Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

36 đình đền chùa hà nội (NXB thanh niên 2010) quốc văn, 120 trang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.69 MB, 120 trang )

TỦ S Á C H

T I N H HOA T H Ă N G

L O N G • HÀ N Ộ i

ĐÌNH, ĐỀN, CHÙA
Q ýC à ờ ^ổ i
0

Q U Ố C VÁ N
(Tuyển chọn, biên soạn)

NHÀ XUẤT BẢN THANH NIÊN


lĩÀNỘI
cỏ N H Ồ U H O N

M Ộ T Đ A ỖÁU

(THAY LỜI GIỚI THIỆU)

uốn sách Hà Nội ba sáu phố phường gắn liền với
tên tuổi nhà văn tài hoa Thạch Lam đã trở nên nổi
tiếng và quá đỗi thân thuộc với nhiều lớp bạn đọc người
Việt. Cho đến bây giờ cũng chưa hề có con số thống kê
rằng nó đã được xuất bản bao nhiêu bận, sô' lượng tới
nay đạt bao nhiêu bản, những nhà xuất bản nào đã từng
in? Chỉ biết rằng, khi nói tới những áng văn đẹp viết về
mảnh đất Kẻ Chợ, không thể lãng quên Hà Nội ba sáu


phố phường, không thể không kể tới Thạch Lam, Nguyễn
Tuân, Vũ Bằng... hay một vài nhà văn tên tuổi khác.

G

Có thể bạn chưa biết nhiều về Hà Nội, có thể bạn chưa
một lần đặt chân tới Hà Nội, cũng đâu có sao, chỉ cần
bạn có trong tay Hà Nội ba sáu phổ phường của Thạch
Lam, Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng... thì Hà Nội với
những gì tinh túy nhất, tinh tế nhất, hào hoa thanh lịch
nhất, tựa hồ đâ nằm trong tay bạn. Bạn có thể thả hổn
trong một biệt thự tiện nghi sang trọng nào đấy, hoặc
thảy trong một căn hộ ọp ẹp, trên một ghế đá cạnh một
mặt hổ thơ mộng nào đấy, hoặc bất kỳ một chỗ nào đó
tùy bạn chọn lựa ở trên khắp miền đất Việt để mà thưởng
-

5

-


nhũrng trang viết tưởng không có gi đẹp hơn, không có gì
hay hơn, thú hơn về những nét văn hóa của chốn văn vật
ngàn đời Thăng Long - Kẻ Chợ đâ được “cô" cả vào
trong những ngòi bút tài hoa ấy. Vậy thì tới Hà Nội làm gì
cho nhọc xác, cho bụi bặm đường trường, cho tàu xe đầy
bất trắc. Hà Nội vẫn có thể gần bạn hơn qua từng trang
sách nhỏ. Hà Nội bây giờ đã không còn trầm mặc, bình
lặng như cái thời của Thạch Lam, Vũ Bằng hồi tưởng qua

từng nét bút nữa. Hà Nội bây giờ đã rộn ràng hơn trong
thời mỏ cửa, trong cái thời hội nhập bốn phương tám
hướng. Có thể có chút gì đó hơi xô bồ đã chen vào, đấy
là tôi cứ mạo muội cảm vậy. vẫn rất mong, vẫn hi vọng
mình sai. Hà Nội hiên ngang hơn, hiện đại hơn bởi những
cao ốc chọc trời, bởi những panô, biển hiệu xanh đỏ đủ
màu, bỏi những con phố mới thênh thang dài và rộng,
cho mỗi khi mưa nước lại ngập tràn. Hà Nội dường như
còn ồn ào hơn bởi vô vàn tiếng còi ôtô, xe máy inh ỏi mỗi
khi tắc đường, cũng phong phú gương mặt phố phường
cùng những cô chiêu cậu ấm tóc với đủ màu xanh, đỏ,
vàng, nâu cưỡi những chiếc xe máy đắt tiền lượn vù vù
các phố. Hà Nội khói. Hà Nội bụi. Đủ cả. Không chỉ có
vậy. Hà Nội còn nhiều những mặt trái khác. Ấy là tôi cứ
cả nghĩ vậy. Một lẽ vì Hà Nội là nơi hội tụ của dân tứ
chiếng. Từ Nam chí Bắc, từ xuôi tới ngược. Thảy đều dồn
về Hà Nội. Như lũ thượng nguồn đổ nơi hạ nguồn. Như
trăm dòng sông xuôi về biển lớn. Có vác xin nào cho Hà
Nội yêu dấu của tôi đây! Này nhé, sau những náo nhiệt,
ồn ào đấy, chì dáng vẻ bề ngoài thôi bạn ạ! Hà Nội vẫn
toát lên nét hào hoa thanh lịch, rêu phong trầm mặc tự
ngàn đời của mảnh đất Kinh Kỳ xưa - Kinh đô của bao
vương triều phong kiến. Hà Nội biết tự đào thải, biết tự
sàng lọc cho riêng mình những gì tinh túy nhất, tao nhâ

-

6

-



nhất để làm nên hai tiếng yêu thương cho ai đã từng đến,
từng đi và cả những ai chưa từng một lần đặt chân tới
mảnh đất thiêng này cũng không khỏi rưng rưng xúc
động cõi lòng khi nhắc đến hai tiếng: Hà Nội!
Hà Nội có trong tôi, trong bạn, trong tất cả chúng ta. Bỏi
Hà Nội là Thủ đô của cả nước. Hà Nội mang trong mình
vinh quang và trọng trách lớn lao. Tôi, bạn, cũng như tất
cả con dân nước Việt đều phải có trách nhiệm vun đắp,
tô đẹp thêm Hà Nội của mình, bằng những việc làm dù là
nhỏ nhất, đôi khi chỉ là ý nghĩ đẹp cũng đã đủ lắm rồi,
cũng đáng quý, đáng trân trọng xiết bao. Thủ đô nghìn
năm tuổi, còn sẽ thêm nhiều tuổi nữa. Ý thức trách
nhiệm, tấm lòng của một người con đất Việt mong muốn
góp chút gì để mừng cho Thủ đô ta trường thọ đã khiến
Tủ sách tình hoa Thăng Long - Hà Nội được hình thành;
đã khiến Hà Nội giờ đây không chỉ dừng ỏ Hà Nội ba sàu
phố phường như tiền nhân Thạch Lam phóng bút. Hà Nội
đã có nhiểu hơn một ba sáu, với: 36 kiến trúc Hà Nội, 36
bài thơ Hà Nội, 36 nghệ nhân Hà Nội, 36 phóng sự Hà
Nội, 36 làng nghề Hà Nội, 36 lễ hội Hà Nội, 36 đinh - đền
- chùa Hà Nội, 36 truyện ngắn Hà Nội, 36 danh thắng Hà
Nội, 36 đoản văn Hà Nội, 36 tạp văn tùy bút Hà Nội, 36
ngôi nhà Hà Nội, 36 món ngon Hà Nội, 36 gương mặt Hà
Nội... 36 và 36. 36 đã trỏ thành phiếm chỉ chứ không đơn
thuần về mặt số học. ở tủ sách này, người biên soạn,
tuyển chọn vẫn muốn ấn định con số 36 cho các bài viết
trong các tập của tủ sách như một sự nhắc nhủ, tri ân
cùng Thủ đô về một thời Kẻ Chợ - Thăng Long - Hà Nội

36 phố phường ngàn xưa. Tầm vóc của Hà Nội ngàn
năm tuổi, ấy cũng chỉ tính từ vua Lý Thái Tổ hạ chiếu dời
đô nơi cố đô Hoa Lư chật hẹp tới chốn rồng cuộn hổ ngồi
-

7

-


- để mưu nghiệp lớn muôn đời cho con cháu vể sau.
Chứ thực ra mảnh đất mấy nghìn năm tuổi này đã có
từ thuở hổng hoang của lịch sử, từ khi Nữ Oa đội đá vá
trời, từ buổi Lạc Long Quân - Âu Cơ kết duyên Tiên
Rồng để khai thiên mở cõi dựng gây dòng giống Lạc
Hổng. Mà thôi, kể làm chi những điều xa xưa ấy. Khi
mà Thăng Long - Hà Nội trường tổn cùng lịch sử như
một lẽ tiền định. Chỉ biết rằng mỗi thời khắc qua đi,
mảnh đất thiêng lại thêm nhiều sự tích, nhiều huyền
thoại và kỳ tích mà thôi.
Sự ghi nhắc của những trang sách trong tủ sách này
chắc sẽ là khiên cưỡng, chưa thể đủ đầy với vóc dáng
Phù Đổng thiên vương nơi Thủ đô ngàn tuổi. Song hy
vọng, đây sẽ ià nốt ruồi son tô đẹp thêm nhan sắc nàng
thiếu nữ Hà Nội yểu điệu duyên dáng yêu kiều của mỗi
chúng ta.

Mùa Đông Kỷ Sửu
Q uốc Văn


-

8

-


f)Ì M H

-

9

-



có tên nôm là đình Chàng, được mệnh danh lớn
nhất xứ Đoài, thuộc địa phận xã Chu Minh, huyện
Ba Vì, cách Hà Nội hơn 50 km. Tưofng ttuyền đình xây
dựng dưới thời Lê Sơ khoảng thế kỷ XVI thờ Nhã Lang
con trai Lý Phật Tử.
Đình là một kiến trúc cổ hình gồm 3 gian 2 chái với 48
cột gỗ lim lớn đỡ lấy bộ mái to. Giống với phần lớn các
ngôi đình làng xứ Đoài, đình Chàng cũng có một bộ mái
xoè rộng lan xuống thấp tạo vẻ bề thế vững chãi nhưng các
đầu đao uốn cong làm toàn bộ ngôi đình nhẹ nhàng, thanh
thoát. Các bộ phận bằng gỗ trong đình là những tác phẩm
chạm khắc tinh tế với đề tài phong phú phản ánh hiện thực
cuộc sống có giá trị nghệ thuật và nghiên cứu như chọi gà,

đánh đàn, múa hát.

-

11

-


'^ ìn h < 3 ề ấ tT y r à m

'ữ

rTT^ình Bát Tràng là một trong số những ngôi đình lớn
/L>^ của xứ Kinh Bắc xưa. Đình nằm tại làng Bát Tràng,
xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Đình
được làm lại vào năm 1720 đòi vua Lê Dụ Tông, xây theo kiểu
chữ Nhị, phía trong là hậu cung gồm 3 gian, phía ngoài là tòa
đại bái gồm 5 gian 2 chái. Cột đình làm bàng những cây gỗ lim
lớn. Các gian bên được lát bục gỗ theo bậc tam cấp làm chỗ
ngồi, Đình quay ra sông Nhị Hà. Hiện nay đình còn luii giữ
hon 50 đạo sấc phong cho thành hoàng, đời vua Lê Cảnh
Hưng, đời vua Quang Trung và vua Cảnh Thịnh.
Nằm trong quần thể di tích của làng gốm sứ cổ tniyền
Bát Tràng, thành phố Hà Nội, Đình Bát Tràng được xây dựng
vào năm 1720. Với kiến trúc nguy nga, bề thế, Đình quay về
hướng Tây, nhìn ra dòng sông Hồng đỏ nặng phù sa. Kiến
trúc Đình theo lối chữ Nhị, phía sau là Hậu cung, noi thờ 6 vị
thánh thần được được suy tôn là Lục vị Thành Hoàng. Phía
trước là tòa Đại bái gồm 5 gian 2 trái với hai tầng bục gỗ và

được dựng bởi nhiều cây cột gỗ lim lớn hàng vòng tay
người ôm không xuể. Chính giữa tòa Đại bái là hương án
thờ Công đồng, bên trên treo hai bức đại tự sơn son thếp
vàng lớn: "Thiên địa hợp kì đức" (Đức lớn thuận theo trời
-

12

-


và đất), lấy nghĩa theo quẻ đầu tiên trong Kinh Dịch. Nội
dung của bức Đại tự này cũng chính là tôn chỉ của dân làng
bao đời nay: Trong cuộc sống luôn lấy chữ Đức làm đầu,
mọi việc tất sẽ hanh thông, thuận lợi. Và bức đại tự “Hiếu
nghĩa cấp công” - Đây chính là tấm biển vua Nguyễn ban
cho dân Bát Tràng khi Nhà Nguyễn xây thành Hà Nội vì
nghĩa lớn dân làng Bát Tràng đã cạy gạch ở sân đình dâng
nộp cho triều đình. Hai bên hương án là đôi câu đối ghi dấu
gốc tích con dân làng Bát: "Bồ di thủ nghệ khai đình vũ Lan nhiệt tâm hưong bái thánh thần" - Đem nghề từ làng
Bồ ra khởi dựng đình miếu, Lòng thành như hương lan
cúng tạ thánh thần). Hai bên chái Đình là ban thờ Vách Tả,
Vách Hữu. Theo các cụ già trong làng kể lại, hai bên vách
Đình thờ những người trong làng không có con cái. Đây
cũng chính là một nét văn hóa đẹp thể hiện cái đức Hiếu
sinh của người dân làng Bát. Bục thấp nhất và sân đình
được lát bàng gạch Bát - Thứ gạch đã đi vào thơ ca, huyền
thoại của dân tộc, thứ gạch xe duyên xây bể, thứ gạch bền
chắc mà không một loại rêu nào bám được và đã được ưa
dùng từ cung đình đến làng xã. Bốn mái đình cong vút,

lư<,m sóng, phía trên đắp hình Nghê vừa mềm mại, vừa
khoẻ khoắn, uy nghiêm. Trên cửa chính bước vào tòa Đại
bái treo bức Hoành phi với bốn chữ "Bạch thổ danh SOTI",
gợi nhớ lại cái khung cảnh sơ khai của vùng đất sét trắng Bạch Thổ Phưòfĩig (Bát Tràng ngày nay) khi dòng họ
Nguyễn Ninh Tràng mới theo vua Lý Thái Tổ dời đô từ
Hoa Lư về Đại La để sản xuất loại gạch Vĩnh Ninh Trường
phục vụ công cuộc xây dựng kinh thành mới. Cột đồng trụ
uy nghiêm như những cây bút lớn viết thẳng lên trời xanh
-

13

-


mang khí thế truyền thống khoa bảng của làng. Trên cột
đồng trụ gẳn đôi câu đối sứ: "Ngũ hành tú khí chung anh
kiệt - Vạn trượng văn quang biểu cát tưÒTig" - Nơi hội tụ
khí thiêng hun đúc nên các bậc anh hùng hào kiệt - Ánh
sáng văn hóa tỏa xa vạn dặm biểu thị sự cát tường). Cửa tả,
cửa hữu lần lượt gắn hai hàng chữ "Thổ thành kim" (Đất
biến thành vàng), "Nê tác bảo" (Bùn làm ra cùa báu) - Bùn
đất qua đôi bàn tay người nghệ nhân làng Bát trở thành
những vật phẩm quý giá, đồ cống tế ngoại giao. Trải qua
các triều đại lịch sử, Đình Bát Tràng hiện còn lưu giữ được
hơn 50 đạo sắc phong. Năm 1976, Đình và Văn chỉ Bát
Tràng vinh dự đón Đại tướng Võ Nguyên Giáp về thăm.
Chính bởi những giá trị về kiến trúc và văn hóa như vậy,
năm 2005 Bộ Văn hóa thông tin đã cấp bàng Di tích Vàn
hóa Kiến trúc Nghệ thuật cho Đình Bát Tràng. Sau gần 300

năm tuổi cộng với chiến tranh địch họa, Đình bị hư hoại
nặng. Từ năm 2005, dân làng Bát Tràng đă cùng nhau đóng
góp, đại Trùng tu Đình. Nay công trình đại trùng tu đã hoàn
tất, Đình Bát Tràng đã trở lại đúng với dáng dấp xưa.

Một số câu đối tại đình Bát Tràng
Phiên âm:
Bồ dì thù nghệ khai đình vũ
Lan nhiệt tăm hương bái thánh thần
Dịch nghĩa;
Đem nghề từ làng Bồ ra khởi dựng đình miếu
Lòng thành như hương lan cúng tạ thánh thần.
-

14

-


Phiên âm:
Lưỡng giới giao tranh đồ họa nhập
Trùng môn yên nguyệt thái hĩnh khai.
Dịch nghĩa:
Gianh giới giừa hai nơi đẹp như tranh vẽ
Cửa từng lớp, khỏi che mặt trăng,
mở ra một thời thải bình, thịnh trị.
Phiên âm:
Ngũ hành tủ khí chung anh kiệt
Vạn trượng văn quang biểu cát tường
Dịch nghĩa:

Nơi tụ hội khí thiêng hun đúc
nên những bậc anh hùng hào kiệt
Anh sáng văn hóa tỏa xa vạn dậm
biếu hiện sự cát tường.

-

15

-


rTT^xvih Bối Hà thờ Thành hoàng làng là Triệu Chí
v L y Thành. Triệu Chí Thành là con của ông Triệu Xương
và bà Lý Thị Thích, người Chu Diên trang Thái Bình (nay
là huyện Mê Linh, Hà Nội). Ngày 11 tháng 1 bà sinh hạ
một cậu bé khôi ngô tuấn tú, tướng mạo lạ thường. Bấy giờ
Triệu Việt Vương đóng đô ở Từ Liêm rồi rút về đầm Dạ
Trạch để chống cự với quân của Trần Bá Tiên. Triệu Việt
Vương đuợc thần tiên Chừ Đồng Tử ban cho móng rồng để
chế tác nỏ thần đánh đuổi quân Lương. Triệu Chí Thành
được trao chế tác nỏ, nỏ bắn bách phát bách trúng, mỗi lần
bắn tiêu diệt hàng trăm quân địch, vì vậy tướng Dương Săn
đã bị bắn chết. Quân Lương đại bại chạy về Bắc quốc
năm 550.
Sau khi dẹp yên quân Lương, Triệu Chí Thành lâm
bệnh nặng, Triệu Việt Vương đến thăm và hỏi: Ngài cần gì
trẫm sẽ báo đáp. Triệu Chí Thành trả lời: Thần không cỏ ý
nguyện gỉ, chỉ xin bệ hạ đem cờ tướng lệnh đã ban cho
thản đến Thạch Bàn, Long Đầu tung lên trời, cờ bay đến

đâu xin cho nhân dãn ở đó được lập đền thờ và miễn mọi tô
thuế lao dịch cho họ. Triệu Việt Vương vui vẻ nhận lời,
-

16

-


ngày 12 tháng 8 năm đó liền sai đem cờ tướng lệnh đến
Thạch Bàn, Long Đầu tung lên trời và Triệu Chí Thành
cũng hóa. Cờ tướng lệnh bay tới trang Dịch Vọng Trung thì
dừng lại, sứ thần biết tin về tâu với vua. Vua đã cho nhân
dân địa phương lập đền thờ Triệu Chí Thành, gia phong là
Đại Vưong. Đền thờ Triệu Chí Thành nay là đình Thọ Tháp
và đình Bối Hà thôn Dịch Vọng Trung. Như vậy đình Bối
Hà được xây dựng từ năm 550 thời vua Triệu Việt Vương.
Đình Bối Hà do bị xuống cấp nghiêm trọng nên được
nhân dân làng Bối Hà và tín thí thập phương xây lại khang
trang, hoành tráng về kiến trúc nghệ thuật; tôn nghiêm về
bài trí nội thất.
Đình Bối Hà kiến trúc theo kiểu chữ Đinh nhìn hướng
Tây, tuân thủ quy luật âm dương: tiền quảng đại, hậu thần
mật; tiền náo nhiệt, hậu túc tĩnh. Phía ngoài là thiên trụ,
trên đắp phượng hoàng chầu tứ phưomg và hổ phù, nổi bật
là câu đối: Đền miếu huy hoàng, nhân kiệt địa linh thiên cổ
mãi; Uy thần vời vợi, người khỏe của lắm vạn năm dài.
Bên cạnh thiên trụ là một nghi môn nhỏ, trên đề Bổi
Hà miếu (có khả năng đây là tên gọi đầu tiên của đình Bối
Hà). Đi qua nghi môn vào sân đình, tiếp đến là thiên trụ thứ

hai ngăn cách giữa sân lớn và sân nhỏ, đỉnh thiên trụ đắp
nổi đôi nghê. Trên thiên trụ là đôi câu đổi: Thiên trụ vững
vàng, đoi diện Tản Viền ngời thang cảnh; Đen thần vòi vọi,
chảy hoài Tô Lịch tỏ danh lam. Đi từ sân lớn lên sân nhỏ
-

17

-


ngước lên phía trên là nóc đình được đắp đôi rồng chầu mặt
trời, đầu bờ nóc được khóa chặt bởi hai đầu rồng.
Đi qua những hàng cửa bức bàn bào ữonn đóng bén là
vào đại bái, sừng sững những hàng cột thiết mộc được treo
những câu đổi lòng máng nền gấm chữ đen. Đặc biệt ở gian
giữa nổi bật bức hoành phi: Thảnh cung vạn íuể, dưới là
câu đối nói về sự tích Triệu Chí Thành: Xem thể non sông
lạ, Long Đ ỗ lỉnh thiêng xây điện miếu; Dẹp Lương lập
công to, Diên đô cờ phóng dựng đền thờ.

về đồ tế khí, ngoài bát bửu, lư hương đồng,

long ngai,
bài vị thì đình Bối Hà còn có đôi hạc đứng vững chắc frên
lưng rùa.
Chùa Hà được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn
hóa năm 1996. Hiện nay đình và chùa Hà thường tổ chức
các lễ hội:
Ngày 11 tháng 1 âm lịch kỷ niệm ngày sinh của Thành

hoàng Triệu Chí Thành.
Ngày 12 tìiáng 8 âm lịch kỷ niệm ngày hóa của Thành hoàng.
Ngày 12 tháng 2 âm lịch là ngày vào đám cầu phúc,
cầu mưa thuận gió hòa, người khỏe của nhiều. Trong lễ hội
thường diễn ra các tiết mục như đánh cờ người, đánh đu,
kéo co, hát cửa đình, múa sư tử ...
Đình - chùa Hà thu hút ngày càng đông khách tham
quan du lịch gần xa. Nhất là cứ đến ngày sóc vọng (mùng 1
-

18

-


và 15 âm lịch) hàng tháng, đình chùa Hà chật ních người
đến thắp hương lễ Phật cầu Thánh, trong ngoài chùa mù
mịt khói hương. Họ cầu mong Phật, Thánh giải bỏ tất cả tai
ách, đem đến cho họ nhiều phúc lộc. Đặc biệt, trai gái Hà
Nội hay đến chùa Hà để cầu tình duyên: trai gái đang yêu
nhau thì đến cầu thành vợ thành chồng, chưa có người yêu
thì đến cầu cho chóng có người yêu.

-

19

-



<^ình &hòm

í^TT^ình Chèm là đình của làng Chèm (Thủy Phương), xã
tỈL y Thụy Phương, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Đây là một
công trình kiến trúc có nghệ thuật chạm khắc độc đáo. Đình
thờ Thượng đẳng Thiên vương Lý Òng Trọng (Lý Thàn
hay Đức Thánh Chèm), một nhân vật huyền thoại và Hoàng
phi Bạch Tĩnh Cung sống vào thời An Dương Vương. Đình
Chèm là một trong những ngôi đình được coi là cổ nhất
Việt Nam. Từ ngàn năm nay, đình Chèm vẫn là nơi thờ
cúng tín ngưỡng của người dân ba làng: làng Hoàng, làng
Mạc và làng Chèm - Đông Ngạc, Từ Liêm, Hà Nội.
Lý Thân (Đức Thánh Chèm) sinh vào thời Hùng Duệ
Vương, mất vào thời Thục An Dương Vương. Thuở nhỏ
ông là một cậu bé cực kỳ khôi ngô, có tâm vóc cao lớn lạ
thường. Lớn lên, Lý Thân văn giỏi, võ tài, tính tinh hiếu
nghĩa, cương trực. Thời bấy giờ có giặc Ai Lao, Chiêm
Thành và phía Bắc thường hay quấy nhiễu biên thùy. Nhà
vua xuống chiếu cầu người tài đức ra dẹp giặc cứu nước.
Phủ Quốc Oai bèn tiến cử Lý Thân, ông lĩnh ý đi dẹp tan
giặc, lập được nhiều công lớn. Cuối đời vua Duệ Vương,
đất nước Văn Lang bị quân Tần xâm lược, ông hợp với
Thục Phán cùng quân dân lạc Việt chống giặc hàng chục
-

20

-



nám trời. Cuối cùng giặc phải quay đầu bỏ chạy, Thục
Phán lên làm vua lấy hiệu là An Dương Vương. Lúc bấy
giờ khi nhà Tần bị giặc Hung Nô quấy phá. Tần Thủy
Hoàng đắp Vạn Lý Trường Thành mà không ngăn chống
nồi bèn sai sứ sang cầu An Dương Vương cho tưómg tài
sang giúp. Triều đình nhà Thục bèn cử Lý Thân sang giúp
nhà Tần để tạo mối bang giao giữa hai nước. Tần Thủy
Hoàng thử tài thấy văn đạt “Hiếu Liêm” (tiến sĩ), võ đạt
“Hiệu úy” (Tổng chỉ huy) bèn phong ông làm tư lệnh
Hiệu úy và nhờ ông đi dẹp eiặc Hung Nô, cho xuất 10
vạn quân trấn ải Hàm Dương. Thắng trận trở về, vua Tần
phong ông chức Phụ Tín Hầu và gả công chúa cho. Vua
Tần cũng ngỏ ý muốn giữ ông ở lại nước Tần nhưng ông
đã từ bỏ vinh hoa phú quý, đem theo vợ con trở về quê
hương, v ề nước, ông được vua Thục An Dương Vương
phong tước Đại Vương.
Đe tưởng nhớ công đức của Đại Vương, dân làng lập
đền thờ ông tại Đình Chèm. Tuy vậy, không rõ đình được
xây dựng lần đầu khi nào. Theo lời kê của dân làng thì đình
có niên đại cách đây hơn 2000 năm. Song hiện trong đình
chỉ lưu giữ được nhiều hình chạm khắc gồ phong cách thế
kỷ 18, có hai pho tượng vợ chồng Lý Thân bằng gỗ sơn son
thếp vàng tạc năm 1888. Hàng ngàn năm nay, Đình Chèm
vẫn ngự sát bên bờ sông Hồng nặng phù sa. Những mái
cong của ngôi đình được phủ lên một lớp rêu phong cổ
kính. Đình Chèm được xây dựng theo lối kiến trúc nội công
ngoại quốc, chắc chắn và công phu. Bên trong đình, các
cột, mái được chạm trổ tinh vi; bên ngoài có tam quan, 4
-21


-


cột đồng trụ cổ kính. Gian trong cùng của ngôi đình có hai
bức tượng: tượng Thượng Đẳng Thiên Vương cao 2 trượng
và bức tượng công chúa nước Tần - Hoàng phi Bạch Tinh
Cung cao trượng 8 có dư. Hiện ở Đình Chèm vẫn còn liru
giữ chiếc lư hương ngàn năm tuổi rất quý hiếm...
Làng Chèm nằm cạnh sông Hồng (cách cầu Chương
Dương chừng 12 km), nên thương xuyên bị lũ lụt đe dọa.
Vào năm 1902, đình được kiệu lên cao thêm 2,4 mét chỉ
bằng các dụng cụ của nhà nông như: đinh bừa, quang
gánh... Công việc diễn ra trong vòng một năm trời và kết
quả cực kỳ mỹ mãn. Cả một ngôi đình nặng hàng trăm tấn
toàn bằng gỗ quý với những cột kèo phức tạp được “kiệu”
lên cao ngang với mặt đê sông Hồng. Cuộc kiệu đình này
tốn hết 500 đồng tiền Đông Dương mà công xá ngày ấy chỉ
có 7 xu một ngày . Hiệp thợ kiệu đình do ông Vương Văn
Địch ở làng Văn Trì chủ frì.
Hội Chèm diễn ra từ ngày 14 đến ngày 16 tháng 5 âm
lịch, trong đó ngày 15 là ngày hội chính. Các nghi thức
quan trọng của lễ hội đều được tổ chức tại Đình Chèm. Nói
là hội Chèm, song đây không phải là hội của duy nhất làng
Chèm, mà kỳ thực là của một cụm làng ven sông Hồng, vì
ngoài làng Chèm còn có các làng Liên Mạc, Hoàng Mạc
cùng tham gia với tư cách là hai làng em. Đáng xem nhất là
lễ rước nước sáng ngày 15, có ba con thuyền rồng của ba
làng bơi ra giữa sông Hồng múc nước sông đổ vào chĩnh
rồi biểu diễn quay thuyền ba vòng trước khi bơi vào bờ.
Sau đó là đám rước nước vào đình. Đây là dấu vết của tín

ngưỡng thờ nước của người thời cổ. Đám rước cũng có
-

22

-


nhiều nghi thức cổ truyền đáng để các nhà văn hoá học và
dân tộc học quan tâm nghiên cứu. Và cuối cùng tại hội này
còn có cuộc thi thả chim bồ câu, các đàn chim bồ câu được
thà cho bay lên trời, thường là cao tới vài ngàn mét và nếu
đạt được những quy định thì sẽ được giải.. Đình Chèm
không chỉ là một công trình kiến trúc nghệ thuật cổ kính
mà nó còn mang trong mình sự tích về một vị tướng tài,
đức cc công dẹp giặc cứu nước.

-23

-


< ^ ì» h

ơ ^ m

^ ố n

('Tr^ình và đền Kim Liên (hay còn gọi là đền Cao Sơn)
/L>' là trấn phía Nam trong tứ trấn của kinh thành

Thăng Long.
Đình này thuộc làng Kim Liên cũ, nay là phường
Phương Liên, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
Đền Kim Liên vổn được lập nên để thờ Cao Sơn Đại
Vưomg (theo tín ngưỡng dân gian, thì đây là một người con
của Lạc Long Quân và Âu Cơ, sau theo mẹ lên núi). Theo
tài liệu lưu giữ tại đền, thì đền này được xây dựng dưới thời
vua Lý Thái Tổ ngay khi vị hoàng đế này dời đô tới Thăng
Long với mục đích để bảo vệ kinh thành mới ở hướng
Nam. Năm 1509, quân đội của Lê Tương Dực từ Thanh
Hóa tiến về Thăng Long để lật đổ Lê Uy Mục đã đi qua
đây, thấy đền thờ Cao Sơn Đại Vương liền vào xin phù hộ.
Sau đó một tuần, sự nghiệp của Lê Tương Dực thành công.
Vị vua này liền cho xây lại đền Kim Liên với kiến trúc như
hiện nay.
Sau này, dân làng Kim Liên đã lập thêm cổng tam
quan ở phía trước cổng đền ngay sát đầm Kim Liên và bổ
-

24

-


sung thêm một sổ kiến trúc mới, tạo thảnh đình Kim Liên.
Ngoài Cao Sơn Đại Vương, trong đền và đình này còn thờ
Tam Phủ, thờ Mầu, và thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đình được xây dựng trên một gò đất cao ở phía Đông
đầm Kim Liên, cổng đình và cửa chính điện đều hướng về
phía Tây, trông ra đầm Kim Liên (đầm này nay không còn

do bị lấp đi để làm đường vành đai).
Kiến trúc của đình bao gồm hai phần tương đối rõ:
phần phía trước gò có một cổng trụ biểu, hai dãy giải vũ hai
bên sân gạch rộng và phần kiến trúc chính của di tích nằm
trên gò đất cao. Đi hết khoảng sân trên thì qua chín bậc
gạch cao được xây bằng những viên gạch vồ có kích thước
lớn thời Lê Trung Hưng nối hai bộ phận kiến trúc trên.
Đình chính gồm nghi môn, đại bái và cung cấm. Nghi
môn là một nếp nhà ba gian, xây kiểu tường hồi bít đốc.
Bốn bộ vì đỡ mái được làm theo kiểu chồng rường giá
chiêng, cột trốn. Trên các bộ phận kiến trúc các họa tiết
trang trí được thể hiện sinh động, công phu mang phong
cách nghệ thuật thời Nguyễn. Nhà đại bái gồm 5 gian mới
được thành phố tôn tạo trong dịp kỷ niệm 990 năm Thăng
Long - Hà Nội, với kiểu dáng kiến trúc truyền thống. Hậu
cung là một nếp nhà ba gian dọc, xây gạch trần mái lợp
ngói ta. Trong nhà xây vòm cuốn, nội thất được bố trí như
sau: gian ngoài cùng, bó bệ gạch cao để đặt hương án; gian
thứ hai xây bệ gạch cao để đặt long ngai và các đồ tế khí.
Gian cuối cùng là nơi thờ Cao Sơn Đại Vương và hai nữ
-25

-


thần phổi hưởng (Tôn nữ Động Hồ Trưng Vương (công
chúa con gái vua Lê) và Huệ Minh công chúa).
Hiện (2/2009) đình đang được sửa sang, tu bổ.
Di vật quan trọng nhất tại đình Kim Liên là tấm bia đá
"Cao S(m Đại Vương thần từ bi minh" do sử thần Lê Tung

soạn năm 1510 nói về công lao của thần Cao Sơn trong
việc ngầm giúp vua Lê giành lại ngai vàng từ tay ngoại
thích và hệ thống 39 đạo sắc phong cho thần Cao Som Đại
Vưomg, trong đó có hai sáu đạo thời Lê Trung Hưng, mười
ba đạo thời nhà Nguyễn, sớm nhất trong số đó là sắc phong
có niên đại Vĩnh Tộ năm thứ hai (1620).
Hội đền và đình Kim Liên được tổ chức vào ngày 16
tháng 3 âm lịch hàng năm.

-

26

-


___

Đoài có nhiều ngôi đình cổ, có giá trị về kiến
và điêu khắc như: đình Chu Quyến (xã Chu
Minh, huyện Ba Vì), đình Đại Phùng (xã Đan Phượng,
huyện Đan Phượng), đình Tường Phiêu (xã Tích Giang,
huyện Phúc Thọ), đình So (xã Cộng Hòa, huyện Quốc
Oai)... Và đình Tây Đằng ở huyện Ba Vì cũng thuộc loại
kiến trúc nổi tiếng như vậy.
Ngôi đình thờ Tản Viên, một trong bốn vị thánh bất tử
của Đạo giáo Việt Nam, một trong những nhân vật hàng
đầu cùa thần thoại Việt - Mường cổ. Theo truyền thuyết,
Tản Viên là thần núi Ba Vì - Sơn Tinh, được vua Hùng thứ
18 gả công chúa Ngọc Hoa, bị Thủy Tinh dâng nước, kéo

thủy quái đánh trả mối hận không lấy được con gái vua
Hùng Tản Viên được coi là một trong 50 con của Âu Cơ Lạc Long Quân theo mẹ lên núi, có công giúp vua Hùng
thứ IS bình Thục Phán. Tản Viên còn là hình tượng nói
lên sức sống mănh liệt của dân tộc Việt Nam trong quá
trình trị thủy, tiến hành nghề trồng lúa nước để sinh tồn và
phát ừiển.
-

27

-


Phía trước đình Tây Đằng là mảnh đất rộng làm nơi
sinh hoạt cộng đồng trong ngày hội. Tiếp đó là hồ bán
nguyệt ở ngay trước nghi môn trụ. vẻ đẹp cùa đình Tây
Đằng không phải ở khung cảnh thiên nhiên mỹ lệ, cũng
không phải ở quy mô đồ sộ mà là ở nghệ thuật điêu khắc
chạm trổ, trang trí còn lưu lại trên các cột, vì kèo, xà, đâu,
ván long, lá gió... Ngôi đình không có tòa ngang dãy dọc.
Ngoài hai ngôi nhà tả mạc, hữu mạc ở hai bên sân thì đình
chỉ có mỗi một nếp nhà kiểu chừ “nhất”, không có hậu
cung, cũng không có tiền tế. Nhưng chính ở neôi đình này,
chúng ta được chiêm ngưỡng tài năng tuyệt vời của những
người thợ mộc đã đạt tới trình độ nghệ sĩ dân gian. Đến nay
vẫn chưa biết chính xác đình được xây dựng năm nào, chỉ
biết ràng so sánh với đình Lỗ Hạnh (huyện Hiệp Hòa, tỉnh
Bắc Giang) thì phong cách và nội dung chạm trổ có nhiều
nét giống nhau. Mà đình Lồ Hạnh có ghi niên đại tuyệt đối
là năm 1576. Như vậy, đình Tây Đằng có thể được xây

dựng vào thế kỷ 16.
Đình có 5 gian, 4 mái. Các đầu đao đều uốn cong, có
gắn long, li, quy, phượng bằng đất nung màu gan trâu. Bên
trong đình dựng kiều chồng giường với 48 cột lớn nhỏ, chia
thành 3 gian chính, 2 gian chái, có hàng hiên bao quanh.
Các xà, đấu, kèo, cốn đều có chạm khắc. Các hình rồng,
phượng và hoa lá chiếm phần lớn trong các đề tài trang trí.
Rồng ở đây mang phong cách thời Trần, hầu hết hình vóc
nhỏ, có mào, râu tóc thưa thớt, khúc uốn không cong mấy,
có thêm cặp sừng và tai của giống thú bốn chân. Chim
-

28

-


×