Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Quyền con người và chủ quyền quốc gia trong luật quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 127 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN AN BÌNH

QuyÒn con ng-êi vµ chñ quyÒn quèc gia
trong luËt Quèc tÕ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN AN BÌNH

QuyÒn con ng-êi vµ chñ quyÒn quèc gia
trong luËt Quèc tÕ
Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số: 60 38 01 08

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. LÊ VĂN BÍNH

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn An Bình


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN QUYỀN CON NGƢỜI ..................................................................9
1.1.

Trƣớc chiến tranh thế giới lần thứ 2 .........................................................9

1.1.1.

Lịch sử hình thành quyền con người .............................................................9


1.1.2.

Sự phát triển quyền con người với tư cách là một chế định của pháp
luật quốc tế ..................................................................................................11

1.2.

Trong chiến tranh thế giới thứ 2 ..............................................................12

1.3.

Từ chiến tranh giới lần thứ 2 đến nay .....................................................14

1.4.

Quyền con ngƣời trong pháp luật một số quốc gia ................................17

1.4.1.

Quyền con người trong Hiến pháp Nhật Bản ..............................................17

1.4.2.

Quyền con người trong Hiến pháp Trung Quốc .........................................20

1.4.3. Quyền con người theo Hiến pháp Balan 1997 ........................................ 23
1.4.4. Quyền con người theo Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam ............................................................................................ 26
Chƣơng 2: CÁC CƠ CHẾ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI THEO PHÁP

LUẬT QUỐC TẾ VÀ VẤN ĐỀ CHỦ QUYỀN QUỐC GIA ................32
2.1.

Sự hình thành và phát triển của nguyên tắc tôn trọng chủ quyền
quốc gia trong Luật quốc tế ......................................................................32

2.1.1.

Khái niệm, lịch sử hình thành của nguyên tắc tôn trọng chủ quyền
quốc gia .......................................................................................................32

2.1.2.

Tôn trọng chủ quyền quốc gia với tư cách là nguyên tắc cơ bản của
Luật quốc tế .................................................................................................33


2.2.

Cơ chế bảo vệ quyền con ngƣời theo hiến chƣơng của Liên hợp quốc ......39

2.3.

Cơ chế bảo vệ quyền con ngƣời theo một số công ƣớc quốc tế .............40

2.3.1.

Quyền dân sự chính trị trong Luật quốc tế ..................................................41

2.3.2.


Quyền kinh tế, xã hội, văn hóa trong Luật quốc tế .....................................46

2.4.

Cơ chế bảo vệ quyền con ngƣời ở cấp độ khu vực .................................48

2.5.

Cơ chế quốc gia bảo vệ nhân quyền ........................................................52

Chƣơng 3: CHỦ QUYỀN QUỐC GIA TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI
QUYỀN CON NGƢỜI: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP .............54
3.1.

Một số quan điểm về chủ quyền quốc gia và quyền con ngƣời
trong Luật quốc tế .....................................................................................54

3.1.1.

Quyền con người và chủ quyền quốc gia ....................................................54

3.1.2.

Quan điểm về trường hợp nhân quyền và chủ quyền chia sẻ......................59

3.2.

Mối quan hệ giữa bảo vệ quyền con ngƣời và bảo vệ chủ quyền
quốc gia ......................................................................................................63


3.2.1.

Những tác động của việc bảo vệ quyền con người đối với chủ quyền
quốc gia .......................................................................................................63

3.2.2.

Những tác động của việc bảo vệ chủ quyền quốc gia đối với quyền
con người .....................................................................................................67

3.2.3.

Một số ví dụ về quyền con người khi chủ quyền quốc gia bị xâm phạm .......69

3.3.

Tầm quan trọng của quyền con ngƣời và chủ quyền quốc gia
tại Việt Nam ..............................................................................................82

3.3.1.

Chủ quyền quốc gia là tối thượng ...............................................................82

3.3.2.

Quyền con người ở Việt Nam – một quốc gia có chủ quyền ......................92

3.4.


Một số kiến nghị với Việt Nam ...............................................................101

3.4.1.

Cần thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia Việt Nam ............................101

3.4.2.

Khuyến nghị gia nhập các điều ước quốc tế về nhân quyền .....................108

3.4.3.

Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách nhân quyền ..................110

KẾT LUẬN ............................................................................................................115
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................117


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ASEAN

Association of Southeast Asian

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

Natinons
CRC

Convention on the Rights of the child


CEDAW

Convention on the Elimination of all Công ước quốc tế về xóa bỏ các hình
Forms of Discrimination against

Công ước về quyền của Trẻ em
thức phân biệt đối xử với phụ nữ

Women
CAT

Convention against Torture and

Công ước chống tra tấn và các hình

Other Cruel, Inhuman or Degrading

thức trừng phạt và đối xử tàn bạo, vô

Treatment or Punishment

nhân đạo hay hạ nhục khác

EU

European Union

Liên minh châu Âu

ICCPR


International Covenant on Civil and

Công ước Quốc tế về các Quyền Dân

Political Rights

sự và Chính trị

Inter-American Commission on

Ủy ban Quyền con người châu Mỹ

IACHR

Human Rights
ICERD

International Convention on the

Công ước xóa bỏ mọi hình thức phân

Elimination of Racial Discrimination biệt chủng tộc
ICESCR

International Covenant on Economic,

Công ước Quốc tế về các Quyền

Social and Cultural Rights


Kinh tế, Xã hội và Văn hóa

ILO

International Labour Organization

Tổ chức Lao động quốc tế

NGO

non-governmental organization

Tổ chức phi chính phủ

NHRCT

National Human Rights Commission Ủy ban nhân quyền quốc gia Thái Lan
of Thailand

SUHAKAM Malay: Suruhanjaya Hak Asasi
UDHR

Ủy ban nhân quyền quốc gia

Malaysia

Malaysia

Universal Declaration of Human


Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền

Rights


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hai vấn đề không thể tách rời của một đất nước là quyền con người và chủ
quyền quốc gia. Trong bối cảnh toàn cầu hóa thì lĩnh vực này lại càng trở nên quan
trọng. Chủ quyền quốc gia là tối cao, bất khả xâm phạm, mỗi quốc gia đều bình
đẳng và có quyền quyết định mọi phương diện: chính trị, an ninh, quốc phòng,
ngoại giao, kinh tế, văn hóa xã hội… và được đảm bảo toàn vẹn, đầy đủ về mọi mặt,
cả hành pháp, lập pháp lẫn tư pháp của quốc gia đó trong phạm vi lãnh thổ của quốc
gia mình. Tuy nhiên, việc hội nhập kinh tế thế giới nếu không có những giải pháp
đúng đắn thì chủ quyền quốc gia sẽ bị xâm phạm. Hiện tại ta vẫn nhận thấy rằng
một số ít quốc gia có nền kinh tế vững mạnh đang giương cao ngọn cờ nhân quyền,
lợi dụng can thiệp nhân đạo và chống khủng bố để thao túng các quốc gia khác
nhằm đạt được những lợi ích cục bộ.
Các quốc gia hội nhập hợp tác thì sẽ phát triển kinh tế, xã hội, tuy nhiên nó
cũng kéo theo nhiều mặt trái mà bản thân quốc gia đó không mong muốn như: an
ninh quốc phòng, kinh tế, và đặc biệt là vấn đề nhân quyền. Làm thế nào để giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc nhưng lại không để đó là cái cớ để ngoại bang can thiệp vào
chủ quyền quốc gia? Làm thế nào để chống lại những luồng văn hóa tư tưởng trái với
chính sách phát triển, chế độ chính trị đặc thù của mỗi quốc gia? Tham gia vào quá
trình hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa, các quốc gia có phải chấp nhận giới hạn
quyền lực riêng của mình trên một số lĩnh vực. Vậy chủ quyền và nhân quyền trên thế
giới sẽ có mối quan hệ tác động qua lại như thế nào? Cái nào quan trọng hơn? Làm
thế nào để bảo vệ chủ quyền và quyền con người? Có hay không vấn đề chủ quyền
quốc gia đang bị thuyết nhân quyền cao hơn chủ quyền “thay đổi, thu hẹp”, “mài

mòn”? Các quốc gia cần phải có những giải pháp gì để đảm bảo hai vấn đề nêu trên?
Với những quan điểm về mối quan hệ giữa chủ quyền quốc gia và quyền con
người và và tầm quan trọng của chúng, người nghiên cứu đã phần nào đưa ra cái
nhìn tổng quan về hai vấn đề này theo pháp luật quốc tế, từ đó có sự nhìn nhận đánh

1


giá chung về lý luận cũng như một số thực tiễn về bảo vệ chủ quyền quốc gia và
quyền con người theo pháp luật quốc tế hiên nay. Nhận thức được tầm quan trọng
và tính thời sự của vấn đề này, học viên đã mạnh dạn chọn đề tài đề tài: “Quyền con
người và chủ quyền quốc gia trong luật Quốc tế” để làm luận văn thạc sĩ luật học
với mục đích nhằm hệ thống lại những vấn đề lý luận chung nhất của pháp luật quốc
tế đối với hai lĩnh vực nêu trên, đồng thời đưa ra những quan điểm, thông qua những
ví dụ thực tiễn của một số nước trên thế giới, góp phần đưa ra những giải pháp thúc
đẩy việc thực hiện quyền con người và chủ quyền quốc gia ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nƣớc liên quan đến đề tài
Vấn đề quyền con người và chủ quyền quốc gia đang thu hút được sự chú ý
của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Trước hết thấy rằng vấn đề này
thường xuyên nghiên cứu trong việc giảng dạy tại các giáo trình về pháp luật về
quyền con người và nhất là ngành Luật quốc tế trong các học viện, nhà trường. Ví dụ,
trong “Giáo trình Công pháp quốc tế” của Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội do
PGS.TS Nguyễn Bá Diến chủ biên (2013) đã dành riêng chương 6 để nói về luật nhân
quyền quốc tế; chương 3, chương 11 nói về chủ quyền quốc gia. Giáo trình đã hệ
thống ngắn gọn, tương đối đầy đủ về pháp luật quốc tế về quyền con người và một số
vấn đề cơ bản nhất về chủ quyền quốc gia;
Vấn đề về quyền con người ở Việt Nam đã được nghiên cứu trong nhiều công
trình nghiên cứu khoa học khác nhau. Ví dụ như: Giáo trình lý luận và pháp luật về
quyền con người, do tập thể tác giả: Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao và Lã Khánh
Tùng đồng biên soạn, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, 2009; Quyền con người,

Tài liệu chuyên đề của Liên hợp quốc, sách tham khảo, Khoa Luật, Đại học quốc gia
Hà Nội, NXB Công an nhân dân, 2010; Quyền con người. Tập hợp những bình
luận/khuyến nghị chung của Ủy ban Công ước Liên hợp quốc, sách tham khảo, Khoa
Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, NXB Công an nhân dân, 2010; Kỷ yếu Hội thảo về
“Cơ quan quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, Khoa Luật, Đại học quốc
gia Hà Nội, 2009; Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật quốc tế, Đề tài nghiên
cứu khoa học của Nguyễn Bá Diến và Hoàng Ngọc Giao, Khoa Luật, Đại học quốc

2


gia Hà Nội, 2006; Các điều kiện đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong sự
nghiệp đổi mới đất nước, đề tài nghiên cứu khoa học do Hoàng Văn Hảo làm chủ
nhiệm; Luật quốc tế về quyền của nhóm người dễ bị tổn thương, Sách chuyên khảo,
Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, NXB Lao động-Xã hội, 2010; Hỏi đáp về
quyền con người, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, 2012; Giới thiệu văn kiện
quốc tế về quyền con người; và Hỏi đáp về quyền con người, Trung tâm nghiên cứu
quyền con người - quyền công dân, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, 2011; Kỷ
yếu Hội thảo về “Cơ quan quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, Khoa
Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, 2009; Tư tưởng về quyền con người (Tuyển tập tư
liệu Thế giới và Việt Nam), Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, NXB Lao động Xã hội, 2011; Luật nhân quyền quốc tế - Những vấn đề cơ bản, Khoa Luật, Đại học
quốc gia Hà Nội, NXB Lao động - Xã hội, 2011; Các văn bản Công pháp quốc tế và
văn bản pháp luật Việt Nam có liên quan, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, NXB
Chính trị quốc gia, 2006; Quốc hội Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người,
Tưởng Duy Kiên, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2006; Dân chủ và pháp luật dân chủ, của
Ngô Huy Cương, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2006; Quyền con người trong Hiến pháp
năm 2013: Quan điểm mới cách tiếp cận mới và các quy định mới, Viện Khoa học
pháp lý, Bộ Tư pháp, NXB Sự thật, Hà Nội, 2014; v.v...
Các bài viết đã được đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành có liên
quan đến quyền con người, ví dụ như: Quyền con người, quyền công dân của Hoàng

Văn Hảo và Chu Thành, đăng trên Tạp chí Cộng sản số 5/1993; Hiến pháp Việt Nam
và vấn đề quyền con người, quyền công dân, Sách Quyền con người: Lý luận và Thực
tiễn ở Việt Nam và Ốt-xtrây-li-a của Hoàng Văn Hảo, NXB Lý luận Chính trị, Hà
Nội, 2004; Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền của Đỗ
Nguyên Phong và Trần Ngọc Đường, NXB Sự thật, Hà Nội, 1992; Quyền con người,
quyền công dân trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2004 và Bàn về thực trạng và nhu cầu pháp luật về tổ chức bộ
máy nhà nước và pháp luật về quyền con người theo Nghị quyết số 48 của Bộ Chính
trị, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, 2010 của tác giả Trần Ngọc Đường; Cơ quan nhân

3


quyền quốc gia trên thế giới, Vũ Công Giao và Lê Anh Tuấn, Tạp chí nhân quyền
Việt Nam, 2012; Các đảm bảo cho việc thực hiện các nghĩa vụ và cam kết quốc tế về
quyền con người của các quốc gia thành viên Liên hợp quốc, Tạp chí Luật học, 2010;
và Hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam theo yêu cầu của các công ước quốc tế về
quyền con người được ký kết trong khuôn khổ Liên hợp quốc, Nguyễn Thị Kim Ngân,
Tạp chí Luật học, 2011; Các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là
thành viên và vấn đề nội luật hóa, Nguyễn Văn Tuân, Tạp chí Luật học, 2011; Mô
hình bộ máy quốc gia về nhân quyền ở một số nước và suy nghĩ về cơ chế bảo đảm
quyền con người ở nước ta, Tưởng Duy Kiên, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, 2009;
Vấn đề nhân quyền và đấu tranh bảo vệ nhân quyền ở Việt Nam hiện nay, Đặng
Trung Hà với bài Kết quả ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế về nhân quyền và vấn
đề nội luật hóa vào pháp luật Việt Nam, 2009, v.v...
Quyền con người còn được nghiên cứu ở cấp độ các luận văn và luận án
tiến sỹ luật học, chẳng hạn như: Bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp,
Luận án tiến sĩ luật học của Nguyễn Huy Hoàn, bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2004; Đảm bảo pháp lý về quyền con người ở Việt Nam
hiện nay, Luận văn Thạc sĩ của Trần Thị Phương Hảo, bảo vệ tại Khoa Luật, Đại

học quốc gia Hà Nội, 2008; Cơ quan quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy quyền con
người - thực trạng trên thế giới và triển vọng ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ của
Nguyễn Thu Ngọc, bảo vệ tại Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, 2013; Vai trò
của Quốc hội trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam, Luận văn
Thạc sĩ của Nguyễn Mạnh Hùng bảo vệ tại Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội,
2014; Cơ chế đánh giá định kỳ toàn thể (UPR) về quyền con người của Liên hợp
quốc – Tác động và việc tổ chức thực hiện ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ của
Nguyễn Sơn Đông, bảo vệ tại Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, 2013; Bảo đảm
quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ của Hoàng Lan Anh
bảo vệ tại Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, 2014; v.v...
Ngoài ra, liên quan đến nhân quyền chúng ta có thể kể đến các loại tài liệu
khác, như: Báo cáo nghiên cứu rà soát quy định của pháp luật Việt Nam về các

4


quyền dân sự, chính trị, của Bộ Tư pháp, 2013; Sách trắng về thành tựu quyền con
người của Việt Nam, tại Báo cáo quốc gia kiểm điểm
định kỳ việc thực hiện quyền con người ở Việt Nam, tại />Báo cáo nghiên cứu so sánh nội dung Công ước chống tra tấn với các quy định trong
pháp luật Việt Nam, của Viện Nghiên cứu Quyền con người, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2007; Báo cáo nghiên cứu so sánh nội dung Công ước
chống tra tấn với các quy định trong pháp luật Việt Nam, của Viện Nghiên cứu
Quyền con người, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2007; v.v...
Ở nước ngoài, có nhiều công trình, bài viết nghiên cứu về quyền con người,
ví dụ như: Abashidze A.Kh. Hệ thống khu vực về bảo vệ các quyền của con người.
Trường Đại học Tổng hợp Hữu nghị các Dân tộc. M., 2010; Abashidze A.Kh.,
Solntcev A.M. Thể chế về bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền và tự do trong Hiệp hội
các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Tạp chí Luật quốc tế. Moscow, 2010. № 2;
Kapustin A.IA. Các Tổ chức quốc tế trong thế giới toàn cầu hóa: Sách Chuyên
khảo. Trường Đại học Tổng hợp Hữu nghị các Dân tộc. M., 2010; Velyaminov

G.M. Giáo trình Luật kinh tế quốc tế và sự phát triển. M., Wolters Kluwer, 2004;
UN Human Rights Treaty Bodies/Eds.: Helen Keller, Universität Zürich, Geir
Ulfstein. - Cambridge University Press, 2012.; New Challenges for the UN Human
Rights Machinery. What Future for the UN Treaty Body System and the Human
Rights Council Procedures?/Edited by: M. Cherif Bassiouni, William A. Schabas Antwerp: Intersentia Publishers, 2011; Knorad - Adenaer, Josef Thesing: Nhà nước
pháp quyền, Nxb Chính trị quốc gia, 2002 (sách dịch); Quyền con người ở Trung
Quốc và Việt Nam (Truyền thống, Lý luận và Thực tiễn): Tradition on and Theory
and implementation of Hunman Right in China and Vietnam, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2003. “Land Law with sustainable development – Grren development
in Vietnam”. Seoul National Univesity Law School. Seoam Hall. SEOUL, KOREA.
Hosted by Korea Legislation Research Institute (KLRI) Center for ASIAN LAW tại
Hàn Quốc “Luật của các nước chuyển đổi và tăng trưởng xanh” Ngày 21/12/2011;
hoặc các Hội thảo quốc tế: Trách nhiệm xã hội trong điều kiện Kinh tế thị trường

5


(International conferrence: Social responsibility the context of market econnmy);
Lauterpacht H. International Law and Human Rights. 1950; Robertson A. Human
Rights in the World. 1972; Wolfgang Benedek, Tìm hiểu về quyền con người, NXB
Tư pháp Hà Nội, 2008; Sydeney D.Bailey, The UN Security Council and Human
Rights, St.Martin‟s Press, INC, New York, 1994; v.v...
Tuy nhiên các tài liệu nói trên phần đa nghiên cứu về quyền con người, hoặc
chỉ đề cập không nhiều đến chủ quyền quốc gia trong quan hệ với quyền con người,
chưa đặt hai vấn đề này trong mối quan hệ của chúng trong pháp luật quốc tế, để từ
đó có được tầm quan trọng và cái nhìn đúng đắn, khách quan về chủ quyền và nhân
quyền và áp dụng như thế nào với Việt nam hiện nay. Do đó, việc học viên lựa chon
và nghiên cứu đề tài “Quyền con người và chủ quyền quốc gia trong luật Quốc tế”
là cần thiết và có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

3.1. Mục đích
Luận văn đã nghiên cứu những quy định của pháp luật quốc tế về quyền con
người và chủ quyền quốc gia, qua đó đối chiếu vào thực tiễn một số nước trên thế giới
để thấy được những góc cạnh khác nhau của việc thực hiện hai vấn đề này. Luận văn
cũng làm rõ vai trò, tầm quan trọng, mối quan hệ của chúng được coi là vấn đề sống
còn của một quốc gia. Qua việc phân tích, bình luận để đi tìm câu trả lời cho khẳng
định chủ quyền quốc gia và quyền con người là hai yếu tố quan trọng và có tầm quan
trọng đặc biệt. Chúng là một thực thể đồng nhất không thể tách rời và hỗ trợ cho nhau
phát triển. Thông qua việc nghiên cứu nhằm hiểu rõ bản chất của quyền con người,
tránh việc một quốc gia có chủ quyền bị xâm phạm chủ quyền, xâm phạm công việc
nội bộ và quyền tự quyết của một dân tộc thông qua vấn đề lợi dụng dụng nhân quyền.
3.2. Những đóng góp của đề tài
Tác giả hy vọng luận văn có thể là tài liệu có giá trị tham khảo trong nghiên
cứu, giảng dạy các vấn đề liên quan đến chủ quyền quốc gia và việc bảo vệ quyền
con người trong các cơ sở đào tạo luật nói chung và luật nhân quyền nói riêng, đồng
thời là tài liệu nghiên cứu cho các cơ quan Nhà nước tham khảo cho mục đích phát
triển quyền con người và bảo vệ chủ quyền quốc gia Việt Nam.

6


3.3. Nhiệm vụ
Với mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài được xác định gồm:
- Luận giải những vấn đề lý luận chung về quyền con người và chủ quyền
quốc gia theo pháp luật quốc tế.
- Đánh giá mối quan hệ tác động qua lại giữa quyền con người và chủ quyền
quốc gia. Thực trạng thực thi nhân quyền ở một số quốc gia.
- Đưa ra những nhận xét và đề xuất một số giải pháp góp phần thể hiện rõ tầm
quan trọng của hai vấn đề tôn trọng chủ quyền quốc gia và quyền con người trên thế
giới và đưa ra một số giải pháp cụ thể với Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế

nhưng vẫn giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và chủ quyền quốc gia.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Những trường phái, học thuyết, tư tưởng trong lịch sử hình thành, phát triển
của vấn đề quyền con người và chủ quyền quốc gia.
- Hiến chương Liên hợp quốc, Hiến chương ASEAN, các văn bản pháp lý
quốc tế liên quan đến quyền con người, các văn bản của pháp luật Việt Nam, những
định hướng của Đảng đối với tầm quan trọng của vấn đề quyền con người và chủ
quyền quốc gia, một số văn kiện pháp lý mà Việt Nam đã ký kết…
- Một số sự kiện chính trị xã hội trong quan hệ khu vực và quốc tế liên quan
đến mối quan hệ giữa chủ quyền quốc gia và quyền con người hiện nay.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở các phương pháp nghiên cứu khoa
học duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, kết hợp với các phương pháp phân tích, tổng
hợp, chứng minh, so sánh luật học, phương pháp đánh giá và bình luận nhằm làm
sáng tỏ hơn các cơ chế bảo vệ quyền con người theo pháp luật quốc tế và vấn đề chủ
quyền quốc gia. Các phương pháp đó đã giúp học viên nghiên cứu thành công mối
quan hệ giữa quyền con người và chủ quyền quốc gia, thực tiễn giải quyết những vụ
việc cụ thể của một số nước trên thế giới có liên quan để đưa ra những kiến nghị, giải
pháp đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập.

7


5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về sự hình thành và phát triển quyền con người;
Chương 2: Các cơ chế bảo vệ quyền con người theo pháp luật quốc tế và vấn
đề chủ quyền quốc gia;

Chương 3: Chủ quyền quốc gia trong mối quan hệ với quyền con người: một
số kiến nghị, giải pháp.

8


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ SỰ HÌNH THÀNH
VÀ PHÁT TRIỂN QUYỀN CON NGƢỜI
1.1. Trƣớc chiến tranh thế giới lần thứ 2
1.1.1. Lịch sử hình thành quyền con người
Quyền con người là sản phẩm phát triển văn hóa xã hội của một kết cấu kinh
tế xã hội nhất định và chịu sự quy định của cơ sở kinh tế, xã hội hiện thực [15]. Có
nhiều ý kiến trái ngược về lịch sử phát triển của quyền con người. Theo một số học
giả, những tư tưởng về quyền con người xuất hiện từ khá lâu.
Những tư tưởng về quyền con người ở thời tiền sử được khởi thủy từ khi trên
Trái Đất xuất hiện những nền văn minh cổ đại, trong đó rực rỡ nhất đó là nền văn
minh Trung Đông (khoảng năm 3.000 -1.500 trước CN). Trong nền văn minh
Lưỡng Hà, nhà vua Hammurabi đã ban hành đạo luật có tên là Bộ luật Hammurabi.
Mục đích của đức vua khi thiết lập ra đạo luật này là để: “...ngăn ngừa những kẻ
mạnh áp bức kẻ yếu”,... làm cho người cô quả có nơi nương tựa ở thành Babilon,...
đem lại hạnh phúc chân chính và đặt nền thống trị nhân từ” cho mọi thần dân
vương quốc. Bộ luật này được coi là văn bản pháp luật thành văn đầu tiên của nhân
loại nói đến quyền con người. Ngoài bộ luật Hammurabi, vấn đề về quyền con
người còn được đề cập trong nhiều văn bản bộ luật khác. Tiêu biểu như bộ luật của
vua Cyrus Đại đế (576-529 trước CN) [12].
Các tư tưởng về quyền con người không chỉ thể hiện trong các đạo luật mà
còn được phản ánh trong các tư tưởng, học thuyết tôn giáo. Tiêu biểu kinh điển của
tôn giáo đó là: Kinh Vệ Đà của đạo Hindu của Ấn Độ, Kinh Phật của Đạo Phật,
Kinh Thánh của đạo Thiên chúa và Kinh Kôran của đạo Hồi. Xét về các học thuyết

chính trị, pháp quyền, vào thế kỷ XXIV trước CN, vua Symer đã sử dụng khái niệm
“tự do” để bảo vệ bà góa, trẻ mồ côi trước những hành vi bạo ngược của những kẻ
giàu có và thế lực trong xã hội. Nhiếp chính quan người Hy Lạp Arokhont Salon
ngay từ thế kỷ XI trước CN đã ban bố đạo luật xác định một số khía cạnh của dân

9


chủ và quy định một số quyền của các công dân tự do trong mối quan hệ với các
quan lại nhà nước.
Ở Châu Âu thời Trung cổ, thời kì này tự do của con người bị hạn chế một
cách khắc nghiệt bởi sự cấu kết cai trị giữa vương quyền của chế độ phong kiến và
thần quyền của nhà thờ Thiên Chúa giáo.Tuy nhiên, trong bối cảnh đen tối đó vẫn
xuất hiện những tư tưởng khai sáng về quyền con người. Điển hình trong số đó là
Hiến chương Magna Carta do vua John của nước Anh ban hành vào năm 1215. Bản
hiến chương này được coi là một trong những văn bản pháp luật đầu tiên của nhân
loại đề cập cụ thể đến việc tiết chế quyền lực của nhà nước để bảo vệ quyền của
công dân. Đó là quy phạm về lệnh đình quyền giam giữ trong đó bắt buộc mọi
trường hợp tử hình đều phải qua xét xử và quyết định trước tòa và quy phạm về due
process of law (luật tôn trọng tất cả quyền hợp pháp của công dân).
Thời kỳ Phục hưng là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của các quan điểm, học
thuyết về quyền con người tư tưởng. Những tư tưởng triết học về quyền con người
ở Châu Âu thời kỳ phục hưng đã có ảnh hưởng quan trọng tới sự ra đời của những
văn bản pháp luật về quyền con người ở một số nước ở châu lục này cũng như tới
hai cuộc cách mạng nổi tiếng thế giới nổ ra vào những cuối năm 1700 ở Mỹ và
Pháp. Hai cuộc cách mạng này đã đóng góp rất to lớn vào sự phát triển của tư
tưởng và quá trình lập pháp về quyền con người không chỉ ở Mỹ, Pháp mà ở nhiều
nước trên thế giới.
Trong cuộc cách mạng thứ nhất năm 1776, mười ba thuộc địa của Bắc Mỹ đã
tuyên bố độc lập với đế chế Anh thông qua một văn bản có tên là Tuyên ngôn độc

lập, trong đó khẳng định mọi người sinh ra đều bình đẳng. Tạo hóa cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền đó có quyền được sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Tuy đây không phải là văn kiện pháp lý
đầu tiên trên thế giới nhưng Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ có thể coi là sự
xác nhận chính thức đầu tiên trên phương diện nhà nước về quyền con người.
Trong cuộc cách mạng thứ hai, vào năm 1789 nhân dân Pháp đã đứng lên
lật đổ chế độ phong kiến, thành lập nền cộng hòa đầu tiên, đồng thời công bố bản

10


Tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền nổi tiếng của nước Pháp. Điều 1 của bản
Tuyên ngôn này khẳng định:“Người ta sinh ra và sống tự do và bình đẳng...”.
Ngoài ra, bản tuyên ngôn còn xác định một loạt các quyền cơ bản của con người
như quyền tự do và bình đẳng, quyền sở hữu, được đảm bảo an ninh và chống áp
bức, quyền bình đẳng... Chỉ trong 35 năm, hơn 70 bản Hiến pháp mang dấu ấn của
những luận điểm trong bản Tuyên ngôn. Điều đó chứng tỏ những tư tưởng về
quyền con người đã thẩm thấu một cách nhanh chóng và gây ra những biến động
to lớn tại Châu lục này.
Vào thế kỷ XIX, thời kỳ này quyền con người nổi lên như một vấn đề ở tầm
quốc tế. Những cuộc đấu tranh nhằm xóa bỏ chế độ nô lệ và buôn bán nô lệ, phong
trào đấu tranh đòi cải thiện đời sống cho người lao động diễn ra rất mạnh mẽ và liên
tục. Năm 1864, Hội nghị ngoại giao quốc tế đầu tiên họp tại Giơnevơ đã thông qua
công ước về cải thiện người bị thương trong các cuộc chiến tranh trên bộ. Năm
1899, Hội nghị hòa bình quốc tế họp ở La Hay (Hà Lan) đã thông qua Công ước về
các luật lệ và tập quán trong chiến tranh. Đây là những văn kiện đầu tiên của luật
nhân đạo quốc tế. Vào những năm đầu của thế kỷ XIX, Hội quốc liên và Tổ chức
lao động quốc tế được thành lập. Cả hai tổ chức này đã nâng nhận thức và hoạt
động về quyền con người lên một mức độ mới. Năm 1863-1864, ủy ban Chữ thập
đỏ quốc tế được thành lập, Công ước Giơnevơ lần thứ I được thông qua, mở đầu

cho ngành luật nhân đạo quốc tế. Cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới nổ ra ở
nước Nga vào tháng 10 năm 1917, mở ra một chương mới trong lịch sử chính trị
quốc tế đồng thời tạo ra những biến chuyển quan trọng trong tư tưởng và thực tiễn
về quyền con người [15].
1.1.2. Sự phát triển quyền con người với tư cách là một chế định của pháp
luật quốc tế
Những quy định pháp lý quốc tế đầu tiên về quyền con người khởi đầu từ
việc các quốc gia bảo vệ các quyền và lợi ích của công dân mình ở nước ngoài.
Điều này thể hiện rõ nhất là vào thế kỷ XVIII ở Châu Âu. Cụ thể đó là sự phân chia
các đường biên giới cùng với hoạt động giao thương nhộn nhịp dẫn tới những tranh

11


chấp pháp lý liên quan. Quá trình đấu tranh, đàm phán, thỏa hiệp và nhượng bộ đã
dẫn tới sự ra đời của những quy định về quyền của người nước ngoài trong pháp
luật của một số quốc gia phong kiến Châu Âu.
Tiếp theo đó quyền con người phát triển cao hơn một bước là vấn đề “can
thiệp nhân đạo”. Vào thế kỷ XIX ở các nước Châu Âu đã diễn ra những cuộc can
thiệp vũ trang của một hoặc một nhóm quốc gia này vào một nhóm quốc gia khác
với lý do bảo vệ các nhóm thiểu số về dân tộc hay tôn giáo của nước mình mà được
cho là đang bị áp bức ở nước khác. Kết quả của những cuộc can thiệp vũ trang này
là một loạt các hiệp định đã được ký kết ở Châu Âu sau khi kết thúc chiến tranh
trong đó có thừa nhận các quyền sống, quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng, quyền
bình đẳng... của người dân khu vực này trong khoảng thời gian từ thế kỷ XVII tới
hết thế kỷ XIX. Khi hiệp ước xóa bỏ việc buôn bán nô lệ giữa các nước Anh, Pháp,
Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Hà Lan vào năm 1815 được ký kết đã đặt nền móng
cho nguyên tắc quan trọng nhất của luật quốc tế về quyền con người đó là nguyên
tắc về tôn trọng nhân phẩm. Khi Hội quốc liên và Tổ chức Lao động quốc tế được
thành lập vào năm 1919 thì quyền con người trở thành một vấn đề có tầm quốc tế

rộng lớn. Hai tổ chức này nâng nhận thức và những bảo đảm về quyền con người
lên một mức độ mới. Tổ chức Lao động quốc tế trong Điều lệ của mình đã đưa ra
nhận định đó là, hòa bình trên thế giới chỉ có thể thực hiện được nếu được dựa trên
cơ sở bảo đảm công bằng xã hội cho tất cả mọi người. Trong thỏa ước của Hội quốc
liên, các nước thành viên của tổ chức này chấp nhận nghĩa vụ bảo đảm, duy trì công
bằng và các điều kiện nhân đạo về lao động cho đàn ông, phụ nữ và trẻ em [15].
Cũng trong thời kỳ này, một loạt các văn kiện nhân đạo quốc tế đã được thông
qua trong hội nghị La Hay, hội nghị Chữ thập đỏ quốc tế và Hội Quốc Liên, điều đó
cũng góp phần cho sự phát triển của quyền con người lên một nấc thang mới.
1.2. Trong chiến tranh thế giới thứ 2
Chiến tranh thế giới thứ 2 nổ ra vào ngày 1 tháng 9 năm 1939 khi Đức xâm
lược Balan. Nếu xét về nhân quyền thì chính quyền Đức quốc xã là trung tâm.
Chính phủ Đức Quốc xã là tàn nhẫn và độc ác, bạo lực và cố chấp. Đi đến đâu

12


chúng cũng áp dụng các biện pháp cai trị của mình. Được phép sử dụng bạo lực để
giữ quyền kiểm soát của người dân; Sử dụng biểu tượng như hình chữ vạn đoàn kết
mọi người; Không có tự do ngôn luận hay báo chí; Không có đối lập cho phép, tất
cả mọi người có để hỗ trợ các bên và các nhà lãnh đạo; Sự thù ghét cộng sản; Công
đoàn đã bị cấm, và các nhà lãnh đạo phát xít đã hợp tác với các chủ đất và chủ sở
hữu nhà máy; Đức quốc xã ghét chủng tộc khác của con người, như người Do Thái
và người da đen; Sự thù ghét của dân chủ - Đức quốc xã cho rằng người dân Đức đã
tồn tại để phục vụ chính phủ, chứ không phải chính phủ để phục vụ nhân dân. Chính
sự tàn nhẫn này đã góp phần làm số người thiệt mạng do chiến tranh ở Châu Âu đã
lên đến 49.257.000 người và kéo theo hậu quả chiến tranh là quyền con người bị
xâm phạm sau nhiều thập niên [52]. Chính vì vậy ngay từ khi cuộc chiến tranh thế
giới này còn đang diễn ra ác liệt các nước Đồng minh đã nhận thức được sự cần
thiết phải thành lập một tổ chức quốc tế với những cơ chế pháp lý mạnh mẽ nhằm

đảm bảo cho nhân dân thế giới không bao giờ phải chịu những hoàn cảnh bi thảm
về quyền con người như chủ nghĩa phát xít đã và đang gây ra. Kinh nghiệm của
cuộc chiến này cho phép nhận định rằng sự bảo vệ quyền con người là điều kiện cốt
yếu của hòa bình và tiến bộ quốc tế.
Vấn đề này đã được nêu trong một số văn kiện của phe Đồng minh khi cuộc
chiến tranh vẫn còn đang tiếp diễn. Đó là Hiến chương Atlantic ký kết ngày
14/8/1941 đã chỉ ra việc cần thiết phải thiết lập một nền hòa bình mà có thể giúp tất
cả các dân tộc có khả năng được sống an toàn trong lãnh thổ của họ cũng như bảo
đảm cho tất cả mọi người ở mọi khu vực trên trái đất có thể sống một cuộc sống tự
do, không bị sợ hãi và thiếu thốn... Tiếp đến là Tuyên ngôn của các nước Đồng
minh được ký ngày 01/01/1942 bởi đại diện 26 quốc gia đang tham chiến chống
phát xít. Văn kiện này bày tỏ sự tin tưởng rằng “...thắng lợi hoàn toàn của cuộc
chiến chống kẻ thù là điều cốt yếu để bảo vệ cuộc sống tự do, độc lập, các quyền
con người và công lý trên trái đất..”
Cuộc hội đàm ở Dumbarton Oaks (Hoa kỳ) giữa các quốc gia cường quốc là
Hoa Kỳ, Anh, Trung Quốc, Liên Xô 1944 đã thống nhất đi đến việc thiết lập một tổ

13


chức có tên gọi là “Liên hợp quốc” mà trong các mục tiêu của tổ chức này có việc
“...thi hành các giải pháp về các vấn đề kinh tế, xã hội, các vấn đề nhân đạo quốc
tế khác và thúc đẩy sự tôn trọng các quyền và tự do cơ bản của con người” [53].
Như vậy, trong chiến tranh thế giới thứ 2, quyền con người tuy chưa có sự
quan tâm đúng đắn do các nước đang tham chiến tuy nhiên vấn đề này đã được các
nước trong phe Đồng minh xác đinh là một trong những yếu tố cốt lõi để duy trì nền
hòa bình và an ninh thế giới với hàng loạt các văn kiện nêu trên nhằm cho ra đời tổ
chức Liên hợp quốc chính thức ra đời vào 24/10/1945 đánh dấu cột mốc quan trọng
trong sự phát triển quả luật quốc tế về quyền con người.
1.3. Từ chiến tranh giới lần thứ 2 đến nay

Quyền con người sau chiến tranh thế giới lần thứ 2 có những bước
chuyển mình mạnh mẽ. Theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hiệp quốc
về quyền con người thì quyền con người là “những đảm bảo pháp lý toàn cầu
có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc
sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và sự tự do cơ
bản của con người” [15].
Như vậy, quyền con người dù được nhìn nhận dưới góc độ nào đều được
hiểu là những quyền tự nhiên cơ bản của con người, không thể bị tước đoạt, chiếm
giữ bởi bất cứ ai và bất cứ thế lực nào. Sau chiến tranh, các nước Đồng minh đã
nhận thức được sự cần thiết phải thành lập một tổ chức quốc tế với những cơ chế
pháp lý mạnh mẽ nhằm bảo đảm cho nhân dân thế giới không bao giờ phải chịu
những hoàn cảnh bi thảm về quyền con người như những gì mà chủ nghĩa phát xít
gây ra cho nhân loại.
Tổ chức “Liên hợp quốc” được thành lập 1945 với đại diện của 50 quốc gia
trên thế giới. Mục tiêu của tổ chức này là đảm bảo thi hành các giải pháp về các vấn
đề kinh tế, xã hội, các vấn đề nhân đạo quốc tế khác và thúc đẩy sự tôn trọng các
quyền và tự do cơ bản của con người [26]. Bản Hiến chương của tổ chức này đã
được ký kết vào ngày 24-10-1945, đánh dấu cột mốc quan trọng trong sự phát triển
của Luật quốc tế về quyền con người. Theo đó văn bản pháp lý quốc tế này quy

14


định cụ thể về việc tôn trọng, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, lần đầu tiên đã
gián tiếp nhận nguyên tắc “cá nhân cũng là chủ thể của luật quốc tế”. Đồng thời
Hiến chương cũng đã khẳng định việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người là một
trong những mục tiêu hoạt động của Liên hợp quốc.
Liên hợp quốc đã chính thức khai sinh ra ngành luật quốc tế về quyền con
người, đặt nền móng cho việc tạo dựng một nền văn hóa quyền con người. Năm
1993, Hội nghị thế giới về quyền con người đã được tổ chức. Hội nghị đã khẳng

định mối liên hệ không thể tách rời giữa dân chủ, phát triển và quyền con người.
Tại hội nghị này, các đại biểu đã nhất trí thông qua Tuyên bố Viên kèm theo
chương trình hành động về quyền con người. Cùng với hội nghị Viên, những phát
triển gần đây trên lĩnh vực quyền con người bao gồm việc thành lập Tòa án hình
sự quốc tế lâm thời và thường trực để xét xử các tội ác chiến tranh, tội ác chống
nhân loại... Việc thành lập Hội đồng Liên hợp quốc về quyền con người (2006) đã
làm cho cuộc đấu tranh về quyền con người thực sự phát triển trên phạm vi toàn
cầu với một cơ sở pháp lý vững chắc, được mở rộng không ngừng về cả nội dung
và mức độ bảo đảm.
Quyền con người thể hiện ngay trong lời nói đầu của Hiến chương “phòng
ngừa cho những thế hệ tương lai khỏi thảm họa chiến tranh... đã gây cho nhân loại
những đau thương không kể xiết”. Điều 1 của Hiến chương quy định các mục tiêu
hoạt động của tổ chức này trong đó có các nhiệm vụ như: Duy trì hòa bình và an
ninh quốc tế...; Xây dựng mối quan hệ thân thiện giữa các quốc gia trên cơ sở tôn
trọng các nguyên tắc về quyền bình đẳng và tự quyết của dân tộc; Tăng cường sự
hợp tác quốc tế trong giải quyết các vấn đề quốc tế về kinh tế xã hội, văn hóa và các
vấn đề nhân đạo, thúc đẩy và khuyến khích sự tôn trọng các quyền về con người và
tự do cơ bản cho tất cả mọi người mà không có sự phân biệt đối xử nào về chủng
tộc, giới tính, ngôn ngữ hoặc tôn giáo [26].
“Bộ luật” quốc tế về quyền con người
Ngay sau khi thông qua Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945, tổ chức này
đã bắt tay vào nghiên cứu và cho ra đời Bộ luật quốc tế về quyền con người bao

15


gồm ba văn kiện quốc tế cơ bản trên lĩnh vực này. Đó là Tuyên ngôn toàn thế giới
về quyền con người năm 1948 và hai Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính
trị và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa 1966.
Ngày 10-12-1948, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua bản Tuyên ngôn

toàn thế giới về quyền con người. Đây là văn kiện pháp lý quốc tế đầu tiên tập trung
đề cập đến vấn đề này. Bản tuyên ngôn đã xác định rõ những quyền và tự do cụ thể,
cơ bản của con người trên tất cả các phương diện chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội,
văn hóa. Đến năm 1966 hai công ước về các quyền dân sự, chính trị và về các
quyền kinh tế, xã hội, văn hóa được Liên hợp quốc thông qua bằng Nghị quyết 2200
A (XXI) ngày 16-12-1966.
Ba văn bản pháp lý quốc tế này có một vị trí đặc biệt trong luật quốc tế về
quyền con người, bởi đây là những văn kiện quốc tế đầu tiên có nội dung hoàn toàn
đề cập tới quyền con người. Những văn kiện trong Bộ luật quốc tế về quyền con
người cung cấp các nguyên tắc và tiêu chuẩn cơ bản mà dựa vào đó các văn kiện khác
của luật quốc tế về quyền con người được xây dựng. Điều này đánh dấu bước tiến của
loài người sang một giai đoạn thức được đầy đủ nhân phẩm và giá trị con người.
Các thế hệ quyền con người. Thế hệ quyền con người thứ nhất về các
quyền dân sự, chính trị. Thế hệ này bao gồm các quyền và tự do cá nhân tiêu biểu
như quyền sống, quyền tự do tư tưởng, tự do tôn giáo tín ngưỡng, tự do biểu đạt,
quyền được bầu cử, ứng cử, quyền được xét xử công bằng. Các quyền thuộc thế hệ
này về bản chất chính là thể hiện mục đích để cổ vũ trước và trong các cuộc cách
mạng tư sản nên sau này có được ghi nhận trong các văn bản pháp luật về quyền
công dân của các nhà nước tư sản Châu Âu sau khi thành lập. Như vậy, sự phát
triển của thế hệ con người thứ nhất gắn liền với cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản
lật đổ chế độ phong kiến.
Thế hệ quyền con người thứ hai bao gồm các quyền như quyền có việc làm,
quyền được bảo trợ xã hội, quyền được chăm sóc y tế, quyền có nhà ở.... Động lực
chính thúc đẩy sự hình thành của thế hệ quyền con người thứ hai chính là tình cảnh
khốn khổ của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động trong xã hội tư

16


bản. Thế hệ quyền con người thứ hai hướng vào việc tạo lập các điều kiện và đối xử

bình đẳng, công bằng cho mọi công dân trong xã hội. Sự kiện ra đời của Nhà nước
xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới - nước Nga Xô Viết - vào năm 1917 và ban
bố các quyền kinh tế, văn hóa xã hội cơ bản của con người, trong đó có quyền việc
làm, quyền học tập, quyền được chăm sóc y tế trong hiến pháp và việc thành lập hai
tổ chức liên minh chính phủ quốc tế lớn là Hội quốc liên và Tổ chức Lao động quốc
tế đã đánh dấu sự ra đời của thế hệ quyền con người thứ hai này.
Sự ra đời của Tuyên ngôn về bảo đảm độc lập cho các quốc gia và dân tộc
thuộc địa 1960; hai Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị và về các quyền
kinh tế, xã hội, văn hóa,1966... đã đánh dấu sự ra đời của thế hệ quyền con người thứ
ba. Thế hệ này bao gồm các quyền tiêu biểu như quyền tự quyết dân tộc; quyền phát
triển; quyền với các nguồn tài nguyên thiên nhiên; quyền được sống trong hòa bình;
quyền được sống trong môi trường trong lành... Đó là sự trung hòa nội dung của cả
hai nhóm quyền dân sự, chính trị và về quyền kinh tế, xã hội. Tuy nhiên về tính chất
pháp lý, hầu các quyền trong thế hệ thứ ba chưa được pháp điển hóa bằng các điều
ước quốc tế mà mới chỉ đề cập trong các tuyên bố, tuyên ngôn [15].
1.4. Quyền con ngƣời trong pháp luật một số quốc gia
1.4.1. Quyền con người trong Hiến pháp Nhật Bản
Hiến pháp Nhật Bản (3/11/1946) gồm 103 điều khoản, trong đó bản hiến
pháp này dành 31 điều khoản (Chương III, từ Điều 10 – 40) quy định về các quyền
tự do căn bản của con người [47].
Lời nói đầu bản Hiến pháp thừa nhận rằng tất cả các dân tộc trên thế giới đều
có quyền được sống trong tự do, không phải chịu đựng sự sợ hãi hay thiếu thốn.
Quyền con người được cam kết thực hiện. Theo đó, quyền tự do và những quyền
được bảo đảm trong Hiến pháp này phải được mọi người duy trì v.v... (Điều 12).
Quyền con người được thừa nhận và được Nhà nước bảo vệ (Điều 13) đó là
các quyền như quyền được sống, tự do và mưu cầu hạnh phúc của công dân phải
được đặc biệt quan tâm trong hoạt động lập pháp cũng như trong hoạt động khác
của chính phủ và không đi ngược lại với quyền lợi chung của cộng đồng

17



Hiến pháp Nhật Bản đã quy định đầy đủ về các quyền chính trị, dân sự và tư
pháp để bảo vệ công dân, bảo vệ các quyền con người theo luật pháp quốc tế.
Thứ nhất, đối với các quyền dân sự, chính trị, tư pháp. Hiến pháp Nhật Bản
quy định sự bình đẳng trong xã hội với tất cả mọi người không phân biệt giới tính,
địa vị. Công dân có quyền bầu cũng như bãi miễn công chức và quyền này được
bảo vệ. Các Điều 14, 15, 16 quy định rõ công dân cũng có quyền tối cao trong việc
kiến nghị, ban hành hoặc hủy bỏ các điều luật, trong đó mọi công dân đều bình đẳng
trước pháp luật. Không có sự phân biệt chủng tộc, tín ngưỡng, giới tính, tình trạng
xã hội hay lai lịch bản thân trong tất cả các lĩnh vực chính trị, xã hội, kinh tế. Không
công nhận giai cấp quý tộc hay chức tước quý tộc. Không có bất kỳ đặc ân nào đi
kèm chức tước, huy chương; Công dân có quyền bất khả xâm phạm trong việc lựa
chọn hay bãi nhiệm các viên chức. Các viên chức phục vụ cả cộng đồng chứ không
phải một nhóm người nào. Phổ thông đầu phiếu được áp dụng cho công dân đến
tuổi đi bầu cử được bảo đảm để lựa chọn các vị đại biểu nhân dân. Mọi cuộc bầu cử
đều theo nguyên tắc bỏ phiếu kín. Cử tri không cần tường trình việc bỏ phiếu của
mình với bất kỳ ai; Mọi công dân đều có quyền khiếu nại đòi bồi thường thiệt hại,
cắt chức các công chức, kiến nghị ban hành, huỷ bỏ, sửa chữa đạo luật, sắc lệnh,
điều lệ hay khiếu nại trong các lĩnh vực khác; không người nào bị phân biệt đối xử
vì ủng hộ các kiến nghị này.
Hiến pháp Nhật cũng quy định về quyền tự do về vật chất, tinh thần nhằm bảo
vệ người dân của mình không bị lệ thuộc dưới bất cứ hình thức nào. Các điều 18, 19
của bản hiến pháp này quy định khá cụ thể vấn đề này. Theo đó, không ai bị lệ thuộc
dưới bất cứ hình thức nào. Sự nô dịch, trừ trong trường hợp tự nguyện là hình phạt
của trọng tội, bị ngăn cấm; Các vấn đề liên quan đến quyền tự do ngôn luận, tự do tư
tưởng của quyền con người trong lĩnh vực dân sự, chính trị cũng được hiến pháp Nhật
Bản quy định chặt chẽ, công dân có quyền tự do ngôn luận và tự do tư tưởng.
Quyền về tự do tín ngưỡng của công dân và mối quan hệ của tín ngưỡng với
Chính phủ cũng quy định khá rõ tại của bản Hiến pháp này. Các công dan Nhật đều

có quyền tự do tín ngưỡng. Không một tổ chức tôn giáo nào có thể nhận được đặc

18


ân của Chính phủ hay được thực hiện thẩm quyền chính trị. Không ai bị bắt buộc
tham gia các hoạt động, lễ nghi của các tổ chức tôn giáo. Chính phủ và các cơ quan
Nhà nước không theo nền giáo dục mang tính tôn giáo và cũng không có các hành
vi tôn giáo; Bên cạnh đó các quyền về tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do phát
biểu ý kiến đều được pháp luật bảo vệ tại Điều 21 của bản hiến pháp, theo đó công
dân có quyền tụ họp, ngôn luận, báo chí và mọi hình thức biểu đạt ý kiến đều được
chấp nhận. Không có sự kiểm duyệt và sự tối mật trong các cách thức truyền đạt
thông tin được bảo đảm.
Thứ hai, các quyền dân sự, nhân thân. Việc lựa chọn chỗ ở, nghề nghiệp,
vấn đề về lựa chọn quốc tịch cũng được hiên pháp Nhật Bản tôn trọng. Theo đó,
mọi công dân đều có quyền lựa chọn và thay đổi chỗ ở, nghề nghiệp nếu điều đó
không ảnh hưởng đến quyền lợi chung của cộng đồng. Công dân có quyền xuất
ngoại và từ bỏ quốc tịch (Điều 22).
Thứ ba, các quyền chính trị văn hóa, y tế, giáo dục. Các quyền này được
Hiến pháp Nhật Bản ghi nhận ở các Điều 25, 26. Theo đó, mọi công dân đều có
quyền hưởng các tiêu chuẩn tối thiểu của cuộc sống lành mạnh và có giáo dục.
Trong tất cả các lĩnh vực của đời sống, Chính phủ đều cố gắng khuyến khích, nâng
cao phúc lợi xã hội, an ninh và y tế công cộng; mọi công dân đều có quyền hưởng
một nền giáo dục bình đẳng, phù hợp với khả năng và theo quy định của pháp luật.
Tất cả mọi người đều phải bảo đảm cho con em họ được tiếp thu giáo dục phổ
thông theo quy định của luật pháp. Giáo dục bắt buộc đó được miễn phí.
Trong hiến pháp Nhật Bản 1946 có một Điều (Điều 27) quy định về việc bảo
vệ trẻ em khỏi sự bóc lột sức lao động của người lớn. Theo đó, mọi trường hợp, bóc
lột sức lao động trẻ em là phạm pháp.
Quyền chính trị cũng quy định rõ ràng về quyền được sống, quyền tiếp cận

tòa án để bảo vệ mình. Các quyền về tư pháp đối với việc bắt giam, quyền có luật
sư, quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, tài sản của công dân cũng được pháp luật
bảo vệ. Hiến pháp Nhật Bản trong các Điều 34 đến Điều 37 quy định rõ về việc
không ai bị tước bỏ quyền sống, quyền tự do hay phải chịu các hình phạt hình sự trừ

19


×