Tải bản đầy đủ (.pdf) (135 trang)

36 đường phố hà nội (NXB thanh niên 2010) quốc văn, 135 trang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.53 MB, 135 trang )

ĐƯỜNG PHỐ
^ •

(NHCTNG đ ư ờ n g

ph ố m ang tên danh nhân v à an h h ù n g dân

QUỐC VĂN
(Tuyển chọn, biên soạn)

NHÀ XUẤT BẢN THANH NIÊN

TỘC)


l ỉ À

N



I

c ó NHỀU HON MỘT BA ÔÁU
(THAY LỜI GIỚI THIỆU)

uốn sách Hà Nội ba sáu phô' phường gắn liền với
tên tuổi nhà vần tài hoa Thạch Lam đã trỏ nên nổi
tiếng và quá đỗi thân thuộc với nhiều lớp bạn đọc người
Việt. Cho đến bây giờ cũng Chư3 hề có con số thống kê
rằng nó đã được xuất bản bao nhiêu bận, số lượng tới


nay đạt bao nhiêu bản, nhũrng nhà xuất bản nào đã từng
in? Chỉ biết rằng, khi nói tới những áng văn đẹp viết về
mảnh đất Kẻ Chợ, không thể lãng quên Hà Nội ba sáu
phổ phường, không thể không kể tới Thạch Lam, Nguyễn
Tuân, Vũ Bằng... hay một vài nhà văn tên tuổi khác.

e

Có thể bạn chưa biết nhiều về Hà Nội, có thể bạn chưa
một lần đặt chân tới Hà Nội, cũng đâu có sao, chỉ cẩn
bạn có trong tay Hà Nội ba sàu phổ phường của Thạch
Lam, Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng... thì Hà Nội với
những gì tinh túy nhất, tinh tế nhất, hào hoa thanh lịch
nhất, tựa hổ đã nằm trong tay bạn. Bạn có thể thả hổn
trong một biệt thự tiện nghi sang trọng nào đấy, hoặc
thảy trong một căn hộ ọp ẹp, trên một ghế đá cạnh một
mặt hổ thơ mộng nào đấy, hoặc bất kỳ một chỗ nào đó
tùy bạn chọn lựa ở trên khắp miền đất Việt để mà thưởng
những trang viết tưởng không có gì đẹp hơn, không có gì
- 5 -


hay hơn, thú hơn về nhũng nét văn hóa của chốn văn vật
ngàn đời Thăng Long - Kẻ Chợ đã được “cô” cả vào
trong những ngòi bút tài hoa ấy. Vậy thì tới Hà Nội làm gì
cho nhọc xác, cho bụi bặm đường trường, cho tàu xe đầy
bất trắc. Hà Nội vẫn có thể gần bạn hơn qua từng trang
sách nhỏ. Hà Nội bây giờ đã không còn trầm mặc, bình
lặng như cái thời của Thạch Lam, Vũ Bằng hồi tưởng qua
từng nét bút nữa. Hà Nội bây giờ đã rộn ràng hơn trong

thời mở cửa, trong cái thời hội nhập bốn phương tám
hướng. Có thể có chút gì đó hơi xô bồ đâ chen vào - đấy
là tôi cứ mạo muội cảm vậy - vẫn rất mong, vẫn hi vọng
minh sai. Hà Nội hiên ngang hơn, hiện đại hơn bởi những
cao ốc chọc trời, bởi những panô, biển hiệu xanh đỏ đủ
màu, bởi những con phố mới thênh thang dài và rộng,
cho mỗi khi mưa nước lại ngập tràn. Hà Nội dường như
còn ồn ào hơn bỏi vô vàn tiếng còi ôtô, xe máy inh ỏi mỗi
khi tắc đường, cũng phong phú gương mặt phố phường
cùng những cô chiêu cậu ấm tóc với đủ màu xanh, đỏ,
vàng, nâu cưỡi những chiếc xe máy đắt tiền lượn vù vù
các phố. Hà Nội khói. Hà Nội bụi. Đủ cả. Không chỉ có
vậy. Hà Nội còn nhiều những mặt trái khác. Ấy là tôi cứ
cả nghĩ vậy. Một lẽ vì Hà Nội là nơi hội tụ của dân tứ
chiếng. Từ Nam chí Bắc, từ xuôi tới ngược. Thảy đều dồn
về Hà Nội. Như lũ thượng nguồn đổ nơi hạ nguồn. Như
trăm dòng sông xuôi về biển lớn. Có vác xin nào cho Hà
Nội yêu dấu của tôi đây! Này nhé, sau những náo nhiệt,
ồn ào đấy, chỉ dáng vẻ bề ngoài thôi bạn ạ! Hà Nội vẫn
toát lên nét hào hoa thanh lịch, rêu phong trầm mặc tự
ngàn đời của mảnh đất Kinh Kỳ xưa - Kinh đô của bao
vương triều phong kiến. Hà Nội biết tự đào thải, biết tự
sàng lọc cho riêng mình những gì tinh túy nhất, tao nhã
nhất để làm nên hai tiếng yêu thương cho ai đã từng đến,
từng đi và cả những ai chưa từng một lần đặt chân tới
-6-


mảnh đất thiêng này cũng không khỏi rưng rưng xúc
động cõi lòng khi nhắc đến hai tiếng; Hà Nội!

Hà Nội có trong tôi, trong bạn, trong tất cả chúng ta. Bởi
Hà Nội là Thủ đò của cả nước. Hà Nội mang trong mình
vinh quang và trọng trách lớn lao. Tôi, bạn, cũng như tất
cả con dân nước Việt đểu phải có trách nhiệm vun đắp,
tô đẹp thêm Hà Nội của mình, bằng những việc làm dù là
nhỏ nhất, đôi khi chỉ là ý nghĩ đẹp cũng đã đủ lắm rồi,
cũng đáng quý, đáng trân trọng xiết bao. Thủ đô nghìn
năm tuổi, còn sẽ thêm nhiều tuổi nữa. Ý thức trách
nhiệm, tấm lòng của một người con đất Việt mong muốn
góp chút gì để mừng cho Thủ đô ta trường thọ đã khiến
Tủ sách tinh hoa Thăng Long - Hà Nội được hình thành;
đã khiến Hà Nội giờ đây không chỉ dừng ở Hà Nội ba sáu
phố phường như tiền nhân Thạch Lam phóng bút. Hà Nội
đã có nhiều hơn một ba sáu, với: 36 kiến trúc Hà Nội, 36
bài thơ Hà Nội, 36 nghệ nhân Hà Nội, 36 phóng sự Hà
Nội, 36 làng nghề Hà Nội, 36 lễ hội Hà Nội, 36 đinh - đền
- chùa Hà Nội, 36 truyện ngắn Hà Nội, 36 danh thắng Hà
Nội, 36 đoản vãn Hà Nội, 36 tạp văn tùy bút Hà Nội, 36
ngôi nhà Hà Nội, 36 món ngon Hà Nội, 36 gương mặt Hà
Nội... 36 và 36. 36 đã trở thành phiếm chỉ chứ không đơn
thuần về mặt số học. ở tủ sách này, người biên soạn,
tuyển chọn vẫn muốn ấn định con số 36 cho các bài viết
trong các tập của tủ sách như một sự nhắc nhủ, tri ân
cùng Thủ đô về một thời Kẻ Chợ - Thăng Long - Hà Nội
36 phô phường ngàn xưa. Tầm vóc của Hà Nội ngàn
năm tuổi, ấy cũng chỉ tính từ vua Lý Thái Tổ hạ chiếu dời
đô nơi cố đò Hoa Lư chật hẹp tới chốn rồng cuộn hổ ngồi
- để mưu nghiệp lớn muôn đời cho con cháu về sau.



Chứ thực ra mảnh đất mấy nghìn năm tuổi này đã có
từ thuở hồng hoang của lịch sử, từ khi Nữ Oa đội đá vá
trời, từ buổi Lạc Long Quân - Âu Cơ kết duyên Tiên
Rồng để khai thiên mở cõi đựng gây dòng giống Lạc
Hổng. Mà thôi, kể làm chi những diều xa xưa ấy. Khi
mà Thăng Long - Hà Nội trường tồn cùng lịch sử như
một lẽ tiền định. Chỉ biết rằng mỗi thời khắc qua đi.
mảnh đất thiêng lại thêm nhiều sự tích, nhiều huyền
thoại và kỳ tích mà thôi.
Sự ghi nhắc của những trang sách trong tủ sách này
chắc sẽ là khiên cưỡng, chưa thể đủ đầy với vóc dáng
Phù Đổng thiên vương nơi Thủ đô ngàn tuổi. Song hy
vọng, đây sẽ là nốt ruổi son tô đẹp thêm nhan sắc nàng
thiếu nữ Hà Nội yểu điệu duyên dáng yêu kiểu của mỗi
chủng ta.

Mùa Đông Kỷ Sửu
Quốc Văn

-8-


Tên một phố dài 432m đi từ phố Trần Nhân Tône đến phố
Tô Hiến Thành, gặp phố Tuệ Tình, chỗ cổng phía Đông công
viên Lênin, thuộc quận Hai Bà Trưng. Thừi Pháp thuộc phổ này
có tên là "Đường D" (Voie D). Từ sau 1947, gọi là đường 296.
Tên phố Nguyền Đinh Chicu được dặt tìr 6-1964.
í’hố này đoạn từ Trần Nhân Tông chạy dọc Iheo hàng rào
phía Đông của cônc viên Lcnin, đoạn tiếp là xóm dân cư làng
Vân Hồ. Ngoài ra, trôn phổ này còn có Câu lạc bộ thừ nghiệm

nghệ thuật, nơi trinh diễn những tiết mục nghệ thuật dân gian,
chèo, tuồng, cải lương, kịch hề, hài...và một cơ quan của Hội
Nhà văn Việt Nam.
Phố này được xây dụng trên nền đất xưa vốn thuộc các
thôn Thiền Quang, Thể Giao, tổng Tiền Nghiêm (sau đổi là
Tổng Vĩnh Xương) và thôn Hậu Phong Vân sau hợp nhất với
thôn Long Hồ thành thôn Vân Hồ, tổng Tả Nghiêm (sau đổi là
tổng Kim Liên).
Phố mang tên Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888), là nhà
thơ vêu nước cùa Việt Nam cuối thế kỷ XIX, người làng Tân
-9-


Thới, huyện Binh Dươne, tinh Gia Định (nay thuộc Thành phố
Hồ Chí Minh), ỏng đã từng học ở Huế. Năm 1859 Pháp đánli
Gia Định, ông về cần Giuộc, rồi Ba Tri, tinh Ben Tre. ông dạy
học, bổc thuốc, và luôn giữ tấm lòng trung thành với đất nước.
Ông viết nhiều thơ văn tỏ rõ sự căm thù giặc, ông đã viết Văn lế
nghĩa sĩ Cần Giuộc, Lục Vân Tiên (được viết sau khi ông bị mù
vì thương khóc mẹ qua đời) là những tác phẩm có giá trị tư
tường lớn trong nền văn học Việt Nam. ông mất năm 1888.

Trích Từ điển đường phố Hà Nội

- 10 -


Tên một phố dài 364m đi từ phố Lê Thành Tông, chỗ
vườn hoa Tao Đàn, cất các phố Lý Thường Kiệt, Trần
Hung Đạo đen ngã tư phố Hàn Thuyên nổi sang phố Hàng

Chuối, thuộc quận Hoàn Kiếm.
Thời Pháp ihuộc phố này có tên là phố Raphơnen
(Rue Raffenel). Phố này có ngõ cùng tên Phan Huy Chú,
thời Pháp thuộc cỏ tên là Iigõ Véalooỉìg (Inipasse Verdun).
Trên phố này có trụ sở của Bộ Tài chính, Nhà in Thông
tấn xã.
Phố này được xây dựng trôn nền đất xưa vốn thuộc
thôn Hữu Vọng, tổng Hậu Nghiêm (sau đổi thành tổng
Thanh Nhàn), huyện Thọ XưoTig. Theo bản đồ Hà Nội năm
1831 thì phần lớn phố này nằm trong lòng hồ Hữu Vọng.
Thực ra vào những năm 1915-1920, khu vực này vẫn còn
nhiều hồ ao. Sau đó các ao hồ này được lấp, mở các phố
Phan Huy Chú, Phan Chu Trinh, Hàng Chuối...
Phố mang tên Phan Huy Chú (1782-1840), một danh
sĩ triều Nguyễn, con của Phan Huy ích. ôn g là tác giả cùa
bộ Lịch triều hiến chương loại chí, Hoàng Việt dư địa chí
và nhiều sách có giá trị khác.

- I I -


'^ h à ' ^ r ẩ n

Q ý G ớ ta '^ ạ ơ

Sỹ Tử

Phố Trần Hung Đạo dài 2150 mét, nối từ phố Trần
Khánh Dư đến ga Hàng Cò, nay là ga Hà Nội, qua nhiều
thôn xóm xưa; Tây Long, Nhân Chiểu, Hàm Châu, Nguyên

Khánh, Yên Tập, Tử Mỹ thuộc huyện Thọ Xương cũ.
Phố Trần Hưng Đạo cùng vóã các phổ Lý Thường Kiệt,
Hai Bà Trưng và Tràng Thi là dẫy phổ song song được xây
dựng từ thời Pháp thuộc theo quy hoạch và kiến trúc Đông
Dương, vắt ngang trung tâm thành phố, từ Đông sang Tây,
là khu phố hiện đại, lịch sự và sầm uất nhất nhì thù đò
trước đây. Thời Pháp phố mang tên Găm-Bê-Ta (boulevard
gam lotta). Sau Cách mạng tháng Tám được đổi thành phố
Trân Hưng Đạo, tên người anh hùng dân tộc thời Trần ba
lần đánh thắng quân Nguyên và là tác giả tập "Bính thư yếu
lược", "Hịch tướng s ĩ' - một áng "thiên cổ hùng văn”.
Phố Trần Hung Đạo cũng còn nhiều di tích lịch sử
như:"Quảng trường 1/5" (trước là Nhà Đấu Xào) nơi nổ ra
cuộc mít tinh khổng lồ chiều 1/5/1938, kỷ niệm này Quốc
tế lao động của thợ thuyền Hà Nội chống Thực dân Pháp.
Ngôi nhà 101 là nơi họp của ử y ban khởi nghTa lập kế
- 12 -


hoạch tổ chức Tổng khởi nghĩa 19/8/1945. Nhà Đấu Xảo
xưa là nơi tổ chức hội chợ, năm 1954 được xây dựng thành
Nhà hát nhân dân ngoài trời cho đến 1970, Công đoàn Liên
Xô cũ viện trợ xây dựnc "Cung Văn hóa lao động Hừu nghị
Việt - Xô". Đây là nơi diễn ra nhiều sự kiện chính trị, vãn
lióa cùa cả nước.
Từ một "khu phổ tây" với nhiều biệt thự sang trọng
nằm ẩn mình trong những khuôn viên rợp bóng cây, ngày
nay shố được chỉnh trang đẹp hơn, khang trang hơn, là nơi
tọa lạc cùa nhiều cơ quan ngoại giao: Đại sứ quán Cộng
liòa Pháp, Tổ chức Y tế thế giới WHO, Đại sứ quán Cộng

hòa Ắn Độ và nhà riêng cùa nhiều Đại sứ nước ngoài.
Nhiều ihươiig nhân Ihế giới đến Việt Nam thích tới phổ
Trần Hưng Đạo thuê nhà ở, vừa an toàn, vừa yên tĩnh, mát
mè \ào mùa hò, ấm áp khi đông về, lại gần trung tâm thành
phố, rất thuận lợi cho việc giao dịch, làm ăn lớn.
Đường phố Trần Hưng Đạo dài, rộng, thông thoáng,
khôr.g bị ùn tẳc giao thông kể cả giờ cao điểm, có nhiều trụ
sở cùa các cơ quan Nhà nước từ Trung ương đến Hà Nội:
Cơ cuan Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Bộ Giao thông
vận ải, Sở Công an Hà Nội, Thông tấn xã Việt Nam, Bộ
Khoa học và công nghệ, Bộ Tài chính... đều rất khang trang,
hoàah tráng, hiện đại, xứng tầm thời kinh tế hội nhập.
Đầu phố Trần Hưng Đạo có Bệnh viện Trung ưong
quâr đội 108, được trang bị hiện đại với phương tiện tối tân
và đ5i ngũ giáo sư bác sĩ đầu ngành. Gần đấy, một loạt
phòr.g khám bệnh tư nhân ra đời ngay cạnh viện 108:
- 13 -


Phòng khám đa khoa chất lượng cao Minh Tâm, Trang
Dung, Nam Anh, Bình Minh, Quân Dân đủ các khoa răng
hàm mặt, tai mũi họng, siêu âm màu, điện tim, điện não vi
tính, nội, ngoại "chuyên khoa sâu"... hình thành một khu
vực tập trung phục vụ chừa bệnh theo yêu cầu cho nlìân
dân. Cuối phố Trần Hưng Đạo mới có thêm Bệnh viện Tim
Hà Nội áp dụng khoa học kỹ thuật cao.
Phố Trần Hưng Đạo cũng hình thành một hệ thống
ngân hàng đáng tin cậy; Ngân hàng TMCP xuất nhập khâu
Việt Nam, trụ sở Seabank, Ngân hàng TMCB Bấc Á, ngân
hàng Đại Dương Ocean Bank, UD BANK, Ngân hàng phát

triển Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam. Dọc
phổ Trần Hưng Đạo có rất nhiều công ty kinh doanh uy tín:
Công ty điện công trình, Công ty Tcm, Tổng công ty cổ
phần điện tử, tin học Việt Nam, Công ty Du lịch Tre xanh,
Công ty Đại cát Nokia, Công ty cổ phần điện ảnh truyền
hình, Tổng Công ty tài chính dầu khí, Công ty xuất nhập
khẩu ngoại thương INTIMEX. Một hệ thống khách sạn "5
sao" đang được khẩn trương hoàn thành để "đi trước, đón
đầu" kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội. Khách sạn
Hoàn Kiếm cao 7 tầng, tòa nhà Capital Tovver thay cho
khách sạn 30/4 đã đi vào kỷ niệm, đây sẽ là một sièu thị
khép kín, đầy đù mọi dịch vụ bán hàng, văn phòng, sân
chơi, nchỉ ngơi, thể thao văn hóa đa dạng theo mô hình
nhiều nước tiên tiến trên thế giới. Các cửa hàng điện thoại
di động tập trung ở phố Trần Hưng Đạo đủ mặt các thương
hiệu nổi tiếng thế giới: NOKIA, Sony Ericsson, Siemens,
Viettel, siêu thoại dịch vụ điện thoại chuyên sâu.
-14-


Các cơ quan văn hóa, báo chí cũng góp mặt làm cho
phố sôi động. Liên hiệp các hội vãn học nghệ thuật Việt
Nam hội tụ các văn nhân đất Việt, tổ chức những đêm nhạc
trừ tình đã trở thành món ăn tinh thần của dân sành nhạc F4à
thành. Ngoài cơ quan TTX chiêm đến ba tòa nhà lớn, một
loạt tờ báo: Báo Điện ảnh, Kịch trường, tạp chí Tia sáng,
tạp chí Giao thông vận tải, báo Khoa học đời sống, báo
Khoa học phát triển, Nhà xuất bán Khoa học kỳ thuật, NXB
Giáo dục, Nhà xuất bản Thế giới.
Khách các nơi xuống ga Mà Nội tỏa vào phố Trần

Hưng Đạo sẽ được ngắm một đường phố văn minh, trật tự,
an toàn giao thông, cây cô thụ xum xuê, hoa sữa thơm và
đầy ắp các ỉoại hàng chất lượng. Cửa hàng liên doanh giầy
Việt Nam, Head sport - đại lý bảo hiểm thể thao VRl,
Hàng cơm Phù Đổng món ngon Hà Nội, cửa hàng sản
phẩm thời trang Việt Thắng Jeam, Sinco 1995, kem NZ ...
Phổ Trần Hưng Đạo có nhiều câu lạc bộ: Khiêu vũ,
điện ảnh, thể thao... dành cho giới trẻ. Các cụ nghỉ hưu có
câu ỉạc bộ Thăng Long, trụ sở khang trang, đầy đủ thiết bị
phục vụ giải trí, gặp gờ, trao đổi, chia sẻ niềm vui, nồi
buồn, động viên nhau sống vui, sổng khỏe, sống có ích.

- 15 -


^

ở {a m

< ^



' - p h ố 'n h à b ỉn h

Phố Lý Nam Đe dài 1.090m, tính từ phía phố Phan
Đình Phùng, đến đầu giáp phố Trần Phú...
Vua tên là Lý Bôn (còn có lên là Lý Bí). Theo Đại
Việt sử ký loàn thư, vua người phủ Long Hưng, tỉnh Thái
Bình, thời nước ta còn nội thuộc Trung Hoa, quan cai trị

làn bạo, vua đã dấy binh đánh đuổi thái thú Tiêu Tư, đồng
thời đánh quân Lâm ấn, xưng là Nam đế, đặt quốc hiệu là
Vạn Xuân, đóng đô ở Long Biên (sau này bị tướng nhà
Lương sang đánh phải lui về thành Gia Ninh rồi mất).
Theo các nhà nghiên cứu phổ này nằm dọc theo tường
thành phía Đông của thành Hà Nội đời Nguyễn... Phố có
cổng doanh trại quân đội nhân dân (cũng gọi Cửa Đông vì
ở ngay đầu phổ cửa Đông)... Phía bên phải, trước là thành
cổ, hai bên là khu tập thể của các sỹ quan quân đội, và trụ
sở nhiều cơ quan văn hóa của quân đội như bộ phận tòa
soạn Báo Quân đội nhân dân, tòa soạn Tạp chí Văn nghệ
Quân đội; NXB Quân đội nhân dân, Thư viện Quân đội...
Do đó, dân và bộ đội gọi thân mật là phố nhà binh...
- 16-


Trước đây, phổ là nơi đóng quân cùa các cơ quan đầu
não cùa quân đội ở trong thành, nên năm 1954, khi bộ đội
về tiếp quản, ở hai đầu phố còn có bộ đội đúng gác...
Những năm chống Mỹ cứu nước, nơi đây cũng chỉ thường
qua lại những đơn vị ờ quân khu, quân chùng, các tỉnh
đội... lên làm việc với các cơ quan văn hóa thuộc Tổng cục
Chính trị, ihườiia có những chuyến xe đi vào chiến trường
của các nhà văn, nhà báo, đạo diễn, nhà quay phim quân
đội... đi thực tế các chiến trưòiig B, vào khu Bổn, sang
chiến trường c...
ở nơi đây cũng là trụ sở làm việc của các nhà văn nhà
báo nổi tiếng của hai cơ quan Báo Quân đội nhân dân và
tạp chí Vàn nghệ Quân đội, cua các nchệ sỳ ưu tú và nghệ
sỹ nhân dân của ngành điện ảnh quân đội...

Đặc biệt ngôi nhà số 4 Lý Nam Đe, là nơi tập hợp các
nhà văn nhà ihơ sau này rất nổi tiếng như Thanh Tịnh, Vũ
Cao, Nguyễn Khải, Ncuyễn Minh Châu, Hữu Mai, Thu
Bồn, Nguyên Ngọc, Nguyễn Trọnc Oánh, Xuân Thiều,
Nam Hà, Dũng Hà...
Từ ngày kinh tế thị trường, mặt tiền ở phố Lý Nam
ỉ)ế, vốn là khu tập thể của các sỹ quan trung cao cấp quân
đội đã bung ra hàng loạt cửa hàng điện lạnh, điện tử, nhà
hàng, không còn là khu nhà binh nữa và ngay trước số 4
và số 8 còn có hàng loạt mặt hàng ẹốm khá đẹp, khá phong
phú được bày bán, thành một khu phố buôn bán khá
sầm uẩt...
- 17 -


Tuy nhiên, nhiều người, nhất ỉà những người đímg
tuổi vẫn quen gọi đáy là khu phố nhà binh như xưa...
Còn một điều cũng có thể coi là độc đáo, phố này xem
ra hầu như không có chùa xưa như những con phố khác.
Phổ vẫn giữ nguyên hình dáng cũ, vì không có địa thế mờ
rộng. Bên là phố hẹp, nên đi bộ qua đây, có cảm giác, phố
khá dài.
Nói cho thật chuẩn, thì phố này nên đặt tên là triều Lý
Nam Đe, hoặc gọi bang tên danh nhân (như các phô Trân
Quang Khải, Trần Khát Chân) thì là phố Lý Bôn, bởi còn
một vị vua khác nữa là Hậu Lý Nam Đế, tức là Lý Phật Từ.

Theo ANTD

-


18 -


Tên một phố dài 208m, đi từ đường Trần Khánh Dư
đến phố Nguyễn Cao, thông với phổ Yersin, thuộc phường
Bạch Đằng, quận Hai Bà Trung. Thời Pháp thuộc phố có
tên gọi là phố Macxen Lêgiê (Rue Marcel Lcgcr). Sau năm
1945 là phố Ấu Triệu. Sang thời kháng chiến (1946 - 1954)
được gọi là Lê Quý Đôn. Đầu phố, chồ nối với Yersin hiện
nay, có chợ Lê Quý Đôn. Hai bên chợ là nhà ở của dân
buôn bán, đổi diện chợ là vườn hoa.
Phố này được xây dựng trên nền đất xưa thuộc
thôn Yên Xá, tổng Hậu Nghiêm, huyện Thọ Xương. Đen
giữa thế kỷ XIX thôn Lương Xá hợp với thôn Yên Xá
thành thôn Lương Yên. Nay có phố Lương Yên bên cạnh,
về phía Nam.
Phố mang tôn Lê Quý Đôn, nhà bác học Việt Nam thế
kỷ XVIII. Ông tên là Lê Danh Phương (1726 - 1784), tự
Doãn Hậu, hiệu Quế Đường, quê ở làng Diên Hà (còn gọi
là Phú Hậu), huyện Duyên Hà, tinh Thái Bình. Thời nhỏ,
ông được coi là một thần đồng. Năm 26 tuổi, ông đỗ Bảng
- 19 -


nhãn, bổ làm quan ở toà Hàn Lâm, giữ việc soạn quốc sử.
Năm 1760 đi sứ Trung Quốc, làm tới chức Thượng thư.
Ông để lại nhiều tác phẩm nổi tiếng trên nhiều
lĩnh vực khác nhau: lịch sử, triết học, kinh tế, địa lý, toán
học, rất bổ ích cho việc nghiên cứu mọi mặt sinh hoạt vật

chất và tinh thần của xã hội Việt Nam trong các giai đoạn
từ thế kỷ XVIII trở về trước, tiêu biểu là "Vân Đài loại
ngữ", "Kiến văn tiểu lục", "Phủ biên tạp lục", "Đại Việt
thông sử"...
Trích Từ điển đường phổ Hà Nội

-20-


'UI

Băng Sơn

Hà Nội có phố Nguyễn Du, 1.060 mét đường nhựa
phẳng phiu có so sánh được chăng với 56 năm đầy gập
ghềnh đời thi sĩ? Ngẫu nhiên chăng khi (phố) Nguyễn Du ở
trung tâm Hà Nội nối (phố) Huế vào (đường) Nam Bộ, long
lanh một con hồ Thiền Quang như con mẳt nhỏ xanh xanh
ngự toạ một cụm chùa cổ với những hàng cây lao xao bốn
niìia lá múa.
Sinh thời, gần hai trăm năm trước, cái ông quan Tham
Tri, ông ở ẩn tự xưng là thợ săn trên núi Hồng (Họng Sơn
liệp hộ), ông thi sĩ viết bài Văn tế thập loại chúng sinh ghê
rợn ấy... có lần nào bơi thuyền, ngồi câu trên sóng nước
con hồ nối với bảy mẫu, ba mẫu mà lúc ấy hẳn phải còn tre
tiiíc, ngõ quê, cầu ao mái lá, thấp thoáng áo dài nâu Đồng
Lầm làm mô lòng bao công tử, thi nhân, thầy khoá?
Nguyên đây là mảnh đất phía nam kinh thành, mang tên
phường Phục cổ, thôn Thuần Mỹ, thôn Liên Thuỷ, thôn
Cung Tiên thuộc huyện Thọ Xương văng vẳng tiếng gà.

Giữa nsã ba phố Nguyễn Du, là lối vào phố Liên Trì, dấu
-2! -


tích một đầm sen, bởi đến đầu thế kỷ này, hồ Thiền Quang
còn ăn sang cả phố Quang Trung, chồ trường tiêu học, mà
khi quy hoạch đường bàn cờ, hồ mới bị lấp đi. Đoạn đầu
phía đông, gần phố Huế đen ngã tư phố Quang Trung từiig
mang tôn Rikiê (Riquier), đoạn giữa kề mép hồ là phố Hale
(Halais) tên một viên Đốc lý người Tây, đoạn cuối phố giáp
với Hàng Lọns, Nam Bộ, Lê Duẩn là phố Đuyphuốc
(Dufourcq). Từ cách mạng, phố mới mang tên Niĩuyễn Du,
những người yêu nhau, nhạc sĩ và nhà thơ, nmrời xa Hà Nội
ại gọi nó bằng cái tên mộng mơ; phố Hoa Sữa.
Những cây sữa cao vút cành thưa lá thoáng, cứ cuối
ihu lại xức vào lòng Hà Nội một loài liươim nồng nàn
quyến rũ thành kỳ niệm linh yêu, tlìành nồi nhó trong hôn,
thành niềm mong của người chưa một lần đến Hà Nội.
Cho đến khi gió bấc đổ về tê tái, quả sữa treo mành, chờ
mùa hè sang năm mới thả nhũTig đàn con đi lang thang đậu
vào vai áo người, có cô gái hoảng hốt tưỏTig là con sâu gì,
nhưng chợt nhớ đó chỉ là hạt cây có lông tơ, bay lãng đãne.
Trời đất kết kinh, nó sẽ tìm được nơi nào Irú niiỊi, ai mà
biết được.
Với một ngàn thước đường cây, phổ Nguyễn Du có
nhiều nhà khá đẹp. Phố xuất hiện khi Hà Nội đã thành đô
thị, nôn thẳng băng, mát mè, thoáng đãng...
Quãng phố trông ra hồ Thiền Quang là một khoảng
mây trời thơ mộng, mây soi bóng vào lòng hồ, mặt nước có
những con thiên nga, con cá chép, con rồng, lất cả bằng sẩt

tây, bơi được nhờ vào chân người, có mấy quán cà phê đặt
-22 -


ghế mây sát những bức tường có hoa leo cho khách ngồi
nhâm nhi trong gió hồ thổi tung ngực áo; tự thưởng cho
mình chút không gian hó mờ sau những chật chội nào Trần
Quốc Toàn, Hạ Hồi, Trương Hán Siêu, Đoàn Nhừ Hài
gần đó.
Sántỉ sáng bờ hồ Thiền Quang thành sân tập thể dục
cùa các cụ iiià trong các câu lạc bộ ngoài trời, giơ tay, giơ
chân, đi bộ, tập thở... Thời gian cùa con người sao mà vội
vã, đã bao lófp qua, rồi đến lưm ta, rồi lớp sau này... chỉ có
gió hồ là hào phóng, cho họ chăng tiếc chút gi.
Còn buổi tối và đêm về, có hương hoa sữa nồng nàn
một làn thơm. Còn vcn hồ đây có nliiều cây cụt, những cây
hai gốc, chẳng cành, chẳnụ lá, hai gốc ấy cứ chạm vào
nhau, sát vào nhau mà thì thầm, mà rúc rích... có lẽ chỉ có
lớp cỏ bên liồ nghe tliấy và nhin ihấy lặng lẽ các chuyện
đời, kể cà một cây xà cừ đổ bão, nằm ngang mặt đất, bò
một quãnu dài rồi cứ vươn lên không chịu chết, không chịu
thành cùi, mà lớn lên, mà xanh neắt, mà thành chiếc cây kỳ
dị, nửa đứng, nửa nằm đã bấy nhiêu năm.
Phía đầu phố, từ ít lâu nay đã hình thành một đoạn
toàn những hàng ăn uống, nào phở gà, phở bò, phở trứng,
nào rưọoi Ihuổc, rượu trang, nào cà phê, nước Irà... Hàng
ihuốc lào ông Cả Nghị nổi tiếng từ rất lâu đời cũng đã thoát
hình thành tiệm phờ, bàn ghế trắng loát.
Cũng may mà phổ Nguyễn Du không giống như đoạn
phố Mai Hắc Đe, Trần Nhân Tông, hàng hoá lấp cả người

- 23 -


ngồi người đi, phố Nguyễn Du vẫn còn dăm ba khuôn vi(ên,
ít biệt thự, phần nào giữ được chút thanh lịch một Hà >>101
hào hoa, với vài ba quầy bán báo, ít hàng quả tươi đẹp, có
chỗ chuyên ươm và bán các loại xương rồng...
Đôi khi đi lang thang trên hè phố, chợt vẳng lên trcng
tâm thức một câu Kiêu: Củơ tin còn một chút này... cũng
không^cân biêt đúng hay sai, giôn^ như không cân xác đị nh
Nguyên Du là người Hà Tĩnh, Băc Ninh hay Hà Nội trcng
lúc hoa sữa cứ ngào ngạt tâm hôn.

Vài nét về Nguyễn Du
Nguyễn Du (1765-1820) tên tự Tố Như, hiệu Thanh
Hiên, biệt hiệu Hồng Sơn lạp hộ, là một nhà thơ nổi tiế ng
thời Lê mạt, Nguyễn sơ ở Việt Nam. Nguyễn Du được xem
như là một nhà thơ lớn của Việt Nam, được người Việt
kính trọng gọi ông là "Đại thi hào dân tộc". Năm 1965, ô'ng
được UNESCO tôn vinh là danh nhân văn hóa thế giới.
Nguyễn Du sinh năm Ẩt Dậu (1765), niên hiệu Cà.nh
Hưng, tại Thăng Long. Tổ tiên ông vốn là dòng dõi Nguy ễn
Xí gốc ở xã Nghi Hợp, huyện Nghi Lộc, Nghệ An sau di cư
vào xã Nghi Xuân, huyện Tiên Điền (nay là làng Ti'ên
Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh).
Bởi Nguyễn Xí là đại công thần khai quốc nhà Lê, 'do
đó sáu bảy thế hệ viễn tổ trước ông đã từng đỗ đạt làm
quan. Nguyễn Du thuộc về một gia đình khoa hoạn moi
danh ở làng Tiên Điền về thời Lê mạt.
Thân phụ ông là Nguyễn Nghiễm (1708-1775), đ.ậu

Nhị giáp tiến sĩ, làm quan đến chức Đại tư đồ (Te tướng),
-24-


tước Xuân Quận Công dưới triều Lê... Ngoài là một đại
thần, ông Nghiễm còn là một nhà thơ, một nhà nghiên cứu
sử học. Ông Nghiễm có cả thảy tám vợ và 21 người con
trai. Người con trưởng là Nguyễn Khản (1734-1786) đồ
7'am giáp tiến sĩ, làm quan tới chức Tham Tụng, tước Toàn
Quận Công (con bà chính, rất mê hát xướng, nổi tiếng
phong lưu một thời, thân với chúa Trịnh Sâm), người con
thứ hai là Nguyễn Điều đồ Hương cống, từng làm trấn thủ
Sơn Tây. Nếu kể theo thứ tự này, thì Nguyễn Du đứng hàng
thứ bảy, nên còn được gọi là Chiôu Bày.
Mẹ Nguyễn Du là bà Trần Thị Tần (1740-1778), con
gái một người thuộc hạ làm chức câu kế, người xã Hoa
Thiều, huyện Đòng Ngàn, xứ Kinh Băt, nay thuộc tinh Bẳc
Ninh. Bà Tần là vợ thứ ba cúa Nguyễn Nghiễm, trẻ hơn
chồng 32 tuổi. Bà sinh được năm con, bốn trai và một gái.
Thuở nhò Nguyễn Du sống trong nhung lụa, nhưng
cuộc sống này kéo dài không quá mười năm. Vì 10 tuổi đã
mồ côi cha, năm 13 tuổi, mồ côi mẹ, ông và các anh em
ruột phải đến sống với người anh cả khác mẹ là Nguyễn
Khản (khi ấy ông Khản đã hơn Nguyễn Du 31 tuổi).
Năm 1780, khi ấy Nguyễn Du mới 15 tuổi thì xảy ra
“Vụ mật án Canh Tý”: Chúa Trịnh Sâm lập con thứ là
Trịnh Cán làm thế tử, thay cho con trưởng là Trịnh Tông.
Ông Khản giúp Trịnh Tông, việc bại lộ, bị giam. Đến khi
Trịnh Tông lên ngôi, ông Khàn được cử lên làm Thượng
thư Bộ Lại và Tham tụnụ. Quân lính khác phe (sử gọi là

“kiêu binh”) không phục, kéo đến phá nhà, khiến ông Khản
-25-


phải cải trang trốn lên Sơn Tây sống với em là Nguyền
Diều rồi về quê ở Hà Tình. Thế là anh em Nguyễn Du
từ bấy lâu đã đến nương nhờ ông Khản, mồi người phái
mỗi ngả.
Năm 1783, Nguyễn Du ihi Hương đỗ tam trường (tú
tài), sau đó không rõ vì lẽ gì không đi thi nữa. Trước đây,
một võ quan họ Hà (không rò tên) ờ Thái Nguyên, không
có con nên đã nhận ông làm con nuôi. VI thế, khi người cha
này mất, Niiuyễn Du được tập ấm một chức quan võ nhỏ ở
Thái Nguyên.
Nãm 1786, Tây Sơn bất đầu đưa quân ra Bắc Hà.
Năm 1789, Nguyễn Huệ, niộl Irong ba thù lĩnh cùa
nhà Tây Sơn đã kéo quân ra Bắc đánh tan hai mươi mấy
vạn quân Thanh sang tiến chiếm Dại Việt. Nguyền Du cũng
chạy Iheo vua Lê Chiêu Thống (1766-1793) nhưng không
kịp, đành trở về quê vợ, quê ở Quỳnh Côi ở Thái Bình,
sống nhờ nhà người anh vợ là danh sT Đoàn Nguyễn Tuấn
(1750-?).
Được vài năm, Nguyễn Du về Nghệ An. Năm 1796,
nghe tin ở Gia Định, chúa Nguyễn Ánh (1762-1819) đang
hoạt động mạnh, ông định vào theo, nhưng chưa đi khỏi địa
phận Nghệ An thì đã bị quân Tây Sơn do tướng Nguyễn
Thuận chì huy, bắt giữ ba tháng. Trở về Tiên Điền (Hà
Tinh), ông sống chật vật một thời gian dài cho đến mùa thu
năm 1802, khi chúa Nguyễn Ánh lên ngôi lấy niên hiệu Gia
Long, thì ône được gọi ra làm quan cho nhà Nguyễn.

-26-


Năm 1802, ông nhậm chức Tri huyện tại huyện
Phù Dung (nay thuộc Khoái Châu, Hưng Yên). Tháng 11
cùng năm, đổi làm Tri phù Thường Tín (Hà Tây, nay thuộc
Hà Nội).
Ke lừ đó, Nguyễn Du lần lượt đảm đươim các chức
việc sau: Năm 1803: đến cửa Nam Quan tiếp sứ thần nhà
Thanh. Truníí Quốc.
Năm 1805: thăng hàm Đônụ Các điện học sĩ.
Năm 1807: làm Giám khào trưòni’ thi Hươim ờ Hài Dương.
Năni 1809: làm Cai bạ dinh Quảng Bình.
Năm 18i3: thăng cẩn Chánh điện học sT và giữ chức
Chánh sử di Truno Quốc.
Sau khi đi sứ ve vào năm IK14, ông được thăng Hữu
tham tri Bộ Lễ.
Năm 1820, Gia Long mất, Minh Mạng (1791-1840)
len ngôi, Nííuvễn Du lại được cử làm Chánh sứ đi Trung
Quốc, nhưng chưa kịp lên đường thì mất đột ngột (trong
một trận dịch khùng khiếp làm chết hàng vạn người lúc bấy
giờ) ở kinh đô Huế vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn lức
16 iháng 9 năm 1820.
Lúc đầu (1820), Níìuyễn Du được táng ở xã An Ninh,
huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Bốn năm sau mới cải
táng về Tiên Điền (Hà Tĩnh).
Xél về nội dung, qua các sáng tác của Nguyễn Du, nét
nổi bật chính là sự đề cao xúc cảm, tức đề cao “tinh”. Điều
-27 -



quan trọng hàng đầu, là sự cảm thông sâu sẳc cùa tác giả
đối với cuộc sống và con người, đặc biệt là những con
người nhỏ bé, bất hạnh (xem: Văn tế thập loại chúng sinh,
Sở kiến hành, Thái Bình mại ca giảv.v.). Cái nhìn nhân đạo
này khiến ông được đánh giá là “tác giả tiêu biểu của trào
lưu nhân đạo chủ nghĩa trong văn học cuối thể kỷ 18 đầu
thế kỷ 19”. Riêng với Truyện Kiểu, kiệt tác này còn “thấm
đẫm tinh thần ngợi ca, trân trọng vẻ đẹp kì diệu cùa tình
yêu lứa đôi.”
v ề mặt nghệ thuật, Nguyễn Du là nhà thơ có học vấn
uyên bác, nấm vững nhiều thể thơ của Trung Quốc, như:
ngũ ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật, thất ngôn luật, ca, hành...
nên ở thể thơ nào, ông cùng có bài xuất sấc. Đặc biệt hơn
cả là tài làm thơ bàng chừ Nôm cùa ông, mà bằng chứng là
ở Truyện Kiều, đã cho thấy thể thơ lục bát “ có khả năng
chuyển tải nội dung tự sự và trừ tình to lớn của thể loại
truyện thơ.”
Tính đến tháng 5 năm 2008, giới chuyên môn đã sưu
tập được 249 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du, được chia ra
như sau;
Thanh Hiên thỉ íập (Tập thơ của Thanh Hiên) gồm 78
bài, viết chù yếu trong những năm tháng trước khi làm
quan nhà Nguyễn.
Nam trung tạp ngâm (Ngâm nga lặt vặt lúc ở miền
Nam) gồm 40 bài, viết khi làm quan ở Huế, Quảng Bình và
những địa phương ờ phía nam Hà Tình.
-28-



×