Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

phân tích cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm thời kỳ phục hưng cận đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.8 KB, 16 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
ĐẶT VẤN ĐỀ
Loài người với hàng nghìn năm phát triển của mình đã là nhân chứng, tác
nhân cho sự đổi thay hàng ngày hàng giờ của chính thế giới mình tồn tại. Cuộc
đấu tranh giữa con người với thiên nhiên, giữa con người với con người đã và
đang là động lực thúc đẩy thế giới ngày càng phát triển.Triết học với vai trò một
hình thái ý thức xã hội là học thuyết về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại
và nhận thức về thái độ của con người với thế giới, là khoa học về những quy
luật chung nhất của tự nhiên xã hội và tư duy cũng không nằm ngoài cuộc đấu
tranh gay gắt ấy. Nếu sự phát triển của thế giới được thể hiện bằng cuộc đấu
tranh giữa các giai cấp, hình thái xã hội; bằng sự phủ định lẫn nhau của các chế
độ xã hội thì lịch sử phát triển của triết học lại được đánh dấu bằng cuộc đấu
tranh giữa chủ nghĩa Duy vật và chủ nghĩa Duy tâm.
Cuộc đấu tranh giữa hai trường phái triết học này là sợi chỉ đỏ xuyên suốt
quá trình phát triển của triết học. Nó phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp trong xã
hội đã phân chia thành các giai cấp đối kháng. Thường thường chủ nghĩa duy vật
thể hiện thế giới quan của những lực lượng tiến tiến, tiến bộ của xã hội , còn chủ
nghĩa duy tâm (tuy không phải bao giờ cũng vậy) là thế giới quan của những lực
lượng suy tàn, phản động và bảo thủ trong xã hội. Chủ nghĩa duy vật khẳng định
tính thứ nhất có trước của vật chất và tính thứ hai có sau của ý thức, con người
có khả năng nhận thức được thế giới. Ngược lại chủ nghĩa duy tâm khẳng định
tính thứ nhất có trước của ý thức, phủ nhận khả năng nhận thức của con người
đối với thế giới. Dù sao bất kỳ hệ thống triết học nào cũng đều phải xuất phát từ
các vấn đề cơ bản của triết học, từ đó xây dựng toàn bộ hệ thống trên cơ sở giải
quyết các vấn đề đó. Cũng như sự phong phú của thế giới cuộc đấu tranh trong
triết học diễn ra với nhiều hình thức, mức độ khác nhau, cuộc đấu tranh này vừa
là cuộc đấu tranh giữa tư tưởng, thế giới quan đồng thời cũng là cuộc đấu tranh
của một bộ môn khoa học. Trên con đường đến với chân lý ấy những nhà triết
học, những trường phái triết học không những đấu tranh với nhau mà gay gắt
hơn còn phải đấu tranh với chính mình. Trong tiểu luận này chúng ta sẽ làm sáng
tỏ cuộc đấu tranh của hai khuynh hướng triết học Duy vật và Duy tâm trong thời


kỳ phục hưng cận đại.
Ngô Thị Thanh Nga - CH15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Vài nét về xã hội và lịch sử Tây Âu thời phục hưng cận đại:
Thời kì Phục hưng của các nước Tây Âu là giai đoạn lịch sử quá độ từ xã
hội phong kiến sang xã hội tư bản (thế kỷ XV - XVI). Tính chất quá độ đó biểu
hiện trên tất cả các mặt của đời sống kinh tế, chính trị - xã hội, văn hoá tư tưởng
thời kì này. Đây là thời kỳ tan rã của chế độ phong kiến bắt đầu hình thành quan
hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Về kinh tế thời kỳ này có bước chuyển biến mạnh
mẽ từ nền kinh tế tự túc, tự cấp sang nền kinh tế sản xuất công trường thủ công.
Ở thời kỳ này có rất nhiều phát kiến địa lý cũng như nhiều sáng chế về kỹ thuật.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, địa lý đã tạo ra một môi trường thuận lợi,
góp phần thúc đẩy công thương nghiệp phát triển.
Về kinh tế: Bắt đầu từ thế kỉ XV, ở Tây Âu, chế độ phong kiến với nền
sản xuất nhỏ và các đạo luật hà khắc Trung cổ đã bước vào thời kì tan rã. Nhiều
công trường thủ công xuất hiện, ban đầu ở Italia, sau đó lan sang Anh, Pháp và
các nước khác, thay thế cho nền kinh tế tự nhiên kém phát triển.
Sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa thúc đẩy sự phát triển của khoa
học, kĩ thuật. Nhiều công cụ lao động được cải tiến và hoàn thiện. Với việc sáng
chế ra máy kéo sợi và máy in đã làm cho công nghiệp dệt, công nghệ ấn loát đặc
biệt phát triển, nhất là ở Anh. Sự khám phá và chế tạo hàng loạt đồng hồ cơ học
đã giúp cho con người có thể sản xuất có kế hoạch, tiết kiệm thời gian và tăng
năng suất lao động.
Những phát kiến về đường biển, tìm ra những miền đất mới, đặc biệt là
việc tìm ra châu Mỹ càng tạo điều kiện phát triển cho nền sản xuất theo hướng
tư bản chủ nghĩa. Thương mại, thị trường trao đổi hàng hoá giữa các nước được
mở rộng; giao lưu quốc tế được tăng cường, nhờ đó mà các nước phát triển sớm
như Anh, Pháp, Tây Ban Nha thi nhau xâm chiếm thuộc địa để mở rộng việc
khai thác thiên nhiên và thị trường tiêu thụ hàng hoá.

Về xã hội: Đồng thời với sự phát triển của sản xuất và thương nghiệp,
trong xã hội Tây Âu thời kì này, sự phân hoá giai cấp ngày càng rõ rệt. Tầng lớp
tư sản xuất hiện gồm các chủ xưởng công trường thủ công, xưởng thợ, thuyền
Ngô Thị Thanh Nga - CH15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
buôn Vai trò và vị trí của họ trong kinh tế và xã hội ngày càng lớn. Hàng loạt
nông dân từ nông thôn di cư ra thành thị, trở thành người làm thuê cho các công
trường, xưởng thợ. Họ tham gia vào lực lượng lao động xã hội mới, làm hình
thành giai cấp công nhân. Các tầng lớp xã hội trên đại diện cho một nền sản xuất
mới, cùng với nông dân đấu tranh chống chế độ phong kiến đang suy tàn.
Về văn hoá, tư tưởng: Cùng với sự phát triển về kinh tế và xã hội, khoa
học kĩ thuật và tư tưởng thời kì Phục hưng cũng đạt được sự phát triển mạnh mẽ.
Các nhà tư tưởng thời Phục hưng đã phê phán mạnh mẽ các giáo lý Trung cổ.
Mở đầu là nhà triết học người phía Nam nước Đức, Nicôlai Kuzan (1401-1464).
Tiếp đó là các nhà khoa học - triết học như Nicôlai Côpecnich (1475-1543)
người Ba Lan; Lêôna đơ Vanhxi (1452-1519) - nhà danh hoạ, nhà toán học, cơ
học, kĩ sư người Italia; Gioocđanô Brunô (1548-1600) người Italia; Galilêô
Galilê (1564-1642) người Italia. Trong số những thành tựu khoa học tự nhiên có
ảnh hưởng to lớn đến nhận thức duy vật về thế giới, nổi trội hơn cả là thuyết nhật
tâm của Nicôlai Côpecnich (1475-1543), nhà bác học vĩ đại người Ba Lan.
Nicôlai Côpecnich đã đứng trên lập trường của triết học duy vật để bác bỏ thuyết
địa tâm do Ptôlêmê (người Hy Lạp) đề xuất từ thế kỷ thứ II, một giả thuyết sai
lầm coi quả đất là trung tâm của hệ mặt trời và vũ trụ. Thuyết nhật tâm của
Nicôlai Côpecnich đã giáng một đòn nặng nề vào thế giới quan tôn giáo, thần
học. Giả thuyết của ông là một cuộc cách mạng trên trời, báo trước một cuộc
cách mạng trong lĩnh vực các quan hệ xã hội sắp xảy ra.
2. Về triết học :
Cuộc đấu tranh giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy Tâm thời lỳ
này diễn ra gay gắt. Ở thời kỳ này Chủ Nghĩa Duy Vật là thế giới quan của giai
cấp tư sản, giai cấp tiến bộ đang trong quá trình đấu tranh để hình thành phương

thức sản xuất của mình. Còn Chủ Nghĩa Duy Tâm là thế giới quan của tôn giáo,
giai cấp quý tộc, phong kiến, giai cấp lạc hậu và phản động đang ra sức kéo dài
cơn hấp hối của mình.
Trong thời đại Phục hưng, các nhà tư tưởng tư sản đã bênh vực triết học
duy vật, vận dụng nó để chống lại chủ nghĩa kinh viện và thần học Trung cổ.
Cuộc đấu tranh của chủ nghĩa duy vật chống chủ nghĩa duy tâm thường được
Ngô Thị Thanh Nga - CH15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
biểu hiện dưới hình thức đặc thù là khoa học chống tôn giáo, tri thức thực
nghiệm đối lập với những lập luận kinh viện. Cuối cùng, sự chuyên chính của
giáo hội và sự thống trị của chủ nghĩa kinh viện Trung cổ đã không ngăn được
sự phát triển bước đầu của khoa học thực nghiệm và triết học duy vật - tiền đề
cho những thành tựu mới và những đặc điểm mới của triết học trong các thế kỷ
tiếp theo.
Thời kì cận đại là thời kì phát triển rực rỡ của Tây Âu trên tất cả các mặt
của đời sống xã hội. Đó là sự phát triển tiếp tục của chủ nghĩa tư bản, của khoa
học và tư tưởng, trong đó có chủ nghĩa duy vật triết học, nhưng với những đặc
điểm mới.
Khác với thời kì Phục hưng, thời cận đại (thế kỷ XVII-XVIII) ở các nước
Tây Âu là thời kì giai cấp tư sản đã giành được thắng lợi về chính trị trước giai
cấp phong kiến. Ba cuộc cách mạng tư sản lớn đã nổ ra và thành công: Cách
mạng tư sản Hà Lan cuối thế kỷ XVI ; Cách mạng tư sản Anh (1642-1648);
Cách mạng tư sản Pháp (1789-1794). Đây cũng là thời kì phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa được xác lập và trở thành phương thức sản xuất thống trị Tây
Âu. Nó tạo đã tạo ra những vận hội mới cho khoa học, kĩ thuật phát triển mà
trước hết là khoa học tự nhiên, trong đó cơ học đã đạt tới trình độ là cơ sở cổ
điển. Đặc điểm của khoa học tự nhiên thời kì này là khoa học tự nhiên - thực
nghiệm. Đặc trưng ấy tất yếu dẫn đến thói quen nhìn nhận đối tượng nhận thức
trong sự trừu tượng tách rời, cô lập, không vận động, không phát triển, nếu có
nói đến vận động thì chủ yếu là vận động cơ giới, máy móc. Đó là nguyên nhân

chủ yếu làm cho triết học duy vật thời kỳ này mang nặng tính máy móc siêu
hình.
Chính những điều kiện kinh tế - chính trị và khoa học tự nhiên thời cận
đại đã quy định những đặc trưng về mặt triết học thời kì này:
Thứ nhất, đây là thời kì thắng lợi của chủ nghĩa duy vật đối với chủ nghĩa
duy tâm, của những tư tưởng vô thần đối với hữu thần luận.
Ngô Thị Thanh Nga - CH15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Thứ hai, chủ nghĩa duy vật thời kì này mang hình thức của chủ nghĩa duy
vật siêu hình, máy móc. Phương pháp siêu hình thống trị, phổ biến trong lĩnh
vực tư duy triết học và khoa học.
Thứ ba, đây là thời kì xuất hiện những quan điểm triết học tiến bộ về lĩnh
vực xã hội, nhưng nhìn chung vẫn chưa thoát khỏi quan điểm duy tâm trong việc
giải thích xã hội và lịch sử.
Thứ tư, trước sự phát triển mạnh mẽ của tư tưởng duy vật vô thần của thời
cận đại, chủ nghĩa duy tâm và thần học buộc phải có những cải cách nhất định.
Nhu cầu ấy được phản ánh đặc biệt trong triết học duy tâm chủ quan của nhà
triết học thần học người Anh G.Beccơli.
Những đặc điểm ấy thể hiện rõ nét trong quan niệm của một số triết gia,
điển hình như Bru nô,Galiê, Bê cơn, Hôp pơ, Đê các tơ, Xpi nô đa, Lốc cơ, Béc
cơ li, Hium
* Brunô(1548-1600):
Ông là một đại diện xuất sắc của chủ nghĩa duy vật vô thần: Engel đánh
giá ông là một người khổng lồ về hình thức, tinh thần và tính cách. Giáo hội coi
ông là tà đạo và ông đã từng bị trục xuất đi nhiều nước Châu Âu. Năm 1562 ông
quay về Ý và ông bị giáo hội kết án 6 năm tù và ngày 17 tháng 02 năm 1600,
ông bị toà án giáo hội thiêu sống ở “ Quảng trường hoa” La Mã.
Phạm trù trung tâm của triết học Brunô là cái duy nhất(UNO) được ông
lấy từ phái Platon mới và diễn giải dưới ngôn ngữ tự nhiên thần luận của mình.
UNO chính là thượng đế tồn tại dưới dạng tự nhiên. Nó là một thế giới độc lập

không được tạo ra và cũng không bị tiêu diệt. Nó tồn tại vĩnh viễn. Ông đồng
nhất thượng đế với tự nhiên nhưng ông chỉ thừa nhận thượng đế trên danh nghĩa
và điều đó được thể hiện rõ khi ông quan niệm cái duy nhất là giới tự nhiên
thượng đế chứ không phải người. Theo ông mọi sinh vật chỉ là một dạng biểu
hiện của cái duy nhất. Các sự vật biến đổi không ngừng, tức là có sinh ra tồn tại
và mất đi nhưng cái duy nhất lại là bất biến.
Ngô Thị Thanh Nga - CH15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trong triết học của Brunô có chứa nhiều yếu tố biện chứng của thời cổ
đại. Ông cho rằng UNO là sự thống nhất giữa các mặt đối lập như cực đại, cực
tiểu cái tối thiểu và cái tối đa, tính thống nhất và tính nhiều vẻ, khả năng và hiện
thực, cái yêu đi liền với cái ghét, thuốc chữa bệnh đồng thời là cái giết người.
Cái duy nhất là tất cả đồng thời cũng không là gì cả, nó tồn tại trong mọi cái
đồng thời cũng không ở đâu cả.
Tư tưởng biện chứng của Brunô đã vượt xa các nhà triết học Hy Lạp cổ
đại. Vì ông đã dựa trên thành tựu của toán học và cơ học của thời đại mình. Theo
ông trong cái duy nhất vật chất và hình dạng không có “ vật chất đầu tiên” hay
“hình dạng thuần túy” như quan niệm của Arit xtốt được ông cho rằng vật chất
phải là cái tích cực, cái cổ nhất là thực tế của mọi vật còn hình dạng phải là hình
dạng của vật chất.
Ông khẳng định tính thống nhất của thế giới và tính vô cùng, vô tận của
nó. Ông quan niệm rằng mọi sinh vật đều nằm trong vũ trụ và vũ trụ nằm trong
tất thảy mọi vật. Chúng ta ở trong vũ trụ và vũ trụ nằm trong chúng ta hay ông
còn khẳng định vũ trụ là một thể bao gồm vô vàn các hành trình trong đó trái đất
hay mặt trời thì cũng chỉ là một trong những hành tinh ấy vì vậy không có hành
tinh nào là trung tâm của vũ trụ theo nghĩa tuyệt đối của nó cả.
Nên theo ông ngoài trái đất sự sống và con người rất có thể có những
hành tinh khác nữa. Đây là một quan điểm rất tiến bộ và mang tính khoa học của
Brunô, thể hiện quan điểm của Chủ Nghĩa Duy Vật chống lại quan điểm của
giáo hội, nhà thờ cho rằng trái đất là trung tâm của vũ trụ và thượng đế sinh ra

trái đất.
Brunô còn xây dựng học thuyết đơn tử. Theo học thuyết này, tất cả nói
chung cả vũ trụ đều được cấu tạo từ các đơn tử.
Về nhận thức luận: Brunô cho rằng đối tượng của nhận thức là giới tự
nhiên và ông đánh giá thấp vai trò của nhận thức cảm tính. Theo ông hạn chế lớn
nhất của cảm tính là không thấy được cái vô cùng hay, vô cùng không phải là đối
tượng của cảm giác, ông đề cao vai trò của trí tuệ con ngườivà chỉ thừa nhận một
Ngô Thị Thanh Nga - CH15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
chân lý do triết học và khoa học đem lại. Theo ông con đường nhận thức phải từ
cảm giác đến lý trí và cuối cùng là trí tuệ.
Qua những quan điểm của Brunô ta thấy rằng ông là một đại diện tiêu
biểu của Chủ Nghĩa Duy Vật thời kỳ này chống lại Chủ Nghĩa Duy Tâm. Ông đã
không ngừng tuyên truyền các tư tưởng khoa học và Chủ Nghĩa Duy Vật triết
học và do hoảng sợ toà án giáo hội đã thiêu sống ông. Đây là bằng chứng cho
thấy cuộc đấu tranh gay gắt giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy Tâm
thời kỳ này.
* Phranxis Bêcơn (1561-1621)
Ông là người dáng lập ra triết học Duy Vật Anh Bêcơn thừa nhận sự tồn tại
khách quan của vật chất. Bêcơn là người phê phán gay gắt chủ nghĩa kinh viện,
coi chủ nghĩa kinh viện chỉ là vô ích, chỉ là những lập luận trừu tượng không có
nội dung, khoa học mới sẽ đem lại sức mạnh cho con người trong việc chinh
phục thế giới tự nhiên. Để đạt được điều đó nhận thức khoa học phải dựa trên
các sự kiện và từ đó khái quát thành những lý luận, phương pháp quy nạp dựa
trên các quan sát, phân tích, so sánh thực nghiệm là phương pháp chủ yếu để
nhận thức chân lý. Song để có được phương pháp trước hết phải loại bỏ những
“nhầm lẫn” cản trở côn đường nhận thức như “ nhầm lẫn của chúng tôi”, nhầm
lẫn của hang động.
Bêcơn là người đã đưa ra được các quan điểm duy vật. Ông quan niệm
rằng vật chất là tổng hợp của các hạt và cho rằng giới tự nhiên là tổng hợp của

các vật thể đa dạng về chất, cũng đa dạng và là thuộc tính không tách rời của vật
chất. Những tư tưởng Duy Vật của Bêcơn có ý nghĩa chống lại Chủ Nghĩa Duy
Tâm và tôn giáo. CácMác viết: “ ở Bêcơn con người đầu tiên sáng tạo ra Chủ
Nghĩa Duy Vật còn che dấu dưới những hình thức ngây thơ, những mầm mống
của sự phát triển mọi mặt. Vật chất mỉm cười với toàn bộ con người trong vẻ
lộng lẫy của cái cảm tính nên thơ của nó”.
Song Chủ Nghĩa Duy Vật của Bêcơn là siêu hình và không triệt để. Ông là
người quá nhấn mạnh đến phương pháp quy nạp, đề cao phân tích. Tuy chống lại
Ngô Thị Thanh Nga - CH15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
chủ nghĩa kinh viện nhưng ông lại thừa nhận tồn tại của thượng đế, thừa nhận lý
luận về chân lý hai mặt.
Ông không giám công khai xung đột với tôn giáo. Đó chính là sự thể hiện
tính không triệt để của Chủ Nghĩa Duy Vật của ông. Mặc dù triết học Duy Vật
Bêcơn cũng giáng một đòn rất mạnh vào uy tín của giáo hội và tôn giáo, thể hiện
sự đấu tranh mạnh mẽ của Duy Vật với Duy Tâm.
* Tômát Hôpxơ (1588-1679)
Hốpxơ là người tiếp tục phát triển tư tưởng Duy Vật trong triết học của
Bêcơn. Ông là nhà triết học nổi tiếng, là đại biểu xuất sắc của Chủ Nghĩa Duy
Vật Anh thế kỷ XVII. Hốp xơ là người đã hệ thống hoá Chủ Nghĩa Duy Vật của
Bêcơn và ông đã tiếp tục cuộc đấu tranh của Bêcơn cho thế giới quan khoa học
và Duy Vật. Hốp xơ đã tiến hành cuộc đấu tranh rất gay gắt chống lại Chủ Nghĩa
Duy Tâm và thần học. Ông cho rằng không có gì khác ngoài sợ hãi và ngu dốt
sinh ra tôn giáo. Ông chia triết học ra thành “ Triết học tự nhiên” và “Triết học
thông thường” ở mức độ nào đó ông đã đồng nhất đối tượng của triết học với đối
tượng của khoa học cụ thể. Tuy nhiên cách đặt vấn đề của Hốpxơ về đối tượng
và nhiệm vụ của triết học lại theo hướng tiến bộ nhằm chống lại Chủ Nghĩa Duy
Tâm. Hốpxơ kiên quyết chống lại chủ nghĩa kinh viện và tôn giáo. Ông bác bỏ
“chân lý hai mặt” của Bêcơn, ông phê phán học thuyết đấu tranh của Đềcáctơ về
“ý niệm bẩm sinh” và phát triển cảm giác luận Duy Vật trong lý luận nhận thức.

Ông cho rằng cảm giác kinh viện là ngu ngốc, của mọi tri thức song ông cũng
không coi nhẹ vai trò của lý tính. Hốpxơ đã phát triển tư tưởng đúng đắn cho
rằng cơ sở của nhận thức là tri giác, cảm tính nhưng do hạn chế về mặt lịch sử,
Hốp xơ vẫn chưa hiểu được mối quan hệ biện chứng giữa cảm tính và lý tính.
Khi nêu ra quan điểm về con người và Nhà nước Hốpxơ cho rằng con
người là một thể thống nhất giữa tính tự nhiên và tính xã hội. Tính tự nhiên làm
cho con người đều giống nhau về thể xác và tinh thần. Khi con người còn nằm
trong trạng thái tự nhiên thì tính ích kỷ hung ác chiếm vị trí thống trị. Để khắc
phục trạng thái tự nhiên, con người đi tới thoả thuận, ký kết khế ước xã hội và
Ngô Thị Thanh Nga - CH15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
“trạng thái tự nhiên” chuyển sang “trạng thái xã hội”. Như vậy, Nhà nước là do
nhân dân lập ra chứ không hề có nguồn gốc thần thánh.
Hốpxơ là một nhà triết học vô thần mọi lĩnh vực siêu nhiên đều bị loại ra
khỏi triết học của ông. Nhưng ông không triệt để. Ông quan niệm con người và
Nhà nước đều cần tôn giáo. Con người cần tôn giáo vì con người cần có lòng tin,
mà tôn giáo thì đưa lại niềm tin. Còn Nhà nước tôn giáo làm cái “đầy trói buộc
xã hội ”.
Tóm lại Hốpxơ là một nhà triết học Duy Vật. Ông đã nêu ra các quan
điểm duy vật đấu tranh chống lại Chủ Nghĩa Duy Tâm. Qua triết học của ông
chúng ta thấy rõ hơn cuộc đấu tranh gay gắt giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ
Nghĩa Duy Tâm thế kỷ XVII.
* Rơnê Đêcáctơ (1596-1654)
Nếu như Bêcơn và Hốpxơ chỉ ra phương pháp cơ bản của khoa học là
phương pháp thực nghiệm, kinh nghiệm về thế giới tự nhiên thì ngược lại
Đêcáctơ lại đề cao vai trò của lý tính.
Triết học của Đêcáctơ là triết học nhị nguyên luận điển hình vì ông cho
rằng có hai thực thể đầu tiên tồn tại độc lập với nhau. Thực thể vật chất có quảng
tính hình thành nên thế giới vật chất còn thực thể tinh thần có tư duy tạo nên thế
giới tinh thần. Như vậy học thuyết vật chất và tinh thần của Đêcáctơ cho thấy

triết học của ông lẫn lộn giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy Tâm.
Chủ Nghĩa Duy Vật của ông thể hiện qua học thuyết tự nhiên. Ông coi vật
chất là một thực thể duy nhất là cơ sở duy nhất của tồn tại và nhận thức. Cũng
như Bêcơn, Đêcáctơ đề cao vai trò của tri thức trong việc thống trị giới tự nhiên
trong sự hoàn thiện bản thân con người. Để đạt được điều đó theo ông cần phải
nghi ngờ tất cả mọi thứ. Ông nói: “Tôi tư duy vậy tôi tồn tại” và ông cho đó là
nguyên lý bất di bất dịch. Ý nghĩa của nguyên lý trên là ở chỗ nó rất tiến bộ, nó
đề cao vai trò của lý trí. Nó phủ nhận tất cả những gì mà ta mê tín. Nhưng
nguyên lý ấy lại biểu hiện tính chất duy tâm. Vì ông đã không nhận thấy rằng
Ngô Thị Thanh Nga - CH15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
không thể tìm thấy tiền đề xuất phát của nhận thứ ngay trong nhận thức mà phải
tìm từ bản thân thực tiễn xã hội.
Đêcáctơ là người sáng lập ra chủ nghĩa duy lý. Chủ nghĩa duy lý của ông
ở một mức độ khá lớn có quan hệ với Chủ Nghĩa Duy Tâm bởi vì theo ông lý trí
của con người có “những tư tưởng bẩm sinh” độc lập với kinh nghiệm.
Tuy nhiên qua học thuyết tự nhiên của ông cũng bộc lộ những tư tưởng
duy tâm: ông chưa nhận thấy được sự khác nhau về chất giữa thế giới sinh vật,
coi cơ thể sống chỉ là một cỗ máy phức tạp. Ông cho rằng sự khác biệt giữa con
người và động vật là ở chỗ. Con người không chỉ là một cơ thể vật chất mà còn
là một thực thể có lý trí. Nhưng lí trí theo ông không phụ thuộc vào quá trình vật
chất.
Nói tóm lại triết học của Đêcáctơ là triết học mang tính chất nhị nguyên
luận. Mặc dù mang tính chất nhị nguyên nhưng công lao vĩ đại của Đêcáctơ là đã
đặt ra hàng loạt vấn đề lý luận đối với sự phát triển của triết học và khoa học sau
này. Và một trong những nhà tư tưởng lớn chịu ảnh hưởng của ông là Bê kê nít
Xpi-nô-za.
* Bê-kê-nít Xpi-nô-za (1632-1677):
Ông là một nhà triết học duy vật xuất sắc người Hà Lan và là người chịu
ảnh hưởng rất nhiều bởi Đê các tơ nhưng ông là người chống lại tư tưởng nhị

nguyên luận của Đê các tơ và ông lại là người phát triển Chủ Nghĩa Duy Vật và
chủ nghĩa duy lý của triết học Đê các tơ .
Xpi-nô-za coi giới tự nhiên như một thực thể sáng tạo duy nhất bao gồm
những đặc tính cơ bản đó là:
- Nó đang tồn tại trọn vẹn và đầy đủ.
- Nó là thực thể tồn tại hoàn toàn độc lập.
- Thực thể này là vô cùng vô tận về không gian và vĩnh hằng về thời
gian.
Ông quan niệm thực thể là nguyên nhân của mọi cái đang tồn tại vì thực
thể đồng nghĩa với bản chất vô tận nên thuộc tính của nó cũng nhiều vô tận.
Ngô Thị Thanh Nga - CH15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Thực thể đồng nhất với tự nhiên không chỉ ở quảng tính mà còn ở tư duy. Nếu
như Đê các tơ quan niệm quảng tính và tư duy là những thuộc tính của hai thực
thể khác nhau.
- Thực thể vật chất và thực thể tinh thần.
Xpi-nô-za quan niệm hai thuộc tính này là cùng một thực thể thống nhất.
Như vậy học thuyết nhị nguyên luận của Đê các tơ đồng thời chống lại mọi quan
điểm cổ truyền của tôn giáo, cho rằng thượng đế là đấng sáng tạo ra tự nhiên và
con người. Tuy nhiên học thuyết thực thể của Xpi-nô-za cũng chưa thoát khỏi
tính siêu hình. Ông cho rằng thực thể là bất động, bất biến, vận động không phải
là một thuộc tính vốn có của thực thể mà là một dạng thức của vận động vô tận
tách rời thực thể, dùng để chuyển thực thể bất vận động thành thế giới của dạng
thức vận động. Xpi-nô-za là một nhà triết học Duy Vật vô thần trong hệ thống
triết học của ông, ông đã phê phán, nêu ra vai trò, bản chất và nguồn gốc của tôn
giáo. Tuy vậy, ông vẫn có những hạn chế vì ông chưa triệt để tức là vẫn thừa
nhận một mặt nào đó của mê tín.
Nhưng nói chung triết học của Xpi-nô-za là triết học Duy Vật vô thần, là
đại biểu xuất sắc của Chủ Nghĩa Duy Vật đấu tranh chống lại những quan điểm
sai trái của Chủ Nghĩa Duy Tâm.

* Giôn-lốc-cơ(1632-1704)
Ông là một đại biểu nổi tiếng của Chủ Nghĩa Duy Vật Anh. Giôn-lốc-cơ
tiếp tục kế thừa và phát triển chủ nghĩa kinh viện của phái Bêcơn. Giôn-lốc-cơ
đưa duy giác luận vào triết học. Bê-cơn là người đưa ra quan điểm mọi tri thức
đều bắt nguồn từ kinh nghiệm thì Lốc-cơ phát triển thêm, mọi kinh nghiệm đều
bắt nguồn từ cảm giác. Lôc-cơ hoàn toàn bác bỏ : “tư tưởng bảm sinh” mà tư
tưởng, khái niệm của con người trong quá trình con người tiếp xúc với giới tự
nhiên đó là căn cứ đầu tiên, có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ sự nhận thức.
Lốc-cơ là một trong những người sáng tạo ra tự nhiên thần luận vào thời
bấy giờ. Tự nhiên thần luận có rất nhiều mặt tiến bộ nhưng đồng thời nó cũng
mang tính chất thoả hiệp. Lốc-cơ bác bỏ những lý thuyết tín ngưỡng đương thời,
phê phán những giáo lý và tổ chức giáo hội. Đồng thời ông lại thừa nhận mọi thứ
Ngô Thị Thanh Nga - CH15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tôn giáo phi lý, “tự nhiên” gọi là tự nhiên thần luận. Theo ông thần linh là một
nguyên thể duy lý cao nhất sáng tạo ra thế giới và những quy luật gắn liền với
thế giới nhưng sau đó thần linh không can thiệp vào thế giới mà mình sáng tạo
ra.
Từ sự mâu thuẫn và thoả hiệp của Lôc-cơ đã tạo nên điểm xuất sắc khác
cho hai tư tưởng đối lập nhau ra đời. Các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII đã đánh
giá Lốc-cơ rất cao đã phát triển duy giác luận của ông làm cho nó thoát khỏi
những lớp duy tâm phủ bên ngoài. Còn các nhà duy tâm chủ quan Anh mà tiêu
biểu là Béc-cơ-li đã lợi dụng những hạn chế trong duy giác luận của Lốc-cơ và
đưa những yếu tố ấy đến chỗ hoàn toàn phi lý. Duy giác luận của Lốc-cơ chưa
thật là Duy Vật song những đóng góp của duy giác luận của ông khá lớn trong
cuộc đấu tranh của Chủ Nghĩa Duy Vật với Chủ Nghĩa Duy Tâm.

* Giooc Beccơli (1685-1753)
Ông là người đã lợi dụng sự dao động của Giôn Lốc-cơ để bảo về Chủ
Nghĩa Duy Tâm và tôn giáo chống lại Chủ Nghĩa Duy Vật. Ông là đại biểu nổi

bật của Chủ Nghĩa Duy Tâm chủ quan Anh.
Nhằm mục đích bảo vệ Chủ Nghĩa Duy Tâm, tôn giáo, tuyên truyền cho
Chủ Nghĩa Duy Tâm thần bí. Trước tiên Béc-cơ-li đã tấn công vào Chủ Nghĩa
Duy Vật. Theo ông “thực thể vật chất” là cơ sở của Chủ Nghĩa Duy Vật, nếu lật
đổ được tảng đá đó thì toàn bộ Chủ Nghĩa Duy Vật sẽ bị lật đổ.
Dựa vào quan điểm duy danh Béc-cơ-li đã phê phán khái niệm vật chất.
Ông cố biện bạch rằng chỉ có cái riêng lẻ, cái đơn nhất là tồn tại còn tất vả những
gì phổ biến trước hết là thực thể vật chất đều bị xem là trừu tượng, trống rỗng.
Sau khi phê phán gay gắt khái niệm “vật chất” của Chủ Nghĩa Duy Vật ông đã
đưa ra học thuyết duy tâm chủ quan để thay thế học thuyết của Chủ Nghĩa Duy
Vật, phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế giới. Ông cho rằng sự vật là tổng
hợp của các cảm giác; cảm giác không phải là sự phản ánh sự vật mà là sự vật
thực tế; xoá bỏ cảm giác đi thì sự vật biến mất. Như vậy sự vật không sinh ra
cảm giác mà là cảm giác sinh ra sự vật. Sự vật là tập hợp những cảm giác, những
Ngô Thị Thanh Nga - CH15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
biểu tượng mà biểu tượng chỉ tồn tại khi được tri giác. Ông cho rằng “tồn tại tức
là được tri giác”.
Không những đưa ra quan điểm duy tâm chủ quan mà ông còn chuyển
sang lập trường duy tâm khách quan. Ông luôn tìm mọi cách để bảo vệ Chúa.
Ông cho rằng sự vật tồn tại ngay cả khi không được con người tri giác nhưng lại
được chúa tri giác. Chúa là “tinh thần vũ trụ thiêng liêng”, là tinh thần vĩnh viễn,
phổ biến khắp nơi. Nhận thức bao trùm tất cả mọi vật.
Từ chỗ phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất Béc-cơ-li đã
phủ nhận chân lý khách quan. Ông cho rằng: tìm không phải là tìm trong sự phù
hợp của ý thức với sự vật bên ngoài mà là sự so sánh các quan niệm trong ý thức
con người, là tính rõ ràng của các quan niệm, là sự phù hợp với ý Chúa.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng với quan điểm duy tâm triệt để Béc-
cơ-li đã ra sức chống lại Chủ Nghĩa Duy Vật. Ông được xem như một điển hình
cho cuộc đấu tranh của Chủ Nghĩa Duy Vật chống lại Chủ Nghĩa Duy Tâm. Ảnh

hưởng của ông rất lớn đối với các tư tưởng triết học sau đó, nhất là đối với Đa-
vít Hi-um
* Đa-vít Hi-um(1711-1776)
Ông là nhà triết học nổi tiếng người Anh là người đại diện cho Chủ Nghĩa
Duy Tâm chủ quan và hoài nghi luận.
Về thế giới quan của mình Hi-um phê phán quan điểm của Chủ Nghĩa
Duy Vật Về vật chất, ông quan niệm rằng: vật chất, thực thể.v.v không có cái
gì khác ngoài các ý niệm đơn giản liên hệ với nhau bằng sự tưởng tượng và được
gọi bằng cái tên thông qua đó chúng ta gọi tên tổng thể đó trong trí nhớ của mình
hay trí nhớ của những người khác.
Về nhận thức luận Hi-um cho rằng mọi tri thức đều đi từ kinh nghiệm
cảm tính mà ra. Song ông coi kinh nghiệm không phải là phản ánh khách quan
mà nó sinh ra từ “ấn tượng”, cảm giác của chủ thể. Nhận thức không phải là
nhận thức của thế giới bên ngoài mà là nhận thức quá trình tâm lý xảy ra trong
Ngô Thị Thanh Nga - CH15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
con người. “Ấn tượng”, “cảm giác”đó là nguồn gốc tuyệt đối của nhận thức. Ông
cho rằng “tất cả các ý niệm đều được mô phỏng lại từ các ấn tượng”.
Theo ông con người hoàn toàn không biết gì về thế giới khách quan mà
chỉ biết được cảm giác của mình mà thôi.
Ngay cả nguồn gốc của cảm giác là gì cũng không biết được và từ đó ông
kết luận: “nhận thức đó là quá trình nhận thức các hiện tượng tâm lý diễn ra
trong con người chứ không thể nhận thức được thế giới khách quan”.
Như vậy đứng trên lập trường duy tâm và bất khả tri luận Hi-um đã chống
lại Chủ Nghĩa Duy Vật bảo về Chủ Nghĩa Duy Tâm và đưa vấn đề này lên một
bước phát triển mới. Có thể nói rằng cuộc đấu tranh giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và
Chủ Nghĩa Duy Tâm luôn luôn tiếp diễn. Nó xảy ra ở mọi thời điểm trong lịch
sử và triết học khai sáng Pháp thế kỷ XVIII. Cuộc đấu tranh này cũng diễn ra hết
sức gay go và phức tạp. Các nhà triết học Duy Vật Pháp mà những đại biểu xuất
sắc là La Mettri (1709-1751), Hô Bách (1729-1789), Đi-đơ-rô (1713-1784),

Hen-ve-ti-uýt (1715-1771) đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của triết học
Duy Vật vô thần đấu tranh mạnh mẽ chống lại thần học, tôn giáo, duy tâm. Họ
đã đấu tranh kiên quyết chống lại tôn giáo, kêu gọi đẩy mạnh nghiên cứu khoa
học, giới tự nhiên. Họ cho rằng không nắm được các quy luật tự nhiên thì con
người không thể có hạnh phúc. Mục đích của khoa học và triết học là phải nhận
thức và chinh phục tự nhiên.
Tuy có nhiều tiến bộ vượt bậc về tư tưởng song trong việc giải quyết các
vấn đề cơ bản của triết học các nhà triết học Pháp thừa nhận vật chất, giới tự
nhiên là cái có trước, ý thức là cái có sau do vật chất sinh ra. Các nhà Duy Vật
Pháp cho rằng vật chất là vĩnh cửu, là vô tận, không thể biến đổi vật chất thành
hư vô, cũng không thể từ hư vô trở thành vật chất được. Vật chất không do ai
sáng tạo ra và cũng không ai tiêu diệt được. Không gian, thời gian là thuộc tính
cơ bản của vật chất . Vận động theo họ là biểu hiện hoạt tính của vật chất và gắn
liền với vật chất nhờ vận động mà tự nhiên biến từ trạng thái này sang trạng thái
khác.
Ngô Thị Thanh Nga - CH15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tuy có nhiều tiến bộ vượt bậc về tư tưởng song các nhà triết học Pháp thế
kỷ XVIII cũng chưa thoát ra khỏi quan điểm duy tâm trong việc giải quyết các
vấn đề xã hội. Họ cho rằng sự phát triển của xã hội và mối quan hệ xã hội giữa
con người đều phụ thuộc vào ý kiến đặc biệt là ý kiến của những người cầm đầu
Nhà nước, những người có uy tín thậm chí là của tôn giáo. Như vậy là cuộc đấu
tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm có điểm khác nhau so với các
thời kỳ trước đó trong lịch sử triết học. Nhưng cuộc đấu tranh này ở triết học
Pháp đã chứng tỏ rằng đây là vấn đề luôn luôn diễn ra ở mọi thời đại. Mặc dù
còn có nhiều thiếu sót, song Chủ Nghĩa Duy Vật Pháp đã có tác động tích cực
đến việc phát triển tri thức khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, có ảnh hưởng
đến cuộc đấu tranh chính trị xã hội thời kỳ bấy giờ. Nó đóng vai trò là cơ sở triết
học cho những tư tưởng của cách mạng tư sản Pháp.
Phải nói rằng cuộc đấu tranh giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy

Tâm thời kỳ phục hưng và cận đại ở Tây Âu là điển hình cho cuộc đấu tranh này
trong lịch sử triết học. Phải nói rừng trong thời kỳ này cuộc đấu tranh đó đã diễn
ra một cách gay gắt nhất, nhiều vấn đề có tính chất thời sự được đặt ra và giải
quyết. Cuộc đấu tranh này cũng chính là cơ sở, nền tảng tư tưởng của các cuộc
cách mạng tư sản bùng nổ mạnh mẽ ở Châu Âu
KẾT LUẬN
Ngô Thị Thanh Nga - CH15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Cuộc đấu tranh giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy Tâm đó
là một trong những vấn đề cơ bản nhất của triết học. Chủ nghĩa Duy Vật đại
biểu cho những tư tưởng tiêu biểu của bất kỳ mọi thời đại, còn Chủ Nghĩa
Duy Tâm luôn là đại diện cho những tư tưởng trì trệ cổ hủ và lạc hậu. Cuộc
đấu tranh này không chỉ diễn ra ở một thời đại lịch sử mà nó diễn ra mọi lúc,
mọi nơi và mọi thời đại. Cuộc đấu tranh này luôn luôn diễn ra và ngày càng
có nhiều hình thức biểu hiện mới. Suốt chiều dài của lịch sử triết học từ khi
ra đời cho đến nay qua nhiều thăng trầm biến đổi nhưng không ở giai đoạn
nào cuộc đấu tranh giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy Tâm không
có mặt. Và cho dù có nhiều thăng trầm biến đổi những điều đúng đắn, khoa
học phù hợp với quy luật khách quan của tự nhiên và xã hội sẽ chiến thắng.
Từ đó mang lại tự do, ấm no và hạnh phúc cho con người. Qua đây ta thấy
được rằng quả thật cuộc đấu tranh giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa
Duy Tâm là sợi chỉ đỏ xuyên suốt chiều dài lịch sử triết học.
PHÂN TÍCH CUỘC ĐẤU TRANH GIỮA CHỦ NGHĨA DUY VẬT
VÀ CHỦ NGHĨA DUY TÂM THỜI KỲ PHỤC HƯNG CẬN ĐẠI
Ngô Thị Thanh Nga - CH15

×