Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Một số lễ hội tiêu biểu ở Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.98 KB, 50 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA,
THỂ THAO VÀ DU LỊCH THANH HÓA

MỘT SỐ LỄ HỘI TIÊU BIỂU Ở THANH HÓA

THANH HÓA, 2014


1. Tổng quan về lễ hội ở Thanh Hóa
Lễ hội đối với người dân Việt Nam xưa gần như là một sinh hoạt cộng
đồng rộng lớn nhất và duy nhất. Khi chưa có những hình thức sinh hoạt tinh
thần như chèo, tuồng tổ chức diễn ở sân đình lôi cuốn đông đảo dân làng đi xem,
mà các hình thức sân khấu này mới chỉ xuất hiện vào khoảng thế kỷ XVIII, thì
lễ hội tổ chức hàng năm là dịp dân làng được hòa mình vào với cộng đồng. Theo
GS. Trần Lâm Biền “lễ hội, nếu như không còn thì khó mà tưởng tượng nổi, xã
thôn như trở về miền hoang dã, lấy gì để cân bằng cho một năm đầy vất vả, cho
hoà hợp yêu thương và phần nào bản sắc sẽ dễ tàn phai, làm cạn mòn lòng yêu
quê hương nguồn cội…”1
Lễ tục, lễ hội xứ Thanh có từ thời xa xưa gắn liền với việc tập hợp và tổ
chức các lực lượng để chiến đấu và sản xuất, thể hiện nhu cầu cân bằng đời sống
tâm linh, sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hóa của cộng đồng dân làng. Lễ
hội xứ Thanh mang sắc thái của nền văn minh nông nghiệp, gắn với tín ngưỡng
dân gian thờ thần thánh và những người có công với dân làng, đất nước. Lễ hội
truyền thống xứ Thanh rất đa dạng và là nơi lưu giữ lâu dài các tục lệ, dân ca,
diễn xướng, trò diễn dân gian phong phú và độc đáo.
Về số lượng, Theo Lê Huy Trâm – Hoàng Anh Nhân, số điểm có lễ hội trên
tỉnh Thanh Hóa được tính như là đơn vị lễ hội với tiêu chí của mỗi đơn vị là có
thần tích, có lệ tục, có thời gian hội và lễ, có trò diễn riêng, mang màu sắc địa
phương văn hóa làng (có thể phân biệt với làng khác) con số lên đến trên 50 đơn
vị2. Theo thống kê của Sở Văn hóa – Thể thao – Du lịch Thanh Hóa, toàn tỉnh
Thanh Hóa hiện nay có 160 lễ hội truyền thống liên quan đến di tích lịch sử,


danh thắng được nhà nước công nhận, 50 lễ hội liên quan đến tín ngưỡng tôn
giáo. Trên tổng số 5757 làng, bản, khu phố có 1/3 làng, bản, khu phố tổ chức lễ
hội hàng năm. So với các địa phương khác đó là con số quả là không nhỏ, đã thu
hút hàng triệu du khách đến tham dự. Nhiều lễ hội có ý nghĩa lớn về mặt lịch sử,
văn hóa, có tác dụng tích cực trong việc giáo dục truyền thống yêu nước và khôi
1
2

Trần Lâm Biền, Hội xuân vài dòng suy ngẫm, Tập san TTKH trường CĐ VHNT Thanh Hóa, tr. 13
Lê Huy Trâm – Hoàng Anh Nhân (2001), Lễ tục, lễ hội truyền thống xứ Thanh, Nxb Văn hóa dân tộc, tr.10


phục phát triển những nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cổ truyền. Hàng năm, ở
khắp các địa phương trên toàn tỉnh đều tổ chức long trọng và trang nghiêm các
lễ hội đặc trưng của từng địa phương để đáp ứng một phần đời sống tinh thần,
tâm linh của người dân, đồng thời còn để phục vụ mục đích phát triển du lịch.
Lễ hội ở Thanh Hóa rất phong phú và đa dạng, mang nhiều màu sắc đặc trưng
của từng tập tục, lề thói riêng biệt.
Về thời gian, cũng như những vùng miền khác trên cả nước, do đặc trưng
của nền kinh tế nông nghiệp, lễ hội Thanh Hóa diễn ra nhiều nhất vào những
khoảng thời gian nông nhàn như sau tết vào tháng giêng mùa xuân hoặc vào
tháng 7, tháng 8 mùa thu (xuân thu nhị kỳ).
Về không gian, cũng như các địa phương khác trong nước, lễ hội Thanh
Hóa chủ yếu diễn ra trong không gian làng. Lễ hội là biểu hiện sinh động nhất,
là tổng hợp lịch sử văn hóa làng. Tất cả từ tín ngưỡng, phong tục tập quán… của
làng đều được thể hiện trong lễ hội. ở Thanh Hóa có những lễ hội được mở rộng
phạm vi như nhiều làng giao chạ trong lễ hội song việc mời chạ cũng khép kín
trong phạm vi làng, do làng tự lo liệu. Cũng có Đền thờ được “quốc tế” (tức là
được triều đình ban chỉ dụ, cử quan về chủ trì cuộc tế) song lễ hội vẫn chỉ diễn
ra trong không gian làng. Có một số lễ hội mở ra trong không gian lớn hơn: Hội

vùng. Cả vùng (gồm nhiều làng) cùng thờ chung một Thánh và trong kỳ lễ hội
thì các làng về đền chính, nghè chính để tế thánh. ở Thanh Hóa có nhiều nghè có
tên là nghè Ba Làng, nghè Tứ Thôn (tức là nghè thờ Thành Hoàng chung của
nhiều thôn làng) nhưng bao giờ cũng có làng làm hạt nhân. Cũng có lễ hội lấy
Tổng (tức nhiều làng) làm không gian lễ hội như lễ hội đền thờ Trần Nhật Duật
ở Văn Trinh thuộc tổng Văn (Quảng Xương), Đền Tam Tổng thờ Thánh Lưỡng
Trần Khát Chân ở huyện Vĩnh Lộc. Nghè Sâm là nghè thờ Cao hoàng ở làng
Viên Khê (Đông Sơn) là Nghè hàng Tổng (tức tổng Thạch Khê) gồm 3 xã 9
thôn thuộc Kẻ Rủn xưa. Vào ngày hội tế, các làng trong tổng chia nhau các phần
việc, cử làng đăng cai việc chủ trì tế Thánh để mở hội.


Về cấp độ, lễ hội xứ Thanh rất đa dạng và phong phú, Theo Lê Huy Trâm –
Hoàng Anh Nhân, Thanh Hóa có các dạng lễ hội từ sơ khai đến các hoạt động lễ
hội phát triển cao.
- Cấp độ hoạt động tục lệ: loại lễ hội này còn rất thô sơ theo tục và theo lệ
nhằm thực hiện một tín ngưỡng từ xa xưa truyền lại mà người thực hiện về sau
không hề biết đến nguồn gốc, nguyên nhân, chỉ nhắm mắt làm theo song bỏ đi
thì không được. Có thể kể đến tục chơi Hang Lãm (huyện Thường Xuân); tục
chơi Chợ Chuộng (Đông Sơn), chợ Hoàng (Nga Sơn), chợ Chìa (Tĩnh Gia); tục
chơi chợ Tình duyên của người Mường (Cẩm Thủy).
- Cấp độ lễ tục: hoạt động lễ hội ở cấp độ này vẫn còn gắn với tục nhằm bộ
lộ một mong muốn của cả cộng đồng song không còn chỉ là hoạt động tục lệ
nữa. Phần lễ ở đây đã thành quy củ, được ghi trong các khoán ước của làng, còn
phần Hội đã có trò diễn (tuy còn thô sơ) và trở thành nghĩa vụ của các thành
viên trong làng. Lễ tục làng Thiết Đanh là một ví dụ tiêu biểu. Sở dĩ không gọi
là lễ hội vì hoạt động này hoàn toàn theo tục: năm nào trong làng không có cố
ông nào vào tuổi 60 thì phải kéo chò Chụt để mong không có tai ách cho làng.
Trò Chụt có thể 2 – 3 năm làm một lần, cũng có thể mươi lăm năm mới làm lại.
- Cấp độ lễ hội: là cấp độ hoàn chỉnh nhất của hội làng miền xuôi. Cấp độ

lễ hội thể hiện đầy đủ 5 thành tố trong cấu trúc lễ hội: Thành Hoàng – Thần tích
– Thần điện – Tục lệ và Trò diễn, hội đủ các yếu tố của phạm vi lễ hội (thời
gian, không gian, nội dung ý nghĩa và văn hóa làng). Nó thỏa mãn đầu đểu nhu
cầu hội hè đình đám của người nông dan và biểu hiện cao nhất tín ngưỡng nông
nghiệp, lễ nghi nông nghiệp trong các xóm làng xưa. Những lễ hội điển hình ở
Thanh Hóa là lễ hội Lam Kinh, lễ hội đền Bà Triệu, lễ hội đền Sòng, lễ hội đền
Độc Cước, lễ hội Phủ Na....
Về loại hình, có thể phân lễ hội Thanh Hóa thành những loại hình nổi trội
sau:


- Lễ hội tín ngưỡng: Thường là tín ngưỡng dân gian, thờ các thần thánh như
thờ thành hoàng, thờ Mẫu, thờ các thần liên quan đến các hoạt động kinh tế như
nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp…
Những lễ hội tiêu biểu của nhóm này phải kể đến lễ hội xã Thiệu Trung,
tưởng niệm ông tổ nghề đúc đồng Khổng Minh Không, lễ hội xã Quảng Cư ở
Sầm Sơn tưởng niệm bà Triều – tổ sư nghề dệt săm xúc, lễ hội đình Phú Khê xã
Hoằng Phú – Hoằng Hóa Tổ nghề hát…
Các lễ hội gắn với tín ngưỡng thờ mẫu như lễ hội Phố Cát ở Thạch Thành,
lễ hội đền Sòng ở thị xã Bỉm Sơn, lễ hội Phủ Na (Xuân Du – Như Thanh)
- Lễ hội lịch sử: thường gắn với việc tưởng niệm các nhân vật lịch sử của
dân tộc đã có công trong việc đấu tranh, giữ gìn và bảo vệ tổ quốc như lễ hội
đền Bà Triệu (Hậu Lộc), lễ hội Lam Kinh (Thọ Xuân), lễ hội Lê Hoàn (Thọ
Xuân)… Đây là các lễ hội thường được tổ chức công phu, quy mô vượt ra khỏi
phạm vi của tỉnh, có tác dụng thu hút khách du lịch trên phạm vi toàn quốc.
- Lễ hội dân gian gắn với truyền thuyết: hiếm có một vùng quê nào lại có
nhiều truyền thuyết thấm đậm chất nhân văn như ở Thanh Hóa. Đó là truyền
thuyết Từ Thức gặp Giáng Hương gắn với lễ hội Từ Thức (Nga Sơn); truyền
thuyết Mai An Tiêm và quả dưa đỏ gắn với lễ hội Mai An Tiêm (Nga Sơn);
truyền thuyết Thần Độc Cước, hòn Trống Mái ở núi Trường Lệ, truyền thuyết

cửa Thần Phù ở Nga Sơn; truyền thuyết ông Vồm ở Thiệu Hóa, trạng Quỳnh ở
Hoằng Hóa…
Những lễ hội còn tồn tại trên đất Thanh Hóa đến ngày nay là kết quả của
một quá trình tiếp diễn và biến đổi văn hóa phong phú trải qua hàng nghìn năm.
Ban đầu chủ yếu là các sinh hoạt tục lệ, mang màu sắc văn hóa tín ngưỡng,
trong quá trình người dân xứ Thanh tham gia vào tiến trình lịch sử dân tộc, đặc
biệt có nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của nước nhà thuộc mọi giai đoạn lịch
sử diễn ra trên đất Thanh Hóa khiến lễ hội Thanh Hóa có xu hướng lịch sử hóa
rõ rệt, những lễ hội mang màu sắc tín ngưỡng dần dần bị biến đổi trở thành lễ
hội lịch sử.


Trò diễn có mặt trong hầu hết các hội làng ở nước ta, tuy nhiên có thể
khẳng định rằng, không nơi nào còn bảo lưu kho tàng trò diễn dân gian điển
hình và phong phú như ở Thanh Hóa. Số lượng trò diễn trong lễ hội ở Thanh
Hóa rất lớn, có khi trong một trò lại bao gồm nhiều trò diễn hợp lại, do vậy tính
ra phải tới hàng trăm trò diễn khác nhau. Ví như trò Láng (hay trò Xuân Phả)
gồm 8 trò: trò Kéo hội, trò Chạy giải, trò Chèo thuyền, trò Hoa Lang, trò Chiêm
Thành (trò Xiêm), trò Ai Lao (trò Lào), trò Ngô Quốc (trò Ngô), trò Lục hồn
nhung (Tú Huần). Trò Bôn (Kẻ Bôn, xã Đông Thanh, Đông Sơn, Thanh Hóa)
gồm 6 trò: đấu cờ người, Tiên cuội (Tiên phường), Trò thủy (Thủy phường), Trò
Ngô (Ngô phường), Trò Hà Lan (Hà Lan phường), Trò Lăng Ba Khúc… Nhiều
trò diễn đặc sắc khác như trò chụt trong lễ hội làng Thiết Đanh, trò đánh bài
điếm ở lễ hội làng Duy Tinh (Văn Lộc, Hậu Lộc), trò đánh hát thị lập, trò đánh
cờ người, trò thi bơi ở lễ hội làng Cự Nham; trò múa lân ở làng Vạc… Hiếm nơi
nào trên đất nước Việt Nam đã hình thành những trung tâm, nơi mà các trò diễn
đậm đặc hơn, có các trò lớn và điển hình. Đông Sơn là một trung tâm trò diễn
tiêu biểu. Nhiều nhà nghiên cứu cũng đã thấy trong trò diễn dân gian Thanh Hóa
những yếu tố tiền sân khấu. Đó là các “tích” đã bắt đầu hình thành các cốt
truyện, đó là những lời thoại của nhân vật khi diễn xướng với những mâu thuẫn

và giải quyết mâu thuẫn mang tính kịch tính, đó là tính cách của một số nhân vật
đã bắt đầu hình thành như thằng Ngô, con đĩ, các nhân vật Sĩ, Nông, Công,
Thương…
Trò diễn ở Thanh Hóa không chỉ phong phú về số lượng mà nội dung phản
ánh cũng rất đa dạng.
Các trò diễn phản ánh nội dung lịch sử như: Trò Láng (Xuân Phả), tái hiện
lại mối quan hệ bang giao giữ nước ta với các nước láng giềng trong lịch sử; trò
Ngô Triệu giao quân trong lễ hội đền Bà Triệu tái hiện lại cuộc chiến đấu chống
quân xâm lược phương Bắc trong cuộc khởi nghĩa Bà Triệu…
Các trò diễn liên quan tới các phong tục của làng như trò Chụt ở làng Thiết
Đanh được tổ chức khi năm đó làng không có cụ ông nào thọ 60 tuổi để cầu cho


làng không bị tai ách; trò nấu cơm thi ở nhiều làng; trò Vật cù trong lễ hội làng
Vạc.
Các trò diễn nhằm rèn luyện trí tuệ, sức khỏe và tạo không khí sôi nổi
trong lễ hội như trò đánh cờ người, trò đánh bài điếm, trò bơi thuyền có trong
nhiều lễ hội; trò kéo hội, trò chạy giải trong hội làng Xuân Phả.
Các trò diễn hát xướng, giãi bày tâm tư tình cảm như trò diễn Pồn Pông
của dân tộc Mường và trò diễn Kim chiêng boóc mạy của dân tộc Thái.
Trò diễn hình thành và tồn tại trong môi trường lễ hội, nếu tách riêng trò
diễn thì vẫn có phần vui tươi, nhưng mất đi yếu tố tâm linh vô cùng quan trọng.
Các trò diễn luôn phải được đan xen cùng các nghi lễ, phong tục tạo nên tính
tổng thể của lễ hội, như thế lễ hội nói chung và trò diễn nói riêng mới có thể tồn
tại và sống được lâu dài trong nhân dân.
2. Một số lễ hội tiêu biểu ở Thanh Hóa
* Lễ hội Lam Kinh:
Lễ Hội Lam Kinh (từ 20-22/8 âm lịch hàng năm) là lễ hội truyền thống suy
tôn công lao của nghĩa quân Lam Sơn gắn với vị thế của người anh hùng dân tộc
Lê Lợi, là điểm nhấn đậm nét trong sinh hoạt văn hoá của Xứ Thanh. Lễ hội

này cũng nổi tiếng cả nước và ăn sâu vào tâm thức người Việt với sự tích “hăm
mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi”. Lễ hội Lam Kinh là một trong những lễ hội lịch sử
đã trở thành quốc lễ cùng với lễ hội đền Hùng (Phú Thọ), lễ hội Hai Bà Trưng
(), lễ hội Trường Yên (Ninh Bình), lễ hội Tây Sơn (), lễ hội đền Bà Triệu (Thanh
Hóa).
Sau 10 năm kháng chiến gian khổ, năm 1428 cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
hoàn toàn thắng lợi. Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Thuận Thiên, đặt
lại quốc hiệu Đại Việt, mở đầu cho triều đại Lê sơ hưng thịnh và kéo dài nhất
trong lịch sử phong kiến Việt Nam với 26 đời vua và trị vì được 354 năm.
Cũng giống như các triều đại trước, để tỏ lòng tôn kính đối với tổ tiên, các
vua triều Lê sơ đã cho xây dựng trên quê hương mình một khu điện, miếu thờ và


lăng tẩm có quy mô lớn ở Lam Sơn, được gọi là Tây Kinh hay Lam Kinh và coi
đây là kinh đô thứ hai của nước Đại Việt dưới thời Lê sơ.
Qua những tài liệu và sách vở ghi chép, lễ hội Lam Kinh xưa được tổ chức
vào tháng hai âm lịch hàng năm chứ không phải vào ngày 21, 22, 23 tháng tám
âm lịch như hiện nay:
Hăm mốt Lê Lai
Hăm hai Lê Lợi
Hăm ba giỗ mụ hàng dầu
Lễ hội xưa được tổ chức hàng tháng trời từ khi vua và các quần thần xa giá
về Lam Kinh bái yết sơn lăng đến khi trở lại Đông Kinh, chứ không phải chỉ
trong ba ngày như hiện nay: Hai mốt Lê Lai / Hai hai Lê Lợi / Hai ba giỗ mụ
hàng dầu… Lễ hội xưa có quy mô quốc tế của triều đình nhà Lê với không gian
lễ hội rộng lớn (cả tỉnh Thanh) và thời gian lễ hội dài (hàng tháng trời). Nó khác
hẳn với hội làng chỉ diễn ra trong không gian hẹp và thời gian ngắn.
Tham gia lễ hội Lam Kinh, du khách còn được tận hưởng một không gian
thoáng đãng của khu rừng nguyên sinh, được đắm mình trong phong cảnh sơn
thủy hữu tình và tham quan các điểm di tích nổi tiếng, đặc biệt là khu lăng mộ

bia Vĩnh Lăng – tấm bia được đánh giá là một trong những tấm bia lớn và đẹp
nhất Việt Nam.
Lễ hội Lam Kinh vốn là một lễ hội cung đình, theo nghi thức tế lễ cũng
đình thời Lê do các đại thần soạn định theo điển lễ chứ không phải là lễ hội giân
dan thường gặp ở các làng quê. Thời Lê, Nho giáo rất được đề cao, do vậy tục
hát rí ren, thể hiện tín ngưỡng phồn thực trong quan niệm thẩm mỹ của dân gian
đã bị các quan đại thần – nho học bài bác, coi đó là thói dâm dục của chốn thôn
quê cần loại bỏ khỏi lễ hội Lam Kinh. Cùng với việc tế lễ theo cách thức quy
định chặt chẽ, nhà vua sai chế ra các điệu vũ: Bình Ngô phá trận, Chư hầu lai
triều… âm nhạc có đánh trống đồng… nghi thức tế lễ cung đình.


Theo Phan Huy Chú, các trò diễn Bình Ngô phá trận, Chư hầu lai triều... là
những trò đậm nét dân gian được thực hiện xen kẽ trong một số lễ tế ở điện Lam
Kinh, khi các vua thời Lê sơ về bái yết Sơn Lăng vào rằm tháng giêng hàng
năm, sau đó bị coi là thứ trò diễn của tiện dân, bị loại bỏ. Nhưng, ở các làng quê
Thọ Xuân, Thanh Hóa, nhất là các làng xã gần khu Lam Sơn vẫn bảo lưu cho
đến ngày nay.
Theo Lê Huy Trâm, trò Tú Huần và một số trò chơi đồng dạng khác ở Lam
Kinh, trai gái ngồi xếp chéo chân tay, kết thành hoa nụ, vừa hát vừa phụ họa với
người nhảy múa xung quanh, hình ảnh dân gian trên gợi ký ức về một xã hội
nông nghiệp thanh bình ở thời Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông và ngày nay ở các
vùng quê Thọ Xuân - Thanh Hóa trẻ em vẫn còn chơi các trò hát múa đồng giao
có hình ảnh tương tự.
Sau khi nhà Lê sơ sụp đổ, lễ hội Lam Kinh thưa vắng dần và rơi vào quên
lãng, không còn được tổ chức theo nghi lễ cung đình. Lễ hội Lam Kinh chỉ còn
một phần ảnh xạ qua lễ hội đền Lê ở làng Bố Vệ trong triều Nguyễn, nhưng
không thể so sánh được với lễ hội Lam Kinh xưa. Tại Lam Kinh, tuy không
được triều đình tế lễ hàng năm như xưa, nhưng với sự hướng về cội nguồn nhằm
tôn vinh triều đại nhà Lê và những anh hùng dân tộc đã làm rạng danh cho non

sông đất nước và quê Thanh, nhưng nhân dân Thanh Hóa đã dân gian hóa lễ hội
Lam Kinh đọng lại trong lễ hội đền vua Lê ở làng Cham, xã Xuân Lam, huyện
Thọ Xuân và ở làng Kiều Đại, Bố Vệ, phường Đông Vệ, TP Thanh Hóa ngày
nay. Việc chuyển lịch lễ tiết từ tháng hai sang tháng tám âm lịch như hiện nay
cũng là phù hợp với tâm thức dân gian.
Trong quy hoạch chiến lược phát triển du lịch Thanh Hóa giai đoạn 2010 –
2020 đã xác định lễ hội Lam Kinh là sản phẩm cốt lõi mang tính chiến lược tạo
ra nam châm chính thu hút khách đến Thanh Hóa. Khu di tích Lam Kinh xứng
đáng với giá trị lịch sử và giá trị văn hóa thời Lê của Đại Việt. Các giá trị này
chỉ có thể hiện hữu, phát huy được và để lại cho các thế hệ mai sau khi nó được
tôn tạo vào tái hiện.l


* Lễ hội đền Độc Cước
Thờ thần Độc Cước là một tín ngưỡng ở nhiều vùng quê Thanh hóa, nhưng
địa điểm gắn với sự tích của thần chính là ở vùng biển Sầm Sơn.
Theo truyền thuyết, có một người đàn bà chửa bị nước lũ cuốn trôi dạt về
vùng biển Sầm Sơn. Dân trong vùng thương xót hàng ngày đi qua nhặt đá đắp
lên xác bà. Người mẹ tuy đã được đắp mộ cao nhưng cái thai trong bụng vẫn
còn sống. Sau một thờ gian dài, một chú bé trong bụng mẹ chui ra, hàng ngày
quanh quẩn bên mộ mẹ và lấy đất đá đắp thêm làm thành dãy núi dài và cao như
ngày nay. Chú bé sống trong tình yêu thương đùm bọc của dân làng và có sức
khỏe phi thường. Ngày ấy, có một loài thủy quái mũi đỏ xuất hiện từ biển Đông
tràn vào phá phách, quấy nhiễu làm cho làng xóm xơ xác tiêu điều. Chàng trai
xin dân làng rèn một chiếc búa đồng để diệt bọn quỷ Đỏ. chàng cầm búa theo bè
ra biển đánh cá, bọn quỷ Đỏ xông vào bè đều bị chàng chém chết. Nhưng bọn
quỷ rất tinh quái, hôm nào chàng trai ra khơi thì chúng kéo vào đất liền làm hại
dân làng, hôm nào chàng ở lại đất liền chúng lại hùa nhau ra khơi vây các bè
lưới để ăn thịt đoàn người đánh cá. Chàng chai đã dùng búa đồng xẻ đôi thân
mình: một nửa trấn ở trong làng, một nửa canh giữ ngoài biển khơi, bọn quỷ đỏ

bị đuổi đánh tơi bời. Cảm phục lòng dũng cảm và nhân ái của chàng, Ngọc
Hoàng cho vời chàng lên thiên đình để phong chức tước nhưng chàng nhất quyết
xin ở lại trần gian giúp dân chúng, Ngọc Hoàng liền phong chàng làm Thánh và
bản cho phẩm trật được nhân dân đời đời tôn vinh thờ phụng, hương khói.
Truyền thuyết và tín ngưỡng thờ thần Độc Cước là một nét độc đáo ở vùng biển
Sầm Sơn, thể hiện quá trình người Việt nơi đây tiến ra biển nhưng còn ngập
ngừng và sợ hãi trước biển.
Đền thờ Độc Cước tọa lạc trên mỏm núi Sầm Sơn nhô ra biển. Nhân dân
gọi nơi xây đền là Hòn Cổ Giải – là mỏm cực đông của dãy núi Trường lệ, phía
Tây là những thắng cảnh nổi tiếng như Hòn Trống Mai, chùa Cô Tiên.
Việc tế lễ ở đền Độc Cước hầu như diễn ra quanh năm song tập trung phần
nhiều vào tháng giêng, tháng hai, tháng năm âm lịch. Lệ tế lễ có hai hình thức:


Tiểu tế và Đại tế. Tiểu tế có Tế mộc dục vào 30 tháng chạp (lễ tắm tượng), Tế
giao thừa (vào đêm giao thừa), Tế mở cửa đền vào 13 tháng giêng âm lịch để
khách thập phương được vào lễ thánh trong năm mới, Tế cơm mới khi thu hoạch
xong mùa màng. Các kỳ Đại tế gồm có:
- Tế Chàm Lợn: vào mồng năm tháng giêng
- Tế Chàm Trâu: vào mồng sáu tháng giêng
- Tế Bốc thăm: vào mồng bảy tháng giêng để bốc thăm nhà làm Xám Lợn,
Xám Trâu
- Tế Cầu Cát: vào mồng năm tháng ba để cầu may mắn, bình yên cho cả
làng
- Tế Xám tạ: vào ngày mười hai tháng ba với ý nghĩa các Nhà Xám làm
xong nghĩa vụ, trong năm được thánh phù hộ làm ăn khá giả nên làm lễ tạ thánh
đã ban lộc.
Các kỳ đại tế do làng Núi tổ chức tại đền Thượng. Ngoài ra còn có hai đại
tế trong lễ hội do 4 làng: Sầm Thôn, Lương Trung, Cá Lập, làng Hới thuộc xã
Lương Niệm tổ chức chung là lễ cầu mưa và lễ kỳ phúc cầu yên. Hai lễ hội này

tổ chức với quy mô lớn, thu hút nhiều người tham gia, tạo nên nét văn hóa đặc
sắc vùng Sầm Sơn.
* Lễ cầu mưa
Lễ cầu mưa hay còn gọi là Tế rước nước được tổ chức vào năm hạn vào
ngày mười ba tháng năm âm lịch. Trong ngày tế này đã thành lệ hai làng Sầm
Thôn và Lương Trung phải mang đến hai con trâu và một thủ lợn, xôi và rượu
để tế thần, còn mỗi làng có cỗ bánh chưng, bánh giày. Mỗi cỗ có 120 bánh giày
con, 4 bánh giày lớn và 4 bánh chưng to. Bánh giày lớn có đường kính 40cm,
dày 7cm. Bánh chưng vuông có cạnh 40cm, dày 10cm. Các bánh giày con xếp
lên án thờ theo hình chóp, 4 bánh chưng và 4 bánh giày to xếp theo từng cặp đặt
ở 4 góc án thư, bên bên đặt hoa quả.


Cỗ bánh chưng bánh giày là cỗ thi giữa các làng. Mỗi làng cử một cụ cao
niên vào chấm giải. Bốn làng đem cỗ lên đền Thượng tế cầu mưa, các cụ già
trong ban giám khảo cùng dân làng thảo luạn và chọn ra những cỗ bánh được
giải là những chiếc bánh đúng kích thước, bột trắng mịn, dẻo và miềm. Định giải
xong cỗ được rước vào đền để tế thánh. Tế xong cỗ làng nào đem về làng ấy.
* Lễ kỳ phúc
Lễ kỳ phúc được tổ chức vào 12, 13, 14 tháng hai âm lịch vào những năm
Tý, Ngọ, Mão, Dậu do các làng lần lượt đăng cai. Trong ba ngày lễ hội, làng đến
lượt đăng cai phải chịu mọi phí tổn và sắm lễ vật đầy đủ để tế. ngoài nghi thức tế
thần, các làng còn tổ chức các trò chơi như đánh vật, bơi chải, đánh cờ người và
đặc biệt là tổ chức rước kiệu. Các làng rước kiệu thành hoàng làng mình về đình
làng đăng cai để tế. Nghi thức rước kiệu cũng có điểm đăcọ biệt: kiệu bà Triều
được rước đi đầu, kiệu thần Độc Cước được rước tiếp theo, sau đó mới đến kiệu
các thần của 8 thôn được xếp theo trình tự các bậc Thượng thượng đẳng,
Thượng đẳng và Trung đẳng mà triều đình đã phong tặng.
Việc rước kiệu bà Triều đi trước kiệu Độc Cước cũng được gắn với truyền
thuyết dân gian: bà Triều vốn là con gái út của một vị vua thời Lý. Vì mê sắc

đẹp của nàng út, Long Vương đòi vua Lý phải gả con gái cho mình, nếu không
sẽ dâng lũ tàn phá. Nhà vua bắt buộc phải nghe theo. đoàn thuyền đưa dâu ra
biển Đông thì gặp trận cuồng phong, thuyền nàng út thoát đợc vao cửa biển Sầm
Sơn và được dân chài cưu mang che chở. Nàng mang nghề dệt dạy dân đan lưới
vó đánh cá. Về sau mất được dân làng Triều Dương thờ làm Thành hoàng và gọi
là bà Triều.
Thần Độc Cước ngỏ lời cầu hôn với bà Triều, bà Triều đã ra điều kiện hai
thần phỉ cùng nhau thi tài: Độc Cước tung con trâu lên trời để rơi xuống nát bét
rồi phải nặn lại như cũ, còn bà Triều thì xé nhỏ một tấm lụa rồi dệt lại thành tấm
lụa mới, ai xong trước thì người ấy thắng cuộc. Nếu Độc Cước thắng thì được
lấy Bà Triều làm vợ, ngược lại Độc Cước phải làm em gọi bà Triều là chị. Trong
giây lát bà Triều đã dệt lại tấm lụa như cũ trong khi Độc Cước mới nặn được cái


đầu trâu. Độc Cước thua phải làm em tôn bà Triều là chị. Từ sự tích ấy, khi tổ
chức rước kiệu lễ vật, trên kiệu bà Triều là tấm lụa trắng tinh nguyên, lễ vật trên
kiệu thần Độc Cước là một cái đầu trâu. Khi rước kiệu, kiệu Bà Triều đi trước,
kiệu Độc Cước đi sau nhưng thỉnh thoảng vẫn tạt lên để “ngó” kiệu Bà Triều. Lễ
rước kiệu vừa trang trọng, đông vui, sắc màu sặc sỡ thu hút đông đảo nhân dân
trong vùng đến dự.
Theo sách "Thanh Hoá chư thần lục" tỉnh Thanh Hoá có tới 52 nơi có đền,
miếu thờ thần Độc Cước thuộc các huyện Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hoá, Yên
Định, Quảng Xương, Đông Sơn... Trong các đền thờ ở các địa điểm nói trên,
đền Độc Cước ở Sầm Sơn nổi tiếng hơn cả là do gắn với thắng cảnh Sầm Sơn.
Vào những ngày đầu năm, nhân dân trong vùng sau khi cúng bái ở các Chùa,
Phủ "trên rừng" như đền Cửa Đạt, Phủ Na... đều "xuống biển" dâng lễ ở đền
Độc Cước, đền Cô Tiên để cầu may mắn. Đặc biệt từ khi thắng cảnh Sầm Sơn
trở thành khu du lịch nghỉ mát nổi tiếng, thu hút du khách trong nước và quốc tế
thì đền Độc Cước và lễ hội đền Độc Cước cũng là một điểm quan trọng trong
hành trình du lịch xứ Thanh.

* Lễ hội đền bà Triệu
Lễ hội đền Bà Triệu gắn với tên tuổi của Triệu Thị Trinh - vị anh hùng dân
tộc thời đầu công nguyên của đất nước đã khởi binh chống lại nhà Hán tại vùng
núi Nưa. Câu nói của bà đã được lưu truyền muôn đời: “Tôi muốn cưỡi cơn gió
mạnh, đạp bằng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi giặc Ngô ra
khỏi giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tỳ thiếp cho người
ta”.
Hình tượng Bà Triệu không chỉ được ghi dấu trong sử sách mà còn được
hóa thân đẹp đẽ trong truyền thuyết, ca dao. Hình ảnh của bà khi ra trận được
lưu lại vô cùng đẹp đẽ: “mặc áo giáp vàng, đi guốc ngà, cài trâm vàng, cưỡi voi
trận” đôi khi kỳ vĩ “vú dài ba thước” – là một sự tôn kính sức mạnh và khả
năng siêu thực của bà làm cho quân Ngô kinh hoàng mỗi khi giáp trận. Biết bà
là người con gái ái khiết úy ô (yêu cái trong sạch, ghét cái nhơ bẩn), quân giặc


đã phải dùng đến cách dùng đội quân 100 tên không một mảnh giáp che thân để
giao chiến khiến Bà thấy bị làm nhục, lui quân và thất trận. Bà đã tuẫn tiết tại
núi Tùng Sơn, làng Bồ Điền (thuộc địa phận Hậu Lộc ngày nay) vào ngày 21/2
năm Mậu Thìn (248). Để tưởng nhớ công ơn của bà, nhân dân quanh vùng đã
lập đền thờ bà tại núi Bần (còn gọi là núi Gai), xây lăng mộ bà tại núi Tùng Sơn
và làng Bồ Điền đã dựng ngôi đình lớn ở giữa làng để quanh năm hương khói
thờ phụng bà. Tương truyền, Bà Triệu đã hiển linh, giúp Lý Nam Đế đánh thắng
giặc Lâm ấp quấy rối phương Nam.
Lễ hội đền bà Triệu là lễ hội lich sử, được diễn ra liên tục từ sáng ngày 19
đến 24 tháng 2 âm lịch hàng năm. Phần hội và phần lễ đươc đan xen vào nhau,
trong lễ có hội, trong hội có lễ, không phân chia như các lễ hội khác.
Điểm nhấn trong lễ hội là việc rước bóng từ đến chính qua lăng rồi về đình
làng và từ đình làng rước trở về đền chính. Trong khi rước kiệu, cứ đi một đoạn
là kiệu lại quay tròn - người ta gọi là “kiệu bay”, tạo nên một sự kiện lạ trong
hình thức rước kiệu ở các lễ hội nói chung. Có người gọi đây là một hiện tượng

lên đồng tập thể, bởi vì những người khiêng kiệu nói rằng họ như say trong khi
khiêng, họ không điều khiển được hành động của mình.
Trong những ngày hội, quanh đền Bà Triệu lúc nào cũng tấp nập, đông vui,
ngoài tế lễ còn có các trò đấu vật, leo dây, thổi cơm thi, đánh cờ tướng, đặc biệt
là có hầu bóng. Buổi hầu bóng này gọi là "giá đồng Bà Triệu". Giá đồng này
khác với các giá đồng tại các phủ Mẫu, không kéo dài và không có truyền phán
gì. Trang phục của người ngồi giá đồng cũng khác, thường mặc quần áo đỏ, thắt
lưng xanh, giắt kiếm ngang lưng, bên ngoài khoắc áo choàng đỏ, đầu chít khăn
nhiều nếp, nhiều màu sắc. Người ngồi đồng chỉ ban trầu hoặc rượu cho người
xung quanh. Có những lúc việc hầu bóng ở đền Bà Triệu bị coi là mê tín dị đoan
do việc không am hiểu văn hóa, lịch sử. Nhưng đến nay, với việc Nhà nước
công nhận lăng và đền thờ Bà Triệu là di tích lịch sử, nét sinh hoạt văn hóa này
đang được khôi phục với đúng bản chất và ý nghĩa của nó.


Đặc biệt, trước ngày lễ hội, tại làng Phú Điền còn diễn ra hội "Ngô Triệu
giao quân" là một hình thức nhằm tạo ra dấu ấn sâu đậm trong tâm thức các thế
hệ về chiến công oanh liệt của Bà Triệu. Trai làng chia làm hai phe dùng gậy tre
đánh trận giả, phe nào thắng được gọi là quân Bà Triệu, phe nào thua phải rút
chạy được gọi là quân Ngô. Cuộc giao tranh diễn ra đến trưa rồi cả hai bên hòa
vào nhau để đi rước kiệu vua Bà. Buổi trưa hôm ấy mọi người đều ăn đồ nguội
để tưởng nhớ việc ra trận phải ăn lương khô, buổi tối các nhà mới làm cơm mời
nhau ăn uống linh đình coi như đang mở tiệc khao quân.
Như vậy, lễ hội đền bà Triệu là lễ hội lịch sử, nó được hình thành trên một
sự kiện lịch sử có thật, nhằm tỏ lòng tôn kính của người đương thời. Đồng thờ,
lễ hội đã tạo ra một hoạt động văn hoá làm sống lại lòng yêu nước, ý chí kiên
cường, bất khuất và tài năng xuất chúng của Bà Triệu – một vị nữ anh hùng dân
tộc để làm gương cho muôn đời con cháu mai sau noi theo.
Lễ hội đền Bà Triệu là lễ hội về một nữ thánh đặc biệt trong lịch sử dân tộc
Việt đầu công nguyên, một hoạt động có tính kết nối quốc gia và quốc tế với du

lịch Sầm Sơn- Lam Kinh - Lễ hội đức thánh mẫu Liễu Hạnh ở đền Sòng (Bỉm
Sơn). Đây là điểm tài nguyên du lịch nhân văn quan trọng đối với nghiên cứu
lịch sử, dân tộc học và cũng là đối tượng đặc biệt cho du lịch văn hóa trên phạm
vi cả nước.
* Lễ hội rước nước ở chùa Báo Ân
Lễ hội rước nước ở chùa Báo Ân gắn liền với mảnh đất làng Bồng Thượng
– một làng cổ của xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc. ở đây có nhiều di tích lịch sử
văn hóa nổi tiếng được xếp hạng cấp quốc gia (Phủ Trịnh, Nghè Vẹt, đền thờ
quốc công Hoàng Đình ái) và cấp tỉnh (Lăng mộ Triết vương Trịnh Tùng, đền
thờ quận công Hoàng Đình Phùng, đền thờ Đường công Quang Lộc, chùa Báo
Ân).
Là vùng đất có nhiều di tích lịch sử, văn hóa nổi tiếng, Bồng Thượng có
nhiều lễ hội lớn in đậm truyền thống văn hóa còn lưu giữ đến ngày nay, như lễ
hội Phủ Trịnh (Giỗ Thái vương Trịnh Kiểm) vào 17, 18-2 âm lịch hàng năm, với


đầy đủ nghi thức tế lễ để tưởng nhớ công đức của 12 vị chúa nhà họ Trịnh. Tại
di tích Nghè Vẹt có lễ hội Ky Thần vào ngày 14-11 âm lịch... Đặc biệt, lễ hội
“Rước nước” ở chùa Báo Ân với nhiều nghi lễ Phật giáo, mang đậm nét văn hóa
truyền thống vùng sông nước đã được quỹ Ford tài trợ thông qua dự án “Khôi
phục tiếng hát, chèo thuyền trên sông” năm 2005 .
Lễ hội rước nước ở chùa Báo Ân được tổ chức từ 27 đến 29 tháng 2 âm lịch
hàng năm thu hút nhiều khách thập phương tham dự. Lễ hội diễn ra ở khu vực
chùa và trên dòng sông Mã với nghi lễ thuyền rồng ra giữa dòng sông Mã lấy
nước. Trước khi diễn ra lễ chính ở chùa Báo Ân là đêm hội hoa đăng (tối ngày
27-2) tại bế n đò Hoành trên dòng sông Mã thơ mộng. Những chiếc thuyền, bè
chở người và đèn nến lung linh đua nhau chạy sáng trưng cả một vùng sông
nước. Người ngồi trên thuyền vừa hát trống quân, vừa hát đối với thuyền bên,
vang vọng cả một khoảng không gian huyền ảo. Thuyền chạy lướt trên mặt sông
đến giữa dòng nước biếc gọi là vụng Quần Tiên thì những chiếc đèn hoa sen

được thả trên sông, theo dòng nước xoáy nhẹ chạy quanh vụng, rồi mới xuôi
dòng sông Mã ra biển lớn. Chính lễ được diễn ra sáng ngày 28-2, là lễ “Rước
nước” chùa Báo Ân. Sau lễ rước kiệu Mẫu qua ngõ Vạn, ngõ Chùa, đến Nghè
Vẹt lên chân núi Báo, sang khe Mang Cá đến “Rước bóng” về chùa Báo Ân là
đến phần “Rước nước”. Trên bến Báo Ân, hàng trăm người dân trong trang phục
rực rỡ sắc màu, trên 5 chiếc thuyền rồng lớn. Đi đầu là thuyền Phật lấy nước
(chở lộng vàng, cờ quạt và 12 người nữ mặc áo tứ thân, đi hài trắng, đầu đội các
mâm hoa quả, mang theo bình sứ hình bầu dục để đựng nước; thuyền Mẫu đi thứ
hai gọi là thuyền cô “Ba Thoải” gồm các người nữ ăn mặc lễ hội có phường bát
âm chơi nhạc làm nền cho các cô hát, múa; theo sau hai thuyền trước là thuyền
chở các cô, các cậu, tiếp đến là thuyền chỉ huy và thuyền sau cùng chở giám sát
việc lấy nước. Đoàn thuyền chèo ra giữa sông Mã, trong sự reo hò, cổ vũ của
đông đảo du khách về dự lễ hội, sau đó thuyền qua hòn đá Bàn, vượt hòn đá
Ngốc, rẽ lái sang ngang, lượn ba vòng đến hòn đá giữa dòng sông thì cắm nêu
dừng thuyền. Ngày 29-2 lễ hội kết thúc trong phần tế tạ (ngày hóa của Mẫu).


Ngày nay, trong các ngày diễn ra lễ hội tại làng Bồng Thượng, chính quyền
và các đoàn thể xã Vĩnh Hùng đã tổ chức nhiều trò chơi, trò diễn dân gian
truyền thống của địa phương như đẩy gậy, kéo co, thi đấu thể thao...
* Lễ hội đền Lê Bố Vệ
Đền Lê Bố Vệ dược xây dựng năm 1805 thời vua Gia Long trên đất làng
Bố Vệ, gần Cầu Bố (TP Thanh Hóa). Hiện nay có nhiều lý do giải thích việc vua
Gia Long cho xây dựng khu đền này. Gọi là đền Lê Bố Vệ là để phân biệt với
đền Lê làng Cham trên đất Lam Sơn – Thọ Xuân. Lam Kinh đã từng diễn ra
nhiều lần lễ hội có quy mô lớn mỗi khi nhà vua và các quan từ Thăng Long về
bái yết sơn lăng. Sau nhiều biến cố lịch sử, Lam Kinh trở nên đổ nát, hoang phế
nên lễ hội làng Cham ngày càng mai một. Lễ hội đền Lê Bố Vệ được tập trung
thu hút nhiều nơi hướng về nơi đây là Thái miếu thờ các vua Lê, để tưởng nhớ
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và gần 400 năm dưới chế độ phong kién triều Lê một

thời huy hoàng. Ngày nay, di tích đền Lê Bố Vệ và lễ hội nơi đây trở thành điểm
du lịch thu hút nhiều đoàn tham quan trong nước và quốc tế.
Hàng năm, ở đền Lê Bố Vệ có 2 lễ chính. Lễ hội xuân diễn ra vào các ngày
rằm tháng Giêng. Lễ hội chính diễn ra vào các ngày 20, 21, 22 tháng Tám âm
lịch. Về ý nghĩa, lễ hội xuân cầu cho mưa thuận gió hòa, dân làng no ấm. Lễ hội
chính là lễ tưởng nhớ ngày mất của vua Lê Thái Tổ và Lê Lai
Về nghi thức tế lễ, hai lễ này đều được tiến hành các bước giống nhau
nhưng quy mô thì lễ hội chính hơn hẳn. Lễ hội chính xưa kia được tổ chức quy
mô hoành tráng vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu. Cũng vào những năm này, tại
kinh đô Huế, triều đình cũng làm lễ tế Nam Giao (tế trời đất), là một trong
những quốc tế to nhất trong các triều đại phong kiến. Các quan tiến hành tế lễ
phải ở riêng, ăn chay, giữ mình thanh tịnh nhiều ngày trước. Các nghi thức tế lễ
được tiến hành nghiêm trang, long trọng. Ngày 21 tháng Tám âm lịch giỗ Trung
Túc vương Lê Lai có dâng lễ vật và đèn nhang. Tương truyền khi sắp mất, Lê
Lợi dặn con cháu và quần thần tổ chức lễ giỗ Lê Lai trước giỗ mình một ngày để
tri ân người anh hùng liều thân cứu chúa. Hằng năm đến ngày này, nhân dân


Thái Bằng quê hương Lê Lai đem lễ vật tới đền Lê Bố Vệ để làm giỗ Lê Lai.
Ngày 22 tháng Tám là ngày Đại tế giỗ Lê Lợi, được tổ chức theo hình thức quốc
tế vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu. Các năm bình thường không tổ chức đại tế
thì dân làng Bố Vệ tổ chức thắp hương dâng lễ vật cúng giỗ.
Sau khi tế lễ xong tổ chức vui chơi hội hè. Lễ hội đền Lê Bố Vệ truyền
thống có các trò kéo chữ, trò phá trận và tung cù.
Trò kéo chữ diễn ra trên bãi áng cách đền Lê gần 1km, khi diễn trong tháng
Giêng thì xếp 4 chữ “Thưởng xuân đồng lạc”, còn nếu chạy chữ trong ngày giỗ
tháng tám thì kéo bốn chữ: “Thiên hạ thái bình”.
Trò phá trận tiếp ngay sau trò kéo chữ. Các con trò xếp thành hai hàng, một
bên là quân ta, một bên là quân Ngô dàn trận đánh nhau tạo ra không khí rất sôi
động, tưởng nhớ lại các trận đánh của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

Trò tung cù là trò vui có tính thượng võ, thể thao, nhưng cũng có người cho
rằng đây là trò tượng trưng cho chiến thắng bêu đầu tướng giặc. Cù được bện
bằng rơm bọc giẻ bên ngoài, có phết một lớp sơn. Trong tiếng trống rộn rã,
người đầu trò tung cù lên, đám đông xông vào hứng cướp và cố gắng ném lọt
vào chiếc giỏ treo trên ngọn tre.
Lễ hội đền Lê Bố Vệ hiện nay trở thành một điểm hấp dẫn du khách ở TP
Thanh Hóa.
* Lễ hội đền Sòng:
Lễ hội đền Sòng mở từ mồng 10 đến 26 tháng hai âm lịch.
Đền Sòng thuộc phường Bắc Sơn, thị xã Bỉm Sơn. Đây là một trung tâm tín
ngưỡng nổi tiếng của Đạo Mẫu ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ
cùng Phủ Giày (Nam Định). Theo truyền thuyết, đền Sòng là nơi Liễu Hạnh
công chúa hiển thánh sau lần giáng trần lần thứ ba ở Phố Cát, Thạch Thành, vì
vậy nơi dây được con là một trong hai "thánh đường" thiêng nhất của đạo Mẫu
(cùng với Phủ Giày). Từ tính thiêng và tin Thánh Mẫu sẽ phù hộ độ trì nên
người đến cầu cúng, lễ bái rất đông. Thời Lê – Trịnh, do tín ngưỡng thờ Mẫu


mới ra đời, có n hiều triết lý trái với quan niệm Nho giáo nên có đôi lúc chính
quyền phong kiến đã ra lệnh phá dỡ đền sòng và đền Phố Cát – nơi đạo Mẫu ở
Thanh Hóa hưng thịnh nhất, nhưng vì nhân dân rất sùng bái nên sau khi bị tàn
phá đền vẫn mọc lên. Tại đây còn lưu truyền truyền thuyết về cuộc "Đại chiến
Sùng Sơn" giữa nữ thần Liễu Hạnh với Tiền Quan Thánh của Nội Đạo Tràng và
sau đó là sự dàn xếp, giảng hòa của Đức Phật để Đạo Mẫu, Đạo Đông, và Đạo
Phật cùng song song tồn tại. Đó chính là biểu hiện của "tam giáo đồng nguyên"
trong lịch sử ở Thanh Hóa nói riêng và trong nước nói chung.
Đến thời Nguyễn, nữ thần Liễu Hạnh chính thức được triều đình ban sắc là
"mẫu nghi thiên hạ". Từ đó, đạo Mẫu đã phát triển rộng khắp và nhanh chóng ở
các vùng của đồng bằng Bắc Bộ. Hai trung tâm thờ Mẫu lớn nhất và nổi tiếng
nhất là Phủ Giày (Nam Định) và Đền Sòng – Phố Cát. Tuy nhiên, trong tâm thức

dân gian, đền Sòng xứ Thanh vãn là "thiêng" nhất.
Nhất vui là hội Phủ Giày
Vui thì vui vậy chưa tày (bằng) Sòng Sơn
........
Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh
(Lời hát văn cổ)
Trong những ngày thường, đền Sòng vẫn liên tục có nhiều người đến cầu
cúng. Nhưng chỉ trong những ngày hội thì mới thực sự đông vui. Lễ hội rất giản
đơn và không bị gò bó bởi bất kể luật lệ, thủ tục phiền toái nào. Người ta chỉ cần
cố chen để đặt được cúng lễ để cầu cho Đức Thánh Mẫu ban cho những điều tốt
đẹp mà mình mong ước, nếu đông quá thì phải bái vọng hoặc chờ cho đến đêm
để người thưa bớt mới đặt được lễ. Lôi cuốn nhất trong lễ hội là lễ rước bóng
Mẫu từ đền Sòng đến đền Đức Ông rồi về đền Cô Chính và từ đền Cô Chín lại
lên đỉnh đồi Ba Dội, từ Ba Dội lại về đền Sòng. Trong cuộc rước bóng như vậy,
người khắp mọi nơi đổ về xếp hàng đi sau kiệu đông đến hàng vạn người. Sức
mạnh tâm linh mà Mẫu truyền cho đã làm cho bất kỳ ai, kể cả người già đều đủ


sức trèo lên đèo Ba Dội . Những cuộc rước bóng như vậy đã thành thông lệ từ
xưa, không cần phải thông báo, vận động mà tất cả đều tham gia với sự tự
nguyện theo quan niệm ai được đi rước bóng thì Đức Thánh Mẫu sẽ phù hộ.
Thông thường người đến dự lễ hội đền Sòng còn đi đến luôn đền Phố Cát –
nơi nữ thần Liễu Hạnh giáng trần lần thứ ba. Đây cũng là khu vực danh lam
thắng cảnh nổi tiếng với mười tầng thác và rừng đại ngàn có nhiều hang động.
Vì vậy, cuộc hành hương đến "thánh địa" của đạo Mẫu là một cuộc hành trình
trọn gói từ đền Sòng đến Phố Cát – một cung đường chỉ cách nhau 15, 16 cây
số. Khi nói đến lễ hội đền Sòng, người ta vẫn thường nói là lễ hội đền Sòng –
Phố Cát là vì thế.
Hiện nay, cả đền Sòng và đền Phố Cát đều được trùng tu, phục hội. Lễ hội
đền Sòng – Phố Cát mở ra một tiềm năng du lịch tín ngưỡng vô cùng to lớn tại

xứ Thanh. Nếu được đầu tư và quan tâm đúng mức thì chắc chắn đây sẽ là một
trung tâm sinh hoạt văn hóa tinh thần tiêu biểu của cả nước.
* Hội làng Xuân Phả
Lễ hội làng Xuân Phả diễn ra trong hai ngày mồng 10 và 11 tháng 2 âm
lịch.
Làng Xuân Phả thuộc xã Xuân Trường, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
Đây là vùng đất có bề dày lịch sử, có nhiều di tích lịch sử văn hóa phản ánh quá
trình đấu tranh cải tạo thiên nhiên, dựng làng lập xóm, chống giặc ngoại xâm,
tiêu biểu là Nghè Đệ nhất (thờ thiên thần Đại Hải Long Vương); Nghè Đệ Nhị
(thờ thần Cao Minh Linh Quang) đã phù giúp Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn
thoát khỏi vòng vây của giặc Minh; đền Đệ Tam (thờ những người dân trong
làng đi theo Lê Lợi khởi nghĩa bị tử trận), chùa Tạu (Hồi Long tự thờ Phật); nhà
thờ Thiên Chúa giáo (nhà thờ xứ Láng).
Lễ hội Xuân Phả là một giá trị văn hóa phi vật thể đặc sắc sóng đôi cùng
những giá trị văn hóa vật thể tạo nên một văn hóa truyền thống Xuân Phả phong
phú nổi tiếng xứ Thanh. Đặc sắc nhất trong lễ hội là hệ thống trò diễn dân gian


đặc sắc gọi là trò làng Láng. Cao dao Thanh Hóa có câu: “ăn bánh với giò
không bằng xem trò làng Láng”
Từ xa xưa, lễ hội làng Xuân Phả chỉ có 3 trò diễn: trò kéo hội, trò chạy giải,
trò chèo thuyền múa nan. Đến thế kỷ XV, có thêm 5 trò nữa là trò Hoa Lang, Ai
Lao, Chiêm Thành, Tú Huần và trò Ngô Quốc. Các trò này đều mô phỏng việc
các nước lân bang đến tiến cống và chúc mừng vua Đại Việt. Theo qui định của
làng, mỗi giáp đảm nhận diễn một trò: giáp Thượng, Trung, Trường múa trò
Hoa Lang (còn gọi là trò ba giáp); giáp Giữa múa trò Tú Huần; giáp Đoài múa
trò Chiêm Thành; giáp Đông múa trò Ai Lao; giáp Yên múa trò Ngô Quốc. Tuy
chỉ diễn ra 2 ngày mồng 10 và 11 tháng 2 nhưng không khí tập luyện, chuẩn bị
đã kéo dài từ trước khiến cho không khí trong làng lúc nào cũng tưng bừng, rộn
rã.

Lễ hội Xuân Phả vốn là lễ hội dân gian, càng về sau càng có chiều hướng
phát triển thành lễ hội lịch sử. Có lẽ do vùng cư dân này không những nằm trên
đại bàn hoạt động của nghĩa quân Lam Sơn mà còn rất gần với khu vực trung
tâm là Lam Kinh. Chính vì vậy trò Xuân Phả giàu chất cung đình, mà lễ hội
Xuân Phả đạm đặc không khí lịch sử. Hệ thống trò diễn Xuân Phả đã dung nạp,
hội tụ được nhiều loại hình nghệ thuật múa, hát, âm nhạc, trang phục, biểu
diễn… Chính sự hội tụ này phần nào làm mờ yếu tố cung đình trong trò diễn,
nhưng vẫn khiến ta có cảm tưởng nó rất gần với khúc múa Chư hầu lai triều –
một tác phẩm cung đình đầu tiên của nước ta được sáng tác vào thời Lê Thái
Tông (1437). Người dân Xuân Phả luôn trân trọng, nâng niu giữ gìn hệ thống trò
diễn của mình, coi đó là “bảo vật” cha ông truyền lại. Đội trò Xuân Phả đã được
mời đi biểu diễn nhiều nơi ở Huế, Sài Gòn, Hà Nội, phục vụ công cuộc kháng
chiến cứu nước. Ngày nay, đội trò Xuân Phả được tham dự trong những ngày
hội văn hóa lớn của dân tộc ở Hà Nội, Huế và trong những ngày lễ kỷ niệm anh
hùng dân tộc Bà Triệu, Lê Hoàn, Lê Lợi… của Thanh Hóa.
* Lễ hội Phủ Na


Phủ Na thuộc xã Xuân Du, huyện Như Thanh. Đây là một khu vực thiêng
thờ đạo Mẫu ở vùng rừng núi phía tây nam Thanh Hóa. Nơi đây có tiếng là
“thiêng” và đẹp nên từ lâu đã trở thành một trong số những tâm điểm sinh hoạt
tín ngưỡng điển hình của xứ Thanh. Đến với di tích – thắng cảnh Phủ Na là đến
với cả hệ thống di tích tín ngưỡng thờ đạo Mẫu trong không gian liền kề từ thấp
đến cao của chân, sườn núi Nưa, đó là: Đền Trình hay đền Cô Ba Thoải thờ Mẫu
Thoải; Đền Đức Ông thờ Đức Thánh Trần; Đền Quan Hoàng thờ 12 vị quan
hoàng trong đó có Lê Khôi – danh tướng của khởi nghĩa Lam Sơn và quan lớn
Triệu Tường – thủy tổ triều Nguyễn; Đền Mẫu là khu vực đền phủ trung tâm có
tính chất bao trùm, chi phối toàn bộ hệ thống thờ của đạo Mẫu khu vực này; Đền
Cô Chín thờ Mẫu Thiên; Miếu thờ chúa Thượng Ngàn; Nơi thờ Thánh Tản
Viên. Điều đặc biệt ở cụm di tích này là sự hiện diện của một lớp văn hóa tín

ngưỡng đã có mặt ở vùng đất này từ trước khi có sự du nhập của đạo Mẫu. Đó là
lớp tín ngưỡng thờ thần núi Tản Viên và Mẹ Âu Cơ - một tín ngưỡng nguyên
thủy của người Việt cổ mà nhóm cư dân Mường Hòa Bình mang đến đây ngay
từ lúc vừa đặt chân đến đây cư trú (vào năm 1858) để thành lập ra các chòm, bản
ở Xuân Du. Khi đạo Mẫu du nhập đến vùng đất này, người Việt không giám bài
bác hoặc vứt bỏ tín ngưỡng “thiêng” của người Mường, mà trái lại còn duy trì và
dựa vào đó để tồn tại song hành cho đến bây giờ. Vì vậy Mẹ Âu Cơ đã được đưa
vào cung nhất của Phủ Na để thờ chung với Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Đó là sự
độc đáo của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Phủ Na mà ở các vùng, miền khác trong tỉnh,
trong nước rất ít gặp, nói lên sự đan xen giữa lễ tục và tập quán của người
Mường – Việt. Sự đan xen này được thể hiện trong cuộc rước kiệu ở ngày hội
rước bóng. Ngoài kiệu bát cống và kiệu Long đình do các nam trong trang phục
người Kinh khiêng còn có kiệu võng do 8 phụ nữ khênh với trang phục Mường
rực rỡ.
Mỗi năm ở cụm di tích Phủ Na có 3 kỳ lễ hội:
- Lễ hội tháng giêng: diễn ra suốt tháng giêng âm lịch, du khách khắp nơi
về vùng đất Phủ Na để cầu lộc, cầu tài, cầu bình yên… Dòng người trẩy hội theo
một chu trình là lên rừng (với Phủ Na), rồi xuống biển (có thể là đền Cô Tiên ở


Sầm Sơn, hay đền Tứ vị Thánh Nương ở Lạch Bạng). Sự đông đảo của du khách
và không gian thiêng khiến nhiều người lầm tưởng tháng giêng là lễ hội Phủ Na.
Thực ra Phủ Na một năm chỉ có hai kỳ hội chính vào tháng ba và tháng tám âm
lịch. Vì vậy dân gian ở đây mới có câu: Tháng Tám giỗ Cha, Tháng Ba giỗ Mẹ.
- Lễ hội tháng ba: kéo dài từ ngày mồng 1 đến ngày 12 âm lịch (trong đó
đêm 30 rạng mồng 1 là thời điểm mở cửa đền. Đến này 12 là rước bóng và kết
thúc một kỳ hội).
- Lễ hội tháng tám: kéo dài từ mồng 1 đến ngày 16 âm lịch (trong đó đêm
30 rạng mồng 1 là lễ mở cửa đền và ngày 16 là ngày rước bóng và kết thúc kỳ
hội).

Trong các ngày hội ở Phủ Na chỉ có ngày rước bóng Mẹ là mới tập trung
thành đoàn để rước kiệu. Còn tất cả những ngày hội khác thì khách hành hương
đến cầu cúng tự do ở tất cả hệ thống thờ, nhưng chủ yếu vẫn là chỗ trung tâm
đền Mẫu. Họ đến lễ bái tự do theo bản hội, hoặc theo tốp năm ba người, có khi
chỉ một mình… Trong những ngày hội, có lúc vì quá đông không vào được
trong đền, người ta còn phải đứng ở sân để bái vọng vào. Nhưng thườgn thì ai
cũng muốn chen vào để đặt được lễ và khấn bái tại chỗ thì mới được toại
nguyện. Ngoài những người đến để cầu cúng còn có nhiều nam thanh nữ tú đến
để chơi hội và du ngoạn cảnh trí đền đài, thác suối và rừng cây của ngàn Nưa.
Trong đền còn có hầu bóng và cúng lễ theo bài bản. Trong không gian thiêng
trong đền thờ, các điệu hát văn, trống, phách, đàn, nhị, sáo vang lên lúc dồn dập,
lúc thánh thót, ngân nga đã làm cho cuộc diễn xướng trong hầu bóng thêm sinh
động.
Chính cái “thiêng” và cái “đẹp” ở Phủ Na đã tạo trong con người niềm tin
và cảm xúc về một ngày mai tươi sáng, tốt đẹp hơn, đó chính là sức hấp dẫn, lôi
cuốn du khách khắp nơi về dự hội. Đi lễ hội Phủ Na du khách còn được hòa
mình vào hành trình tìm về cội nguồn: lên rừng thăm mẹ Âu Cơ, sau đó xuống
biển để dâng hương dâng lễ vật cho bố tổ Lạc Long Quân mà hiện thân là thần
Độc Cước ở đền thờ Độc Cước (Sầm Sơn).


* Lễ hội Lê Hoàn:
Lễ hội Lê Hoàn gắn với tên tuổi của vị vua sáng lập triều Tiền Lê. Về quê
hương nơi sinh ra Lê Hoàn đến nay vẫn còn nhiều tranh cãi, nhưng đất Xuân
Lập (huyện Thọ Xuân) chắc chắn gắn với sự trưởng thành và sự nghiệp của ông.
Lễ hội Lê Hoàn trên quê hương ông là để tưởng nhớ vị vua có công lao phá
Tống bình Chiêm, bước đầu xác lập và củng cố chế độ phong kiến tập quyền ở
Việt Nam.
Lễ hội Lê Hoàn được tổ chức hàng năm vào 3 dịp: mồng 8 tháng 3 âm lịch
(húy nhật); 17 tháng 7 âm lịch (sinh nhật) và lễ tế tổ tiên trong ngày Tết Nguyên

Đná với lễ tế Bánh chưng. Trong phần lễ, đại diện chính quyền địa phương đọc
chúc văn ca ngợi công đức của vị vua gây dựng nghiệp Tiền Lê. Cácnghi thức
rước kiệu, dâng hương, tế lễ, cúng tế diễn ra long trọng. Trong phần hội thường
tổ chức các chương trình biểu diễn văn hóa, văn nghệ dân tộc truyền thống, đấu
vật, đánh đu, cờ tướng, thi đấu các môn võ thuật truyền thống…
Lễ hội Lê Hoàn thu hút hàng vạn người của các huyện xung quanh và du
khách cả nước về tham dự. Đền thờ Lê Hoàn đã được xếp hạng quốc gia năm
1991.
* Lễ hội Mai An Tiêm:
Được tổ chức từ ngày 12 đến 14 tháng 3 âm lịch hàng năm tại xã Nga Phú,
huyện Nga Sơn. Đây là lễ hội dân gian gắn với truyền thuyết “quả dưa đỏ”, nói
về công sức khai hoang và thành quả lao động của người dân thông qua hình ảnh
nhân vật Mai An Tiêm. Lễ hội còn mang đậm những yếu tố phồn thực của thời
kỳ khoai hoang lập ấp, phản ánh lòng mong đợi của người dân được mùa màng
tười tốt, cuộc sống sung túc, yên bình.
Trong lễ hội, ban tổ chức thường xây dựng hoạt cảnh tái dựng lại một cách
hoành tráng và hào hùng một truyền thuyết mang tính lịch sử của dân tộc. Các
trò chơi dân gian như thi nấu cơm, đua thuyền, kéo co, hái lượm… được nhiều
người tham gia. Tham dự lễ hội Mai An Tiêm, du khách còn được thăm viếng


đền thờ Mai An Tiêm, khám phá vẻ đẹp tự nhiên ở đảo Mai An Tiêm, cửa Thần
Phù, tìm hiểu nghề dệt chiếu cói, sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ của Thanh Hóa.
Lễ hội Mai An Tiêm có ảnh hưởng lớn trong toàn tỉnh, đặc biệt là những
huyện Nga Sơn, Hà Trung, Hậu Lộc và một số vùng ở các tỉnh lân cận như Ninh
Bình, Hà Nam, Nam Định.
* Lễ hội đền Mưng
Đền Mưng ở làng Mưng tức làng Côn Minh nay thuộc xã Trung Thành,
huyện Nông Cống. Làng nằm trên bờ sông Lãng Giang, sát cạnh cầu Quan.
Lễ hội đền Mưng để tưởng nhớ Thánh Lưỡng tham xung tá quốc là một vị

thần được nhiều nơi ở Thanh Hóa thờ làm Thành hoàng, đậm nhất thuộc các
huyện Đông Sơn, Triệu sơn, Nông Cống. Theo truyền thuyết là một trong bốn
người con của Lê Ngọc chống lại nhà Đường.
Do Thánh lưỡng bị chết trận rơi đầu nên trong lễ hội kiêng khong dùng đồ
đỏ, kiệu và đồ tế không sơn đỏ, không sát sinh (bà thì vặn cổ, trâu bò lợn thui
cho chết ngạt mới làm thịt). Tế vật phải có “cơm nắm và cá nhám khô” – gắn
với tích chị gái thần đi tìm em mang theo những thứ này. Lễ hội đền Mưng có
nhiều làng dọc theo bờ sông Lãng Giang phụng sự nhưng chỉ làng Múng (Lương
Mộng) là làng em út được mở cửa đền. Đền Mưng một năm có hai lệ: lệ bơi đua
vào tháng giêng, lệ chèo thờ vào tháng ba. Chèo đua do các chàng trai khỏe
mạnh đảm nhiệm, còn chèo bơi do các cô gái đảm nhiệm rước thuyền thánh ngự
xuống đền vua bà “thăm chị” nên nhân dân trong làng vẫn lưu truyền câu ca:
“Trai thì mạnh, gái thì mềm”.
Lễ hội tháng Giêng từ mùng 1 đến mùng 5 tết: sau khi làm lễ tế Thánh
Lưỡng đền Mưng thì tổ chức bơi thuyền. Các làng lân cận chia làm 5 thuyền để
bơi thi. Địa điểm tổ chức bơi thi là khúc sông trước đền Mưng từ cầu Cầu Quan
đến chợ Thượng (khoảng 500m), đua ba vòng gọi là ba tiêu ba cầu. Giải được
treo sẵn trên ba cây sào cắm chĩa ra mặt sông. Thuyền nào giật được giải và
không phạm luật thì giành thắng lợi. Trong cuộc thi các thuyền có thể dùng các
miếng đánh để cản trở thuyền khác làm cho không khí càng náo nhiệt.


×