự nhiên và với cả các lực lượng siêu nhiên do con người tưởng tượng ra, thì
triết học cố gắng tìm hiểu vấn đề quan hệ giữa con người với tự nhiên và với chính
mình. Nếu trước đây người ta đi tìm một Hoá công vũ trụ, thì giờ đây truy tìm bản
nguyên, cái làm cơ sở của mọi tồn tại. Câu hỏi “vị thần nào cai quản thế giới?” được
thay thế bằng câu hỏi “thế giới bắt đầu từ đâu và quay về đâu?”. Triết học mong muốn
đem đến lời giải đáp thiết thực, làm thoả mãn khát khao hiểu biết của con người. Nói
cách khác, nó “đặt ra kiểu tự quy định mới: không thông qua thói quen truyền thống,


Tiểu luận: Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy –
La cổ đại và ý nghĩa của nó trong lịch sử tư tưởng nhân loại

mà thông qua lý trí cá nhân. Triết gia nói với môn đệ của mình: chớ đưa tất cả về lòng
tin, mà hãy tự suy nghĩ…”.
Tóm lại, sự tích lũy tư hữu, phát triển quan hệ hàng hóa, tiền tệ, sự tan rã của nền kinh
tế tự nhiên, sự phân hóa giàu nghèo, sự đối kháng giữa các lực lượng xã hội, sự thôn
tính đất đai, sử dụng lao động nô lệ… khiến cho chế độ công xã thị tộc là chế độ lấy
quan hệ huyết thống làm cơ sở, phải đi đến chỗ suy vong, và bị thay thế bởi một thiết
chế xã hội mới, phù hợp với những quan hệ xã hội mới. Nói cách khác, nhà nước đã ra
đời như một tất yếu trên con đường phát triển lịch sử của nhân loại. Nhà nước chiếm
hữu nô lệ phục vụ cho thiểu số dân chúng đang ngày một giàu thêm, nhất là từ sau khi
đồng tiền kim khí được phát hành vào thế kỷ VII TCN. Bắt đầu từ đây những sung đột
xã hội mang dấu ấn của những trận chiến giai cấp, lúc âm ỉ, lúc quyết liệt diễn ra liên
tục.
Cùng với sự hình thành các thị quốc - tổ chức nhà nước đặc thù, nền văn hóa mới cũng

được xây dựng, trở thành bộ phận hữu cơ của toàn bộ đời sống xã hội Hy Lạp cổ đại.
Những biểu hiện chủ yếu của hệ thống các giá trị tinh thần mới là sự duy lý hóa tư
duy, ý thức về nhân cách, ca ngợi tính tích cực, lòng quả cảm và năng lực con người
trong cuộc đấu tranh với tự nhiên, tinh thần ái quốc, quan niệm về tự do như phạm trù
đạo đức - chính trị cao quý nhất… sự hình thành những cơ sở của văn hóa Hy Lạp
không diễn ra một cách ngẫu nhiên, mà là sự kế thừa những giá trị truyền thống, thể
hiện trong các sáng tác dân gian, trong thần thoại, trong các hình thức sinh hoạt tôn
giáo, trong những mầm mống của tri thức khoa học. Tư tưởng triết học phát sinh và
phát triển như một thành tố không tách rời của văn hóa mới ấy. Với tính cách là tinh
hoa tinh thần của thời đại, nó cố gắng đem đến lời giải đáp nghiêm túc, sâu sắc, hợp
lý, có hệ thống về những gì diễn ra xung quanh, về vị trí của con người trong thế giới
và thế giới của chính con người, do con người tạo ra cùng những giá trị, những chuẩn
mực, những định hướng cho mình.
1.2 Điều kiện ra đời của triết học La Mã


Tiểu luận: Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy –
La cổ đại và ý nghĩa của nó trong lịch sử tư tưởng nhân loại

1.2.1 Bối cảnh lịch sử
Đế quốc La Mã, hay còn gọi là Đế quốc Roma (tiếng Latinh: IMPERIVM ROMANVM)
là thời kỳ hậu Cộng hòa của nền văn minh La Mã cổ đại. La Mã từng là một đế quốc
rộng lớn tồn tại từ khoảng thế kỷ thứ 1 TCN cho đến khoảng thế kỷ thứ 5 hay thế kỷ
thứ 6, gồm phần đất những nước vây quanh Địa Trung Hải ngày nay. Đế quốc La Mã
là sự tiếp nối của Cộng hòa La Mã và nằm trong giai đoạn cuối cùng của thời cổ điển..
Nó được tính từ khi Augustus bắt đầu trị vì từ năm 27 TCN và có nhiều mốc kết thúc
khác nhau.
Nền Cộng hòa La Mã 500 năm tuổi, tiền thân của Đế quốc La Mã, đã bị suy yếu qua
nhiều cuộc nội chiến. Đã có nhiều sự kiện xảy ra đánh dấu bước chuyển mình từ nền
Cộng hòa sang Đế quốc, bao gồm việc Julius Caesar được bổ nhiệm làm nhà độc tài

suốt đời (44 TCN), trận Actium (31 TCN), và sự kiện Viện nguyên lão trao
cho Octavianus danh hiệu cao quý Augustus (27 TCN).
Hai thế kỷ đầu của đế quốc ghi dấu với nền Thái bình La Mã (Pax Romana), một giai
đoạn hòa bình thịnh trị chưa từng thấy. Sự mở rộng cương thổ của La Mã đã bắt đầu từ
thời Cộng hòa, nhưng đạt tới cực đỉnh vào thời hoàng đế Traianus. Ở đỉnh cao, Đế
quốc La Mã kiểm soát gần 6.5 triệu km2, tuy rằng những người kế tục đã từ bỏ phần
lớn đất đai mà ông chiếm được. Vì sự rộng lớn và bền vững dài lâu của mình, những
thể chế và văn hóa của Đế quốc La Mã có những ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài đến sự
phát triển của ngôn ngữ, tôn giáo, kiến trúc, triết học, luật pháp trong những vùng mà
nó cai trị, đặc biệt là châu Âu, và nhờ vào chủ nghĩa bành trướng của châu Âu, sau này
chúng lan ra toàn thế giới hiện đại.
Lịch sử của La Mã có thể được chia ra thành ba thời kỳ chính. Thời kỳ cổ
đại Estrusque, từ thế kỷ thứ 8 đến hết thế kỷ thứ 4 TCN. Ở thời kỳ này, xã hội La Mã
còn manh mún, các chủ đất chưa thống nhất và phân chia tranh giành ảnh hưởng và
cân bằng lẫn nhau. Kinh tế dựa vào nông nghiệp là chủ yếu, lãnh thổ La Mã chủ yếu
tập trung tại miền Nam Ý ngày nay. Thời kỳ Cộng hòa La Mã, (từ thế kỷ thứ 3 đến thế
kỷ thứ 1 TCN, một nhà nước cộng hòa tại Roma hình thành mà về sau ảnh hưởng rất
lớn đến đường lối chính trị của nhiều quốc gia Tây Phương, và cho đến ngày nay vẫn
còn giá trị. Thời kỳ Đế quốc La Mã (Từ thế kỷ thứ 1 TCN đến năm 476) là thời kỳ


Tiểu luận: Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy –
La cổ đại và ý nghĩa của nó trong lịch sử tư tưởng nhân loại

phát triển rực rỡ của La Mã bằng việc bành trướng lãnh thổ, Đế quốc La Mã có lãnh
thổ hầu như
toàn bộ khu vực Địa Trung Hải. Lần lượt các vùng lãnh thổ như, Hy Lạp (146 TCN),
cùng với lãnh thổ Tiểu Á, Syria, Phoenicia, Palestine và Ai Cập bị sát nhập vào Đế
quốc La Mã. Trong thế kỷ thứ 1 đến thế kỷ thứ 2, Đế quốc La Mã phát triển cực thịnh,
lãnh thổ rộng lớn, các đô thị của La Mã được xây dựng và để lại cho đến ngày nay.

Nhưng từ thế kỷ thứ 2, Đế quốc La Mã có nhiều tranh giành quyền lực và suy yếu.
Đến thế kỷ thứ 4, nhiều cư dân bên ngoài xâm nhập và Đế quốc La Mã bị chia hai:
Tây La Mã và Đông La Mã (gọi là Đế chế Byzantine). Tây La Mã bị sụp đổ vào năm
476; và Đế quốc Đông La Mã bị sụp đổ vào năm 1453.
1.2.2 Điều kiện tự nhiên
Đế quốc La Mã là một trong những đế quốc lớn nhất trong lịch sử. Thành ngữ
Latinh imperium sine fine ("đế quốc mà không có điểm kết thúc") nhằm nêu lên sự mơ
tưởng rằng đế quốc không bị giới hạn về cả thời gian hay không gian. Trong bộ sử
thi Aeneid củaVergil, sự vô hạn của đế quốc được nói là do vị thần Jupiter ban cho
những người La Mã. Tuyên bố về sự thống trị thế giới này đã được tiếp tục nhắc đến
và tồn tại cho đến khi Đế quốc nằm dưới sự thống trị của Kitô giáo vào thế kỷ thứ 4.
Bán đảo Ý dài và hẹp vươn ra Địa Trung Hải, với dãy Alpes về phía Bắc ngăn cách
với châu Âu. Bán đảo Ý trong trên bản đồ như một chiếc ủng, bao bọc ba mặt là biển,
phía Nam bán đảo là đảo Sicilia, phía Tây là đảo Corse và Sardegna.
Bán đảo Ý có những điều kiện thuận lợi để hình thành và phát triển một nền văn minh:
những đồng bằng phì nhiêu bên sông Po, Trung Ý và đảo Sicilia cùng với khí hậu ấm
áp mưa nhiều; bán đảo Ý cũng là nơi có lượng khoáng sản phong phú, giao thông biển
rất thuận lợi cho việc buôn bán, giao lưu với các nền văn minh khác trong vùng.
Nền văn minh La Mã là nơi khá sớm có con người cư trú, có thể khẳng định vào loại
sớm nhất với lục địa châu Âu. Bán đảo Ý là nơi hội tụ của các nền văn minh Đông và
Tây Địa Trung Hải, Bắc Phi. Mặc dù sự cực thịnh của nền văn minh La Mã không


Tiểu luận: Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy –
La cổ đại và ý nghĩa của nó trong lịch sử tư tưởng nhân loại

được các nhà nghiên cứu đánh giá sớm hơn các nền văn minh lân cận, như nền văn
minh Ai Cập cổ đại hay nền văn minh Tây Á nhưng lại phát triển rực rỡ và cực thịnh.
Từ thời đồ đá cũ đã xuất hiện những cư dân sống ở bán đảo. Thời kỳ này, sự di cư của
các cư dân từ các lục địa vào bán đảo Ý và bị cách biệt với phần còn lại của châu Âu

bởi dãy núi Alpes nên việc giao lưu gần như bắt buộc với các nền văn minh khác
quanh biển Địa Trung Hải. Cư dân của La Mã tương đối thuần nhất do phạm vi hẹp và
tương tự một ốc đảo ở Nam châu Âu, được gọi chung là người Ý.
1.2.3 Điều kiện xã hội
Đế quốc đạt tới ngưỡng mở rộng lớn nhất của nó dưới thời Trajanus (trị vì từ năm 98117), trên một diện tích lên tới 5.000.000 km vuông vào năm 2009 và được chia thành
bốn mươi quốc gia khác nhau hiện nay.. Dân số của nó theo ước tính truyền thống lên
tới 55-60.000.000 cư dân chiếm khoảng từ một phần sáu tới một phần tư dân số của
thế giới và khiến cho nó trở thành quốc gia có dân cư lớn nhất hơn bất cứ thực thể
chính trị thống nhất nào ở phương Tây cho đến giữa thế kỷ 19 . Những nghiên cứu
nhân khẩu học gần đây đã minh chứng rằng vào lúc đỉnh điểm, đế quốc có từ 70 triệu
đến hơn 100 triệu thần dân.Bất cứ thành phố nào trong ba thành phố lớn nhất của Đế
quốc-Rôma, Alexandria, và Antioch- gần như đều có kích thước gấp đôi bất kỳ thành
phố châu Âu vào đầu thế kỷ 17.
Đế quốc La Mã đã khá đa dạng về văn hóa, cùng với "khả năng gắn kết hơn đáng kinh
ngạc" để tạo ra một bản sắc chung trong khi lại chứa đựng rất nhiều các dân tộc khác
nhau nằm bên trong hệ thống chính trị của nó suốt một khoảng thời gian dài. Người La
Mã đã quan tâm đến việc tạo ra các công trình và không gian công cộng dành cho tất
cả mọi người dân như là các khu chợ,đấu trường đài vòng, trường đua ngựa và các nhà
tắm.
Về giao thương, các tỉnh La Mã buôn bán giữa chúng với nhau, nhưng thương mại còn
mở rộng ra bên ngoài biên giới tới các khu vực xa xôi như Trung Quốc và Ấn Độ. Các
mặt hàng chính là ngũ cốc. Ngoài ra còn buôn bán mặt hàng khác như dầu ô liu, các
loại thực phẩm, garum (nước mắm), nô lệ, quặng và đồ vật kim loại, sợi và dệt may,


Tiểu luận: Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy –
La cổ đại và ý nghĩa của nó trong lịch sử tư tưởng nhân loại

gỗ, gốm, đồ thủy tinh, đá cẩm thạch, giấy cói, gia vị và dược liệu, ngà voi, ngọc trai và
đá quý.

Xã hội La Mã cũng có nhiều hệ thống phân cấp xã hội chồng chéo mà những khái
niệm hiện đại về "giai cấp" trong tiếng Anh có thể không đại diện một cách chính xác
cho nó. Hai thập kỷ của những cuộc nội chiến mà từ đó đã giúp cho Augustus nổi lên
và trở thành nhà cai trị duy nhất đã để khiến cho xã hội truyền thống ở Roma rơi vào
tình trạng hỗn loạn và biến động, nhưng nó lại không ảnh hưởng một cách trực tiếp tới
sự phân bố giàu nghèo và quyền lực xã hội. Những mối quan hệ cá nhân như sự bảo
trợ, tình bạn (Amicitia), gia đình, hôn nhân đã tiếp tục ảnh hưởng đến các hoạt động
chính trị và chính quyền như dưới thời Cộng hòa. Tuy nhiên, vào triều đại của Nero,
việc tìm thấy một cựu nô lệ lại giàu có hơn một công dân tự do, hoặc một kị sĩ có
nhiều quyền lực hơn một nguyên lão lại không phải là một điều bất thường.
Từ những điều kiện kinh tế xã hội như trên, dễ thấy La Mã có một vị trí thuận lợi để
giao lưu văn hóa với nhiều nền văn hóa và phát triển kinh tế. Cùng với trong long xã
hội có nhiều mâu thuẫn, cuộc sống con người nhiều khó khăn, nhất là tậng lợp bị trị
khi mà tư tưởng giai cấp bị đè nặng đòi hỏi họ phải có một niềm tin vào cái mới, tôn
giáo cũng như Triết học chính là cái phao giúp họ them tin yêu vào xã hội.
Xã hội Lã Mã phát triển sau thời kì đỉnh cao của văn minh Hỵ Lạp nên họ có thể kế
thừa những thành tựu của văn minh Hy Lạp, trong đó có tư tưởn triết học. Các
nhà triết học La Mã cũng đã kế thừa truyền thống của triết học Hy Lạp, kế thừa những
tư tưởng duy vật của Đêmôcrit. Những nhà triết học tiêu biểu thời kì đó
như: Lucretius, Ciceron. Ngoài ra, sau này còn có những đại diện xuất sắc của trường
phái"Khắc kỷ" như Seneca và Marcus Aurelius.
1.3 Đặc điểm của triết học Hy-La
Dựa trên điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và sự phát triển của khoa học cũng như
chính sự phát triển của bản thân triết học Hy-La cổ đại. Có thể thấy, triết học Hy-La cổ
đại có những đặc điểm cơ bản sau:


Triết học Hy-La cổ đại là triết học của giai cấp chủ nô thống trị trong xã hội
Hy-La khi ấy. Cho nên, triết học Hy-La cổ đại ngay từ khi mới ra đời đã mang



Tiểu luận: Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy –
La cổ đại và ý nghĩa của nó trong lịch sử tư tưởng nhân loại

tính đảng, tính giai cấp sâu sắc. Điều này thể hiện ở cuộc đấu tranh giữa chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm; giữa hai phương pháp biện chứng và siêu
hình; giữa quan điểm “có thể biết” và “không thể biết”... Dù là duy vật hay duy
tâm nhưng tất cả các nhà triết học Hy-La cổ đại đều thuộc giai cấp chủ nô, đều


bảo vệ chế độ chiếm hữu nô lệ.
Triết học Hy-La cổ đại ngay từ khi mới ra đời đã đề cập đến nhiều vấn đề khác
nhau thuộc về thế giới quan của người Hy-La cổ đại. Trước hết là những vấn
đề: Tồn tại là gì? Nguồn gốc của thế giới là gì? Cuộc đời và số phận con người
như thế nào?... và những vấn đề này luôn được giải quyết theo hai quan điểm



trái ngược nhau: hoặc là duy vật, hoặc là duy tâm.
Triết học Hy-La cổ đại chứa đựng mầm mống của nhiều thế giới quan hiện đại
sau này. Có đặc điểm này bởi triết học Hy-La cổ đại được nảy sinh từ nhiều
vùng khác nhau thuộc Hy-La cổ đại và nó phát triển đa dạng, phong phú, mang



tính “cách mạng đột biến”.
Triết học Hy-La cổ đại gắn bó chặt chẽ với khoa học đương thời. Các nhà triết
học đồng thời là các nhà khoa học. Vì vậy, đã xuất hiện quan điểm sai lầm cho




rằng: “triết học là khoa học của các khoa học”.
Trong triết học Hy-La cổ đại đã có tư tưởng biện chứng. Đỉnh cao là phép biện
chứng của Hêraclít. Mặc dù phép biện chứng này còn ngây thơ, chất phác
nhưng đã là hình thức lịch sử đầu tiên của phép biện chứng duy vật và có ý
nghĩa to lớn đối với sự phát triển của tư duy biện chứng của nhân loại. Bởi ngay
từ khi mới ra đời, nó đã tìm cách giải thích thế giới như một chỉnh thể thống
nhất trong đó các sự vật vận động và biến đổi không ngừng. Hêraclít đã nhận ra
một chân lý nổi tiếng: trong cùng một thời điểm sự vật đồng thời là nó lại vừa
là cái khác. Vì vậy, “không thể tắm hai lần trong cùng một dòng sông”. Mặc dù
vậy, phép biện chứng cũng mới chỉ được hiểu như là nghệ thuật tranh luận.



Hoạt động thực tiễn của con người hầu như không được bàn đến.
Triết học Hy-La cổ đại đề cập đến nhiều vấn đề con người và số phận con
người. Mặc dù các nhà triết học còn có những ý kiến khác nhau về bản chất con
người, nhưng họ đều coi trọng con người, coi con người là tinh hoa cao quý của
tạo hóa, con người cần chinh phục tự nhiên để phục vụ cho mình. Chẳng hạn,
Pitago cho rằng: “Con người là thước đo của tất thảy mọi vật”. Tuy nhiên, con


Tiểu luận: Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy –
La cổ đại và ý nghĩa của nó trong lịch sử tư tưởng nhân loại

người thời kỳ cổ đại được nhìn nhận chủ yếu với tổ chức cá thể; giá trị con
người chủ yếu chỉ được bàn đến ở khía cạnh đạo đức, giao tiếp, nhận thức luận.
• Tiểu kết:
Sự hình thành triết học Hy-Lạ không diễn ra một cách ngẫu nhiên mà là kết quả tất yếu
của việc kế thừa những di sản tinh tuý của truyền thống trong sáng tác dân gian, trong

thần thoại, trong các mầm mống của tri thức khoa học (khoa học tự nhiên). Nhưng bên
cạnh đó, sự xuất hiện của những trí thức khoa học và triết học trong thời kỳ này đã tạo
nên một bước ngoặt lớn về nhận thức của con người, phá vỡ ý thức hệ thần thoại và
tôn giáo nguyên thuỷ. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của nền sản xuất, những tri thức
về khoa học tự nhiên phát triển mạnh, được trình bày trong hệ thống triết học - tự
nhiên của các nhà triết học cổ đại, bên cạnh đó, khoa học thời bấy giờ chưa phân
ngành nên các nhà triết học đồng thời cũng là các nhà Toán học, nhà Vật lý học... Từ
các yếu tố đó có thể khẳng định rằng, triết học Hy-Lạ cổ đại ngay từ khi ra đời đã có
sự gắn bó với nhu cầu thực tiễn và gắn với khoa học.


Triết học Hy-Lạ cổ đại phát triển qua 3 thời kỳ sau:
- Triết học thời kỳ tiền Socrates (thời kỳ sơ khai)
- Triết học thời kỳ Socrates (thời kỳ cực thịnh)
- Triết học thời kỳ Hy Lạp hoá

Chương II:

CUỘC ĐẤU TRANH GIỮA CHỦ NGHĨA DUY

VẬT VÀ CHỦ NGHĨA DUY TÂM TRONG TRIẾT HỌC
HY-LA CỔ ĐẠI
2.1 Sự phân kỳ và phát triển của triết học Hy-La cổ đại
Quá trình hình thành, phát triển và sự suy vong của chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp
đã được phản ánh sinh động trong các sáng tác văn chương, nghệ thuật, triết học. Sự
phân kỳ triết học Hy Lạp có cách căn cứ trên sự phát triển nội tại của triết học, hoặc
căn cứ trên những thời kỳ lịch sử, gắn với sự tồn vong của xã hội chiếm hữu nô lệ; mỗi
cách đều có cơ sở hợp lý nhất định.



Tiểu luận: Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy –
La cổ đại và ý nghĩa của nó trong lịch sử tư tưởng nhân loại

- Triết học thời sơ khai, hay thời kỳ hình thành các thị quốc đầu tiên (còn gọi là
triết học thời kỳ trước socrate). Đây là thời kỳ đầu của chế độ chiếm hữu nô lệ. Triết
học thay thế thần thoại, mong muốn tìm kiếm lời giải đáp nghiêm túc, hợp lý cho
những vấn đề của tồn tại và nhận thức. Nhu cầu của đời sống kinh tế thúc đẩy sự phát
triển các tri thức về thiên văn, địa lý, hàng hải. Phần lớn các triết gia, tập trung trong
các trường phái Milet, trường phái Pythagore, trường phái Héraclite, trường phái Elée,
đồng thời là các nhà khoa học, hoặc có những am hiểu nhất định về khoa học. Triết
học tách khỏi sự ảnh hưởng của thế giới quan thần thoại, tôn giáo nguyên thủy, chập
những bước đi đầu tiên trên con đường chinh phục thế giới, tìm hiểu bản nguyên và
bản tính thực sự của nó (vũ trụ bắt đầu từ đầu và quay về đầu? thế giới có trải qua quá
trình phát sinh, phát triển và diệt vong hay không? Có vận động hay không? Nếu có,
thì sự vận động diễn ra theo tính quy luật bên trong của thế giới, hay do sự tác động
của lực lượng bên ngoài siêu nhân nào đó?...). Thế giới quan triết học còn ở trìnhđộ sơ
khai, chất phát, ấu trĩ, nhưng đã mang tính hệ thống và tính phân cực rõ ràng. Triết học
tự nhiên chiếm ưu thế (nhằm vượt qua thần thoại, thế hệ các triết gia đầu tiên cố gắng
lý giải những nguyên nhân của thế giới từ chính những chất liệu sẵn có của thế giới),
những vấn đề nhận thức luận, nguồn gốc sự sống cũng được đặt ra. Thời kỳ khai
nguyên triết học là thời kỳ hình thành trong dạng phôi phai những khuynh hướng và
những phương pháp tư duy cơ bản nhất.
- Triết học thời cực thịnh, gắn với những bước thăng trầm của nền dân chủ nô
(còn gọi là triết học thời kỳ Socrate). Sự quan tâm về tự nhiên đã đưa đến sự ra đời các
học thuyết triết tự nhiên. Thế nhưng, trong suốt hàng thế kỷ, những cuộc tranh luận
triền miên về bản nguyên và bản tính của thế giới không đem đến lời giải đáp cuối
cùng, thực sự thuyết phục. Câu chuyện khôi hài về hình ảnh triết ra, nhà khoa học
Thalès rơi tóm xuống giếng do mải mê hướng mắt lên trời cao, mà không để ý những
gì diễn ra dưới chân mình và xung quanh mình, đã ngụ ý cái hụt hẫng, chơi với của
triết học thời sơ khai: triết lý hướng tầm nhìn ra vũ trụ với thái độ ngạo mạn, óc chinh

phục, thống trị, nhưng lại quên những vấn đề thiết than và nhạy cảm – vấn đề con
người, vị trí của con người trong thế giới, số phận và triển vọng của nhân loại. Các nhà
biện thuyết dường như đã cảm nhận sự hụt hẫng ấy, và thực hiện bước chuyển quan


Tiểu luận: Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy –
La cổ đại và ý nghĩa của nó trong lịch sử tư tưởng nhân loại

trọng trong đối tượng nghiên cứu. Tuyên bố “con người – thước đo của vạn vật” là
thông điệp có ý nghĩa đầu tiên của triết học Hy Lạp trong việc tìm kiếm hướng đi mới.
Tuy nhiên sự đề cao đến mức thái quá của các nhà biện thuyết đối với chủ thể nhận
thức đã đưa họ đến chỗ hoài nghi chân lý khách quan, biến những mệnh đề thành trò
chơi ngôn ngữ thuần túy. Tác giả của bước ngoặt từ triết học tự nhiên sang triết học
đạo đức, từ nguyên lý về vũ trụ sang nguyên lý về hoạt động của con người, là
Socrate. “Bước ngoặt Socrate” ghi dấu ấn trong triết học Hy Lạp như một đột phá có
tính lịch sử, thẩm định lại quan niệm về đối tượng và thiên chức của triết học. Song
“bước ngoặt Socrate” lại cũng tạo ra thế đứng vững chắc cho chủ nghĩa duy tâm, thay
thế “triết học tự nhiên”, hay chủ nghĩa duy vật chất phác. Chủ nghĩa duy tâm, sự thổi
phồng, tuyệt đối hóa một mặt, một khía cạnh của nhận thức, vốn ẩn mình trong vật
hoạt luận của Thalès, yếu tố nhân hình hóa của Empédocle, trí tuệ vũ trụ (Nous) của
Anaxagore, gời đây đã khuếch chương thành một hệ thống. Cũng từ đây sự tranh luận
thế giới quan giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, hay nói như V.I.Lenin,
giữa “đường lối Démocrite” (đại diện cho duy vật) và “đường lối Platông” (đại diện
cho duy tâm) trở lên hiện tượng phổ biến trong lịch sử phát triển của triết học.
Sau Socrate, triết học Hy Lạp một mặt vẫn tiếp tục những đề tài truyền thống, mặt
khác dành nhiều tâm huyết lý giải những vấn đề liên quan đến vị trí và số phận con
người, ý nghĩa của cuộc sống, năng lực và phương pháp nhận thức, tiến trình lịch sử,
mối quan hệ giữa con người với tự nhiên xã hội. Đây là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất
của triết học Hy Lạp cổ đại, thời kỳ sản sinh ra những tên tuổi lớn, làm rạng danh nền
văn hóa Hy Lạp: Démocrite, Platông, Aristote… nó được thúc đẩy bởi những khởi sắc

trong các lĩnh vực của đời sống chính trị - xã hội, mà tiêu biểu là sự xác lập nền dân
chủ - phát minh chính trị của người Hy Lạp. Dân chủ là hình thức tổ chức nhàn nước
ưu việt nhất của thế giới cổ đại.
- Triết học thời kỳ Hy Lạp hóa. Người Hy Lạp nạp phát minh ra dân chủ, những
đó là nền dân chủ dành cho thiểu số ít ỏi các “công dân tự do”. Nô lệ không được gọi
là con người, mà chỉ là thứ công cụ biết nói, hàng hóa trao đổi giữa các chủ nô. Nhiều
triết gia trở thành nạn nhân của dân chủ, bởi họ dám thách thức các nghi lễ tín ngưỡng
cổ hủ. Hơn nữa, trong khi Athènes, nền dân chủ đang được thực hiện, thì tại Sparte


Tiểu luận: Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy –
La cổ đại và ý nghĩa của nó trong lịch sử tư tưởng nhân loại

láng giềng lại tồn tại chế độ cai trị hoạt đầu. Chiến tranh Péloponnèse (430 - 404 TCN)
giữa Sparte và Athènes đã đưa đất nước tới chỗ suy vong. Philippe xứ Macédoine lợi
dụng thời cơ đánh chiếm Hy Lạp năm 387. Sau khi philippe chết, con trrai là
Alexander đã cai trị Hy Lạp một cách tàn bạo và đem quân chinh phục các nước
phương Đông như Ba tư, Ai Cập, Babylon, Ấn Độ, các nước vùng Trung Á. Trong
vòng mười năm vua Alexander xây dựng được một đế quốc rộng lớn, nhưng ông lại
chết sớm, khi mới 33 tuổi (năm 323 TCN). Suốt hai năm trời các tướng lĩnh chỉ lo
tranh giành quyền lực, khiến xã hội sa vào tình trạng kiệt quệ. Cuối cùng cả Hy Lạp,
Macédoine và đế quốc của Macédoine bị La Mã dung vũ lực chinh phục và thôn tính.
La Mã đô hộ Hy Lạp về quân sự và chính trị, nhưng về văn hóa chính Hy Lạp đã ảnh
hưởng ngược trở lại, nên thời kỳ này sử sách gọi là thời kỳ Hy Lạp hóa
(Hellénisation). Tuy nhiên tinh thần khám phá và sáng tạo không còn mãnh liệt như
thời kỳ nền dân chủ Athènes. Đỉnh cao phát triển đã lùi lại phía sau. Thế hệ mới không
đủ sức vượt qua những cây đại thụ tư tưởng, nhưng không thể chấp nhận sự lặp lại quá
khứ, cho dù là quá khứ oanh liệt vàng son. Bị cuốn vào vòng xoáy nghiệt ngã của
chiến tranh, bạo lực, khủng bố, các triết gia không còn mấy tâm trí bàn đến những vấn
đề phổ quát, siêu hình, lớn lao, mà lay hoay với thế giới nội tâm, cuộc sống tình cảm,

ham muốn, dục vọng, hoặc né tránh tranh luận, tự bằng long với cõi riêng yên tĩnh của
mình, khuyên người khác cũng hành sử như vậy, hoặc chìm đắm trong suy tư về định
mệnh, về sự hòa đồng huyền diệu con người – vũ trụ - thần linh.
Vào năm 529 (tính đến lúc đó triết học Hy Lạp, La Mã đã có ngót một thiên niên
kỷ tồn tại) trường phái Palaton tại Athènes chính thức bị đóng cửa, nhưng cái chết của
triết học cổ đại đã được báo trước ngay từ thời điểm Cơ Đốc giáo ra đời trên mảnh đất
của đế quốc La Mã, và sau đó vài thế kỷ đã nghiễm nhiên trở thành hình thức sinh hoạt
tôn giáo chính thống, loại trừ đa thần giáo trong ý thức con người.
2.2 Chủ nghĩa duy vật trong triết học Hy-La cổ đại
Chủ nghĩa duy vật được hình thành từ trường phái Milet- trường phái Heraclite, trường
phái Đa nguyên và đạt được đỉnh cao như trong trường phái Nguyên tử luận.


Tiểu luận: Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy –
La cổ đại và ý nghĩa của nó trong lịch sử tư tưởng nhân loại

2.2.1 Trường phái Milet
Trường phái triết học Milet là trường phái của các nhà triết học đầu tiên xứ Lonie, một
vùng đất nổi tiếng của Hy Lạp. Nằm chạy dài trên miền duyên hải Tiểu Á, nằm giữ
huyết mạch giao thông, là cửa mở đi về phương Đông, và là trung tâm kinh tế, văn hóa
của thời kỳ chiếm hữu nô lệ. Nơi đây được xem là quê hương của nhiều trường phái
triết học của triết gia nổi tiếng.
Trường phái này do ba nhà triết học lập nên như: Anaxi-mène, Anaximandes và
Thales. Đóng góp quan trọng nhất của trường phái này là đã đặc nền móng do sự hình
thành các khái niệm triết học để các triết gia sau này tiếp tục bổ xung và làm phong
phú thêm những khái niệm đó như khái niệm chất, không gian, sự đấu tranh của các
mặt đối lập v.v…
=> Họ xem bản nguyên vật chất là nước, apeiron, không khí. Quan niệm của họ mộc
mạc nhưng vô thần, chống lại thế giới quan thần thoại đương thời và chứa đựng những
yếu tố biện chứng chất phác. Một điều đáng quý nữa là các triết gia đã xuất phát từ thế

giới để giải thích thế giới, khẳng định thế giới xuất phát từ một thời nguyên vật chất
duy nhất.
2.2.2 Trường phái Héraclite : (540 – 575 BC)
Do nhà ẩn dật Héraclite sáng lập. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình quý tộc
chủ nô ở thành phố Ephetdơ. Ông sớm trở thành một nhà triết học duy vật thể hiện rõ
các tư tưởng biện chứng chất phát từ thời cổ Hy Lạp. Ông coi bản nguyên của thế giới
là lửa. Vũ trụ không phải do Thượng Đế hay một lực lượng siêu nhiên nào đó tạo ra,
mà nó “đã” và “đang” sẽ mãi mãi là ngọn lửa vĩnh hằng không ngừng bùng cháy và
lụi tàn. Tàn lụi và bùng cháy theo cái logos tức là “quy luật, trật tự” nội tại của chính
mình. Ông xem thế giới “vừa tồn tại vừa không tồn tại”, “không ai tắm hai lần trong
một dòng sông”. Thế giới vật chất “vừa đa dạng vừa thống nhất, vừa mang tính hài
hòa vừa xung đột”.
-

Bản nguyên vật chất là lửa:
+ Vạn vật sinh ra từ lửa, khi mất đi quay về với lửa.


Tiểu luận: Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy –
La cổ đại và ý nghĩa của nó trong lịch sử tư tưởng nhân loại

+ Vũ trụ đã và đang là ngọn lửa vĩnh hằng, không ngừng bùng cháy, tàn lụi; tàn
lụi, bùng cháy theo logốt nội tại của mình.
-

Bản tính thế giới là biện chứng:
+ Vạn vật cả linh hồn chứa trong m ình các mặt đối lập luôn đấu tranh với
nhau.
+ Vạn vật vừa tồn tại, không tồn tại, luôn sinh th ành, biến đổi, chuyển hóa “
không ai tắm hai lần trên một dòng sông”


-

Nhận thức thế giới: Là phát hiện ra cái lôgốt, tính hài hòa xung đột của những
mặt đối lập tồn tại trong sự vật đa dạng bằng lý tính

=> Như vậy, Héraclite là nhà triết học đã nêu lên các phỏng đoán thiên tài về quy luật
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, mà sau này Marx đã đề cập và đi sâu.
Phép biện chứng duy vật chất phát là đóng góp của triết học Héraclite vào kho tàng tư
tưởng của nhân loại. “Thế giới chỉ là ngọn lửa đang bập bùng cháy suốt ngày đêm”.
2.2.3 Trường phái đa nguyên
Để giải thích tính đa dạng của vạn vật trong thế giới theo tinh thần duy vật
Empedocles (490 – 430 TCN) và Anaxagoras (500 – 428 TCN) cố vượt qua quan niệm
đơn nguyên sự khai minh của các trường phái như Milet - trường phái Héraclite xây
dựng quan niệm đa nguyên về bản chất của thế giới vật chất đa dạng. Empedocles thừa
nhận khởi nguyên của thế giới là bốn yếu tố : đất, nước, lửa và không khí.
-

Empêđốc:
+ Tốn tại 4 khởi nguyên vật chất độc lập bất biến (đất, nước lửa, không khí) chịu

tác động hai loại lực tình yêu kết hợp và hận thù chia tách.
+ Tùy theo mức độ tham gia của các yếu tố và tác động của hai loại lực mà đa
dạng trong thế giới xuất hiện hay biến mất.
+ Vũ trụ tồn tại trải qua 4 giai đoạn + Sự sống hình thành trong đại dương.
-

Anaxogo:



Tiểu luận: Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy –
La cổ đại và ý nghĩa của nó trong lịch sử tư tưởng nhân loại

+ Tồn tại vô số hạt giống cực nhỏ, đ ược phân chia đến vô tận-cái bảo tồn và tính
chất của sự vật.
+ Mỗi sự vật vật chất chứa trong m ình mọi hạt giống khác nhưng nó chỉ bị quy
định bởi tính chất hạt giống chính nó.
-

Nus :

+ Linh hồn của thế giới, động lực làm các hạt giống nẩy nở, thay thế cho nhau , nus
đưa thế giới thoát khỏi sự hỗn độn để đi v ào quá trình tiến hóa của mình và đưa nó
qua nhận thức bản thân thế giới.
=> Tuy nhiên, quan điểm của họ cũng còn mang tính sơ khai, nghĩa là còn hạn chế.
Những hạn chế này được thuyết phục bởi thuyết nguyên tử luận. Nhưng thuyết này
vẫn còn sơ khai và nhận định bằng cảm tính.
2.2.4 Trường phái nguyên tử luận
Trường phái này là đỉnh cao của triết học duy vật Hy Lạp cổ đại được thể hiện trong
trường phái nguyên tử luận thế kỷ V – III BC. Leucippe là người sáng lập và
Démocrite là người kế thừa và phát triển.
Leucippe (500 – 440 BC), ông cho rằng, mọi sự vật được cấu thành từ những nguyên
tử. Đó là những hạt vật chất tuyệt đối không thể phân chia được, nó vô hạn về số
lượng và vô hạn về hình thức, nó vô cùng nhỏ bé, không thể thẩm thấu được. Tư tưởng
của ông không được hiểu một cách đầy đủ, nhưng ông đã để lại qua những trang viết
của các học trò ông tổng hợp. Démocrite (460 – 370 BC) là học trò của Leucippe đã kế
thừa và phát triển thuyết nguyên tử luận trên một phương diện mới. Theo ông vũ trụ
được cấu thành bởi hai thực thể đầu tiên là nguyên tử và chân không. Hai thực thể này
là căn nguyên của các sự vật hiện tượng.



Thuyết nguyên tử của Đêmôcrit:
+ Nguyên tử -hạt vật chất không phân chia hay biến đổi, luôn vận động giống
nhau về chất khác nhau về lượng.
+ Chân không – không có kích thước và hình dáng vô tận duy nhất là điều kiện
để nguyên tử vận động.


Tiểu luận: Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy –
La cổ đại và ý nghĩa của nó trong lịch sử tư tưởng nhân loại

+ Nguyên tử vận động theo luật nhân quả, tất nhiên tuyệt đối; khi chúng tụ lại
thì sự vật(sự sống, linh hồn)được tạo thành khi chúng tách ra thì s ự vật biến
mất.
- Quan niệm về nhận thức: có 2 dạng nhận thức li ên hệ với nhau + Nhận thức mờ tối
dựa trên cảm tính, mang lại hiểu biết bề ngoài.
+ Nhận thức sáng suốt dựa trên lý tính, giúp nắm bắt bản chất thế giới.
+ Nhận thức sáng suốt phải dựa trên nhận thức mờ tối để đào sâu nó.
- Quan niệm về đạo đức-chính trị-xã hội:
+ Đạo đức duy lý: Hiểu biết l à cơ sở của hành vi đạo đức, sống có đạo đức là
sống đúng mực, ôn hòa, không hại mình, không hại người; hạnh phúc là trạng
thái mà trong đó con người sống hưởng lạc với tâm hồn thanh thản.
+ Nhu cầu vật chất của con người là động lực phát triển xã hội.
+ Chế độ tốt là chế độ dân chủ chủ nô, gắn với nền thương mại và sản xuất thủ
công, với tình thân ái, ôn hòa và lợi ích chung của công dân tự do.
+ Nhà nước cộng hòa là nền tảng của dân chủ chủ nô, tự điều h ành chuẩn mực
và pháp lý. Quản lý nhà nước là nghệ thuật mang tính hạnh phúc, vinh quang tự
do v à dân chủ cho con người. Nô lệ phải tuân theo lệnh của ông chủ.
=> Là đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật, t ư tưởng của Đêmôcrit sau này xung đột mạnh
với CNDT của Platông.

2.3 Chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy-La cổ đại
2.3.1 Trường phái của Pythago
Con số là bản chất của vạn vật: Trật tự thần thánh của những con số quy định trật tự
của vạn vật, trật tự của những điều thiện - ác. Điều ác xảy ra khi con người không thực
hiện đúng trật tự thần thánh. Linh hồn bất tử là tồn tại độc lập với thể xác, chịu sự chi
phối bởi luật nhân hồi. Mục đích của cuộc sống là giải thoát linh hồn ra khỏi thể xác.
Nhận thức là chức năng của linh hồn, bằng chi êm nghiệm tâm linh, qua sự mách bảo
của thần linh mà chân lý xuất hiện.


Tiểu luận: Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy –
La cổ đại và ý nghĩa của nó trong lịch sử tư tưởng nhân loại

=> Trường phái Pytago đặt nền móng cho trào lưu duy tâm thời cổ Hy lạp.
2.3.2 Trường phái Êlê
- Pácmênit: Tồn tại là bản chất chung của vạn vật. Không có gì được sinh ra từ hư vô
(không tồn tại); không có gì mất đi mà không để lại dấu vết-tồn tại. Trong thế giới vạn
vật biến đổi nhưng bản thân tồn tại luôn bất biến, đồng nhất với chính nó. Bản chất của
tồn tại là bất biến, vĩnh hằng và đơn nhất. Tồn tại (chân lý) chỉ được nhận thức bằng lý
tính, cảm tính chỉ mang lại ảo giả.
- Dênông: Xây dựng các apôri để đào sâu tư duy lý luận và chứng minh tồn tại là đồng
nhất, duy nhất và bất biến; còn tính phức tạp đa dạng và vận động của vạn vật là ảo.
2.3.3 Chủ nghĩa nhị nguyên của Arixtôt
- Thuyết nguyên nhân- cơ sở siêu hình học:
+ Tồn tại xuất phát từ 4 nguyên nhân: vật chất-hình thức-vận động và mục đích,
trong đó hình thức và vật chất là cơ bản nhất. Mọi vật tồn tại đều có nguy ên
nhân.
+ Tồn tại cả vật chất ban đầu phi hình thức lẫn hình thức ban đầu phi vật chất.
+ Hình thức quan trọng hơn vật chất.
+ Vật chất chỉ là bản thể thụ động.

+ Hình thức là lý tính thuần túy, thượng đế, động cơ đầu tiên. Nguyên nhân tận
cùng, mục đích tối thượng, là bản chất tích cực của tồn tại, l àm cho sự vật vận
động theo mục đích sắp đặt trước.
2.3.4. Trường phái duy tâm khách quan


Thuyết ý niệm và linh hồn:

Thế giới ý niệm (lý tính) tồn tại trên trời mang tính phổ biến, chân thực tuyệt đối, bất
biến, vĩnh hằng và duy nhất. Thế giới sự vật (cảm tính) tồn tại dưới đất mang tính cá
biệt, ảo giả, tương đối, khả biến thoáng qua và đa tạp. Ý niệm là cái có trước, là
nguyên nhân, bản chất, khuôn mẫu của sự vật. Sự vật là cái có sau, là cái bóng được
mô phỏng, sao chép lại từ ý niệm, xuất hiện từ ý niệm và sao chép từ ý niệm, xuất hiện
từ ý niệm và có quan hệ ràng buộc với ý niệm. Sự ra đời của thế giới vật chất gắn liền
với 4 yếu tố cơ bản: Tồn tại (ý niệm), không tồn tại (vật chất), con số (tỷ lệ), sự vật


Tiểu luận: Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy –
La cổ đại và ý nghĩa của nó trong lịch sử tư tưởng nhân loại

cảm tính. Con người là sự kết hợp của thể xác khả tử (đất, n ước, lửa, không khí là nơi
trú ngụ tạm thời của linh hồn) với linh hồn bất tử. Linh hồn con người là sản phẩm của
linh hồn vũ trụ được thượng đế tạo ra từ lâu, chúng ngự trị trên các vì sao, sau đó dùng
cánh bay xuống ngự trị vào thể xác con người. Khi đó nó quên hết mọi quá khứ. Linh
hồn con ng ười gồm 3 bộ phận: cảm giác, ý chí và lý trí bất tử.


Quan niệm về nhận thức:

Nhận thức là sự hồi tưởng (trực giác, thần bí) của linh hồn bất tử về những gì nó nó

chiêm ngưỡng trong thế giới ý niệm nh ưng bị lãng quên.


Quan niệm về đạo đức, chính trị, xã hội:

Sống hạnh phúc là sống có đạo đức, hướng thiện: Hành vi hướng thiện là dùng lý trí
khám phá ý niệm tuyệt đối khách quan trên trời. Linh hồn có 3 phần đưa đến xã hội có
3 loại người (triết gia, chiến binh, thợ thủ công, thương gia) làm các việc khác nhau.
Nhà nước đảm bảo sự phân công trên được thực hiện, tuy nhiên chế độ tư hữu tư nhân
đã làm cho nhà nước bị tha hóa. Chế độ xã hội tốt nhất là chế độ cộng hòa quý tộc. do
vị vua là nhà triết học tài ba nhất lãnh đạo.
Thể hiện lập trường chính trị của tầng lớp chủ nô bảo thủ chống lại nền dân chủ Athen
và hệ thống triết học duy vật của trường phái nguyên tử luận. Được xây dựng bởi
Socrate và Platông.


Socrate (469 – 399 BC)

Khác với nhiều nhà bác học khác là không nghiên cứu về giới tự nhiên, ông dành
phần lớn nghiên cứu về con gười, đạo đức. “Con người hãy nhận thức về chính mình”.
Bàn về con người dưới khía cạnh đạo đức. Platông (427 – 347 BC), xuất thân trong
một gia đình chủ nô quý tộc ở Athen. Ông trở thành kiệt xuất nhất thời cổ đại Hy Lạp
bởi quan niệm triết học duy tâm khách quan. Ông xây dựng chủ nghĩa duy tâm khách
quan với nội dung chính là “thuyết ý niệm”, với giá trị bên trong là phép biện
chứng của khái niệm và nhiều tư tưởng sâu sắc khác về đạo đức, chính trị, xã hội.


Triết học Platông:

Platông là nhà triết học duy tâm khách quan. Điểm nổi bật trong hệ thống triết học duy

tâm của Platông là học thuyết về ý niệm. Trong học thuyết này, Platông đưa ra quan
niệm về hai thế giới: thế giới các sự vật cảm biết v à thế giới ý niệm. Theo ông, thế


Tiểu luận: Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hy –
La cổ đại và ý nghĩa của nó trong lịch sử tư tưởng nhân loại

giới các sự vật cảm biết là không chân thực, không đúng đắn, vì các sự vật không
ngừng sinh ra và mất đi, luôn luôn thay đổi, vận động, trong chúng không có cái g ì ổn
định, bền vững, hoàn thiện. Còn thế giới ý niệm là thế giới của những cái phi cảm tính,
phi vật thể, là thế giới của đúng đắn, chân thực v à các sự vật cảm biết chỉ là cái bóng
của ý niệm. Nhận thức của con người, theo Platông không phải là phản ánh các sự vật
cảm biết của thế giới khách quan, mà là nhận thức về ý niệm. Thế giới ý niệm có trước
thế giới các vật cảm biết, sinh ra thế giới cảm biết Lý luận nhận thức của Platông cũng
có tính chất duy tâm. Theo ông tri thức, là cái có trước các sự vật cảm biết mà không
phải là sự khái quát kinh nghiệm trong quá tr ình nhận thức các sự vật đó. Do vậy nhận
thức con người không phải là phản ánh các sự vật của thế giới khách quan, mà chỉ là
quá trình nhớ lại, hồi tưởng lại của linh hồn những cái đã lãng quên trong quá khứ.
Trên cơ sở đó, Platông phân hai loại tri thức: tri thức ho àn toàn đúng đắn, tin cậy và
tri thức mờ nhạt. Loại thứ nhất l à tri thức ý niệm, tri thức của linh hồn tr ước khi nhập
vào thể xác và có được nhờ hồi tưởng.
Loại thứ hai lẫn lộn đúng sai, l à tri thức nhận được nhờ vào nhận thức cảm tính, ở đó
không có chân lý. Những quan niệm về xã hội của Platông thể hiện tập trung trong
quan niệm về nh à nước lý tưởng Ông đã phê phán ba hình thức nhà nước trong lịch sử
và xem đó là những hình thức xấu. Một là, nhà nước của bọn vua chúa xây dựng tr ên
sự khát vọng giàu có, ham danh vọng đưa tới sự cướp đoạt. Hai là, nhà nước quân
phiệt là nhà nước của số ít kẻ giàu có áp bức số đông, nhà nước đối lập giữa giàu và
nghèo đưa tới các tội ác. Ba là, nhà nước dân chủ là nhà nước tồi tệ, quyền lực thuộc
về số đông, sự đối lập giàu - nghèo trong nhà nước này hết sức gay gắt. Còn trong nhà
nước lý tưởng sự tồn tại và phát triển của nhà nước lý tưởng dựa trên sự phát triển của

sản xuất vật chất, sự phân công hài hoà các ngành nghề và giải quyết mâu thuẫn giữa
các nhu cầu xã hội.
2.4 Cuộc đấu tranh giữa giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết
học Hy-La cổ đại
2.4.1 Qúa trình phát triển của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và duy tâm
Lịch sử triết học Hy Lạp – La Mã cổ đại có thể chia làm ba thời kỳ. Xuyên suốt ba thời
kỳ ấy là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm mà đỉnh cao là


×