Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

SKKN một số giải pháp giúp học sinh bru – vân kiều học tốt môn sinh học 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (480.24 KB, 17 trang )

Một số giải pháp giúp học sinh Bru – Vân Kiều học tốt môn sinh học 6

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Để đưa đất nước ta thoát khỏi tình trạng lạc hậu kém phát triển, Đảng ta đã thực
hiện đường lối: “Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa”, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ
bản trở thành một nước công nghiệp. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 Hội
nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã chỉ rõ: Đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Đó chính là chìa khóa để đưa
giáo dục Việt Nam tiến kịp với nền giáo dục các nước tiên tiến trên toàn cầu.
Thật vậy, muốn phát triển kinh tế trước hết phải coi trọng giáo dục để đào tạo.
Chỉ có giáo dục mới tạo ra được các thế hệ con người mới vừa có kiến thức, vừa năng
động sáng tạo trong công việc, dám nghĩ, dám làm đáp ứng với yêu cầu xây dựng đất
nước trong thời đại mới. Muốn làm được điều đó, giáo dục phải không ngừng đổi mới
mà cốt lõi chính là đổi mới chương trình sách giáo khoa, đổi mới cách dạy và cách
học trong đó lấy học sinh làm trung tâm, học sinh là chủ thể của giáo dục, giáo viên
đóng vai trò là người hướng dẫn chủ thể hoạt động.
Tuy nhiên ở các vùng miền khác nhau thì trình độ dân trí cũng khác nhau và đối
tượng học sinh cũng có sự chênh lệch nhau về nhận thức và trình độ. Đối với học sinh
miền núi, tư duy, nhận thức cũng như kĩ năng sống của các em còn thấp hơn nhiều so
với học sinh miền xuôi. Làm thế nào để các em có thể chủ động chiếm lĩnh kiến thức
một cách chắc chắn và hiệu quả đó là cả một vấn đề. Là một giáo viên đang công tác
tại một đơn vị miền núi, đối tượng học sinh củ tôi là học sinh người Bru Vân Kiều, tư
duy nhận thức của các em còn nhiều hạn chế. Làm thế nào để học sinh sớm tiến bộ, để
có ý thức học tập cao hơn ? Làm thế nào để giúp các em cải thiện kĩ năng sống, kĩ
năng giao tiếp ? Nhưng câu hỏi đó làm tôi luôn trăn trở, suy nghĩ, tìm tòi và thử
nghiệm giải pháp trong quá trình dạy học.
Qua 3 năm trực tiếp giảng dạy môn Sinh học lớp 6 tại đơn vị, tôi hiểu rằng để học
sinh hiểu hết nội dung bài học, chủ động chiếm lĩnh kiến thức, phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo đặc biệt là đối với học sinh con em dân tộc (Bru – Vân Kiều) thì


đòi hỏi mỗi một giáo viên đứng lớp phải làm việc thật nghiêm túc, luôn tìm hiểu đặc
điểm của đối tượng mình tác động để có phương pháp dạy học phù hợp.
Khác với học sinh vùng xuôi, con đường tìm đến con chữ của học sinh miền núi,
vùng sâu, vùng xa còn gặp nhiều khó khăn vất vả. Học sinh dân tộc miền núi, vùng
Năm học 2015-2016


Một số giải pháp giúp học sinh Bru – Vân Kiều học tốt môn sinh học 6

sâu, vùng xa có bản tính nhút nhát, thật thà, nhưng lòng tự trọng, tự ái thì rất cao. Nếu
các em có gì không vừa ý thường tỏ thái độ ngay. Đặc điểm nhút nhát, thật thà cộng
với khả năng diễn đạt bằng tiếng phổ thông còn nhiều hạn chế, có những lúc làm cho
giáo viên “nóng mặt”. Nếu như giáo viên thiếu am hiểu tường tận và không có phương
pháp dạy học phù hợp thì rất khó thành công.
Thực tiễn có tác dụng thuyết phục rất lớn đối với các em. Các em sống rất thực
tế. Những điển hình gần gũi đều có tác dụng thuyết phục rất lớn. Kiến thức môn Sinh
học lớp 6 rất gần với đời sống thực tiễn. Vì vậy nếu trong quá trình giảng dạy giáo
viên không khéo léo thì học sinh không nắm vững và hiểu được bản chất của kiến
thức trọng tâm và đặc biệt sẽ không giải thích được một số hiện tượng sinh học trong
đời sống thường ngày.
Xuất phát từ thực tế khách quan và những lý do trên tôi mạnh dạn đưa ra “Một số
giải pháp giúp học sinh Bru – Vân Kiều học tốt môn sinh học 6”.
2. Điểm mới của đề tài :
Tuy đề tài có thể trước đây được nhiều người nghiên cứu nhưng điểm mới và
khác biệt ở đề tài này là : Đã đưa ra một số giải pháp giúp học sinh Bru-Vân Kiều học
tốt môn sinh học 6. Đối tượng trong đề tài tôi đề cập là đối tượng học sinh dân tộc, các
em học tập còn rất thụ động ; khả năng tự học, khả năng quan sát kênh hình tìm kiến
thức ; khả năng tư duy logic, tính sáng tạo ; khả năng diễn đạt bằng tiếng phổ thông
còn nhiều hạn chế.
3. Phạm vi của đề tài:

+ Phạm vi: Chỉ đề cập một số giải pháp giúp học sinh Bru- Vân Kiều nơi tôi đang
công tác học tốt môn sinh học 6.
+ Đối tượng : Giáo viên dạy bộ môn sinh học 6 và học sinh Bru- Vân Kiều lớp 6
tại đơn vị tôi công tác.

Năm học 2015-2016


Một số giải pháp giúp học sinh Bru – Vân Kiều học tốt môn sinh học 6

II. NỘI DUNG
1. Thực trạng
1.1. Thuận lợi
a. Về phía giáo viên:
- Bộ môn được phân công giảng dạy phù hợp với chuyên môn.
- Được tập huấn đầy đủ về phương pháp dạy học mới.
- Đã giảng dạy bộ môn sinh học 6 nhiều năm
- Đã tiếp cận với học sinh con em dân tộc Bru- Vân Kiều 7 năm.
- Ban giám hiệu nhà trường thường xuyên tạo điều kiện giúp đỡ về thời gian biểu
và về lớp dạy tương đối phù hợp.
- Giáo viên được đào tạo đạt chuẩn
- Giáo viên đã nắm được hệ thống các phương pháp dạy học, biết phối hợp một
cách nhuần nhuyễn các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học tạo nên nhiều tiết
học sinh động, hấp dẫn, lôi cuốn được học sinh tham gia khám phá, tìm tòi kiến thức.
- Được học hỏi nhiều đồng nghiệp trong trường có chuyên môn nghiệp vụ tốt.
- Luôn có ý thức học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
- Giáo viên, học sinh thường tập trung sống ở nội trú nhà trường ( Từ thứ 2-> thứ
6) nên dễ nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, nắm bắt được tình hình học tập và sở thích
của các em để từ đó đề ra các biện pháp nhằm giúp các em học tốt và hiệu quả.
- Học sinh luôn có niềm tin sâu sắc vào giáo viên. Các em thường dễ dàng nghe

theo những người mình đã tin cậy, đặc biệt là giáo viên. Khi các em đã tin giáo viên,
các em thường quyết tâm thực hiện cho được những công việc mà giáo viên giao,
nhiều khi các em còn bắt chước tác phong, cử chỉ, ngôn ngữ, điệu bộ ... của giáo viên.
Vì vậy đây chính là một điểm thuận lợi để giáo viên cố gắng trong giảng dạy để không
phụ sự tin yêu của các em đã dành cho thầy cô, từ đó phát huy tính tích cực học tập
của học sinh.
- Trong những năm gần đây được sự quan tâm của phụ huynh và địa phương,
phần nào đó đó tạo động lực cho giáo viên trong quá trình giảng dạy.
b. Về phía học sinh:
- Kiến thức sinh học 6 rất gần gũi với cuộc sống của các em.
Năm học 2015-2016


Một số giải pháp giúp học sinh Bru – Vân Kiều học tốt môn sinh học 6

- Các em chăm ngoan, biết nghe lời.
- Các kiến thức mới được hình thành gắn chặt với các tình huống thực tiễn.
1.2. Khó khăn:
a. Về phía giáo viên:
- Là trường vùng cao nên còn nhiều khó khăn, thiết bị dạy học số lượng cơ bản
đầy đủ nhưng chất lượng chưa cao.
- Đội ngũ giáo viên còn trẻ, thiếu ổn định.
- Hơn nữa do trình độ nhận thức của các em và phụ huynh còn nhiều hạn chế,
trước đây trong suy nghĩ của phụ huynh và các em là đi học cho thầy, cô chứ không
phải đi học cho bản thân nên các em còn chây lười, nghỉ học tùy tiện, giáo viên đến
vận động thì đi, không đến thì ở nhà, phụ huynh còn mang nặng tư tưởng khoán trắng
cho nhà trường. Xuất phát từ động cơ học tập trên nên gây không ít khó khăn cho giáo
viên.
- Học sinh dân tộc Bru – Vân Kiều là đối tượng rất thụ động, nhút nhát ít có hứng
thú học tập với bộ môn.

- Phương pháp dạy học mới hiện nay đòi hỏi giáo viên phải tạo điều kiện cho học
sinh tự tìm hiểu để tiếp cận với kiến thức mới tuy nhiên học sinh ở đây còn rất thụ
động, tính tình thì nhút nhát, ngại tiếp xúc, ít tìm hiểu.
b. Về phía học sinh:
- Học sinh lớp 6 mới được làm quen với phướng pháp mới ở trường THCS, mỗi
môn mỗi thầy, mỗi thầy mỗi phương pháp dạy học nên các em còn nhiều bỡ ngỡ.
- Đối tượng học sinh là người dân tộc. Các em học tập hầu như phụ thuộc hoàn
toàn vào thầy cô. Vì vậy thời gian trên lớp không đủ để giúp đối tượng học sinh dân
tộc thành thạo, do vậy giáo viên phải tăng cường thêm các tiết ôn tập phụ đạo cho các
em.
- Địa phương còn nhiều khó khăn, cuộc sống chủ yếu dựa vào làm rẫy và sự hỗ
trợ của nhà nước, điều kiện sinh hoạt của đa số đồng bào dân tộc Bru – Vân Kiều còn
ở mức thấp, do đó học sinh ngoài giờ học trên lớp còn phải phụ giúp gia đình làm kinh
tế, vì vậy thời lượng học ở nhà của các em còn hạn chế.
- Kết quả cuối năm học 2013-2014:
THỐNG KÊ ĐIỂM TRUNG BÌNH MÔN KHỐI 6 MÔN SINH
Năm học 2015-2016


Một số giải pháp giúp học sinh Bru – Vân Kiều học tốt môn sinh học 6

NĂM HỌC: 2013 – 2014
TT

1

Lớp

6


Tổng

Giỏi

HS
32

Khá

SL

%

SL

0

0

7

%
21,
8

TB
SL
21

Yếu


%
65,
6

SL
4

Kém

%
12,
5

TB trở
lên

SL

%

SL

%

0

0

28


87,5

- Từ thực tế học sinh như trên, tôi đã suy nghĩ làm thế nào để giúp các em tiến bộ
hơn trong học tập, đưa chất lượng bộ môn sớm tiệm cận với miền xuôi, tôi đã mạnh
dạn thử nghiệm và rút ra được các giải pháp như sau:
2. Giải pháp:
2.1. Trang bị sách giáo khoa và đồ dùng học tập cho học sinh đầy đủ.
Như chúng ta đã biết sách giáo khoa là một tài liệu không thể thiếu trong việc
học tập của học sinh. Đặc biệt là đối với học sinh con em dân tộc khi mà điều kiện
sống, cơ sở vật chất, công nghệ thông tin đối với các em còn thiếu thốn. Không có
sách giáo khoa thì các em không có tài liệu để tham khảo. Trong chương trình Sinh
học 6, học sinh được làm quen với thế giới sinh vật, trước hết là thực vật. Sách giáo
khoa sinh học 6 giúp các em tìm hiểu cấu tạo cơ thể một cây xanh từ cơ quan sinh
dưỡng (rễ, thân, lá) đến cơ quan sinh sản ( hoa, quả, hạt) cùng chức năng của chúng
phù hợp với điều kiện sống. Sách còn giúp các em hiểu được thực vật phong phú, đa
dạng như thế nào qua các nhóm cây khác nhau, chúng đã biến đổi phát triển ra sao từ
dạng đơn giản nhất đến phức tạp nhất. Ngoài ra, sách còn giúp các em biết được mối
quan hệ giữa thực vật với môi trường sống cũng như vai trò của chúng đối với đời
sống con người. Như vậy ta thấy rằng sách có một vai trò rất quan trọng trong việc
học tập của các em. Cách đây 7 năm khi mới lên công tác thì tôi nhận thấy tình trạng
học sinh thiếu sách giáo khoa và các tài liệu phục vụ học tập còn chiếm tỷ lệ cao với
các nguyên nhân khác nhau như: Gia đình khó khăn không có tiền mua sách, phụ
huynh không quan tâm khoán trắng cho nhà trường, ý thức giữ gìn sách vở trong học
sinh còn nhiều hạn chế, thư viện trường chưa được trang cấp đầy đủ để phục vụ cho
việc mượn của học sinh…..Tuy nhiên trong những năm gần đây nhờ sự vận động phụ
huynh mua sách giáo khoa, giáo viên xin sách cũ của học sinh vùng thuận lợi, nhà
trường kêu gọi các đoàn thiện nguyện hỗ trợ sách giáo khoa…giờ đây cơ bản học sinh
có đầy đủ sách và dụng cụ học tập do đó mà chất lượng học tập của học sinh nơi đây
ngày một nâng cao.


Năm học 2015-2016


Một số giải pháp giúp học sinh Bru – Vân Kiều học tốt môn sinh học 6

2.2. Nắm rõ đặc điểm tâm sinh lý học sinh Bru- Vân Kiều để có phương
pháp tác động cho phù hợp.
Ngày nay, với quan điểm dạy học hướng vào người học, thì việc phải hiểu đối
tượng mà người thầy đang tác động là điều vô cùng cần thiết. Qua nghiên cứu người
ta thấy rằng đây là lứa tuổi thích “nổi loạn”. Lứa tuổi này đang ở thời điểm dậy thì nên
thoắt vui, thoắt buồn, ương bướng. Do vậy, chúng ta nên dạy theo phương pháp “lạt
mềm buộc chặt”. Sự thay đổi về nội dung học: các em được tiếp xúc với nhiều môn
học khác nhau, nội dung trừu tượng, phong phú sâu sắc hơn, đòi hỏi có sự thay đổi về
phương pháp học. Sự thay đổi về phương pháp dạy học và hình thức học tập: ở mỗi
môn học có một giáo viên giảng dạy, các em được học với nhiều thầy cô. Mỗi thầy, cô
có cách trình bày, phương pháp dạy học khác nhau nên cách dạy và nhân cách của
người thầy sẽ tác động vào việc hình thành và phát triển trí tuệ, cách lập luận, nhân
cách của học sinh. Hay nói cách khác đây là lứa tuổi thay đổi mạnh mẽ về thể chất,
sức khỏe và tâm sinh lý. Với ý thức muốn làm người lớn, muốn khẳng định mình
trong gia đình lẫn ngoài xã hội. Vì vậy, chúng ta cần động viên, dìu dắt quan tâm giúp
đỡ các em. Đối với học sinh Bru- Vân Kiều, những hiểu biết về kiến thức xã hội còn ít
(hầu như không có), hầu như ở lứa tuổi này các em chưa hề đi ra khỏi bản làng, vốn
kiến thức còn nghèo nàn, các em còn nhút nhát, ngại nói, ngại tiếp xúc, tiếp thu bài vở
một cách thụ động, phụ thuộc hoàn toàn vào giáo viên nhưng “lòng tự ái, tự trọng của
các em thì rất cao”. Vậy chúng ta cần làm gì để các em có thể chủ động chiếm lĩnh
kiến thức. Đặc biệt là kiến thức sinh học 6, khi mà kiến thức nó gắn liền với hiện
tượng thực tiễn, nó gắn liền với đời sống các em, nó ở xung quanh các em nhưng các
em chưa lí giải được... Do vậy chúng ta cần nghiên cứu kĩ đặc điểm đối tượng để có
cách thức tác động một cách phù hợp giúp các em chủ động chiếm lĩnh kiến thức.

Ví dụ 1: Em A là một học sinh ngoan, học tốt của lớp, nhung dạo gần đây thấy
em hay lơ đãng trong việc học tập, đặc biệt trong tiết ôn tập hôm ấy em không viết
bài, tôi gọi lên bảng thì không thuộc, tôi hỏi lí do thì em không trả lời, do quá nóng
nảy tôi đã trách phạt em, thế là em lẳng lặng ra khỏi lớp, hai ba hôm sau em vẫn
không tới trường. Qua thông tin mấy bạn cùng lớp thì em bảo không đi học nữa. Cuối
cùng tôi đã tới nhà, trao đổi với phụ huynh. Qua tâm sự, tôi biết hoàn cảnh gia đình
em khó khăn, bố ốm nặng, không có tiền chữa bệnh, trong nhà còn có 3 em nhỏ đang
đi học. Có lẽ em không thể theo học được mà phải ở nhà giúp đỡ mẹ cáng đáng công
việc gia đình. Thông cảm với hoàn cảnh của em, tôi đã chia sẻ với gia đình và hứa sẽ
tham mưu với nhà trường, hội phụ huynh, hội khuyến học, đề nghị các đoàn thể địa
phương giúp đỡ gia đình em vượt qua khó khăn của hoàn cảnh hiện tại. Đồng thời tôi
Năm học 2015-2016


Một số giải pháp giúp học sinh Bru – Vân Kiều học tốt môn sinh học 6

cũng phân tích thái độ của em trong ngày hôm ấy là không được. Em đã khóc và xin
lỗi tôi. Tôi động viên em cố gắng vượt qua hoàn cảnh để tiếp tục học tập tốt. Với sự
giúp đỡ của mọi người, em đã cố gắng hơn trong học tập và đã tiến bộ vượt bậc và trở
thành tấm gương học sinh nghèo vượt khó tiêu biểu nhất của trường tôi.
Ví dụ 2: Trong tiết kiểm tra học kì I môn Lịch sử, em B sử dụng tài liệu, tôi đã
tịch thu tài liệu của em. Em B bảo: Cô thu tài liệu của em đến khi kiểm tra môn cô em
không làm. Lúc đó tôi vẫn bình tĩnh đáp: em cứ làm tốt bài thi này đi rồi tôi quay sang
hướng khác. Ngày mai, đến giờ kiểm tra môn sinh, sau khi chấm bài, ráp phách, quả
thật em để nguyên tờ giấy trắng. Sau khi thi học kỳ xong tôi gọi em lên văn phòng để
trao đổi. Tôi đã phân tích vấn đề về sự nguy hiểm của phao tài liệu đối với học sinh
trong thi cử và ý thức thái độ của em như vậy là không được. Sau khi nghe tôi phân
tích vấn đề em đã xin lỗi tôi và em hứa sẽ cố gắng học tốt trong học kỳ II này.
2.3. Hướng dẫn học sinh học bài trên lớp và chuẩn bị bài ở nhà một cách kĩ
càng và chu đáo hơn.

Để các em chủ động chiếm lĩnh tri thức một cách chủ động chúng ta cần hướng
dẫn các em học tập một cách kĩ càng. Việc hướng dẫn ở đây không có nghĩa là giáo
viên làm thay, làm thế các em mà giáo viên cần hướng dẫn một cách tường minh hơn
như: Đưa ra những câu hỏi gợi mở, hướng dẫn các em quan sát cái gì, tìm cái gì, rút ra
cái gì từ bức tranh hay mô hình. Có thể cùng một bài dạy, cùng một bức tranh nhưng
khi dạy học sinh vùng thuận lợi chúng ta chỉ cần hướng dẫn qua là các em đã tìm ra
kiến thức nhưng đối với học sinh dân tộc Bru- Vân Kiều có lẽ là rất khó.
Ví dụ: Khi tìm hiểu khái niệm hoa tự thụ phấn – sinh học 6.
Đối với học sinh vùng thuận lợi: Sau khi chiếu hình 30.1 Hoa tự thụ phấn

Năm học 2015-2016


Một số giải pháp giúp học sinh Bru – Vân Kiều học tốt môn sinh học 6

Gv: Qua quan sát hình ảnh, em hãy cho biết thế nào là hoa tự thụ phấn? Học sinh
có thể trả lời khái niệm một cách dễ dàng. Nhưng đối với học sinh dân tộc Bru-Vân
Kiều, nếu giáo viên chỉ dừng lại với cách hướng dẫn như vậy thì chắc chắn học sinh sẽ
không rút ra được kiến thức. Do vậy để học sinh rút ra được kiến thức, giáo viên cần
hướng dẫn kĩ hơn. Ví dụ đối với hình 30.1 hoa tự thụ phấn giáo viên có thể làm theo
kiểu hiệu ứng động.
Gv: Qua quan sát hình ảnh em hãy cho biết hiện tượng gì đang xảy ra?
HS: Hạt phấn tiếp xúc với đầu nhụy.
GV: Hạt phấn tiếp xúc với đầu ngụy của cùng một cây hay nhiều cây khác nhau.
Hs: Cùng một cây
GV: Hiện tượng chúng ta vừa thấy chính là hiện tượng hoa tự thụ phấn. Vậy
theo em: Thế nào là hoa tự thụ phấn?
Với cách hướng dẫn như vậy chắc chắn học sinh dân tộc sẽ nắm được kiến thức
một cách chắc chắn.
Song song với việc hướng dẫn kĩ học sinh học trên lớp chúng ta cũng cần hướng

dẫn kĩ cho các em chuẩn bị bài ở nhà. Khi hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài cho tiết
học sau, giáo viên phải có sự hướng dẫn các em một cách cụ thể, tránh trường hợp ra
một câu lệnh dưới dạng dặn dò: “Hôm sau chúng ta học bài ... các em về nhà đọc
trước bài”, thì sẽ không có tác dụng là bao, mà giáo viên phải dặn kĩ hơn như quan sát
hình số mấy, kết hợp đọc sách trả lời vào giấy nháp câu lệnh gì?...Đối với những bài
có thí nghiệm thì phải hướng dẫn các em cách làm, cách quan sát, ghi chép lại sự quan
sát của mình... Đối với những bài có liên quan đến mẫu vật thật thì hướng dẫn các em
cách tìm, cách thu thập, cách bảo quản mẫu vật. Đôi khi giáo viên cùng học sinh đi
chuẩn bị mẫu vật.
Học sinh người dân tộc ở đây có đặc điểm học khó nhớ nhưng nhanh quên, chỉ
học trên lớp mà không có thói quen học ở nhà. Phụ huynh thì lơ là, ít quan tâm. Trên
lớp chỉ 45 phút không thể truyền tải một cách trọn vẹn đầy đủ về kiến thức trọng tâm
lẫn kiến thức vận dụng, liên hệ thực tế. Do vậy chỉ học trên lớp thôi chưa đủ mà cần
phải có ý thức học ở nhà. Để làm được điều đó đòi hỏi mỗi một giáo viên phải thường
xuyên nhắc nhở các em, quan tâm, động viên các em, giáo viên cùng học với các em
(Buổi tối giáo viên có thể tranh thủ thời gian trực nội trú hay thời gian rãnh qua các
phòng nội trú nhắc nhở các em học bài, hay cùng các em lên học trên các phòng học,
các em học bài, giáo viên soạn bài, thỉnh thoảng giáo viên cũng đến thăm hỏi việc học
Năm học 2015-2016


Một số giải pháp giúp học sinh Bru – Vân Kiều học tốt môn sinh học 6

tập của các em ở ngoài nội trú…). Nếu làm được như vậy chắc chắn chất lượng học
tập của học sinh sẽ ngày một nâng cao tiệm cận với học sinh vùng thuận lợi.
2.4. Tăng cường sử dụng TBDH đặc biệt là mẫu vật sẵn có tại địa phương.
Phương pháp dạy học đặc trưng của bộ môn sinh học nói chung và bộ môn sinh
học 6 nói riêng là phương pháp trực quan, thí nghiệm thực hành. Mặt khác với yêu cầu
đổi mới của phương pháp dạy học thì thiết bị dạy học chính là những thông tin để học
sinh tìm hiểu và khai thác. Từ đó hình thành kiến thức bài học. Do vậy thiết bị dạy

học không thể thiếu trong các tiết sinh học. Đặc biệt là đối với học sinh dân tộc khi mà
mọi thứ đối với các em đều là mới mẻ, khả năng tư duy trừu tượng còn hạn chế do vậy
đòi hỏi mỗi một giáo viên đứng lớp cần chuẩn bị tốt thiết bị dạy học đặc biệt là các
mẫu vật sẵn có tại địa phương.
Để chuẩn bị tốt thiết bị dạy học hoặc mẫu vật sẵn có tại địa phương cho mỗi tiết
lên lớp chúng ta cần phải :
+ Phải nghiên cứu trước các nội dung thông tin có ở tranh ảnh, hình vẽ, mẫu
vật ... để có thể định hướng, hướng dẫn học sinh tìm hiểu tránh chủ quan.
+ Nếu là thí nghiệm biểu diễn, thực hành thì giáo viên phải thực hiện trước để
lường hết các tình huống nhằm đảm bảo sự thành công của thí nghiệm.
+ Tranh ảnh, đồ dùng trực quan phải đảm bảo tính chính xác khoa học.
+ Phải tập biểu diễn thành thạo các thao tác khi sử dụng thiết bị để tránh lảng phí
thời gian, đồng thời đảm bảo tính mô phạm trước học sinh, tuyệt đối không được tùy
tiện.
+ Sử dụng hợp lý thiết bị dạy học, đúng thời điểm thì mới có hiệu quả (Khi sử
dụng tranh giáo viên cần chú ý đến thời điểm xuất hiện của bức tranh và thời gian lưu
trên bảng của bức tranh: sau khi quan sát xong, học sinh đã trả lời được nội dung bức
tranh cần truyền tải => Giáo viên phải lấy tranh và cất ngay, tránh tình trạng lưu tranh
thời gian lâu học sinh sẽ bị phân tán ở các hoạt động khác...).
Kết hợp tốt giữa thiết bị dạy học với phương tiện dạy học hiện đại (như xem băng
hình, đèn chiếu, máy chiếu...) nhằm tạo hứng thú trong học tập của học sinh.
Ví dụ: Khi so sánh cấu tạo trong thân cây trưởng thành và thân cây non –
Sinh học 6.
Nếu giáo viên chỉ dùng lời nói thì học sinh sẽ nhớ kiến thức một cách máy móc
và rất nhanh quên. Nhưng nếu giáo viên sử dụng 2 sơ đồ minh họa sau kèm theo
Năm học 2015-2016


Một số giải pháp giúp học sinh Bru – Vân Kiều học tốt môn sinh học 6


những lời gợi ý thì chắc chắn học sinh sẽ tự rút ra được kiến thức và các em sẽ nhớ
kiến thức lâu hơn.

Hình 1: Sơ đồ cấu tạo trong thân non

Hình 2: Sơ đồ cấu tạo trong của thân cây trưởng thành
(1-Biểu bì ; 2-Thịt vỏ; 3-Mạch rây; 4-Mạch gỗ; 5-Ruột; I-Tầng sinh vỏ; II-Tầng
sinh trụ)
GV: Yêu cầu HS quan sát kĩ sơ đồ hình 1 và sơ đồ hình 2. Các em chú ý các chú
thích ở vị trí số 1,2,3,4,5, I, II trong 2 sơ đồ. Sau đó lần lượt trả lời các câu hỏi sau:
? Trong sơ đồ cấu tạo trong thân non có những phần nào giống với sơ đồ cấu tạo
trong của thân cây trưởng thành.
? Những thành phần nào ở thân cây trưởng thành có mà thân non không có.
=> Từ đó giáo viên yêu cầu học sinh hoàn thành bài tập so sánh về cấu tạo trong
thân non và thân cây trưởng thành.
Năm học 2015-2016


Một số giải pháp giúp học sinh Bru – Vân Kiều học tốt môn sinh học 6

Ví dụ : Khi tìm hiểu vòng gỗ hằng năm – sinh học 6
Nếu giáo viên chuẩn bị tốt kênh hình 16.3 sgk trang 53 kết hợp chuẩn bị tốt mẫu
vật thật (giáo viên và học sinh chuẩn bị, giáo viên hướng dẫn học sinh cắt chéo mặt
gỗ để vòng gỗ thể hiện rõ hơn) để học sinh đếm vòng gỗ trên mẫu vật thật thì học sinh
sẽ nắm chắc chắn kiến thức hơn.

2.5. Giáo viên phải thường xuyên trau dồi chuyên môn nghiệp vụ để có năng
lực giảng dạy tốt.
Năng lực sư phạm ở đây không chỉ nói đến năng lực chuyên môn mà còn nói đến
năng lực về sử dụng các phương pháp dạy học, hình thức tổ chức hoạt động của lớp,

về tình trạng sức khỏe, giọng nói, ngữ diệu của giáo viên…..Nếu thiếu một trong
những năng lực ấy thì sẽ ảnh hưởng đến việc dạy và học.
Người có năng lực về chuyên môn sẽ thông hiểu được kiến thức của sách giáo
khoa, từ đó nắm được ý đồ của sách. Ngược lại nếu không nắm chắc sẽ không hiểu
đúng, dẫn đến việc hướng dẫn cho học sinh có những lệch lạc nhất định.
VD: Khi so sánh cấu tạo trong giữa thân non và rễ (miền hút). Nếu như không
nắm chắc kiến thức thì qua sơ đồ giáo viên chỉ phát hiện điểm khác nhau: ở rễ ( miền
hút) có lông hút còn ở thân non thì không có lông hút. Nếu như nắm chắc kiến thức
thì sẽ phát hiện ra điểm khác nhau nữa ở vị trí sắp xếp của mạch gỗ và mạch rây.
Hình 1: Sơ đồ cấu tạo thân non

Năm học 2015-2016


Một số giải pháp giúp học sinh Bru – Vân Kiều học tốt môn sinh học 6

Hình 2: Sơ đồ cấu tạo miền hút của rễ (A: Sơ đồ chung; B: cấu tạo chi tiết một
phần của rễ (xem dưới kính hiển vi) )1: Lông hút; 2: Biểu bì; 3: Thịt vỏ; 4: Mạch
rây; 5: Mạch gỗ; 6 Ruột
Có kiến thức vững chắc giúp giáo viên nắm bắt một cách nhanh chóng những
kiến thức kĩ năng trọng tâm của chương trình. Nhờ đó mà khi dạy giáo viên chủ động
khắc sâu kiến thức cơ bản xuyên suốt chương trình, chú ý hình thành các kĩ năng cơ
bản cho học sinh. Cũng có thể đưa ra những tình huống chuẩn bị cho bài học tiếp theo.
Hay nói cách khác là giáo viên xác định được tiết học này mình dạy cái gì ? và dạy
đến đâu?
Việc nắm chắc nội dung bài dạy sẽ giúp cho người giáo viên định hướng đúng
việc sử dụng các phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học sao cho phù hợp. Tức
là người giáo viên trả lời được câu hỏi: Dạy như thế nào?
Ví dụ :Khi dạy bài: “Sự thoát hơi nước của lá – Sinh học 6”.
Ví dụ: Khi dạy bài: “ Thân dài ra do đâu?- sinh học 6”

Đây là kiểu bài nghiên cứu các hiện tượng sinh học nên dùng phương pháp thực
hành kết hợp với hình thức quan sát và ghi chép các hiện tượng.
Người giáo viên có nắm chắc kiến thức mới vận dụng được kiến thức mới vào
thực tế cuộc sống, mới hướng dẫn giúp học sinh giải thích được các hiện tượng sinh
học xảy ra xung quanh phù hợp với kiến thức đã học. Ví dụ qua bài Thân dài ra do
đâu? – sinh học 6. Học sinh sẽ giải thích được: Khi trồng đậu, bông,, cây rau mồng
tơi, cây bầu bí người ta thường ngắt ngọn. Hay khi trồng cây lấy gỗ, người ta thường
tỉa cành xấu, cành bị sâu mà không bấm ngọn.
Năm học 2015-2016


Một số giải pháp giúp học sinh Bru – Vân Kiều học tốt môn sinh học 6

Quả thật có kĩ năng sư phạm tạo cho người thầy xử lí linh hoạt các tình huống
trên lớp một cách nhuần nhuyễn có nghệ thuật, không cứng nhắc đồng thời tạo ra các
tình huống mới hấp dẫn lôi cuốn học sinh. Từ đó giúp học sinh tìm hiểu và giải quyết
vấn đề một cách nhanh chóng.
2.6. Giáo viên phải có lòng yêu nghề, có ý thức trách nhiệm cao.
Khi giáo viên có năng lực sư phạm, nếu có thêm lòng yêu nghề và ý thức trách
nhiệm thì chắc chắn không có việc gì khó. Lòng yêu nghề tức là lòng yêu công việc
dạy học, coi việc dạy học là niềm vui, lúc nào cũng hứng thú dạy học, muốn truyền
thụ tất cả những kiến thức mình có cho học sinh thân yêu. Luôn yêu quý học sinh, coi
học sinh như con, như em út trong nhà, luôn có trách nhiệm trong từng tiết dạy, bài
dạy.
2.7. Giáo viên phải chuẩn bị kĩ bài dạy.
2.7.1: Chuẩn bị tốt bài soạn:
Với tinh thần đổi mới giáo dục phổ thông thì bài soạn thực chất là lập kế hoạch tổ
chức và điều khiển các hoạt động dạy học, nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Soạn bài là
sự thiết kế, tạo dựng nên các hoạt động nhịp nhàng giữa thầy và trò, sao cho thầy đóng
vai trò định hướng, tổ chức và điều khiển quá trình dạy học trên lớp, còn trò hoạt động

một cách chủ động theo hướng dẫn của thầy để chiếm lĩnh tri thức một cách nhẹ
nhàng, không áp đặt. Các hoạt động cần được thiết kế, tạo dựng liên tiếp có mối liên
hệ logic chặt chẽ theo chủ định, được diễn ra một cách hài hòa giữa giáo viên và học
sinh trong một tiết học.
Để chuẩn bị tốt một bài soạn cần có những yêu cầu sau đây:
- Giáo viên cần nắm chắc mục tiêu cần đạt của bài dạy, đặc điểm của học sinh,
điều kiện vật chất hiện có (thiết bị dạy học).
- Hiểu được cặn kẽ những nội dung kiến thức và kĩ năng nào cần hình thành và
cần rèn cho học sinh, mở rộng kiến thức nào...
- Định ra được các hình thức tổ chức lớp học theo từng phần của bài, qua đó xác
định rõ công việc của thầy và trò.
- Lựa chọn đúng, đủ các thiết bị dạy học cần dùng trong một tiết học để chuẩn bị.
Tóm lại: Công tác soạn bài có tầm quan trọng đặc biệt nó quyết định sự thành
công hay thất bại của một tiết trên lớp. Nó chính là bản hướng dẫn hành động cho

Năm học 2015-2016


Một số giải pháp giúp học sinh Bru – Vân Kiều học tốt môn sinh học 6

người giáo viên. Do vậy, không được xem thường, qua loa, máy móc, xa rời đối tượng
học sinh; điều kiện cơ sở vật chất hiện có.
2.7.2. Chuẩn bị thiết bị dạy học.
Sinh học nói chung và sinh học 6 nói riêng là môn khoa học thực nghiệm,
phương pháp dạy học chủ yếu là trực quan, thí nghiệm thực hành do vậy trong mỗi tiết
lên lớp chúng ta cần chuẩn bị tốt các thiết bị dạy học giúp học sinh chiếm lĩnh kiến
thức một cách chủ động.
Ví dụ: Khi dạy học sinh phân biệt lớp một lá mầm và lớp hai lá mầm. Nếu như
có sự chuẩn bị mẫu vật trước hay các tranh ảnh minh họa thì học sinh rất dễ dàng phân
biệt và dễ dàng sắp xếp các cây đó vào nhóm cây một lá mầm hay nhóm cây hai lá

mầm.Ngoài ra giáo viên nhấn mạnh thêm về số lá mầm của phôi trong hạt là được.
2.8 : Thực hiện tốt các khâu lên lớp.
2.8.1: Ổn định lớp : Kiểm tra việc chuẩn bị vật dụng của các nhóm (nếu có)
2.8.2: Kiểm tra bài cũ: Tạo sự vui tươi, thoải mái tạo hứng thú cho học sinh tiếp
thu bài mới. (Có thể cho các nhóm trưởng kiểm tra tình hình học tập bài cũ của nhóm
rồi báo cáo cho giáo viên).
2.8.3: Giới thiệu bài : Giáo viên giới thiệu bài một cách tự nhiên, vui vẻ nhưng
bám sát nội dung cần khai thác, tạo nên những tình huống có vấn đề, kích thích học
sinh tìm hiểu.
2.8.4: Nội dung bài dạy : Đây chính là nội dung chính của bài. Chính vì vậy giáo
viên phải thật sự bình tĩnh, tự tin và quyết đoán trong giảng dạy. Đồng thời khi giảng
dạy giáo viên phải tạo sự thoải mái, vui vẻ tạo sự hứng thú học tập cho học sinh. Khi
đặt câu hỏi phải chính xác, tránh lặp lại câu hỏi nhiều lần, giáo viên cần bao quát lớp
tốt để dạy cụ thể hóa từng đối tượng học sinh.Việc dạy học phải linh hoạt, phải biết
kết hợp tốt các kĩ năng: hỏi đáp, diễn giải, viết bảng, quan sát, phân tích, tổng hợp…
2.8.5: Củng cố: Cần ngắn gọn, sinh động tạo ra các trò chơi nhằm kích thích sự
hứng thú cho học sinh.
2.8.6: Dặn dò: Giáo viên cần hướng dẫn học sinh một cách kĩ càng nhằm giúp
học sinh vừa học tốt bài củ vừa chuẩn bị tốt bài mới.
2.9. Đẩy mạnh đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh.
Như đã nói ở trên học sinh dân tộc Bru- Vân Kiều có đặc điểm học mau quên do
vậy chúng ta cần tăng cường công tác kiểm tra kết quả học tập của các em. Quá trình
Năm học 2015-2016


Một số giải pháp giúp học sinh Bru – Vân Kiều học tốt môn sinh học 6

kiểm tra phải bám chuẩn kiến thức kĩ năng của từng môn học để kiểm tra. Qua mỗi lần
kiểm tra một lần nữa kiến thức cũ được tái hiện, một lần nữa các em được nhớ lại các
kiến thức đã học. Mặt khác thông qua việc kiểm tra chúng ta đánh giá được khả năng

học tập của từng học sinh, phân loại được trình độ học sinh. Ngoài ra, từ kết quả học
tập của học sinh mà giáo viên có thể điều chỉnh quá trình dạy học của chính mình.
Trong quá trình kiểm tra, giáo viên cần đa dạng hóa các hình thức kiểm tra như có thể
kiểm tra miệng, kiểm tra 15 phút, kiểm tra 1 tiết, có thể bằng hình thức tự luận hay
trắc nghiệm miễn sao giúp học sinh củng cố lại kiến thức và khắc sâu thêm kiến thức.
Đồng thời tạo điều kiện cho học sinh được đánh giá, nhận xét kết quả của nhau.
3. Một số kết quả bước đầu( đối tượng 100% con em dân tộc Bru -Vân Kiều)
Với những giải pháp trên từ năm học 2013-2014 đến năm học 2014-2015 tôi đã
thu được những kết quả khả quan sau: Tỷ lệ khá giỏi đã tăng hơn trước, số học sinh
yếu kém càng ngày càng giảm, đây là một tín hiệu đáng mừng trong việc nâng cao
hiệu quả đào tạo môn sinh tại trường.
THỐNG KÊ ĐIỂM TRUNG BÌNH MÔN KHỐI 6 MÔN SINH
NĂM HỌC: 2013 - 2014
Lớp

TS

6

HS
32

Giỏi
SL %
4 12,5

Khá
SL %
9 28,1


TB
SL
17

%
53,1

Yếu
SL %
2
6,3

TB trở lên
SL
%
30
93,8

THỐNG KÊ ĐIỂM TRUNG BÌNH MÔN KHỐI 6 MÔN SINH
NĂM HỌC: 2014 - 2015
Lớp

Tổng

6

số
19

Giỏi

SL %
2 10,5

Khá
SL %
7 36,8

TB
SL
10

III . KẾT LUẬN
1. Ý nghĩa của đề tài:
Năm học 2015-2016

%
52,7

Yếu
SL %
0
0

TB trở lên
SL
%
19
100



Một số giải pháp giúp học sinh Bru – Vân Kiều học tốt môn sinh học 6

Quả thật để giúp học sinh Bru- Vân Kiều lĩnh hội một cách chủ động các kiến
thức kĩ năng trong bộ môn sinh học 6 hẳn không phải là một điều dễ dàng. Để làm
được điều đó đòi hỏi mỗi một giáo viên phải luôn tâm huyết, trăn trở với nghề để tìm
ra các giải pháp giúp các em nắm vững kiến thức hòa nhập với học sinh vùng thuận
lợi. Bằng cách này hay cách khác phải trang bị đủ sách giáo khoa cho các em, phải tìm
hiểu rõ đối tượng học sinh để có cách thức tác động cho phù hợp, khi hướng dẫn các
em học bài cần hướng dẫn kĩ hơn, phải thường xuyên có ý thức chuẩn bị TBDH trước
khi lên lớp nhất khoát không dạy chay một tiết sinh học nào. Phải có lòng yêu nghề,
có ý thức trách nhiệm cao. Không ngừng học hỏi để có năng lực sư phạm vững vàng.
Phải thường xuyên nghiên cứu kĩ bài dạy trước khi lên lớp. Nếu tuân thủ các giải pháp
trên chắc chắn chất lượng bộ môn sinh của trường sẽ ngày càng được nâng cao.
Thực vậy, sau 2 năm áp dụng đề tài, giờ đây học sinh của tôi đã có sự tiến bộ hẳn
về chất lượng học tập bộ môn. Các em đã giảm bớt nhiều tính tự ái trong học tập và
chủ động mạnh dạn phát biểu xây dựng bài. Đa số học sinh đã tự giác chuẩn bị bài ở
nhà đầy đủ, giữ gìn sách vở cẩn thận. Các em đã mạnh dạn khi thảo luận nhóm ….nhờ
vậy chất lượng ngày càng được nâng cao.
Vì trong phạm vi hạn hẹp của một sáng kiến, thời gian áp dụng chưa lâu tất nhiên
công tác kiểm chứng chưa chuẩn xác rất mong được sự góp ý giúp đỡ của các đồng
nghiệp.
2. Kiến nghị.
2.1. Với Sở GD&ĐT, Phòng GD&ĐT
Quan tâm hơn nữa đến việc bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên.
Nên tổ chức thêm các hội thảo chuyên đề chuyên về PPDH cho giáo viên trong huyện,
tỉnh qua hàng năm.
Đối với ngành giáo dục cần trang bị, bổ sung các tranh ảnh khổ lớn đầy đủ và
cung cấp các tài liệu tham khảo để giáo viên có điều kiện tham khảo.
2.2. Với BGH nhà trường
Cần đầu tư thêm một số thiết bị và đồ dùng phục vụ dạy học bộ môn.

2.3. Với phụ huynh học sinh:
Cần quan tâm việc tự học, tự làm bài tập ở nhà của con cái. Thường xuyên kiểm
tra sách, vở và việc soạn bài trước khi đến trường của các em.

Năm học 2015-2016


Một số giải pháp giúp học sinh Bru – Vân Kiều học tốt môn sinh học 6

Trên đây là một số giải pháp giúp học sinh Bru Vân Kiều học tốt môn Sinh học 6
đã được tôi áp dụng trong quá trình dạy học của mình. Qua 3 năm thực hiện các giải
pháp trong đề tài, tôi đã thu được những kết quả khả quan. Tuy vậy, trong quá trình
trình bày các giải pháp cũng như trong lập luận của đề tài chắc không tránh khỏi
những thiếu sót. Kính mong các các thầy cô giáo, đồng chí đồng nghiệp đóng góp ý
kiến để sáng kiến có chất lượng hơn, thiết thực hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Năm học 2015-2016



×