- 1 -
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục sơ đồ
Mở đầu
Trang
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ, BÁO CÁO KẾ TOÁN
QUẢN TRỊ VÀ NGÀNH IN ---------------------------------------------------------
- 1 -
1.1 KẾ TOÁN QUẢN TRỊ---------------------------------------------------------
- 9 -
1.1.1 Kế toán quản trò với hoạt động quản lý doanh nghiệp----------------
- 9 -
1.1.1.1 Khái niệm kế toán quản trò-------------------------------------------
- 9 -
1.1.1.2 Vai trò của kế toán quản trò đối với hoạt động kinh doanh [17, 42]
-
11 -
1.2 BÁO CÁO KẾ TOÁN QUẢN TRỊ:-----------------------------------------
- 13 -
1.2.1 Đối tượng sử dụng báo cáo kế toán quản trò và nhu cầu thông tin của
họ: ---------------------------------------------------------------------------------
- 13 -
1.2.2. Mục đích của báo cáo kế toán quản trò:-------------------------------
- 15 -
1.2.3. Yêu cầu đối với các báo cáo kế toán quản trò:-----------------------
- 16 -
1.3 VÀI NÉT VỀ NGÀNH IN---------------------------------------------------
- 17 -
1.3.1 Lòch sử hình thành và phát triển ngành in trên thế giới -------------
- 17 -
1.3.1.1 Giai đoạn trước 1440 ------------------------------------------------
- 18 -
- 2 -
1.3.1.2 Giai đoạn 1440-1850-------------------------------------------------- 19 -
1.3.1.3 Giai đoạn 1850-1900-------------------------------------------------
- 19 -
1.3.2 Lòch sử phát triển ngành in Việt Nam----------------------------------
- 20 -
1.3.3 Qui trình công nghệ ngành in -------------------------------------------
- 26 -
1.3.3.1 Công đoạn 1: Sắp chữ và chế bản---------------------------------
- 26 -
1.3.3.2 Công đoạn 2: in------------------------------------------------------
- 26 -
1.3.3.3 Công đoạn 3: bế, xén và đóng thành phẩm.-----------------------
- 27 -
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG HỆ THỐNG BÁO CÁO KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP THUỘC NGÀNH IN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH.----------------------------------------------------------------------------------
- 28 -
2.1 LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA BÁO CÁO KẾ TOÁN
QUẢN TRỊ ÁP DỤNG CHO CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM --------
- 28 -
2.1.1. Giai đoạn nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung
quan liêu, bao cấp. (Trước tháng 12/1986)-----------------------------------
- 28 -
2.1.2. Giai đoạn xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ
chế mới về quản lý kinh tế - cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch
toán kinh doanh xã hội chủ nghóa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.(Từ
tháng 12/1986 đến tháng 6/1991).---------------------------------------------
- 35 -
2.1.3. Giai đoạn nền kinh tế vận hành theo cơ chế thò trường có sự quản lý
của nhà nước theo đònh hướng xã hội chủ nghóa.(Từ tháng 6/1991 đến nay)
-
40 -
2.2 THỰC TRẠNG HỆ THỐNG BÁO CÁO KẾ TOÁN QUẢN TRỊ TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP NGÀNH IN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN
NAY----------------------------------------------------------------------------------
- 47 -
2.2.1 Khái quát về tình hình phát triển ngành in thành phố hồ chí minh
- 47 -
2.2.1.1 Thời kỳ trước giải phóng --------------------------------------------
- 47 -
- 3 -
2.2.1.2 Thời kỳ từ năm 1975-1985-------------------------------------------- 50 -
2.2.1.3 Từ năm 1986 đến nay ------------------------------------------------
- 52 -
2.2.2 Khảo sát tình hình tổ chức công tác kế toán quản trò tại một số doanh
nghiệp ngành in tại Thành phố Hồ Chí Minh.-------------------------------
- 60 -
2.2.3 Đánh giá chung về thực trạng hệ thống báo cáo kế toán quản trò trong
các doanh nghiệp thuộc ngành in tại TPHCM-------------------------------
- 67 -
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DỰNG HỆ THỐNG BÁO CÁO KẾ
TOÁN QUẢN TRỊ CHO CÁC DOANH NGHIỆP THUỘC NGÀNH IN TẠI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH. -----------------------------------------------------
- 73 -
3.1 PHƯƠNG HƯỚNG------------------------------------------------------------
- 73 -
3.1.1 Các báo cáo phục vụ cho chức năng lập kế hoạch in----------------
- 74 -
3.1.1.1 Dự toán số lượng trang in (13 x 19 cm) tiêu thụ------------------
- 74 -
3.1.1.2 Dự toán chi phí trực tiếp --------------------------------------------
- 74 -
3.1.1.3 Dự toán chi phí gián tiếp --------------------------------------------
- 74 -
3.1.2 Các báo cáo phục vụ cho việc kiểm soát, đánh giá kết quả của nhà
quản trò ngành in-----------------------------------------------------------------
- 75 -
3.1.2.1 Báo cáo chi phí sản xuất theo yếu tố-------------------------------
- 75 -
3.1.2.2 Báo cáo tình hình thực hiện đònh mức chi phí nguyên vật liệu trực
tiếp và chi phí nhân công trực tiếp------------------------------------------
- 75 -
3.1.2.3 Báo cáo tình hình thực hiện đònh mức biến phí sản xuất chung:
- 76 -
3.1.2.4 Báo cáo tình hình thực hiện đònh mức đònh phí sản xuất chung:
- 76 -
3.1.2.5 Báo cáo giá thành sản phẩm----------------------------------------
- 77 -
3.1.2.6 Báo cáo bộ phận:-----------------------------------------------------
- 77 -
3.1.2.7 Báo cáo trung tâm trách nhiệm-------------------------------------
- 78 -
3.1.3 Báo cáo phản ánh các thông tin thích hợp cho việc ra quyết đònh -
- 79 -
- 4 -
3.2 XÂY DỰNG HỆ THỐNG BÁO CÁO KẾ TOÁN QUẢN TRỊ CỤ THỂ
CHO CÁC DOANH NGHIỆP THUỘC NGÀNH IN TẠI THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH. -------------------------------------------------------------------------
- 80 -
3.2.1 Báo cáo cung cấp thông tin phục vụ chức năng lập kế hoạch ------
- 80 -
3.2.2 Các báo cáo phục vụ cho việc kiểm soát, đánh giá kết quả của nhà
quản trò----------------------------------------------------------------------------
- 81 -
3.2.2.1 Các báo cáo về chi phí và phân tích tình hình thực hiện dự toán chi
phí-------------------------------------------------------------------------------
- 81 -
3.2.2.2 Các báo cáo về giá thành sản phẩm -------------------------------
- 84 -
3.2.2.3 Các báo cáo kế toán trung tâm trách nhiệm----------------------
- 87 -
3.2.3 Các báo cáo chứng minh cho việc ra quyết đònh ---------------------
- 89 -
3.2.3.1 Các báo cáo cung cấp thông tin thích hợp cho việc ra quyết đònh
kinh doanh ngắn hạn----------------------------------------------------------
- 89 -
3.2.3.2 Các bảng tính toán, phân tích và xếp hạng dự án đầu tư--------
- 90 -
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục
- 5 -
LỜI MỞ ĐẦU
1.
Tính cấp thiết của đề tài:
Ngành in thuộc hệ thống các ngành sản xuất vật chất trong nền kinh tế
quốc dân, đóng vai trò quan trọng trong quá trình đào tạo ra các ấn phẩm phục
vụ cho nhu cầu thông tin kinh tế, văn hoá, xã hội trong đời sống kinh tế hiện
nay. Sản phẩm của ngành in rất đa dạng và phong phú, bao gồm các loại ấn
phẩm báo chí, tranh ảnh, bao bì, nhãn mác hàng hóa, thiệp mừng,… được in trên
giấy hoặc các chất liệu khác nhau. Cùng với sự gia tăng của nhu cầu xã hội đối
với chất lượng in ấn, công tác in ấn đòi hỏi phải có quy trình công nghệ hiện đại,
trang thiết bò nhiều máy móc kỹ thuật và phương tiện phục vụ sản xuất.
Đóng vai trò đầu tàu của toàn ngành, ngành in của Thành phố Hồ Chí
Minh đã có những bước phát triển đáng kể, luôn dẫn đầu trong việc trang bò máy
móc thiết bò hiện đại, công nghệ mới, chiếm gần ½ sản lượng của toàn ngành..
Theo số liệu đăng ký chính thức tại Sở Văn hóa Thông tin TPHCM, chỉ riêng
máy in offset được cấp giấy chứng nhận và biển số kiểm soát cho đến nay đã là
957 máy. Năng lực thiết kế của ngành in thành phố ước khoảng 271 tỉ trang in 13
x 19 cm và năng lực thực tế khoảng 135 tỉ trang in. Hoạt động của ngành in
TPHCM góp phần không nhỏ cho sự nghiệp đổi mới, phát triển văn hoá xã hội
nói chung.
Thực tế quản lý doanh nghiệp ngành in của Thành phố Hồ Chí Minh trong
vài năm gần đây cho thấy nổi lên hiện tượng một số doanh nghiệp lớn bò phá
sản, mất khả năng chi trả dẫn đến giựt nợ ngân hàng và giựt nợ lẫn nhau hàng
trăm, hàng ngàn tỉ đồng. Hàng loạt các xí nghiệp vừa và nhỏ làm ăn thua lỗ dẫn
đến thanh lý phá sản. Đó là hệ quả tất yếu của sự quản lý chủ quan và yếu kém
nhìn từ nhiều góc độ khác nhau, mà chủ yếu là công tác quản trò tài chính kế
toán nội bộ tại doanh nghiệp bò buông lõng và xem nhẹ. Sự nhận thức và hiểu
biết về kế toán quản trò vẫn còn nhiều hạn chế. Bất kỳ một doanh nghiệp nào
khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đều có mục tiêu là lợi nhuận. Để
đạt được điều này đòi hỏi quá trình tổ chức quản lý của doanh nghiệp cũng phải
linh hoạt, kòp thời đáng tin cậy để giúp những nhà quản trò ra được những quyết
đònh đúng đắn. Hệ thống thông tin được đề cập ở đây ngoài kế toán tài chính
không thể thiếu được kế toán quản trò. Thông tin do kế toán quản trò cung cấp
đặt trọng tâm cho tương lai, đó là những thông tin cần thiết một cách trực tiếp và
thường xuyên đối với các nhà quản trò – bộ não điều khiển toàn bộ hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, luôn cố gắng đảm bảo cho doanh nghiệp
- 6 -
tồn tại và không ngừng phát triển trong một nền kinh tế thò trường mang tính
cạnh tranh ngày càng gay gắt.
Trong điều kiện kinh doanh theo cơ chế thò trường, mọi doanh nghiệp muốn
tồn tại và phát triển thì mục tiêu hàng đầu của nó không khác gì hơn là lợi
nhuận. Dó nhiên, lợi nhuận đạt được càng cao càng tốt, tuy vậy trong các sách
lược hoạch đònh của từng nhà quản trò để đi đến mục tiêu lợi nhuận không phải
là giống nhau. Một doanh nghiệp được đánh giá là có tình hình tài chính sáng
sủa phải có mức lợi nhuận ổn đònh và phát triển qua từng năm tài chính, nếu
trong quá trình hoạt động kinh doanh không có những rủi ro khách quan bất ngờ
và đáng kể. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải có các quyết đònh đúng đắn và
kòp thời trong công tác chỉ đạo mọi mặt của doanh nghiệp.
Muốn vậy, ngoài việc tuân thủ các nguyên tắc cơ bản trong việc thiết lập
các báo cáo tài chính cho các đối tượng sử dụng bên ngoài, người quản trò cần
phải hiểu biết, nắm bắt được công tác tổ chức, phối hợp, tiên liệu, ra quyết đònh
và kiểm soát mọi thứ trong doanh nghiệp hầu chỉ đạo và hướng dẫn doanh
nghiệp hoạt động có hiệu quả cao nhất. Để thực hiện được điều này, cần phải
nắm vững tình hình tài chính của mình, thông qua số liệu kế toán tài chính, phân
tích, đánh giá và đề ra những dự án cho tương lai. Tóm lại, ở mọi lónh vực trong
hệ thống kinh tế, các thông tin có liên quan đến quyết đònh cần phải được lựa
chọn, phân tích, ghi chép và sử dụng trước khi sự xét đoán được hình thành và
quyết đoán được đưa ra. Kế toán quản trò là nguồn cung cấp tốt nhất những
thông tin cần thiết này.
Trong xu thế toàn cầu hóa về kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ trong khu vực
và trên toàn thế giới hiện nay, yếu tố quyết đònh sự thành công hay thất bại của
một quốc gia là hiệu quả và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, khả năng tạo
dựng và củng cố vò trí kinh tế của mình trên trường quốc tế. Nhận thức được tầm
quan trọng trên, Đảng và Nhà nước ta đã và đang dốc hết mọi nỗ lực để vực dậy
nền kinh tế nước nhà. Chúng ta đã tham gia vào tổ chức khối mậu dòch tự do
ASEAN (AFTA), đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức Diễn đàn hợp
tác kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương (APEC). Mặc dù Chính phủ cũng đang
từng bước cố gắng thực hiện các chính sách cải cách về kinh tế, tháo gỡ những
khó khăn vướng mắc có liên quan đến sự phát triển của doanh nghiệp nhưng vấn
đề quan trọng là các doanh nghiệp phải tự nhận thức được mình trên thương
trường. Sự cạnh tranh tất yếu của sản phẩm bán ra, việc kiểm tra trên quy mô
riêng: giờ công lao động, chi phí một sản phẩm, mức lợi nhuận thu được trên một
sản phẩm tiêu thụ, chất lượng sản phẩm bán ra,…đã là một yếu tố cần thiết ngày
càng lớn đối với kế toán quản trò doanh nghiệp. Như vậy, với chức năng cung
cấp thông tin và kiểm tra kiểm soát các hoạt động kinh tế tài chính xí nghiệp, kế
- 7 -
toán quản trò đã và đang là công cụ thực sự quan trọng, một cần thiết khách quan
cho sự tăng trưởng kinh tế nếu được vận dụng và phát huy tối đa trong môi
trường quản lý của mọi doanh nghiệp.
Để góp phần nâng cao hiệu quả quản lý của doanh nghiệp ngành in tại
Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay, việc “xây dựng hệ thống báo
cáo kế toán quản trò cho các doanh nghiệp ngành in tại Thành phố Hồ Chí
Minh” là vấn đề có tính cấp thiết cả về lý thuyết lẫn thực tiễn ứng dụng.
2. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu về lý luận và thực tiễn của báo cáo kế toán quản trò nhằm mục
đích làm rõ vai trò, công dụng của thông tin từ các báo cáo kế toán quản trò đối
với các doanh nghiệp trong cơ chế quản lý mới. Trên cơ sở đó, xây dựng hệ
thống các báo cáo kế toán quản trò cho các doanh nghiệp ngành in tại Thành Phố
Hồ Chí Minh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Khảo sát tình hình thực tế về công tác xây dựng hệ thống báo cáo kế toán
quản trò tại một số doanh nghiệp ngành in tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Nghiên cứu các chủ trương, chính sách chế độ và các tài liệu trong nước
có liên quan đến kế toán quản trò của kế toán Việt Nam.
- Nghiên cứu các báo cáo kế toán quản trò thông qua một số tài liệu về kế
toán quản trò trong nước và nước ngoài nhằm chọn lọc và xây dựng các báo cáo
cụ thể cho các doanh nghiệp ngành in tại Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Sử dụng phương pháp phân tích thống kê, toán kinh tế để phân tích, chứng
minh và giải quyết vấn đề.
5. Ý nghóa khoa học và thực tiễn của đề tài:
- Khái quát được quá trình hình thành và phát triển của báo cáo kế toán
quản trò Việt Nam kết hợp phân tích thực trạng hệ thống báo cáo kế toán quản
trò các doanh nghiệp ngành in tại Thành phố Hồ Chí Minh nhằm đưa ra những
điểm nổi bật về thực trạng hệ thống báo cáo kế toán quản trò các doanh nghiệp
ngành in tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Xây dựng hệ thống các báo cáo kế toán quản trò cho các doanh nghiệp
ngành in nói chung và tại Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
6. Kết cấu của luận văn:
Luân văn bao gồm
- 8 -
Lời mở đầu
Chương 1: Tổng quan về kế toán quản trò, báo cáo kế toán quản trò và ngành in
chương 2: Thực trạng hệ thống báo cáo kế toán quản trò cho các doanh nghiệp
ngành in tại Thành phố Hồ Chí Minh
chương 3: Phương hướng xây dựng hệ thống báo cáo kế toán quản trò cho các
doanh nghiệp thuộc ngành in tại Thành phố Hồ Chí Minh
Kết luận
Phụ lục
- 9 -
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ, BÁO
CÁO KẾ TOÁN QUẢN TRỊ VÀ NGÀNH IN
1.1 KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
1.1.1 Kế toán quản trò với hoạt động quản lý doanh nghiệp
1.1.1.1 Khái niệm kế toán quản trò
Theo đònh nghóa của Hiệp hội kế toán viên Hoa kỳ thì kế toán quản trò là
[51, 261]: “Quy trình nhận diện, đo lường, tổng hợp, phân tích và lập báo biểu,
giải trình và truyền đạt các số liệu tài chính và phi tài chính cho các nhà quản trò
doanh nghiệp hoạch đònh, đánh giá và điều hành hoạt động kinh doanh trong
phạm vi nội bộ doanh nghiệp nhằm sử dụng có hiệu quả các tài sản và quản lý
chặt chẽ các tài sản đó”.
Theo cuốn từ điển thuật ngữ kế toán Mỹ thì kế toán quản trò được đònh
nghóa như sau: [31, 98]: “ Kế toán quản trò là lónh vực kế toán liên quan đến việc
thu thập và xử lý thông tin kinh tế nhằm hỗ trợ những nhà quản lý trong việc đưa
ra các quyết đònh tài chính, đặc biệt là trong việc hoạch đònh kế hoạch và quản
lý giá thành”.
Theo đònh nghóa của Hiệp hội kế toán quốc gia (Mỹ) – National
Association of Accountants (NAA) – văn kiện số 1A tháng 3/1981, thì “Kế toán
quản trò là quá tình cung cấp thông tin cho nhà quản lý doanh nghiệp trong việc
lập và thực hiện kế hoạch, trong việc kiểm soát , điều hành các hoạt động của
doanh nghiệp. Quy trình của kế toán quản trò bao gồm các công việc xác đònh,
cân đo, đong, đếm, thu thập, tích lũy, phân tích, chuẩn bò thông tin, giải thích và
cung cấp thông tin cho các nhà quản lý để các nhà quản lý xử lý các thông tin
này theo hướng có lợi nhất cho doanh nghiệp.”[14,21]
- 10 -
Theo Giáo sư Tiến só RONALD.HILTON trường Đại học CORNELL Hoa
Kỳ: “Kế toán là một bộ phận của hệ thống thông tin quản trò trong một tổ chức
mà các nhà quản trò dựa vào đó để hoạch đònh và kiểm soát các hoạt động của
tổ chức’. [53,3]
Theo các Giáo sư Tiến só SACK L.SMITH, ROBET M.KEITS, WILLIAM
L.STEPHENS trường Đại học SOUTH FLORIDA HOA KỲ: Kế toán quản trò là
một hệ thống kế toán cung cấp cho các nhà quản trò những thông tin đònh lượng
mà họ cần để hoạch đònh và kiểm soát”. [18,11]
Hiện nay giữa các nước, hai lónh vực Kế toán tài chính và Kế toán quản
trò có những cách gọi khác nhau, phổ biến theo cách gọi của tiếng Anh. Kế toán
tài chính “Financial Accounting” và Kế toán quản trò “Management
Accounting”. Trong khi đó nhiều nước Châu âu như Pháp, Bồ Đào Nha thì kế
toán tài chính gọi là Kế toán tổng quát “Compatabilité General” và Kế toán
quản trò là Kế toán phân tích “Comptabilité Analitique”, hoặc kế toán quản lý
“Comptabilité des Gestion”. Qua đây để khẳng đònh kế toán tài chính không
phải là kế toán tổng hợp và Kế toán quản trò không phải là kế toán chi tiết như
nhiều người đã quan niệm.
Như vậy, có nhiều quan điểm và khái niệm khác nhau về kế toán quản trò,
nhưng đứng trên góc độ tiếp cận về sử dụng thông tin của kế toán cho hoạt động
quản trò, thì đònh nghóa về kế toán quản trò có thể được thể hiện như sau:
“Kế toán quản trò là hệ thống ghi chép, đo lường, thu thập, tổng hợp, xử lý
và cung cấp thông tin kinh tế phục vụ cho các cấp độ quản trò trong một doanh
nghiệp để đánh giá và ra quyết đònh kinh doanh”.
- 11 -
Kế toán quản trò cũng như kế toán tài chính trước hết phải nhận diện được
các loại tài sản tham gia hoạt động kinh doanh và xác đònh nguồn tài trợ để
trang bò các loại tài sản đó, đồng thời nhận diện được các loại chi phí tham gia
vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh để thu thập, phân loại, xử lý và lập
các báo cáo cho những đối tượng sử dụng khác nhau. Khác với kế toán tài chính,
kế toán quản trò cung cấp thông tin nhằm thỏa mãn nhu cầu của nhà quản trò các
cấp ở doanh nghiệp, họ là những người mà quyết đònh hành động của họ sẽ chi
phối trực tiếp đến sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp đó. Như vậy, nếu
thông tin không đầy đủ các nhà quản trò sẽ gặp khó khăn trong việc quản lý điều
hành doanh nghiệp. Còn nếu thông tin không chính xác, các nhà quản trò có thể
đưa ra các quyết đònh sai lầm, có ảnh hưởng đến quá trình sinh lợi của doanh
nghiệp. Mặt khác nếu thông tin không đáp ứng kòp thời thì các vấn đề tồn tại sẽ
không giải quyết được nhanh chóng và có thể mất cơ hội trong kinh doanh. Kế
toán quản trò xử lý phần lớn các thông tin nhằm giúp cho các nhà quản trò ra các
quyết đònh điều hành sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp một cách kòp thời,
nhanh chóng và có hiệu quả.
1.1.1.2 Vai trò của kế toán quản trò đối với hoạt động kinh doanh [17, 42]
Do sự cạnh tranh trên thương trường ngày càng khốc liệt, sức ép của giá
thành, sự tiến bộ nhanh chóng của kỹ thuật trong việc tự động hóa cao dẫn đến
khả năng to lớn để thu thập và báo cáo số liệu đã làm tăng thêm nhu cầu về
thông tin của người quản lý. Đặc biệt là các thông tin có liên quan đến các hoạt
động nội bộ mà họ không thể rút ra từ các báo cáo thu nhập và xử lý thông tin
này, giúp cho các nhà quản lý ra quyết đònh kòp thời. Vai trò của kế toán quản trò
còn rất quan trọng trong việc xem xét chi phí của quá trình sản xuất kinh doanh,
giúp cho việc dự toán và lập kế hoạch giá thành phù hợp, giảm giá thành sản
xuất nhằm đáp ứng kòp thời cho nhu cầu quản lý doanh nghiệp.
- 12 -
Kế toán quản trò là kế toán theo chức năng quản lý, vì thế vai trò của nó
là cung cấp thông tin hữu ích liên quan đến việc lập kế hoạch tổ chức, điều hành
hoạt động; kiểm tra và ra quyết đònh.
- Cung cấp thông tin cho quá trình lập kế hoạch: đưa ra kế hoạch cho việc
thực hiện ngắn hạn và dài hạn của một doanh nghiệp. Kế hoạch mà người quản
lý đưa ra thường có dạng là dự toán ngân sách. Chúng được thực hiện hàng năm
và những mục tiêu của quản lý được biểu hiện dưới dạng số lượng và giá trò.
- Cung cấp thông tin cho quá trình tổ chức điều hành hoạt động: người quản
lý có một nhu cầu rất lớn về thông tin kế toán trong việc lãnh đạo hoạt động
hàng ngày. Chẳng hạn, lãnh đạo công ty cần đưa ra giá bán một mặt hàng nào
đó thì họ phải dựa trên các thông tin kế toán để đảm bảo giá bán đó là phù hợp,
hoặc bộ phận quản lý phải dựa trên các thông tin kế toán để đánh giá giá trò của
hàng tồn kho, hàng đang kinh doanh…Như vậy, công việc của kế toán và quản lý
gắn với nhau chặt chẽ trong việc điều hành các hoạt động hàng ngày.
- Cung cấp thông tin cho quá trình kiểm soát: Việc lập kế hoạch như trên là
chưa đủ, một khi kế hoạch ngân sách đã được lập, người quản lý cần những
thông tin có liên quan đến việc thực hiện. Kế toán quản trò giúp cho việc tập hợp
các thông tin cần thiết bằng cách cung cấp các báo cáo thực hiện. Báo cáo thực
hiện bao gồm các chi tiết để quản lý, so sánh các số liệu dự toán với các số liệu
thực tế trong một thời điểm nhất đònh. Khi báo cáo thực hiện chỉ ra một vấn đề
tồn tại ở một khâu nào đó của doanh nghiệp, người quản lý sẽ phải tìm nguyên
nhân của vấn đề và biện pháp giải quyết. Nếu báo cáo thực hiện chỉ rõ mọi việc
đều thực hiện tốt thì người quản lý sẽ để tâm vào công việc khác. Tóm lại, kiểm
- 13 -
tra việc thực hiện kế hoạch là bước phản hồi của người quản lý và nó có tác
dụng giúp người quản lý thực hiện tốt vai trò quản lý của mình.
- Cung cấp thông tin cho quá trình ra quyết đònh: Chức năng ra quyết đònh
đòi hỏi nhà quản trò phải có sư lựa chọn hợp lý trong nhiều phương án khác nhau
được đưa ra. Kế toán có nhiệm vụ thu thập các số liệu về chi phí và lợi nhuận để
thông tin cho người quản lý. Ví dụ, để tung sản phẩm ra nhằm cạnh tranh với các
doanh nghiệp khác trên thò trường cần quyết đònh phương án hạ giá, mở rộng
việc quảng cáo hoặc kết hợp cả hai việc này để chiếm lónh thò trường, doanh
nghiệp phải gắn chặt với các số liệu về giá thành và lợi nhuận do kế toán cung
cấp. Tuy nhiên, không phải lúc nào các số liệu cần thiết cũng có ngay theo yêu
cầu thực tế, do vậy kế toán sẽ thực hiện phân tích chung kể cả việc dự toán để
có được những số liệu đó.
Như vậy để có những quyết đònh đúng đắn cần phải có đầy đủ các thông
tin cần và chính xác. Nếu các thông tin không đầy đủ, không chính xác thì dẫn
đến quyết đònh sẽ bò sai lệch. Mặt khác, nhu cầu chính của quản trò không phải
là các thông tin chi tiết rời rạc mà là các bảng tóm tắt, từ đó người quản lý sẽ
thấy được nơi nào có vấn đề và nơi đâu cần sự quan tâm của nhà quản lý hơn
nữa để cải tiến làm cho công việc có hiệu quả hơn.
1.2 BÁO CÁO KẾ TOÁN QUẢN TRỊ:
1.2.1 Đối tượng sử dụng báo cáo kế toán quản trò và nhu cầu thông tin
của họ:
Báo cáo kế toán quản trò là phương tiện để truyền đạt thông tài chính có
ích cho những người sử dụng để đề ra các quyết đònh kinh tế. Báo cáo kế toán
quản trò phải đảm bảo được yêu cầu cung cấp thông tin thích hợp, kòp thời và
phù hợp theo từng đối tượng sử dụng thông tin với một chi phí xử lý thích hợp.
- 14 -
Vai trò chủ yếu của nhà quản lý là “ra quyết đònh”. Chính vai trò này
phân biệt nhà quản lý với những người khác trong doanh nghiệp. Để có thể thực
hiện được vai trò của mình, các nhà quản lý cần thông tin. Nhu cầu thông tin của
họ có thể được đáp ứng từ nhiều nguồn. Một trong những nguồn cung cấp thông
tin cho các nhà quản lý là kế toán quản trò.
Về nhu cầu thông tin của các nhà quản lý đối với kế toán quản trò, có
nhiều ý kiến khác nhau.
Ray H. Garrison cho rằng: “Thông tin được cung cấp bởi kế toán chủ yếu
là những thông tin mang bản chất tài chính, giúp cho người quản lý thực hiện ba
công việc:
1. Xây dựng kế hoạch một cách hiệu quả và tập trung chú ý vào những
chênh lệch so với kế hoạch.
2. Chỉ đạo hoạt động hàng ngày.
3. Đi đến những giải pháp tốt nhất cho những vấn đề hoạt động mà tổ
chức gặp phải.” [54,p.12-14]
Các tác giả Belverd E. Needles, Jr.; Henry R. Anderson và James C.
Caldwell, lại cho rằng: “Ba loại thông tin được cần đến để quản lý một công ty
có hiệu quả:
(1) Các công ty sản xuất và dòch vụ cần thông tin về giá thành sản phẩm
(dòch vụ);
(2) Tất cả các tổ chức đều cần dữ liệu để hoạch đònh và kiểm soát hoạt
động; và
(3) Các nhà quản lý cần các báo cáo và những phân tích đặc biệt để
chứng minh các quyết đònh của họ.” [47,p.919]
- 15 -
Tóm lại, để phục vụ cho nhu cầu ra quyết đònh quản lý có hiệu quả, các
nhà quản lý cần những thông tin sau từ kế toán quản trò:
- Đối với tất cả các doanh nghiệp, các nhà quản lý cần ba loại thông tin từ
kế toán quản trò:
1) Thông tin phục vụ cho việc xây dựng kế hoạch để đạt được mục tiêu
hoạt động của doanh nghiệp.
2) Thông tin phục vụ cho việc điều hành và kiểm soát các hoạt động
thường xuyên của doanh nghiệp để chỉ đạo hoạt động nhằm thực hiện
kế hoạch đã đề ra để đạt được các mục tiêu hoạt động của doanh
nghiệp.
3) Thông tin phục vụ cho việc chứng minh các quyết đònh đặc biệt trong
quá trình hoạt động.
- Đối với các doanh nghiệp sản xuất và dòch vụ, các nhà quản lý còn cần
loại thông tin thứ tư từ kế toán quản trò: Thông tin về giá thành sản phẩm, dòch
vụ.
1.2.2. Mục đích của báo cáo kế toán quản trò:
Mục đích của báo cáo kế toán quản trò chi phối việc soạn thảo và trình
bày báo cáo kế toán quản trò. Mục đích của báo cáo kế toán quản trò đến lượt nó
lại chòu sự chi phối bởi các đối tượng sử dụng và nhu cầu thông tin của họ.
Ở Việt Nam, mục đích báo cáo tài chính được xác đònh tại Quyết đònh số
1141TC/QĐ/CĐKT ngày 01-11-1995 của Bộ trưởng Bộ tài chính về việc ban
hành Chế độ kế toán doanh nghiệp như sau:
- 16 -
“1. Tổng hợp và trình bày một cách tổng quát, toàn diện tình hình tài sản,
công nợ, nguồn vốn, tình hình và kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của
doanh nghiệp trong một kỳ hạch toán.
2. Cung cấp các thông tin kinh tế, tài chính chủ yếu cho việc đánh giá tình
hình và kết quả hoạt động của doanh nghiệp, đánh giá thực trạng tài chính của
doanh nghiệp trong kỳ hoạt động đã qua và những dự đoán trong tương lai.
Thông tin của báo cáo tài chính là căn cứ quan trọng cho việc đề ra các quyết
đònh về quản lý, điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoặc đầu tư vào
doanh nghiệp của các chủ doanh nghiệp, chủ sở hữu, các nhà đầu tư, các chủ nợ
hiện tại và tương lai của doanh nghiệp.”
Tuy nhiên, các báo cáo tài chính cung cấp cho các đối tượng sử dụng bên
ngoài doanh nghiệp không cung cấp toàn bộ thông tin mà những người sử dụng
có thể cần đến để đề ra các quyết đònh kinh tế do chúng chỉ đưa ra các ảnh
hưởng tài chính của các sự kiện trong quá khứ và không bắt buộc cung cấp
những thông tin phi tài chính. Thông tin từ các báo cáo tài chính tuy cũng có ích
cho các nhà quản lý trong nội bộ doanh nghiệp, song có những thông tin khác
phục vụ cho việc hoạch đònh, kiểm soát và ra các quyết đònh khác, không tìm
thấy trong các báo cáo tài chính. Các thông tin như vậy chỉ có thể tìm thấy trong
các báo cáo quản trò. Đó cũng chính là mục đích của các báo cáo quản trò.
1.2.3. Yêu cầu đối với các báo cáo kế toán quản trò:
Khác với báo cáo tài chính, thông tin trên báo cáo kế toán quản trò không
chòu sự chi phối của các nguyên tắc, các chuẩn mực kế toán quản trò được thừa
nhận chung. Tiêu chuẩn duy nhất đối với thông tin trên báo cáo quản trò là tính
có ích của thông tin. Do đó, các yêu cầu đặt ra đối với báo cáo kế toán quản trò
nhằm hướng đến tính có ích của thông tin.
- 17 -
Các tác giả Eric L. Denna và Dennis L. Kimmell, khi nghiên cứu các yêu
cầu thông tin trong nội bộ doanh nghiệp, cho rằng:
“Thông tin nội bộ có tính chất tùy ý, và những người thiết lập hệ thống
thông tin kế toán nên cân nhắc:
a. Thông tin nào nên được tạo ra để sử dụng.
b. Thông tin được tạo ra cho ai sử dụng.
c. Thông tin được báo cáo thường xuyên ra sao.
d. Giá trò của thông tin có lớn hơn chi phí của việc cung cấp thông tin
không.” [49]
Các tác giả Keith Ward, Sri Srikanthan và Richard Neal cũng cho rằng:
“Mặc dầu hơi cũ, khái niệm “đúng thông tin cho đúng người quản lý vào đúng
thời điểm” là khái niệm quyết đònh khi thiết kế hệ thống kế toán quản trò”
[52,p.12]
Tóm lại, yêu cầu đối với báo cáo quản trò là: phải cung cấp thông tin thích
hợp cho những người sử dụng thích hợp vào những thời điểm thích hợp với chi
phí xử lý thông tin thích hợp.
Hệ thống báo cáo kế toán quản trò là kết quả xử lý thông tin của hệ thống
kế toán nhằm cung cấp những thông tin tài chính có ích cho những người sử dụng
để đề ra các quyết đònh kinh tế.
1.3 VÀI NÉT VỀ NGÀNH IN
1.3.1 Lòch sử hình thành và phát triển ngành in trên thế giới
Ngành in là một ngành công nghiệp trong hệ thống của nền kinh tế thứ
VIII trước công nguyên ở Trung Quốc, sau đó du nhập vào châu âu vào thế kỷ
thứ V, ông tổ của ngành in là J.G.Guttenberg (1397 - 1468) người Đức và phát
- 18 -
triển ngày càng tinh vi: từ chỗ in bằng bản khắc trên gỗ, trên kim loại, đến in
bằng bản kim loại có phủ màng hóa chất (bản kẽm), và ngày nay in trực tiếp
bằng tia mực theo sự điều khiển của máy tính điện tử.
Công nghiệp in ở nước Đức, Nhật, Mỹ,.....phát triển rất mạnh. các máy in
được sử dụng trên khắp thế giới đều chủ yếu được sản xuất từ ba nước này. các
thương hiệu máy in như Heidelberg, Rolana, Kamori, Miller, ATF,....trở nên
quen thuộc ở tất cả các nước trên thế giới bởi vì nước nào cũng cần có máy in để
in sách, báo, tranh ảnh, văn hóa phẩm. trình độ dân trí một nước có thể được
phản ánh bằng các tiêu thức: số tấn giấy/đầu người-năm, số trang in/đầu người-
năm.
1.3.1.1 Giai đoạn trước 1440
Nghề in xuất hiện sớm ở Trung Quốc, việc phát minh ra giấy và các kỷ
thuật nhân bản bằng con dấu và bôi quét do nhu cầu to lớn đối với việc nhân bản
và các văn bản chuẩn hóa các văn bản của Khổng giáo dùng cho việc thi cử
tuyển dụng cũng như nhu cầu to lớn về những văn bản Phật giáo không thể chép
tay xuể. Đời Hán, người Trung Quốc đã biết khắc chữ lên bàn đá, lên đất sét rồi
nung thành sách. Đó là phương pháp ấn loát cổ sơ đầu tiên trên thế giới.
Đền đời Tùy, Đường (thế kỷ thứ V_VII) thì nghề in đã tương đối hoàn
thành và người ta đã biết khắc chữ trên các bản gỗ để in trên bàn đá và trên đất
sét…Vào thời điểm này ở Bác Kinh tờ báo đầu tiên mang tên “Cố vấn của Nhà
nước” (Kaiyuan Zabao) đã được in bằng phương pháp khắc vào bảng gỗ. Bằng
cách thoa mực lên bảng và dùng sức ấn mạnh vào giấy (in tay),…phương pháp
này gọi là “Xylographic”.
Vào năm 1041, Tất Thăng (đời nhà Tống) phát minh ra phương pháp ấn
loát mới gọi là “hoạt bản”, nghóa là dùng chữ rời sắp theo văn bản để in sách.
- 19 -
Cách làm cho phép tiết kiệm được nhiều nhân lực và vật lực đồng thời tăng tốc
độ in ấn, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Năm 1409, cuốn sách đầu tiên ra đời, được in ở Triều Tiên bằng cách sắp
chữ kim loại.
1.3.1.2 Giai đoạn 1440-1850
Năm 1450, Ông tổ của nghành in, Jean Guterbrg đã sáng chế ra cách in
bằng kỹ thuật làm bảng chữ bằng chì, đồng, kẽm. Tuy nhiên, máy in còn rất thô
sơ bằng gỗ, bản chữ không xê dòch. In chỉ một mặt, muốn in 2 mặt phải thay đổi
mặt in sau và in từng tờ một. Khi in dùng sức người để ấn cần trục, năng suất chỉ
đạt khoảng 300 tờ/ngày với khổ giấy nhỏ 57x47cm, 56x76cm. Kỹ thuật in ấn này
kéo dài khoảng 400 năm. Tất cả các máy in trong thời gian này đều được vận
chuyển bằng sức người. Những máy in này còn có những khuyết điểm như dễ
mòn, hỏng khi sử dụng nhiều.
Vào năm 1780, máy in được cải tiến, bản chữ xê dòch được nên năng suất
tăng lên 600 tờ/ ngày. Năm 1795, máy in bằng gỗ được thay thế bằng kim loại
và năng suất tăng lên 3000 tờ/ngày.
Năm 1814, F.Kô-ê-vich chế tạo ra loại máy in chạy bằng hơi nước cho tờ
Thời báo (Times) tốc độ đạ được 4.000 tờ/ngày.
1.3.1.3 Giai đoạn 1850-1900
Trong suốt thời gian dài gần 50 năm sau cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật lần thứ nhất, người ta đã dùng hơi nước để làm năng lượng vận chuyển
máy in. Trước khi in hình phải cần một thợ chuyên môn khắc vào bản và kỹ
thuật sắp chữ đạt 225 chữ/giờ. Tình trạng này gây trở ngại rất nhiều cho ngành
in. Do đó, các phát minh về ngành in luôn được cải thiện theo thời gian.
- 20 -
Năm 1890, một người Đức di cư sang Mỹ là Ri-Sớt-Mác-Sơ-Hâu sáng chế
máy sắp chữ Linotype tốc độ 5000-7000 chữ/giờ.
Năm 1900, máy in vận chuyển bằng điện tốc độ lên đến 85.000 giờ/ngày,
so với máy in bằng tay 300tờ/ngày, máy in kim khí 3000tờ/ngày, máy in vận
chuyển bằng hơi nước 4.000 tờ/ngày.
Năm 1940, máy in hình màu ra đời.
Năm 1973, kỹ thuật in ấn đã rất phát triển . Cùng với sự ra đời của máy vi
tính đầu tiên trên thế giới (1973), tiếp theo là sự xuất hiện của máy sắp chữ
lazer năm 1978, công nghệ in điện tử đã thật sự là một cuộc cách mạng to lớn,
bước ngoặc vó đại của ngành in.
1.3.2 Lòch sử phát triển ngành in Việt Nam
Có thể nói ngành in tại Việt Nam bắt nguồn từ khi ông Trương Vónh Ký
góp công lớn vào việc phổ biến chữ Quốc ngữ. Nhu cầu ấn loát được hình thành
từ khi ông Trương Vónh Ký lập trường và in sách học. Lúc này, kỹ thuật in cũng
rất thô sơ, chữ ký khắc vào cây và in tay. Ngành in tiến bộ hơn khi người Pháp
du nhập máy in vào Việt Nam. Các sáng chế và canh tân về kỹ thuật máy in
trên thế giới đều được người Pháp du nhập vào Việt Nam một phần lớn.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà in Quốc gia –Cơ quan quản lý
Nhà nước đầu tiên về xuất bản, in và phát hành sách ở nước ta được thành lập
bởi sắc lệnh số 122/SL ngày 10/10/1952 do Chủ tòch Hồ Chí Minh ký.
Kể từ ngày khai sinh và trong công cuộc đổi mới ngày nay, ngành in nước
ta đã đóng góp tích cực trên mặt trận tư tưởng văn hóa, phát triển kinh tế và
nâng cao dân trí. Đặc biệt trong 15 năm đổi mới, ngành in nước ta đã đạt được
- 21 -
những thành tưụ to lớn về nhiều phương diện, được chính phủ đánh giá là một
trong sáu ngành công nghiệp phát triển cao nhất, đầu tư đổi mới công nghệ đúng
hướng, đi thẳng vào công nghệ hiện đại.
Ngành in nước ta trong mười năm qua đã có những bước phát triển đáng
kể cả về số lượng và chất lượng trong cả ba giai đoạn công nghệ: "ngành công
nghiệp in phát triển nhanh, có nhiều tiến bộ và đã đạt được trình độ cao, rất
đáng khích lệ". Thật vậy, ngành in nước ta đã có thiết bò chế bản điện tử, máy in
offset đời mới nhất và dây chuyền hoàn thiện sản phẩm in hiện đại. chất lượng
sản phẩm in có bước tiến xa so với trước đây. Không phải chỉ có catalogue mới
được in đẹp, nhiều màu, trình bày mỹ thuật có sức lôi cuốn người xem, mà cả
sách giáo khoa, báo ngày, báo tuần,.....cũng vậy.
Hoạt động in ấn ở nước ta chủ yếu tập trung ở hai trung tâm in Hà Nội và
TP. Hồ Chí Minh. Riêng trung tâm in TP.HCM chiếm gần một nửa tổng sản
lượng trang in toàn ngành. Hoạt động in ở TP.HCM có thể nói là đi đầu trong
việc đổi mới thiết bò, máy móc và tăng trưởng. tình hình hoạt động của ngành in
ở TP. HCM diễn ra rất sôi động, phong phú và cũng "phức tạp". Sôi động do
cung cách điều hành, kinh doanh của các nhà in phong phú do mẫu mã, chủng
loại đa dạng và hầu như không thiếu bất kỳ một kỹ thuật in ấn nào ở thành phố
này. Phức tạp do có rất nhiều nhà in hoạt động trên thò trường, thuộc các ban
ngành Trung ương, đòa phương với nhiều "dạng" kinh doanh biến tướng như: thuê
máy, đặt máy, khoán máy, ..... nhiều vụ vi phạm luật xuất bản xảy ra và công
việc quản lý nhà nước đối với ngành in rất vất vả.
Ngành in có những bước phát triển khá cao, song bên cạnh đó đã bộc lộ
những thiếu xót, hạn chế mà một trong những ngành in cần phải kể đến là chưa
- 22 -
có được những ngành cần phải kể đến là chưa có được những chiến lược phát
triển một cách căn cơ và phù hợp với tình hình đổi mới và mở cửa nền kinh tế,
cũng như tình hình hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Ngành in được xếp vào ngành đặc doanh, nằm trong các thiết chế văn hóa
– thông tin do sản phẩm của ngành in có một số ấn phẩm quan trọng như sách,
báo,… trực tiếp phục vụ cho việc phổ biến, tuyên truyền đường lối chính sách,
pháp luật của Đảng và Nhà nước, ngoài ra chúng còn có nhiệm vụ nâng cao văn
hóa, dân trí cho nhân dân. Tuy vậy, ngành in có những đặc điểm riêng, khác biệt
so với một số bộ phận trong hệ thống các thiết chế văn hóa thông tin.
- Thứ nhất, ngành in là một ngành công nghiệp có quy trình sản xuất
riêng biệt, hình thức tổ chức như những ngành sản xuất khác. Ngoại trừ các
doanh nghiệp ngành in hành chính sự nghiệp, còn lại các doanh nghiệp in đều
hoạt động theo phương thức hạch toán kinh tế, đảm bảo có lãi.
- Thứ hai, ngành in hoạt động theo luật xuất bản, sản phẩm của
ngành in đa phần được sản xuất theo đơn đặt hàng của các ngành khác như xuất
bản, báo chí, ngành may mặc, ngành bánh kẹo, ngành thực phẩm khác…điều này
nói lên sự phát triển của các ngành khác sẽ thúc đẩy ngành in phát triển và
ngược lại, sự phát triển về dân số, về giáo dục, dân trí….cũng thúc đẩy ngành in
phát triển.
Quan điểm của Đảng và Nhà nùc về ngành xuất bản, in và phát hành
thể hiện ở 4 điểm cốt lõi sau:
− Hoạt động xuất bản là họat động thuộc lónh vực văn hóa, tư tưởng
thông qua việc xuất bản ấn phẩm đến nhiều người. Hoạt động xuất bản không
phải là hoạt động kinh doanh đơn thuần, do đó lợi nhuận không phải là mục tiêu
của họat động xuất bản.
- 23 -
− Việc phổ biến các tác phẩm về chính trò, văn hóa, xã hội, khoa học,
nhằm nâng cao dân trí, đáp ứng yêu cầu đời sống văn hóa, tinh thần của nhân
dân, mở rộng giao lưu văn hóa với các nước, góp phần vào sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
− “Mọi hoạt động văn hóa (trong đó có hoạt động xuất bản) nhằm
xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộ, xây dựng
con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, xây dựng
môi trường văn hóa lành mạnh cho sự phát triển xã hội. (Nguồn: Báo cáo chính
trò Đại hội VIII của Đảng).
− Ngành in là ngành công nghiệp gia công thông tin hoạt động theo
phương thức hạch toán kinh tế, đảm bảo có lãi, bảo toàn và phát triển vốn, và
làm nghóa vụ với ngân sách Nhà nước. Một mặt, ngành in là một thiết chế văn
hóa – thông tin có liên quan mật thiết đến đời sống tư tưởng văn hóa của xã hội,
đến an ninh quốc gia. Mặt khác, ngành in là ngành kinh tế - kỹ thuật hoạt động
theo luật doanh nghiệp, gắn với cơ chế thò trường song kết quả hoạt động của nó
không chỉ thể hiện bằng hiệu quả kinh tế mà còn bằng hiệu quả mà còn bằng
hiệu quả chính trò – xã hội.
Bộ văn hóa – thông tin là cơ quan có thẩm quyền cấp, thu hồi giấy phép
thành lập nhà xuất bản, cơ sở in, tổ chức phát hành của Nhà nước thuộc bộ, ban
ngành, đoàn thể trung ương và các tỉnh họach phát triển kinh tế – xã hội theo
vùng và đặc điểm sản phẩm theo chuyên ngành. Để hoạt động xuất bản có thể
hôi nhập với khu vực và thế giới, cần xây dựng hành lang pháp lý, đẩy mạnh
hoạt động xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong
nước sản xuất có hiệu quả. Công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn đòi hỏi
phải đổi mới tổ chức ngành xuất bản, in và phát hành đào tạo đội ngũ cán bộ,
- 24 -
công nhân kỹ thuât, hiện đại hóa công nghiêp cho ngang tầm yêu cầu của đất
nước và theo kòp trình độ phát triển của thế giới.
Luật xuất bản (Ban hành ngày 19 – 07 - 1993 ) và các văn bản dưới luật
(Nghò đònh số 79/CP ngày 06/11/1993 của chính phủ quy đònh chi tiết thi hành
Luật xuất bản; Thông tư số 38/TT – XB ngày 07/05/1994 của Bộ VHTT hướng
dẫn thực hiện Nghò đònh 79/CP ) là cơ sở pháp lý hiện hành cho hoạt động xuất
bản Việt Nam. Riêng ngành in còn có thêm “ Quy chế về tổ chức và hoạt động
in “ của Bộ VHTT ban hành ngày 26/08/1977.
Chủ trương xã hội hóa hoạt động văn hóa theo tinh thần Nghò quyết 90/CP
ngày 21/8/1997 và Nghò đònh 73/CP của chính phủ đã mở rộng phạm vi hoạt
động của các cơ sở in tư nhân, tập thể: họ được phép đầu tư vào hoạt động chế
bản điện tử, in bao bì, nhãn hàng, các công đọan sau in và phục vụ in (đóng xén,
dạy nghề in….). Mục đích của chủ trương xã hội hóa họat động văn hóa là để
khai thác nguồn vốn đầu tư của toàn xã hội vào các loại hoạt động văn hóa và
dòch vụ văn hóa, huy động tiềm năng về nhân tài, vật lực trong xã hội để nâng
cao mức hưởng thụ văn hóa của các tầng lớp nhân dân.
Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ trong hơn hai thập kỹ qua
đã tác động mạnh mẽ đến các ngành trong nền kinh tế. Trong ngành in người ta
đã chứng kiến những bước tiến không ngờ. Hiện nay việc sử dụng các thiết bò
chế bản điện tử, máy in 4 màu tờ rời và in cuộn, dây chuyền đóng sách liên hợp
đã trở nên phổ biến. Các nhà in ở Đức, Mỹ, Nhật, bắt đầu vi tính hóa thiết bò in
và gọi là công nghệ CTP (computer to plate, Computer to print), nghó a là gắn
liền máy vi tính với thiết bò phơi bản kẽm và máy vi tính với máy in. Công nghệ
hiện đại này cho phép bỏ qua một số bước công nghệ truyền thống, nhờ vậy rút
- 25 -
ngắn thời gian và giảm bớt chi phí nguyên vật liệu. Việc sử dụng các máy in
offset nhiều màu, in cùng lúc 2 mặt, có màn hình điều khiển tốc độ in, lực ép in,
lượng mực in…cho thấy các máy in thế hệ mới rất hiện đại, ít hao phí lao động và
rút ngắn chu kỳ sản xuất rất nhiều.
Các thiết bò hiện đại vừa tạo cơ hội vừ tạo nguy cơ đối với xí nghiệp: chi
phí đầu tư rất cao (một máy giá khoản vài chục tỷ đồng), chi phí đào tạo kỹ
thuật cao, cạnh tranh giành việc ác liệt hơn, có điều kiện thích ứng với tiến trình
hội nhập với các nước trên thế giới và khu vực….
Hoạt động xuất bản là một phận của hoạt động văn hóa. Hoạt động xuất
bản phải căn cứ vào tình hình phát triển văn hóa xã hội để đònh hướng hoạt động
cho phù hợp. Các xuất bản phẩm phải tập trung giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn,
tình cảm cao đẹp của con người Việt Nam, đề cao tinh thần yêu nước, ý chí tự
lực, tự cường, cần kiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XNCH. Xuất
bản phẩm trực tiếp góp phần nâng cao dân trí, phát triển kinh tế và văn hóa,
phát huy truyền thống và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Ngành xuất
bản là một trong những công cụ phục vụ công tác tư tưởng của Đảng và Nhà
nước, do đó hoạt động xuất bản không thể chạy theo lợi nhuận đơn thuần, xa rời
chức năng, nhiệm vụ được giao.
Những năm gần đây, đời sống vật chất của người dân được nâng cao hơn,
đời sống tinh thần cũng thay đổi theo. Độc giả từ nhỏ đến lớn, thành thò đến
nông thôn đòi hỏi ấn phẩm đẹp, màu sắc hài hòa, trình bày mỹ thuật, thậm chí
cách điệu cầu kỳ,in trên chất liệu cao cấp. Người đưa in chỉ cần nêu “ý tưởng
trình bày” sẽ được cung cấp mẫu theo yêu cầu.