Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Bai thu hoach cam tinh dang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.76 KB, 24 trang )

CÂU HỎI
Câu 1:
Đồng chí hãy trình bày 5 bài học lớn của cách mạng Việt nam được nêu trong Cương lĩnh
năm 1991. Phân tích bài học mà đồng chí thấy tâm đắc nhất. Ý nghĩa của bài học này đối với
công việc của đồng chí ?
Câu 2 :
Bản chất giai cấp công nhân của Đảng được thể hiện ở những điểm chủ yếu nào trong Điều
lệ Đảng ?
Câu 3 :
Đồng chí hãy phân tích sự cần thiết của việc học tập và làm theo tư tưởng tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh. Liên Hệ việc thực hiện cuộc vận động ở cơ quan, đơn vị đồng chí ?
Câu 4 :
Từ khi ra đời đến nay, Đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đã lãnh đạo nhân dân giành được
những thắng lợi nào? Khái quát những thắng lợi vĩ đại hơn 80 năm qua.
Câu 5:
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền hạn của Đảng
viên như thế nào?
Câu 6:
Anh/chị cần làm gì và phấn đấu như thế nào để trở thành Đảng viên?

TRẢ LỜI
Câu 1 :
Trải dài theo dòng lịch sử của nước nhà chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy một điều rằng
cách mạng Việt Nam đã đi hết từ thắng lợi này cho tới thắng lợi khác, dưới sư lãnh đạo của
Đảng, có cương lĩnh, có đường lối soi sáng chỉ đường, tạo ra những trận đánh lịch sử lừng lẫy
năm châu, chấn động địa cầu, tạo ra cuộc sống bình yên, ấm no và hạnh phúc cho toàn thể dân
tộc ta và được trường tồn tới ngày nay và mãi mãi
Nước đã đang bước vào giai đoạn hồi nhập nhập toàn cầu, cuộc sống ngày càng phát triển
mạnh mẽ, quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ngày càng lên cao, trước những xu thế mới đỏi
hỏi Đảng ta phải có được cương lĩnh rõ ràng để chỉ lối cho những bến bờ hành phúc cho nhân
dân, cho nhân loại, và cương lĩnh năm 1991 đã cho chúng ta thấy rõ được những yêu cầu mang


tính cần thiết mà chúng ta phải thực hiện được để tô thêm những trang sử vàng cho sự thành
công trong con đường hội nhập của đất nước.
Vậy 5 bài học lớn của cách mạng Việt Nam được nêu trong cương lĩnh 1991 được thể hiện
như thế nào? chúng ta cũng nhau đi tìm hiểu:
Tổng kết thực tiễn hơn 60 năm của nước ta, trong đó có 5 năm thực hiện đường lối đổi mới
do Đại hội VI đề ra, từ những kinh nghiệm thành công và cả những kinh nghiệm chưa thành


công, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã nêu ra được 5 bài học lớn của
cách mạng Việt Nam:
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đây là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta, độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để
xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc.
Hai vấn đề này có quan hệ hữu cơ với nhau. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội sẽ tạo ra sức mạnh to lớn của dân tộc trong đấu tranh cách mạng, giành thắng lợi.
Hai là, Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Để phát huy, nhân
lên sức mạnh vĩ đại của nhân dân, sự lãnh đạo và tòan bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ
lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân, đại biểu trung thành cho lợi ích của nhân dân.
Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đòan kết, đòan kết toàn Đảng, đòan kết tòan dân,
đòan kết dân tộc, đòan kết quốc tế.Đoàn kết là truyền thống quý báu và là bài học lịch sử lớn, lâu
dài của dân tộc ta đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng thành công, tạo nên
nguồn sức mạnh to lớn để giành thắng lợi.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh
quốc tế. Sức mạnh dân tộc, sức mạnh trong nước là sức mạnh tổng hợp của nhiều nguồn lực. Sức
mạnh thời đại, sức mạnh quốc tế trước hết là sức mạnh của quy luật và xu thế phát triển không
thể đảo ngược của lịch sử nhân loại.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách
mạng Việt Nam. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định hàng đầu
bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta. Để làm được điều đó, phải xây dựng Đảng
vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của

Đảng đáp ứng yêu cầu của tình hình thực tế, đủ sức giải quyết các vấn đề do cuộc sống đặt ra.
Thực chất thì bản thân tôi hoàn toàn tâm đắc tất cả các bài học ở trên, trong tôi qua mỗi bài
học tự rút ra được cho mình những bài học quý báu, những kiến thức cẩn và đủ để có thể trở
thành một đàng viên tốt, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, và đóng góp vào sự phát triển
chung của Đảng, Nhà nước.
Từ cái nhìn khách quan và cụ thể nhất tôi cũng đưa ra được cho mình Bài học tâm đắc
nhất đó là ở bài học lớn thứ hai :
“Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”
Có thể khẳng định một điều rằng: Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân. Để phát huy, nhân lên sức mạnh vĩ đại của nhân dân, sự lãnh đạo và tòan bộ hoạt động
của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân, đại biểu trung thành
cho lợi ích của nhân dân
Tám mươi mốt năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch
Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, dân tộc ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, lập
nên những kỳ tích vĩ đại trong cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng, phát triển đất nước,
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã đưa nhân dân thoát khỏi cảnh nô lệ lầm
than, giành độc lập cho đất nước, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã bảo vệ và
phát triển thành quả Cách mạng Tháng Tám 1945, giải phóng miền Bắc, chấm dứt ách thống
trị của thực dân Pháp trên đất nước ta, đưa cách mạng nước ta bước sang giai đoạn mới, giai
đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiếp tục tiến hành cách mạng giải phóng ở miền
Nam.
Trải qua 21 năm chiến đấu, nhân dân ta đã đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược kiểu mới
của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc vẻ vang 30 năm chiến tranh giải
phóng dân tộc bảo vệ Tổ quốc, chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị kéo dài hơn một thế kỉ của chủ
2


nghĩa thực dân trên đất nước ta, hoàn thành về cơ bản cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân

trên cả nước, non sông thu về một mối. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là
thắng lợi vĩ đại nhất trong sự nghiệp giải phóng dân tộc do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh
đạo, đánh dấu bước ngoặt quyết định cho dân tộc Việt Nam tiến vào kỉ nguyên mới- kỉ nguyên
độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội.
Sau 30 năm chiến tranh giải phóng, cả nước bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đây là một cuộc chiến đấu “khổng lồ” để loại bỏ những gì cũ kỹ lạc hậu, tạo ra những giá trị
“mới mẻ, tốt tươi” như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh.
Trong buổi đầu cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng như trong thời kỳ đổi mới, dân tộc
ta phải đối diện với bao thách thức, khó khăn gay gắt cả trong nước và quốc tế. Đặc biệt vào thập
kỉ 90 của thế kỉ XX, trong bối cảnh quốc tế hết sức phức tạp và tình hình đất nước gặp muôn vàn
khó khăn, các thế lực thù địch không ngừng chống phá, nhưng với bản lĩnh kiên cường của một
chính đảng cách mạng và khoa học, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kiên định mục tiêu mà Đảng,
nhân dân đã lựa chọn, giữ vững vai trò lãnh đạo, chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua sóng
gió, tiếp tục tiến lên, tiến hành công cuộc đổi mới đạt nhiều thành tựu quan trọng. Đảng đã đề ra
và từng bước bổ sung, hoàn thiện đường lối cách mạng một cách đúng đắn, sáng tạo, bước đầu
hình thành một hệ thống các quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới, khai phá con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tế nước ta, kế thừa và phát huy giá trị văn hoá và
bản sắc dân tộc. Đây là kết quả của một quá trình trăn trở, tìm tòi, tổng kết, đổi mới tư duy lí
luận, nhận thức đúng đắn hơn về thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đảng ngày càng trưởng thành
và có thêm kinh nghiệm lãnh đạo nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước trong hoàn cảnh mới.
Xuyên suốt chặng đường hoạt động cách mạng 80 năm qua, trong các Cương lĩnh (từ Cương
lĩnh đầu tiên năm 1930 đến Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã
hội, năm 1991), hay trong mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng đều thể hiện rất rõ,
Đảng ta không có mục đích nào khác là đấu tranh cho tự do độc lập dân tộc và hạnh phúc của
nhân dân. Quần chúng nhân dân là người làm nên lịch sử. “Sự nghiệp cách mạng là của nhân
dân, do nhân dân, và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ
hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân. Sức
mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ
đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước”.
Sáu đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng cũng như những phương

hướng cơ bản trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc mà Cương lĩnh
1991 của Đảng xác định đều toát lên vị trí, vai trò của nhân dân; đều nhằm giải phóng con người
khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất công, hướng tới xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, mỗi
cá nhân đều có điều kiện phát triển toàn diện; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ
của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích
của Tổ quốc và của nhân dân
Triển khai đường lối đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng, nhằm mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, Nhà nước ta đã ban hành nhiều
chính sách bảo đảm và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; quyền
dân chủ chính trị của nhân dân được khơi dậy, tôn trọng và ngày càng đề cao. Chính sách xã hội
thời kỳ đổi mới hướng vào phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng
về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội;
giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi
ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội. Đặc biệt, đã tạo được những thành tựu
lớn trong thực hiện chiến lược quốc gia xóa đói giảm nghèo và giải quyết việc làm, được thế giới
ghi nhận và đánh giá cao. Đồng thời, đã kết hợp tốt các nguồn lực của Nhà nước và nhân dân,
3


xây dựng nhiều công trình kết cấu hạ tầng kinh tế, văn hóa, xã hội cho các vùng, miền. Chính trịxã hội ổn định; quốc phòng an ninh được tăng cường, quan hệ đối ngoại có những bước phát
triển mới, đã tạo thêm môi trường thuận lợi để Đảng và Nhà nước ta lãnh đạo tổ chức thực hiện
tốt hơn các chương trình, mục tiêu phát triển đất nước.
Qua gần 25 năm đổi mới, đất nước đã vượt qua thử thách hiểm nghèo, phá thế bao vây cấm
vận của các thế lực thù địch, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, mở rộng quan hệ quốc tế, tạo
tiền đề vững chắc để tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Tất cả thực tiễn phong phú, sôi động, hào hùng của dân tộc ta trong 80 năm qua ngày càng
khẳng định rõ hơn nhận định của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Đảng vừa tròn 30 tuổi:

"Đảng ta vĩ đại như biển rộng, như núi cao
Ba mươi năm phấn đấu và thắng lợi biết bao nhiêu tình.
Đảng ta là đạo đức, là văn minh,
Là thống nhất, độc lập, là hoà bình ấm no”
Đảng ta thật là vĩ đại là bởi vì ”ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc Đảng ta
không có lợi ích gì khác"
Đảng ta vĩ đại, trước hết chính vì Đảng tiêu biểu cho sức mạnh trí tuệ của giai cấp công nhân
hiện đại, cho tiềm lực tinh thần truyền thống của dân tộc và tiếp thu được những tinh hoa của văn
hoá nhân loại. Ngay từ khi thành lập, sức mạnh của Đảng nằm ngay trong ba yếu tố hợp thành
của Đảng: chủ nghĩa Mác- Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đảng
Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong, là tổ chức của những chiến sĩ ưu tú nhất của giai cấp công
nhân và của toàn thể dân tộc.
Từ khi ra đời cho đến nay, Đảng ta luôn đứng vững trên lập trường, quan điểm của giai cấp
công nhân, tuyệt đối trung thành với lợi ích của nhân dân, của dân tộc, coi đó là điểm xuất phát
của mọi đường lối, chủ trương của Đảng. Ngay Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do đồng
chí Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng phản ánh đúng quy
luật khách quan, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, đáp ứng đúng yêu cầu của thực tiễn,
vạch ra được mục tiêu, phương hướng và giải pháp cơ bản của cách mạng. Từ đó tiến hành tập
hợp, tổ chức, động viên toàn thể nhân dân biến đường lối của Đảng thành hành động cách mạng
của quần chúng. Tinh thần cơ bản của bản Cương lĩnh ấy được phát triển, cụ thể hoá đáp ứng
những nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn lịch sử, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ và từng bước xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Ngay sau khi giành được chính quyền cách mạng, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Nước độc lập mà
dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lí gì". Mục tiêu của Đảng là
làm cho mọi người dân ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành, được sống ấm no và
sung sướng; mang lại quyền làm chủ về kinh tế, xã hội cũng là thước đo trình độ giải phóng xã
hội, sự phát triển của xã hội.
Lịch sử tám mươi mốt năm xây dựng và phát triển của Đảng đã chứng tỏ, cội nguồn sức
mạnh của Đảng không chỉ thể hiện ở chỗ mọi hoạt động của Đảng đều xuất phát vì lợi ích của

nhân dân mà còn thể hiện Đảng luôn luôn gắn bó chặt chẽ với nhân dân, được nhân dân tin
tưởng, ủng hộ và che chở. Liên hệ mật thiết với nhân dân đã trở thành một truyền thống tốt đẹp
của Đảng và cũng là cội nguồn sức mạnh của Đảng trong 81 năm qua. Chính từ thực tiễn cách
4


mạng, Đảng đã nhận thức sâu sắc: "Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải
là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào. Thành công của Đảng ta là ở nơi Đảng đã tổ chức
và phát huy được lực lượng cách mạng vô tận của nhân dân”
Là một Đảng cách mạng vì nhân dân, trước hết, đường lối chính trị của Đảng phải xuất phát
từ lợi ích của nhân dân. Lãnh tụ Hồ Chí Minh coi việc hoạch định đường lối chính sách
của Đảng không chỉ là công việc của bản thân Đảng mà còn phải biết phát huy trí tuệ của toàn
dân vào việc xây dựng đường lối của Đảng: "Tin vào dân chúng. Đưa mọi vấn đề cho dân chúng
thảo luận và tìm cách giải quyết". "Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề
nghị sửa chữa. Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta. Đảng không
chỉ có đường lối chính trị xuất phát từ lợi ích chính đáng của quảng đại đa số nhân dân, mà còn
thể hiện ở trong tổ chức của Đảng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn đặt lợi ích
của nhân dân, của dân tộc lên trên hết, đó cũng chính là nguyên nhân sâu xa làm nên sức mạnh
đoàn kết rất đáng tự hào của Đảng ta, đã tạo nên uy tín lãnh đạo của Đảng đối với toàn dân tộc;
làm cho Đảng được dân tin, dân phục, dân yêu mến, dân giúp đỡ, ủng hộ và bảo vệ.
Sức mạnh và uy tín của Đảng không chỉ ở đường lối chính trị với mục vì dân mà còn
thể hiện ở đức hy sinh, sẵn sàng xả thân vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc của hàng triệu các
thế hệ đảng viên trong sự nghiệp cách mạng, đặc biệt trong đấu tranh giành chính quyền cách
mạng và trong đấu tranh giải phóng dân tộc.
Nhìn lại chặng đường đấu tranh đầy khó khăn, thử thách nhưng vô cùng oanh liệt của Đảng ta
trong tám thập kỉ qua, chúng ta càng thấm thía bài học “lấy dân làm gốc”, trân trọng quá khứ,
nâng niu giữ gìn những thành quả cách mạng của cách mạng, càng thấm thía và biết ơn vô hạn
công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các thế hệ đảng viên đó xả thân vì nền độc lập, thống
nhất của đất nước, càng thêm tự hào về Đảng ta, nhân dân và dân tộc ta.
Khi tổng kết những kinh nghiệm quý sau 20 năm đổi mới, một trong những bài học quan

trọng hàng đầu được Đại hội X của Đảng đúc kết là bài học “lấy dân làm gốc”: “Đổi mới phải vì
lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất
phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới. Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do
nhân dân. Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân có vai trò quan trọng trong việc
hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Dựa vào nhân dân, xuất phát từ thực tiễn và thường
xuyên tổng kết thực tiễn, phát hiện nhân tố mới, từng bước tìm ra quy luật phát triển, đó là chìa
khóa của thành công”
Ý nghĩa đối với bản thân :
Là một sinh viên đang còn ngồi trên ghế nhà trường bản thân tôi cũng tự nhận thấy những
kiến thức về Đường lối cách mạng Đảng, Tư tưởng Hồ Chí Minh hay chủ nghĩa Mac –Lenin, là
cái cốt lõi đưa cho tôi tới được với những quan điểm logic những ý nghĩa vô cũng to lớn về cách
mạng, về sự nghiệp cách mạng của dân tộc và tôi biết sự nghiệp cách mạng là của dân tộc, là của
nhân dân và vì nhân dân
Tôi đã từng nghe:
“Dân biết , dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”

“Vì nước quên thân, vì dân phục vụ”
Những câu nói bất hủ ấy mà làm tôi luôn hướng về nhân dân, tôi cũng có một suy nghĩ, một
ham muốn là làm sao sau này mình sẽ có một phần đóng góp cho sự phát triển chung xã hội,cho
sự nâng cao dân trí của người dân
Chuyên ngành tôi nghiên cứu là Giáo Dục Học và tôi ưa thích nó, tôi cũng có ý tưởng là tôi sẽ
áp dụng nó vào quá trình làm việc của mình sau này đặc biệt là tham gia vào việc giáo dục
những lý tưởng sống, những nhiệm vụ học tập cần thiết, những yêu cầu từ thực tiễn, chống lại
những sự cổ hủ lạc hậu. sẽ tới từng nhà, dà từng đối tượng, bản thân giáo dục là quốc sách hàng
5


đầu là việc quan trọng bậc nhất để đưa sự phát triển của đất nước đi lên, dân trí có tăng lên thì
đới sống, cũng như suy nghĩ của nhân dân mới tích cực
Bản thân tôi cũng đang phấn đấu học tốt, để đem tri thức của bản thân để phục vụ toàn dân,

vì lợi ích mười năm trồng cây và vì lợi ích trăm năm trồng người,tôi hi vọng trên con đò của tôi
trở sẽ được thành công như những tư tưởng lớn của người đem theo hành trang của một Đảng
viên trẻ tôi sẽ cố gắng nhiệt huyết đi cùng nhân dân, chia sẻ, tâm sự và thảo luận những nỗi niềm
của họ, vì một đất nước phồn vinh và hạnh phúc.
Câu 2:
Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá
trình phát triển của nên công nghiệp hiện đại với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có
tính chất xã hội hóa ngày càng cao; là lực lượng lao động cơ bản tiên tiến trong các quy trình
công nghệ, dịch vụ công nghiệp, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản
xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương
thức sản xuất tiên tiến trong thời đại hiện nay.
Là giai cấp của những người lao động sản xuất vật chất là chủ yếu (với trình độ trí tuệ ngày
càng cao, đồng thời cũng ngày càng có những sáng chế, phát minh lý thuyết được ứng dụng ngay
trong sản xuất). Vì thế, giai cấp công nhân có vai trò quyết định nhất sự tồn tại và phát triển xã
hội.
Vậy ở trong Điều lệ Đảng bản chất của giai cấp công nhân của Đảng được thể hiện ở
những điểm chủ yếu:
Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn khẳng định bản chất giai cấp công nhân của mình.
Trong "Chương trình tóm tắt" được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng khẳng định: "Đảng
là đội tiên phong lãnh đạo của đội quân vô sản gồm một số lớn giai cấp công nhân và làm cho họ
có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng".
Sách lược vắn tắt viết: "Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, phải thu phục cho được
đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được quần chúng".
Đại hội X đã thông qua sự diễn đạt về Đảng là: "Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong
của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt
Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc".
Sự diễn đạt như trên thể hiện ở 2 nội dung sau:
+ Đảng là đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam và đồng thời là đội tiền phong
của nhân dân lao động và của cả dân tộc.
+ Đảng là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và

của dân tộc Việt Nam.
- Xuất phát từ nhận thức khoa học về vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
+ Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phạm trù cơ bản nhất của CNXHKH. Phát
hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một trong những cống hiến vĩ đại nhất của Chủ
nghĩa Mác - Lênin.
Để hiểu rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, trước hết cần làm rõ khái niệm giai cấp
công nhân.
+ Khái niệm giai cấp công nhân (theo Nghị quyết TW 6 khoá X).
- Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm
những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh
doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp.
+ Là 1 lực lượng to lớn, quan trọng trong xã hội, chưa định hình rõ nét, còn có sự biến đổi,
phát triển.
+ Thành phần: bao gồm những người lao động chân tay và trí óc.
+ Đặc điểm: làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công
nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp.
(Tính đến đầu năm 2007, tổng số công nhân nước ta khoảng 9,5 triệu người, chiếm tỷ lệ 11% dân
số và 21% lực lượng lao động xã hội, trong đó số lượng công nhân làm việc trong các doanh
nghiệp của các thành phần kinh tế khoảng 6,75 triệu người).
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
6


+ Trước hết phải lãnh đạo tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thông qua
đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản Việt Nam, đấu tranh giành chính quyền, thiết lập nền
chuyên chính dân chủ nhân dân.
+ Trong giai đoạn cách mạng XHCN, giai cấp công nhân từng bước lãnh đạo nhân dân lao
động xây dựng thành công CNXH, không có người bóc lột người, giải phóng nhân dân lao động
khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, bất công.
=> Hai nội dung trên quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình thực hiện. Thể hiện sự nghiệp vĩ

đại của giai cấp công nhân là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người và
nhân loại khỏi mọi áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn
minh.
+ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ ý nghĩa,
nội dung căn bản, thể hiện cụ thể của sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân Việt Nam trong giai
đoạn mới là: Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích của toàn dân tộc trong mục tiêu
chung là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh".
- ở nước ta, giai cấp công nhân tuy số lượng còn ít, nhưng giai cấp công nhân Việt Nam và chính
Đảng của mình luôn đứng trên lập trường cách mạng, giữ vững bản chất giai cấp, lấy Chủ nghĩa
Mác - Lê Nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi ra đời đã giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và
CNXH, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa giai cấp và dân tộc... Thắng lợi của cách mạng Việt
Nam qua các thời kỳ đều bắt nguồn từ việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ mật thiết giữa giai
cấp và dân tộc.
+ Trong điều kiện của nước ta, quyền lợi của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và
của dân tộc là thống nhất.
+ Sự gắn kết máu thịt giữa Đảng với giai cấp và dân tộc đã được thể hiện ngay từ nguồn gốc
ra đời của Đảng ta. Đảng ra đời không chỉ là sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào
công nhân mà còn với phong trào yêu nước.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định rằng: Đảng ta không chỉ là Đảng của giai cấp
công nhân mà còn là Đảng của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
- Trong báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 2 của Đảng (tháng 2 - 1951),
Bác chỉ rõ: "Đảng Lao động Việt Nam phải là người lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết, trung thành
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, của nhân dân Việt Nam... Chính vì Đảng Lao động
Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của
dân tộc Việt Nam".(Trích Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2001, t. 12, tr. 37 - 38).
- Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, được toàn dân thừa nhận là đội tiên phong
lãnh đạo nhân dân. Về vấn đề lợi ích, Đảng không có lợi ích nào khác ngoài mục đích phục vụ

nhân dân, phục vụ dân tộc. Cụ thể:
+ Trên thực tế, Đảng ta ra đời, tồn tại và phát triển là vì lợi ích không chỉ của giai cấp công
nhân mà còn vì lợi ích của nhân dân lao động, của toàn dân tộc.
+ Trong cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng ta nêu khẩu hiệu: "Độc lập dân tộc" và "Người
cày có ruộng".
+ Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta đề ra mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
* Để giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong tình hình mới, nhiệm
vụ của mỗi đảng viên của Đảng là:
+ Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
+ Kiên định và vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh. Xuất phát từ thực tiễn lịch sử của nước ta đề ra đường lối, chủ trương và các chính
sách đúng đắn; đồng thời bằng hành động cách mạng biến đường lối, chủ trương đó thành hiện
thực sinh động trên mọi mặt của đời sống xã hội.
+ Đấu tranh kiên quyết, kịp thời chống lại mọi biểu hiện cơ hội, hữu khuynh, giáo điều, bảo
thủ; phê phán những luận điệu và thủ đoạn của các thế lực thù địch phủ nhận, xuyên tạc Chủ
nghĩa Mác - Lên nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
7


+ Luôn luôn phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hoá, tri thức
của thời đại để làm giàu kiến thức, giải quyết thành công những vấn đề lý luận và thực tiễn của
cách mạng nước ta, góp phần vào sự nghiệp phát triển chung của thế giới.
+ Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt đảng, tập thể lãnh đạo,
cá nhân phụ trách. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong
Đảng.
+ Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng lập trường, quan điểm, ý thức tổ chức của giai cấp
công nhân; xây dựng đội ngũ cán bộ và đảng viên theo quan điểm của giai cấp công nhân.
+ Củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn
dân, chăm lo đời sống và thực sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

+ Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của
giai cấp công nhân. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo nên sức mạnh tổng
hợp của cách mạng.
Có lợi ích giai cấp đối lập với lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản (giai cấp công nhân: xóa bỏ
chế độ tư hữu, xóa bỏ áp bức bóc lột, giành chính quyền và làm chủ xã hội. Giai cấp tư sản
không bao giờ tự rời bỏ những vấn đề cơ bản đó). Do vậy, giai cấp công nhân có tinh thần cách
mạng triệt để.
Bất kỳ giai cấp công nhân nước nào, khi đã có đảng tiên phong của nó, đều có những đặc
điểm cơ bản, chung nhất đó. Do vậy, giai cấp công nhân mỗi nước đều là một bộ phận không thể
tách rời giai cấp công nhân trên toàn thế giới. Vì vậy chủ nghĩa Mác-Lênin mới có quan điểm
đúng đắn về sứ mệnh lịch sử toàn thế giới cùa giai cấp công nhân.
Có ý kiến đã cho rằng : Giai cấp công nhân Việt Nam số người còn ít, không lãnh đạo được
cách mạng.
Nói vậy không đúng. Lãnh đạo được hay là không, là do đặc tính cách mạng, chứ không phải
do số người nhiều ít của giai cấp. Giai cấp công nhân có chủ nghĩa Mác - Lênin. Trên nền tảng
đấu tranh, họ xây dựng nên Đảng theo chủ nghĩa Mác - Lênin là Đảng Lao động Việt Nam. Đảng
đề ra chủ trương, đường lối, khẩu hiệu cách mạng, lôi cuốn giai cấp nông dân và tiểu tư sản vào
đấu tranh, bồi dưỡng họ thành những phần tử tiên tiến. Lại có những phần tử trí thức tham gia
cách mạng và vô sản hoá. Thành thử đội ngũ chính trị của giai cấp công nhân ngày càng phát
triển. Mai sau, công nghệ của ta ngày càng phát triển, thì số công nhân ngày càng tǎng thêm
Trong thời đại ngày nay, bản chất giai cấp của Đảng Cộng sản vẫn chỉ có thể là bản chất giai
cấp của giai cấp công nhân; cơ sở chính trị - xã hội chủ yếu của Đảng Cộng sản phải là giai cấp
công nhân trong quá trình phát triển từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ; tư duy mới
về giai cấp công nhân phải gắn liền với tư duy mới về chủ nghĩa xã hội hiện đại. Có thể nói, một
trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự lạc hậu, bất cập trước đây của Đảng Cộng sản ở một
số nước tư bản phát triển là do không nhận thức được điều này. Bởi vậy, ở đó, Đảng Cộng sản
dần dần mất cơ sở chính trị - xã hội cần có của mình, gắn liền với những cương lĩnh ngày càng
xa rời cuộc sống. Giai cấp công nhân hiện đại, nhân dân lao động không thấy được con đường đi
tới một xã hội tốt đẹp hơn, mà đôi khi mất phương hướng và dường như kỳ vọng vào một tương
lai nào đó trong lòng chủ nghĩa tư bản hiện đại, khi ở đó xuất hiện và phát triển dần một số yếu

tố của xã hội mới, nhưng đội tiên phong của giai cấp công nhân hiện đại đã không nhận ra để
làm sinh sôi nảy nở.
Đảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân Việt Nam, là Đảng của giai cấp
công nhân và của dân tộc Việt Nam. Bởi nhiều lẽ: Đảng là con đẻ của hai phong trào: phong trào
công nhân và phong trào yêu nước (chứ không chỉ là con đẻ của phong trào công nhân như ở
những nước tư bản). Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn giương cao ngọn cờ độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, trong đó đặt nhiệm vụ dân tộc lên trên và lên trước, coi
nhiệm vụ dân tộc là tiền đề, điều kiện tiên quyết và là cơ sở để hoàn thành nhiệm vụ giai cấp,
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng động viên sức mạnh
toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, coi cách mạng xã hội chủ nghĩa không chỉ
là nhiệm vụ giai cấp mà còn là nhiệm vụ dân tộc, định hướng cho nhiệm vụ dân tộc, bảo đảm
8


độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc triệt để, đưa dân tộc bỏ qua thời đại dân tộc tư sản, tiến vào
thời đại dân tộc xã hội chủ nghĩa.
Là Đảng của giai cấp công nhân, trước hết Đảng phải hiểu giai cấp công nhân và dựa vào giai
cấp công nhân. Giai cấp công nhân Việt Nam ngày nay đã thay đổi rất nhiều (như trên đã phân
tích), đang phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng, phát triển trong sự phân hóa thường
xuyên - một sự phân hóa tích cực. Đó là sự phân hóa trong cơ cấu ngành nghề kinh tế - kỹ thuật,
phát triển lực lượng sản xuất; trong cơ cấu thành phần kinh tế, xây dựng quan hệ sản xuất phù
hợp với lực lượng sản xuất; trong phân công lao động xã hội
Bản chất giai cấp công nhân của Đảng đã được thể hiện rõ ở trong Điểu lệ Đảng hiện lên
như một bức tranh toàn cảnh về cái đẹp đẽ và cao cả nhất, hiện thân cho tinh thần đấu tranh kiên
cường bất khuất của cha ông ta từ thời kháng chiến, tinh thần ấy vẫn trường tồn tới ngày nay như
bản anh hùng ca mãnh liệt cho chúng ta noi theo.
Câu 3:
Sinh ra và lớn lên tại vùng quê thanh bình và giản dị, tôi được thừa hưởng cuộc sống hòa
bình trong thế kỷ XXI, được chứng kiến sự đổi thay của đất nước, như một bức tranh muôn màu
sắc, tôi được học tập được tu dưỡng, trau dồii kiến thức và được tiếp xúc với nhiều bài học quý

báu từ lời dạy của thầy từ câu nói của cô. Tất cả những bài học ấy luôn đọng trong tâm trí tôi như
trang sách luôn sát cánh bên tôi vậy !
Tôi đặc biệt thích câu nói khi học Lịch sử lớp 12:
“Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân
nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không
chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không phân chia tôn giáo, đảng
phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ
quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc,
thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước.
Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định
về dân tộc ta!
Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm! Kháng chiến thắng lợi muôn năm!”
Câu nói ấy luôn luôn xuất hiện trong tâm chí tôi như một tuyên ngôn cho tôi vậy. khi nhắc tới
cấu nói tôi lại cảm thấy cái gì đó thôi thúc tôi càng phải phấn đấu và rèn luyện nhiều hơn nữa.
Các bạn biết câu nói đó của ai không ?
Lãnh tụ, danh nhân Hồ Chí Minh đấy các bạn ạ. Được viết vào 19/12/1946 Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến.
Đó chỉ là một câu nói trong rất nhiều câu nói mà tôi thích của Người, tất cả những gì thuộc về
người tôi cũng đêu thích và tôn vinh như những ý nghĩa cao cả nhất.
Đã qua hơn 10 năm sống trong thế kỷ XXI nhưng tấm gương Hồ Chí Minh vĩ đại luôn được
mỗi người dân Việt hướng tới.
Sau gần 5 năm triển khai và thực hiện, Cuộc vận động “Học tập và làm theo tư tưởng tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh” đã tạo ảnh hưởng sâu sắc đến nhận thức của cán bộ, đảng viên

9


và người lao động. Thông qua nghiên cứu, học tập các chuyên đề về tư tưởng, tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh về: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, ý thức tiết kiệm và tinh thần tương
thân, tương ái... đã giúp cho toàn bộ cán bộ, đảng viên, học sinh, sinh viên, toàn dân trong tất cả
các đơn vị có những chuyển biến về ý thức tu dưỡng, rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh.
Như vậy chúng ta có thể thấy được sự cần thiết của việc học tập và làm theo tư tưởng tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh có vai trò rất quan trọng trong công cuộc phát triển của đất nước
trên tất cả mọi lĩnh vực. Được thể hiện cụ thể như sau:
Trong thời kỳ đổi mới với bao khó khăn và thử thách từ nhiệm vụ kinh tế - xã hội, an ninh
và quốc phòng. Thực tiễn kinh tế - xã hội và những tình huống chiến lược cũng như những
nhiệm vụ cụ thể nhiều khi chúng ta tỏ ra bế tắc chỉ vì việc học. Bế tắc không phải chúng ta
không chú ý đến việc học tập đối với nền giáo dục quốc dân và đối với bộ máy nhân lực của
Chính phủ chúng ta cũng đã làm được rất nhiều việc.
Nếu không, làm sao chúng ta đứng vững cho đến ngày nay với một nhà nước độc lập tự
chủ, kinh tế phát triển đều đặn, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Vì vậy, xin được
miễn nói những gì là thành tựu. Chỉ xin nói thêm về những thực trạng cần có đổi mới trong việc
học tập cho cán bộ và công chức từ giáo huấn Hồ Chí Minh:
Chưa có chương trình cụ thể để gắn việc học với điều kiện của thực tiễn. Làm cái gì thì
học cái đó trước, cái đó nhiều, cái đó suốt đời. Đưa người đã học vào bộ máy công chức là chính,
lấy người chưa học là phụ (tránh tình trạng hiện nay: sinh viên thất nghiệp, công chức đi học tại
chức!).
Đưa thực tiễn vào tất cả các khâu: phân bổ thời gian; bố trí con người "dạy thực tiễn"
(như dạy sinh viên hành chính là trưởng phó phòng, chủ tịch, phó chủ tịch, dạy tiếp dân...).
Tiếp cận cách thức đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức trong nước với thế giới để tránh
tình trạng bất cập có thể có: một bên là Việt Nam và một bên là thế giới còn lại!
Thiết nghĩ một trong những điều mà giáo huấn Hồ Chí Minh trở thành tư tưởng Hồ Chí
Minh chính là giá trị "đi cùng thời đại" của những giáo huấn đó

1. Đạo đức và vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội
Đạo đức, hiểu theo nghĩa chung nhất, là một hình thái của ý thức xã hội, bao gồm những
nguyên tắc, chuẩn mực và thang bậc giá trị được xã hội thừa nhận
Đạo đức có tác dụng chi phối, điều chỉnh hành vi của mỗi người sao cho phù hợp với lợi ích
của toàn xã hội
Đối với mỗi cá nhân, ý thức và hành vi đạo đức mang tính “bổn phận” diễn ra một cách tự
giác, chủ yếu xuất phát từ nhu cầu tinh thần bên trong. Đạo đức của mỗi cá nhân chịu sự tác
động của dư luận xã hội, cũng như sự tự kiểm tra bởi chính mình
Đạo đức có chức năng điều chỉnh hành vi, chức năng giáo dục và chức năng phản ánh.
Chức năng điều chỉnh hành vi
- Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi. Sự điều chỉnh hành vi làm cá nhân và xã
hội cùng tồn tại và phát triển, bảo đảm quan hệ lợi ích cá nhân và cộng đồng.
Loài người sáng tạo ra nhiều phương thức điều chỉnh hành vi, trong đó có chính trị, pháp
quyền và đạo đức…
- Chính trị điều chỉnh hành vi giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia bằng các biện pháp
đặc trưng như ngoại giao, kinh tế, hành chính, bạo lực…
- Pháp quyền và đạo đức điều chỉnh hành vi trong quan hệ giữa các cá nhân với cộng đồng
bằng các biện pháp đặc trưng là pháp luật và dư luận xã hội, lương tâm. Sự điều chỉnh này, có
thể thuận chiều, có thể ngược chiều.

10


- Điều chỉnh hành vi của đạo đức và pháp quyền khác nhau ở mức độ đòi hỏi và phương thức
điều chỉnh.
Pháp quyền thể hiện ra ở pháp luật, là ý chí của giai cấp thống trị buộc mọi người phải tuân
theo. Những chuẩn mực của pháp luật được thực hiện bằng ngăn cấm và cưỡng bức (quyền lực
công cộng cùng với đội vũ trang đặc biệt, quân đội, cảnh sát, toà án, nhà tù…). Pháp quyền là
đạo đức tối thiểu của mỗi cá nhân sống trong cộng đồng.
Đạo đức đòi hỏi từ tối thiểu đến tối đa đối với các hành vi cá nhân. Phương thức điều chỉnh là

bằng dư luận xã hội và lương tâm. Những chuẩn mực đạo đức bao gồm cả chuẩn mực ngăn cấm
và cả chuẩn mực khuyến khích.
Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức bằng dư luận xã hội và lương tâm đòi hỏi từ tối
thiểu tới tối đa hành vi con người đã trở thành đặc trưng riêng để phân biệt đạo đức với các hình
thái ý thức khác, các hiện tượng xã hội khác và làm thành cái không thể thay thế của đạo đức.
- Mục đích điều chỉnh: bảo đảm sự tồn tại và phát triển xã hội bằng tạo nên quan hệ lợi ích
cộng đồng và cá nhân theo nguyên tắc hài hòa lợi ích cộng đồng và cá nhân (và khi cần phải ưu
tiên lợi ích cộng đồng).
- Đối tượng điều chỉnh: Hành vi cá nhân (trực tiếp) qua đó điều chỉnh quan hệ cá nhân với
cộng đồng (gián tiếp).
- Cách thức điều chỉnh được biểu hiện: Lựa chọn giá trị đạo đức; xác định chương trình của
hành vi bởi lý tưởng đạo đức; xác định phương án cho hành vi bưỏi chuẩn mực đạo đức; tạo nên
động cơ của hành vi bởi niềm tin, lý tưởng, tình cảm của đạo đức, kiểm soát uốn nắn hành vi bởi
dư luận xã hội.
Chức năng điều chỉnh hành vi được thực hiện bởi hai hình thức chủ yếu.
- Xã hội và tập thể tạo dư luận để khen ngợi khuyến khích cái thiện, phê phán mạnh mẽ cái
ác.
- Bản thân chủ thể đạo đức tự giác điều chỉnh hành vi cơ sở những chuẩn mực đạo đức xã hội.
Chức năng giáo dục
Con người vươn lên “chân - thiện - mỹ”. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ
thể của lịch sử. Con người tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con người
đến mức ấy.
Con người sinh ra bắt gặp hệ thống đạo đức của xã hội. Hệ thống ấy tác động đến con người
và con người tác động lại hệ thống. Hệ thống đạo đức do con người tạo ra, nhưng sau khi ra đời
hệ thống đạo đức tồn tại như là cái khách quan hoá tác động, chi phối con người.
Xã hội có giai cấp hình thành và tồn tại nhiều hệ thống đạo đức mà các cá nhân chịu sự tác
động. Ở đây, môi trường đạo đức: tác động đến đạo đức cá nhân bằng nhận thức đạo đức và thực
tiễn đạo đức. Nhận thức đạo đức để chuyển hoá đạo đức xã hội thành ý thức đạo đức cá nhân.
Thực tiễn đạo đức là hiện thực hoá nội dung giáo dục bằng hành vi đạo đức. Các hành vi đạo đức
lặp đi lặp lại trong đời sống xã hội và cá nhân làm cả đạo đức cá nhân và xã hội được củng cố,

phát triển thành thói quen, truyền thống, tập quán đạo đức.
Hiệu quả giáo dục đạo đức phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, cách thức tổ chức, giáo
dục mức độ tự giác của chủ thể và đối tượng giáo dục trong quá trình giáo dục.
- Giáo dục đạo đức gắn với tiến bộ đạo đức:
11


Nhân đạo hóa các quan hệ xã hội và mức độ phổ biến nhân đạo hóa các quan hệ xã hội; sự
hoàn thiện của cấu trúc đạo đức và mức độ phổ biến của nó…sẽ giúp chủ thể lựa chọn, đánh giá
đúng các hiện tượng xã hội, đánh giá đúng tư cách của người khác hay của cộng đồng cũng như
tự đánh giá đúng thông qua mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ, nội dung, phương thức, hình thức và
các bước đi của quá trình giáo dục sẽ giúp mỗi cá nhân và cả cộng đồng tạo ra các hành vi và
thực tiễn đạo đức đúng.
Như vậy, chức năng giáo dục của đạo đức cần được hiểu một mặt “giáo dục lẫn nhau trong
cộng đồng”, giữa cá nhân và cá nhân, giữa cá nhân và cộng đồng;mặt khác, là sự “ tự giáo dục” ở
các cấp độ cá nhân lẫn cấp độ cá nhân lẫn cấp độ cộng đồng.
Chức năng phản ánh
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức có chức năng nhận thức thông qua sự phản
ánh tồn tại xã hội.
Sự phản ánh của đạo đức với hiện thực có đặc điểm riêng khác với các hình thái ý thức khác.
Đạo đức là phương thức đặc biệt của sự chiếm lĩnh thế giới con người. Nếu xét dưới góc độ
bản thể luận, đạo đức là hệ thống tinh thần, được quy định bởi tồn tại xã hội. Nhưng xét dưới góc
độ xã hội học thì hệ thống tinh thần (nhận thức đạo đức) không tách rời thực tiễn – hành động
của con người. Do vậy, đạo đức là hiện tượng xã hội vừa mang tính tinh thần vừa mang tính
hành động hiện thực.
Sự nhận thức của đạo đức có đặc điểm:
- Hành động đạo đức tiếp liền sau nhận thức giá trị đạo đức. Và đa số trường hợp có sự hòa
quyện ý thức đạo đức với hành động đạo đức. (Khác những khoa học và ứng dụng nghiên cứu
thành tựu khoa học có khoảng cách về không gian và thời gian).
- Nhận thức của đạo đức là quá trình vừa hướng ngoại (hướng ra ngoài) và hướng nội (tự

nhận thức – hương vào chính mình, chính chủ thể).
Nhận thức hướng ngoại lấy chuẩn mức, giá trị, đời sống đạo đức của xã hội làm đối tượng.
Đó là hệ thống giá trị thiện và ác, trách nhiệm và nghĩa vụ, hạnh phúc và ý nghĩa cuộc sống…,
những “cách thức và phương tiện” tạo ra các giá trị đạo đức. Nhờ sự nhận thức này mà chủ thể
nhận thức đã chuyển hóa đạo đức của xã hội như là cái chung thành ý thức đạo đức của cá nhân
như là cái riêng.
Nhận thức hướng nội (tự nhận thức), lấy bản thân mình – chủ thể đạo đức – làm đối tượng
nhận thức. Đây là quá trình tự đánh giá, tự thẩm định, tự đối chiếu những nhận thức, hành vi, đạo
đức của mình với những chuẩn mực giá trị chung của cộng đồng. Từ cách nhận thức này mà chủ
thể hình thành phát triển thành các quan điểm và nguyên tắc sống: sáng tạo hay chủ động, hy
sinh hay hưởng thụ, vị tha hay vị kỷ, hướng thiện hay sa vào cái ác…
Trong tự nhận thức, vai trò của dư luận xã hội và lương tâm là to lớn. Dư luận xã hội là sự
bình phẩm, đánh giá từ phía xã hội đối với chủ thể, còn lương tâm là sự phê bình. Cả hai đều
giúp chủ thể tái tạo lại giá trị đạo đức của mình – giá trị mà xã hội mong muốn.
Từ nhận thức giúp chủ thể ý thức được trách nhiệm của mình và sẵn sàng để ho thành trách
nhiệm đó. Trong cuộc sống có vô số những trách nhiệm như vậy. Nó luôn đặt ra trong quan hệ
phong phú giữa chủ thể đạo đức với xã hội, gia đình, bạn bè, đồng chí, đồng đội, tập thể, dân tộc,
gia cấp, tổ quốc.
Nhận thức đạo đức (đạo đức phản ánh hiện thực) ở hai trình độ : trình độ thông thường và
trình độ lý luận.
12


- Nhận thức đạo đức ở trình độ thông thường là ý thức thông thường, những giá trị riêng lẻ.
Nó đáp ứng nhu cầu đạo đức thông thường đủ để chủ thể xử lý kịp thời trong cuộc sống và sự
phát triển bình thường của xã hội. Mọi cá nhân đều có thể và cần phải ảnh ánh đạo đức ở trình độ
này.
- Nhận thức đạo đức ở trình độ lý luận là những nhận thức có tính nguyên tắc được chỉ đạo bởi
những giá trị đạo đức có tính tổng quát. Trình độ này đáng ứng những đòi hỏi của sự phát triển
đạo đức và tiến bộ xã hội. Đây là yếu tố không thể thiếu được trong hệ tư tưởng và hành vi của

các gia cấp cầm quyền.
- Nhận thức đạo đức đưa lại tri thức đạo đức, ý thức đạo đức. Các cá nhân, nhờ tri thức đạo
đức, ý thức đạo đức xã hội đã nhận thức (trở thành đạo đức cá nhân). Cá nhân hiểu và tin ở các
chuẩn mực, lý tưởng giá trị đạo đức xã hội trở thành cơ sở để cá nhân điều chỉnh hành vi, thực
hiện đạo đức (hiện thực hóa đạo đức).
2. Về sự suy thoái đạo đức, lỗi sống trong xã hội hiện nay
Quan 20 năm đỗi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tự to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Việc thực hiện dân chủ trong Đảng và trong xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân có tiến
bộ… Đa số cán bộ, đảng viên phát huy được vai trò tiên phong, gương mẫu năng động, sáng tạo
trong công tác, rèn luyện phẩm chất, năng lực, đóng vai trò nòng cốt trong công cuộc đổi mới
Trong đảng và trong xã hội ta hiện nay xuất hiện tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống. Đó
là nguy cơ lớn liên quan tới sự sống còn của Đảng của chế độ.
Sự suy thoái về đạo đức,lối sống được biểu hiện ở các dạng chủ yếu sau đây:
Thứ nhất là: chủ nghĩa cá nhân, lối sống vị kỷ, vụ lợi, buông thả hưởng thụ, thiếu lý tưởng,
thiếu ý chí phấn đấu xuất hiện trong tất cá các tầng lớp xã hội.
Thứ hai là: tệ tham nhũng, hối lộ, bòn rút của công, lãng phí diễn ra ở nhiều ngành nhiều lĩnh
vực đang trở thành “quốc nạn” gây bức xúc cho nhân dân
Thứ ba là: hành động cơ hội “chạy chọt” vì lợi ích cá nhân khá phổ biến
Thứ tư là: lời nói không đi đôi với việc làm, nói và làm trái với nghị quyết của Đảng, nói
nhiểu làm ít; phát ngôn tủy tiện, vô nguyên tắc
Thứ năm là: tệ quan liêu, xa dân, lãnh đạo vô cảm trước những khó khăn bức xúc và yêu cầu,
đòi hỏi chính đáng của nhân dân
Thứ sáu là : tình trạng suy thoái về đạo đức trong quan hệ gia đình với quan hệ giữa cá nhân
và xã hội, như gia trưởng vũ phu bất hiếu
Thứ bảy là: đạo đức nghề nghiệp sa sút ngay cả trong lĩnh vực được xã hội tôn vinh, hiện
tượng mê tín dị đoan có chiều hướng lan rộng ảnh hưởng xấu tới thuần phong mĩ tục và trật tự an
toàn xã hôi.
Nguyên nhân của tình trạng trên có cả khách quan và chủ quan
Về khách quan: trước hết do tác động tiêu cực của cơ chế kinh tế thị trường đặc biệt là khả
năng kích thích lối sống thực dụng của cơ chế này. Sự tác động của đạo đưc, lối sống tư sản

hưởng thụ phương tây vào nước ta trong điều kiện toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và
bùng nổ mạng thông tin toàn cầu. các thế lực thù địch phản động đã chủ động khuyến khích lối
sốn ích kỷ, hưởng thụ, thực dụng trong cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo và gia đình họ coi đó
là một trong những biện pháp thực hiện “ diễn biến hòa bình”:
Về nguyên nhân chủ quan: do chúng ta chưa nhận thực đầy đủ sâu sắc vai trò nền tảng của
đạo đức trong ổn định, phát triển xã hội và tác động của cơ chế kinh tế thị trường tới đạo đức xã
hội trên thực tế chúng ta chưa coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống; thiếu sự tổ chứ, phối hợp cảu
các ngành các cấp. một bộ phận cán bộ lãnh đạo, đảng viên và gia đình chưa nêu gương về đạo
đức và lối sống
Tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống nêu trên đã có tác động lớn đến sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ tổ quốc hiện nay. Nó đang làm thay đổi lệch lạc những chuẩn mực thang bậc giá trị
truyền thống giá trị tốt đẹp của dân tộc và cách mạng, có tác hại tới sự trường tồn của dân tộc và
sự phát triển của đất nước, sự suy thoái về đạo đức của một số bộ phận cán bộ, đảng viên làm
cho nhân dân lo lắng, bất bình, ảnh hưởng xấu tới uy tín và vai trò lãnh đạo cuả tổ chức đảng,
13


đến việc tổ chức thực hiện đường lối chủ trương của đảng, chính sách pháp luật của nhà nước
thực trạng đó tiềm ẩn nhiều nguy cơ, cùng với các nguy cơ khác dẫn tới bất ổn định chính trị xã
hội, liên quan đến “sự sống còn của đảng, của chế độ”
Để năng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng ngăn chặn và đẩy lùi suy thoái về tư tưởng,
chính trị, đạo đức, lối sống, trong đảng và trong xã hội, hội nghị trung ương III khóa X của đảng
đã ban hành nghị quyết “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh chống tham
nhũng, lãng phí” Ngày 7/11/2006 Bộ Chính Trị Ban Chấp hành TW Đảng ra chỉ thị số 06CT/TW về tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong
toàn đảng và xã hội. thực hiện tốt cuộc vận động này sẽ góp phấn quan trọng vào cuộc đấu tranh
và đẩy lùi suy thoái về đạo đức, lối sống trong đảng và trong xã hội
 Sự cần thiết phải học tập, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, lối sống theo tấm gương Chủ
tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
- Hiện nay đất nước đang trên đà đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, thực hiện công nghiệp
hóa – hiện đại hóa trên tất cả các mặt trận, tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế phát

triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì việc học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của người ngày càng trở nên quan trọng hơn bao giờ
hết, đóng vai trò chủ đạo trong suy nghĩ và hành động của các cấp lãnh đạo và toàn dân.
- Như chúng ta đã biết, lúc sinh thời Bác Hồ của chúng ta đã khẳng định: Đạo đức là
gốc của cách mạng. Bác coi đạo đức của con người như gốc của cây, như nguồn của sông. Người
luôn nhấn mạnh vai trò quan trọng và tích cực của đạo đức trong đời sống xã hội. Bởi vậy, học
tập, rèn luyện tu dưỡng đạo đức, lối sống theo tấm gương Bác Hồ trong giai đoạn hiện nay là
điều rất cần thiết và quan trọng.
- Là một cán bộ viên chức, bản thân nhận thức được rằng việc học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh và thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu là một
trách nhiệm đối với bản thân để từng bước hoàn thiện mình. Trong cuộc sống đời tư cũng như
trong công việc, bản thân luôn xác định rằng: “Việc gì có lợi dù nhỏ cũng làm, việc gì có hại dù
nhỏ cũng tránh” và tuyệt đối tránh lãng phí cả về tiền bạc và thời gian, luôn phát huy ý thức bảo
vệ của công, gần gũi, sâu sát với quần chúng nhân dân, lấy tiêu chuẩn người cán bộ cách mạng
để làm mục tiêu phấn đấu.
 Những phẩm chất đạo đức cách mạng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh mà cán bộ,
đảng viên, công chức phải thường xuyên học tập và noi theo:
+ Những phẩm chất đạo đức cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
- Trung với nước hiếu với dân là phải gắn bó với dân, gần dân, dựa vào dân, lấy dân làm
gốc, phải “tuyệt đối trung thành với Đảng với nhân dân”.
- Tinh thần dân chủ, tôn trọng tập thể, tôn trọng quần chúng nhân dân, luôn luôn quan
tâm đến mọi người, gắn bó với nhân dân. Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình là giúp
cho mỗi người ngày càng tiến bộ tốt đẹp hơn, phải thực hiện phê bình, tự phê bình chân thành,
giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm.
- Cần kiệm là phẩm chất của mọi người lao động trong đời sống, trong công tác: biết lao
động cần cù, siêng năng và biết tiết kiệm sức lao động, thì giờ, tiền của nhân dân của đất nước và
của bản thân.
- Liêm chính là phẩm chất của người cán bộ khi thi hành công vụ phải ngay thẳng,
không tà, trong sạch, “luôn chí công vô tư” là rất mực công bằng, không có lòng riêng, thiên tư,
thiên vị. Đem lòng chí công vô tư đối với người, đối với việc.

+ Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh:
- Trọn đời phấn đấu, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người và nhân loại.
- Kiên định mục đích lý tưởng, bảo vệ chân lý, giữ vững quan điểm, khí phách vượt qua
khó khăn thử thách.
14


- Kính trọng nhân dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, dựa vào dân, lấy dân làm
gốc, nguyện làm “người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
- Nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu, hết mực vì con người, “dành tình thương yêu
cho tất cả, chia sẻ với mỗi người nỗi đau”.
- Coi khinh sự sa hoa, sống thật sự cần kiệm giản dị, sống trong sạch, không gợn chút
riêng tư.
Đó chỉ là vấn đề lý thuyết còn thực tế thì sao? Gần 5 năm thực hiện cuộc vấn động nước ta đã
đạt được những thành tựu gì, các cơ chế về đạo đức có được thay đổi các tình trạng quan tham
ô liệu có còn, đó là những cấu hỏi mà khồn chỉ riêng tôi đưa ra mà nó là tình trạng chung của
tất cả chúng ta
Bấy lâu nay chúng ta chỉ thấy được trên lý thuyết còn phần thực hiện hay không thực sự rất
khó, đòi hỏi mỗi địa phương có cái nhìn khái quát và toàn diện nhất chứ nhất định khổng thể
nhìn nhận bằng những con số trên giấy tờ mà thực tiễn không phản ánh đúng.
Là người dân Việt, là những đảng viên trẻ tương lai chúng ta hãy cần có sự gắn kết giữa lý
luận và thực tiễn sao cho phù hợp học tập theo bác như một chuẩn mực một tiền đề cho chúng ta
tiến bước đi lên, phấn đấu nỗ lực vì sự phát triển bền vững của đất nước, hãy tạm gác lại lợi ích
cá nhân, hãy bỏ qua những xiềng xích bấy lâu mà vì tổ quốc, vì lợi ích của nhân dân mà phục
vụ. hãy thể hiện hành động trước tiên, các nhà lãnh đạo hãy thể hiện bằng tất cả những gì mà họ
có đi, đừng lời nói rồi bắt người khác phải làm, đừng chỉ là chuyến thăm quan đơn giản mà làm
tốn kém bao nhiêu của cải của địa phương, hãy bỏ qua bớt thủ tục để có sự đơn giản, sự thân
thiết giữa “quan” và “dân” hãy thể hiện mình là người bình dị và mến khách.
Liên hệ:

Tôi hiện là sinh viên năm thứ 3 chuyên ngành Giáo dục học – Học Viện Quản Lý Giáo Dục
bản thân tôi cũng rất tích cực tham gia vào các hoạt động của trường đặc biệt là lĩnh vực tình
nguyện. trong quá trình học tập tại trường, Bên phòng công tác – chính trị luôn phát động các
cuộc thi liên quan tới Người, về tư tưởng tấm gương và đạo đức Hồ Chí Mình.
Đặc biệt là cuộc thi văn nghệ “ Tiếng hát toàn Học viện với nội dung về Tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh năm 2009 thu hút được hấu hết tất cả sinh viên toàn trường tham gia
Là một trường mới được thành lập lên các phong trào đưa ra chưa được toàn diện nhưng đã
thu hút được số đông tham gia, các chủ đề luôn được đưa ra về ca ngợi Đảng, Bác Hồ kính yêu
Các cuộc thi không chỉ liên quan tới phòng chính trị dưới sự chỉ đạo của Chi Bộ Đảng nhà
trường, còn có sự tham gia tích cực của Đoàn thanh niên Học Viện với các cuộc thi với chủ đề
học tấp và làm theo tấm gương đạo đức của Người, gắn kết trong phong trào toàn diện về văn
hóa văn nghệ thể dục thể thao
Gắn kết trong phòng trào học tập, chống tiêu cực trong thi cử, thi đua học tập tốt theo gương
Bác
Bản thân là bí thư lớp tôi cũng thường xuyên đưa ra những buổi thảo luận ở tại lớp về Tấm
gương đạo đức hồ chí mình, đặc biệt là cuộc thi kể chuyện về Bác đã được tất cả thành viên
trong chi đoàn tham gia, qua các bài hùng biện về Người chúng tôi càng hiểu thêm về Bác về
công lao to lớn, về tư tưởng bất hủ của Người và với nguyện vọng là thế hệ đi sau chúng tôi sẽ
cố gắng phát huy tất cả những sở trưởng thế mạnh của mình sao cho hợp với chuẩn mực của đạo
đức của tư tưởng của người đã để lại. Tất cả thành viên trong lớp đều học tập đạt kết quả cáo
100% học lực Khá trở lên và cố gắng phấn đấu để trở thành những Đoàn viên tốt để đạt được vào
chỉ tiêu học cảm tình Đảng của trường…
Thực hiện đường lối tiết kiệm trong các cuộc thi, các hoạt động, đưa sinh viên tham quan
Lăng Chủ Tich để hiểu thêm về lãnh tụ của đất nước….
Từ khi Đảng phát động phong trào “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” toàn
thể sinh viên Học Viện luôn có ý thức phấn đấu trong công tác học tập, tu dưỡng và rèn luyện
bản thân, và đã đạt được nhiều thành tích cao trong công tác của trường, lớp. luôn lấy tư tưởng
của người làm ánh sáng soi đường cho chúng ta, tiến bước đi lên như hành trang để tiến tới thành
công.
15



Để thay cho lời kết của mình tôi xin đưa ra hai câu nói bất hủ của Người:
« Nước Việt Nam là một. Dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng
chân lý ấy không bao giờ thay đổi.”
“Cô giáo, thầy giáo trong chế độ ta cần phải góp phần vào công cuộc xây dựng XHCN. Phải
có chí khí cao thượng, phải "tiên ưu, hậu lạc", nghĩa là khó khăn thì chịu trước thiên hạ, sung
sướng thì hưởng sau thiên hạ. Người thầy giáo tốt, thầy giáo xứng đáng là thầy giáo, là người vẻ
vang nhất. Dù tên tuổi không đăng lên báo, không được thưởng huân chương, song những người
thầy tốt là những anh hùng vô danh....”
Tôi, bạn và bạn nữa…cùng chung tay góp sức vì một Việt Nam bừng sáng trên trường quốc tế,
cùng học tập thi đua, nỗ lực tất cả, chúng ta có đầy đủ điều kiện để đi lên, chúng ta phải hứa với
lòng mình là sẽ thành công. Cùng đoàn kết gắn bó, hợp sức vì ở đó ta mới thấy mình tự tin hơn,
vững vàng hơn
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”
Câu hỏi 4 . Từ khi ra đời đến nay, Đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đã lãnh đạo
nhân dân giành được những thắng lợi nào? Khái quát những thắng lợi vĩ đại hơn 80 năm
qua.
Trả lời:
Đảng cộng sản Việt Nam do chủ tịch Hồ Chí Minh (HCM) sáng lập, lãnh đạo và rèn
luyện. Hơn tám thập kỷ qua, dưới sự lãnh dạo của Đảng, nhân dân ta đã tiến hành Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 thành công, xóa bỏ hoàn toàn chế độ thực dân phong kiến, lập nên nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), đánh thắng các
cuộc chiến tranh xâm lược, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến
hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt nam đã giành được những thắng lợi rất vẻ
vang, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hộ, mở ra thời đại mới, thời đại Hồ
Chí Minh.
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, là lịch sử đấu tranh kiên cường, bất khuất và những

obài học kinh nghiệm quý báu như Chủ tịch Hồ Chí Minh: Là cả một pho lịch sử bằng vàng.
Kho tàng lịch sử quý giá đó không chỉ gồm những sự kiện lịch sử oanh liệt, hào hùng của Đảng
và dân tộc mà còn có ý nghĩa lớn lao là những kinh ngiệm, những bài học lịch sử, những vấn đề
lý luận cách mạng Việt Nam được tổng kết từ hiện thực lịch sử với những sự kiện oanh liệt hào
hùng đó.
Cách đây tròn 82 năm đã diễn ra một sự kiện trọng đại đối với đời sống và vận mệnh của
dân tộc Việt Nam. Đó là Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam đã họp từ ngày 3 đến
ngày 7-2-1930 ở bán đảo Cửu Long, Hương Cảng (Trung Quốc). Kể từ thời điểm lịch sử này,
Đông Dương Cộng sản Đảng (17-6-1929), An Nam Cộng sản Đảng (11-1929) và Đông Dương
Cộng sản Liên đoàn (1-1-1930) hợp nhất thành một Đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lênin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam. Chủ nghĩa Mác – Lênin không
chỉ là hệ tư tưởng lý luận của giai cấp công nhân, phong trào công nhân mà còn là vũ khí giải
phóng giai cấp công nhân, giải phóng dân tộc, giải phóng toàn xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nêu rõ: “Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng
16


Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách
mạng”.
Như lịch sử đã thể hiện, trong suốt nhiều thập kỷ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, các
phong trào đấu tranh yêu nước và cách mạng Việt Nam, tuy nổ ra liên tiếp và theo nhiều khuynh
hướng tư tưởng, con đường khác nhau, nhưng đều thất bại. Nguyên nhân chung là do tư tưởng
dẫn đường của các phong trào đó và những con đường giải phóng dân tộc, phát triển đất nước do
các phong trào đó vạch ra không còn phù hợp với nhu cầu và xu thế vận động của thế giới trong
thời đại mới. Cuộc khủng hoảng về đường lối và sự bế tắc về con đường cách mạng đã được giải
quyết với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương làm cách mạng vô sản, gắn cách
mạng giải phóng dân tộc với cách mạng xã hội chủ nghĩa; gắn mục tiêu độc lập dân tộc với mục
tiêu chủ nghĩa xã hội; gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới mà đội tiên phong là

Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga vĩ đại. Sự lựa chọn con đường cách mạng đó là sự
lựa chọn của chính lịch sử, đáp ứng nguyện vọng và lợi ích của đông đảo nhân dân Việt Nam.
Nhờ vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác.
Trong hơn 80 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng đã lãnh đạo nhân dân giành được
những thắng lợi vĩ đại:
Một là, Đảng lãnh đạo và tổ chức các cuộc đấu tranh cách mạng, khởi nghĩa giành
chính quyền – Các mạng Tháng tám 1945.
Ngay khi vừa mới ra đời, với đường lối csach mạng đúng đăn, Đảng ta đã quy tụ, đoàn
kết chung quanh mình tất cả các giai cấp, các tầng lớp yêu nước, xây dựng nên lực lượng cách
mạng to lớn và rộng khắp đấu tranh thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai vì sự nghiệp giải
phóng dân tộc.
Qua 15 năm đầu tiên lãnh đạo cách mạng (1930 – 1945), trải qua các cuộc đấu tranh gian
khổ, với ba cao trào cách mạng lớn (1930 -1931, 1936 – 1939, 1939 – 1945), khi thời cơ đến,
Đảng đã lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công. Nhân dân Việt Nam
đã đập tan xiềng xích nô lệ của chế độ thực dân và lật nhào chế độ phong kiến tay sai thối nát.
Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn độc
lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lập nên Nhà nước của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân. Dân tộc ta bước sang kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập, tự do, dân chủ nhân
dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Đánh giá ý nghĩa lịch sử của sự kiện này, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Chẳng những giai
cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị
áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng dân
tộc thuộc điac và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã
nắm chính quyền toàn quốc”.
Hai là, Đảng lãnh đạo nhân dân đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng và tiến
hành thắng lợi các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945 –
1975).
a) Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng (1945-1946):
Ngay khi vừa mới ra đời, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã phải đối mặt với ba thứ

giặc: Giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Nạn đói hoành hành đầu năm 1945 đã làm chết hơn
hai triệu người ở Miền Bắc; trên 95% dân Việt Nam mù chữ, ở Miền Bắc, hơn 20 vạn quân
Tưởng đã vào với mưu đồ “diệt cộng, cầm Hồ”.
17


Ở miền Nam, hơn 15 vạn quân Pháp, với sự giúp đỡ của liên quân Anh - Ấn lăm le xâm
lược nước ta. Trong khi đó, lực lượng mọi mặt của nhà nước ta còn rất non yếu: vận mệnh của
đất nước như “Ngàn cân treo sợi tóc”. Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời
đề ra những chủ trương và quyết sách đúng đắn, toàn diện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế,
xã hội, an ninh quốc phòng.
Đối với các thế lực thù địch, chúng ta đã thực hiện sách lược mềm dẻo, lợi dụng mâu
thuẫn, phân hóa chúng, dành thời gian củng cố lực lượng, chuẩn, bị kháng chiến. Với đường lối
chính trị sáng suốt, vừa cứng rắn về nguyên tắc, vừa mềm dẻo về sách lược, Đảng ta đã động
viên được sức mạnh đoàn kết toàn dân, triệu người như một, vượt qua muôn vàn khó khăn, nguy
hiểm, củng cố, giữ vững chính quyền, đưa cách mạng vượt qua tình thế hiểm nghèo, chuẩn bị
mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp.
b) Đảng lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (19461954):
Bất chấp mong muốn độc lập và hoà bình của Chính phủ và nhân dân ta, thực dân Pháp
không từ bỏ dã tâm cướp nước ta lần nữa. Chúng ta đã nhân nhượng, nhưng càng nhân nhượng,
thực dân Pháp càng lấn tới.
Lịch sử đã đặt dân tộc ta trước một thử thách gay go mới, phải đứng lên bảo vệ nền độc
lập của dân tộc. Đêm 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đã quyết
tâm “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính,
vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, Đảng đã lãnh đạo nhân đân ta vượt qua mọi khó khăn, giành
thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện
Biên Phủ.
Đánh giá ý nghĩa thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí

Minh chỉ rõ: “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước
thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là
một thắng lợi của các lực lượng hòa bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới”.
Thắng lợi đó làm sáng tỏ một chân lý: “Trong điều kiện thế giới ngày nay, một dân tộc
dù là nhỏ yếu, nhưng một khi đã đoàn kết đứng lên kiên quyết đấu tranh dưới sự lãnh đạo của
chính đảng Mác-Lênin để giành độc lập và dân chủ, thì có đầy đủ lực lượng để chiến thắng mọi
kẻ thù xâm lược. Thắng lợi đó cũng chứng tỏ rằng chỉ có sự lãnh đạo đúng đắn của giai cấp
công nhân mà Đảng ta là đại biểu, chỉ có đường lối cách mạng khoa học của chủ nghĩa MácLênin mới có thể tạo điều kiện cho nhân dân đánh bại quân thù và giành tự do, độc lập”.
c) Đảng lãnh đạo nhân dân ta tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược (1954 - 1975):
- Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn cứ
địa vững mạnh của cách mạng cả nước.
- Tiến hành cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân ở miền Nam, chống đế quốc Mỹ và tay
sai, giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà.
Tuy mỗi miền thực hiện một chiến lược khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, trong đó cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với toàn
bộ sự phát triển cách mạng Việt Nam. Cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân ở miền Nam giữ vị
trí quan trọng có tác dụng trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước ta tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”; “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho
ngụy nhào”. Trong cuộc đọ sức quyết liệt này, đế quốc Mỹ đã huy động và sử dụng một lực
lượng quân sự và phương tiện chiến tranh khổng lồ hòng tiêu diệt lực lượng cách mạng nước ta.
18


Trải qua 21 năm chiến đấu kiên cường, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vượt qua mọi
khó khăn, gian khổ hy sinh, được sự đồng tình ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới, đã
lần lượt đánh thắng các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ ở miền Nam và chiến tranh phá
hoại bằng không quân, hải quân ở miền Bắc. Bằng cuộc Tổng tiến công và nội dậy Mùa Xuân
năm 1975 và thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đưa cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã

hội.
Đánh giá tầm vóc vĩ đại và ý nghĩa lớn lao của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước,
Nghị quyết Đại hội IV của Đảng viết: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta
trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như
một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa
anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại
của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.
Thắng lợi oanh liệt Mùa xuân năm 1975 đã kết thúc vẻ vang 30 năm chiến tranh giải
phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc; chấm dứt ách thống trị tàn bạo hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực
dân cũ và mới trên đất nước ta, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ trong cả nước; bảo vệ
thành quả của chủ nghĩa xã hội ở miên Bắc, mở ra thời kỳ mới - thời kỳ độc lập, thống nhất đi
lên chủ nghĩa xã hội trêm phạm vi cả nước.
Ba là, Đảng lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa (Từ năm 1975 đến nay)
Bước vào thời kỳ cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cách mạng Việt Nam có những
thuận lợi song cũng không ít khó khăn, mà khó khăn lớn nhất là nền kinh tế nước ta chủ yếu là
sản xuất nhỏ, năng suất lao động thấp, hậu quả chiến tranh để lại nặng nề. Trong khi đó, chủ
nghĩa đế quốc và bọn phản động luôn tìm mọi cách phá hoại, bao vây, cấm vận gây khó khăn
cho cách mạng Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong 10 năm(1975-1985), Việt Nam đã vượt qua những khó
khăn trở ngại, thu được những thành tựu quan trọng. Trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá xã hội
nhân dân ta đã có những cố gắng to lớn trong công cuộc khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương
chiến tranh, bước đầu bình ổn sản xuất và đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, những thành tựu kinh tế-xã hội đạt được còn thấp so
với yêu cầu kế hoạch và công sức bỏ ra; nền kinh tế có mặt mất cân đối nghiêm trọng, tỷ lệ lạm
phát cao quá mức, đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986) của Đảng đã nghiêm khắc kiểm điểm sự lãnh đạo của mình,
khẳng định những mặt làm được, phân tích rõ những sai lầm, khuyết điểm, đặc biệt là khuyết
điểm chủ quan, duy ý chí trong lãnh đạo kinh tế, đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước

ngoặt trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên CNH, Chiến lược ổn định và phát triển KT - XH đến năm 2000 và
Nhiệm vụ KT - XH 5 năm 1991-1995. Đại hội đưa ra quan niệm tổng quát nhất về xã hội chủ
nghĩa ở Việt nam, phương hướng cơ bản để xây dựng xã hội đó, khẳng định chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng; khẳng
định phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, đất nước ta đã vượt qua một giai đoạn thử thách
19


gay go. Đại hội VIII của Đảng (22-6 đến 1-7-1996) đã nhận định: “Công cuộc đổi mới trong 10
năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nhiệm vụ do Đại hội
VII đề ra cho 5 năm 1991-1995 đã được hoàn thành cơ bản.
Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng KT-XH, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc.
Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho CNH
đã cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời mới đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn”
Đại hội đã khẳng định: “Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa
xã hội” và đề ra nhiệm vụ KT-XH từ năm 1996 đến 2000, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã
vượt qua những khó khăn, thách thức, đạt được những thành tựu quan trọng. Trên cơ sở tổng kết
cách mạng Việt nam trong thế kỷ XX, tổng kết 15 năm đổi mới, Đại hội đã khẳng định: Thực
tiễn phong phú và những thành tựu thu được qua 15 năm đổi mới đã chứng minh tính đúng đắn
của Đảng, đồng thời giúp chúng ta nhận thức càng rõ hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.
Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường XHCN trên
nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đại hội ban hành chiến lược phát triển
KT – XH 10 năm 2001 – 2010, đề ra mục tiêu sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển,

tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Trên cơ sở tổng kết 20 năm đổi mới, 5 năm thực hiện chiến lược phát triển KT – XH
2001 – 2010, Đại hội X đã bổ sung, phát triển nhiều vấn đề lý luận về CNXH và con đường đi
lên CNXH ở Việt Nam, đặt ra nhiệm vụ tổng kết 20 năm thực hiện cương lĩnh năm 1991, 10 năm
thực hiện chiến lược 2001 – 2010.
Đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội X (2001-2005), Đảng ta đã khẳng định:
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã đạt những thành tựu rất quan trọng như: nền kinh tế đã
vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao và phát triển tương đối toàn diện; văn
hóa và xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt; việc gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã
hội có chuyển biến tốt; đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện. Giáo dục và đào tạo, khoa
học – công nghệ có bước phát triển khá; công tác xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm thu
được nhiều kết quả; công tác chăm sóc sức khỏe nhân đân đạt kết quả tốt.
Đã khống chế và đẩy lùi được một số bệnh dịch nguy hiểm; tuổi thọ trung bình của người
Việt Nam tăng; chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng và an ninh được tăng cường; quan hệ đối
ngoại có bước phát triển mới; việc xây dựng Nhà nước PQ XHCN có tiến bộ trên cả ba lĩnh vực
lập pháp, hành pháp và tư pháp; sức mạnh khối ĐĐK toàn dân tộc được phát huy; công tác xây
dựng Đảng đạt một số kết quả tích cực.
Đại hội cũng chỉ ra những khuyết điểm và yếu kém; đồng thời đã phân tích và chỉ ra
nguyên nhân cần sớm được khắc phục.
Đại hội XI của Đảng đã tiến hành tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, 10
năm thực hiện chiến lược phát triển KT – XH 2001 – 2010 và nhiệm vụ phát triển KT – XH năm
năm 2006 – 2010.
Đại hội khẳng định, nhìn tổng quát, 5 năm qua, trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong
nước có rất nhiều khó khăn, thách thức, nhất là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính,
suy thoái kinh tế toàn cầu, toàn Đảng, toàn dân ta đã nỗ lực phấn đấu đạt được những thành tựu
quan trọng; ứng phó có kết quả với những diễn biến phức tạp của kinh tế thế giới và trong nước;
cơ bản giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, các ngành
đều có bước phát triển, quy mô nền kinh tế tăng lên; đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện;
chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; độc lập, chủ quyền, thống nhất,
20



toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế được mở rộng, vị thế, uy
tín quốc tế của nước ta được nâng cao; phát huy dân chủ có tiến bộ, khối đại đoàn kết toàn dân
tộc tiếp tục được củng cố; công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị đạt một số kết quả tích
cực.
Tóm lại, từ năm 1930 đến nay, ĐCSVN do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện,
đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn
vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại: Thắng lợi của Cách mạng Tháng
Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi của các cuộc kháng chiến
chống xâm lược, mà đỉnh cao là chiến thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống
nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế; thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến
hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ
lên chủ nghĩa xã hội với nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam.
Câu 5. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền
hạn của Đảng viên như thế nào?
Trả lời:
Điều lệ Đảng quy định tiêu chuẩn nhiệm vụ và quyền hạn của người Đảng viên như sau:
a. Về nhiệm vụ của Đảng viên:
- Nhiệm vụ Đảng viên được quy định trong điều 2, điều lệ Đảng, gồm 4 điểm sau:
“1. Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm
chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của nhà nước;
hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của
Đảng.
2. Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm
chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ
hội, cục bộ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác.
3. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân;
chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân; tích cực tham

gia công tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình
và nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng , pháp luật của nhà nước.
4. Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng; phục tùng kỷ
luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực
với Đảng; làm công tác phát triển Đảng viên; sinh hoạt Đảng và đóng Đảng phí đúng quy định.
Thực hiện các nhiệm vụ trên, mỗi Đảng viên cần nắm vững nội dung cơ bản sau:
Một là, kiên định với những vấn đề về quan điểm có tính nguyên tắc của Đảng:- Độc lập
dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa Xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng ta, dân tộc ta.- Chủ nghĩa
Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng cho kim chỉ nam cho mọi hành
động của Đảng.- Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam; không
chấp nhận đa nguyên, đa đảng.- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước
của dân, do dân và vì dân, thể hiện khối đại đoàn kết toàn dân trên nền tảng liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng.- Tập trung dân
chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng.- Kết hợp chủ nghĩa
yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân.
Hai là, mỗi Đảng viên phải hiểu rõ cơ hội lớn để đất nước phát triển nhanh, sớm đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước
21


công nghiệp theo hướng hiện đại để vận dụng vào nhiệm vụ của mình. Đồng thời, phải nhận thức
sâu sắc thách thức lớn, các nguy cơ đang đe doạ sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta để tự giác
góp phần đẩy lùi, từng bước khắc phục.Mỗi Đảng viên phải ra sức rèn luyện phẩm chất đạo đức
cách mạng, nêu gương cần, kiệm, liêm, chính, trí công, vô tư; đồng thời kiên quyết đấu tranh
chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu trong cơ quan của Đảng, nhà nước và các tiêu cực, tệ nạn
trong xã hội; cảnh giác và kiên quyết chống mọi âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hoà bình”, gây
bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, trước hết là trong phạm vi chức trách, nhiệm vụ cụ thể
của mỗi người.
Ba là, đất nước ta đã chuyển sang thời kì phát triển mới với nhiệm vụ trung tâm là xây
dựng phát triển kinh tế, đòi hỏi Đảng viên phải nâng cao trình độ kiến thức và năng lực công tác,

phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, thực hiện vai trò tiên phong, gương mẫu.Vì vậy, nhiệm
vụ học tập càng trở nên đặc biệt quan trọng. Học tập là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi Đảng viên.
Có nhiều hình thức và phương pháp học tập để nâng cao trình độ lý luận chính trị, kiến thức và
năng lực hoạt động thực tiễn. Tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh cụ thể mà tổ chức Đảng và mỗi
Đảng viên phải có kế hoạch, chế độ học tập phù hợp.
Bốn là, có mối quan hệ mật thiết với quần chúng. Cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng nhân dân. Nhân dân lao động cần có Đảng với tư cách là người lãnh đạo, lãnh tụ chính trị
bảo đảm cho cuộc đấu tranh của nhân dân dành thắng lợi. và ngược lại, Đảng cần được nhân dân
ủng hộ, tích cực thực hiện đường lối, chính sách của Đảng.Trong điều kiện Đảng cầm quyền,
Đảng dễ quan liêu, xa rời nhân dân. Đây là một nguy cơ lớn đối với sự tồn vong của chế độ xã
hội chủ nghĩa. Mọi Đảng viên phải thường xuyên liên hệ mật thiết với quần chúng, tôn trọng và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân phản ánh
với Đảng, đồng thời tích cực tham gia tuyên truyền vận động nhân dân và gia đình mình thực
hiện đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước.
Năm là, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, bảo vệ đường lối, chủ trương, chính
sách, nghị quyết của Đảng và nhà nước, chống lại sự phá hoại của kẻ thù. Thực hiện nghiêm túc
tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng, bảo đảm sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ, làm
cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh. Tích cực làm công tác phát triển Đảng viên mới.
b. Về quyền của Đảng viên:
Điều 3, Điều lệ Đảng quy định Đảng viên có những quyền sau:
“1. Được thông tin và thảo luận các vấn đề về Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng; biểu quyết công việc của Đảng.
2. Ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng theo quy định của ban
chấp hành trung ương.
3. Phê bình, chất vấn về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọt cấp trong phạm
vi tổ chức; báo cáo, kiến nghị với các cơ quan có trách nhiệm và yêu cầu được trả lời.
4. Trình bày ý kiến khi tổ chức Đảng nhận xét, quyết định công tác hoặc thi hành kỷ luật
đối với mình.
Đảng viên dự bị có các quyền trên đây, trừ quyền biểu quyết, ứng cử và bầu cử cơ quan
lãnh đạo của Đảng”.

Các quyền của Đảng viên nêu trong điều lệ Đảng nhằm bảo đảm cho Đảng viên thực hiện
đầy đủ quyền làm chủ về mặt chính trị tổ chức và sinh hoạt Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: “Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hoá
ra quyền tự do phục tùng chân lý”. Những quy định về quyền của Đảng viên tạo điều kiện cho
Đảng viên và tổ chức Đảng thực hiện đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ.
22


Câu hỏi 3. Anh/chị cần làm gì và phấn đấu như thế nào để trở thành Đảng viên?
Trả lời:
Đối với mỗi cá nhân muốn trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam cần phải tự
mình trả lời những câu hỏi: Tại sao ta vào Đảng ? Vào Đảng để làm gì ? Mục tiêu lý tưởng của
Đảng ta là gì ?.
Lúc sinh thời Bác Hồ đã dạy: “Vì sao chúng ta vào Đảng ? Phải chăng để thăng quan,
phát tài ? Không phải !... Chúng ta vào Đảng là để hết lòng, hết sức phục vụ giai cấp, phục vụ
nhân dân, làm trọn nhiệm vụ của người đảng viên”. Cũng trong Di chúc của mình, Người viết
“... Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo,
là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân...”. Những người muốn vào Đảng phải xây dựng
cho mình được động cơ đúng đắn bởi nó có ý nghĩa quyết định đối với việc phấn đấu trở thành
đảng viên, nó sẽ là động lực lớn thúc đẩy mọi hành động, việc làm của chúng ta sau này. Để trở
thành một đảng viên mỗi chúng ta cần thực hiện tốt những nhiệm vụ cơ bản sau:
Một là, không ngừng rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng. Bản
lĩnh chính trị được thể hiện ở tính kiên định mục tiêu, lý tưởng đã lựa chọn trong bất kỳ tình
huống khó khăn nào cũng không dao động, giảm sút niềm tin và ý chí chiến đấu, trung thành với
lợi ích của Đảng, với lợi ích của nhân dân lao động và của dân tộc, suốt đời tận tâm trung thành
phục vụ cho Tổ quốc, phục vụ nhân dân, thấy sai phải biết phê phán... Trong bất kỳ tình huống
khó khăn nào cũng không dao động giảm sút niềm tin và ý chí chiến đấu. Khí tiết của người cách
mạng là “giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất
phục”. Đây chính là nét nổi bật của người đảng viên.

Hai là, không ngừng nâng cao năng lực, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, thường
xuyên trau dồi đạo đức cách mạng. Là một người đảng viên chân chính, mẫu mực không chỉ
hoàn thành nhiệm vụ mà phải gương mẫu hoàn thành tốt, đảm bảo chất lượng công việc cũng
như đem lại hiệu quả cao. Để làm được điều đó đòi hỏi người đảng viên không chỉ nâng cao về
năng lực mà còn cả năng lực về trí tuệ và năng lực thực tiễn, không ngừng học hỏi trau dồi để đủ
kiến thức đáp ứng yêu cầu của cuộc sống.
Ba là, người đảng viên phải gắn bó với tập thể, với nhân dân, tích cực tham gia hoạt động
đoàn thể cũng như các công tác xã hội. Điều đó được thể hiện ở ngay chính nơi ở, nơi làm việc
cũng như các mối quan hệ với các quần chúng khác, biết lắng nghe, hiểu được tâm tư nguyện
vọng của quần chúng, biết chăm lo đến lợi ích, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Vận động
nhân dân sống và làm việc theo đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Những hoạt động chính là cơ hội tốt giúp cho chúng ta tiến bộ, trưởng thành về chính trị, tạo
dựng sự tín nhiệm của nhân dân tạo đà cho mỗi quần chúng phấn đấu trở thành đảng viên.
Bốn là, tích cực tham gia xây dựng Đảng cơ sở. Để được đứng trong hàng ngũ của Đảng
chúng ta không những tự giác thừa nhận, tôn trọng sự lãnh đạo của Đảng mà còn cần tích cực
tham gia xây dựng Đảng, giúp Đảng phát hiện những quần chúng mất tư cách đạo đức, phát hiện
những đảng viên tha hoá về đạo đức, lối sống, chống tham nhũng trong Đảng.
Năm là, mỗi người chúng ta không ngừng đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp
luật, đi ngược với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, vận động quần chúng nhân dân
sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, tích cực góp phần xây dựng sự nghiệp công
nghiệp hoá - hiện đại hoá, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
23


Động cơ thôi thúc chúng ta phấn đấu vào Đảng là để đứng trong một tổ chức tự nguyện
của những người cùng chung một chí hướng đấu tranh xây dựng một xã hội mới tốt đẹp dân
giàu, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên CNXH. Mỗi người chúng ta
nguyện phấn đấu vào Đảng chính là tự nguyện dấn thân theo lý tưởng cách mạng, chấp nhận hy
sinh, không sợ khó, sợ khổ, quyết tâm theo đuổi đến cùng con đường dẫn đến mục tiêu CNXH.
Mỗi đảng viên phải hiểu rõ cơ hội lớn của công cuộc đổi mới hiện nay, ra sức nắm bắt để vận

dụng vào nhiệm vụ của mình; phải tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, bảo vệ đường
lối, chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng và Nhà nước, chống lại sự phá hoại của kẻ thù.
Thực hiện nghiêm túc tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng, bảo đảm toàn thể thống
nhất trong nội bộ làm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, tích cực làm công tác phát triển
đảng viên mới.
Cái được lớn nhất khi vào Đảng là có cơ hội được phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân
trong cuộc đấu tranh cho thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.
Động cơ vào Đảng đúng đắn là điều kiện có ý nghĩa tiên quyết quyết định. Bởi, chỉ có
động cơ đúng đắn mới có thể đáp ứng được những yêu cầu của Đảng và Đảng cũng chỉ kết nạp
những người giác ngộ về mục đích, lý tưởng cách mạng, quyết không thu nhận vào hàng ngũ
mình những người có động cơ thiếu trong sáng, lệch lạc, càng không để cho các phần tử cơ hội
lọt vào Đảng. Để có động cơ vào Đảng đúng đắn chúng ta ta cần hiểu sâu sắc bản chất, mục đích
của Đảng bằng chính việc làm hàng ngày của mình, đặt lợi ích tập thể lên trên lợi ích cá nhân
góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu, nhiệm vụ do Đảng đề ra, thường xuyên trau dồi đạo
đức cách mạng, đấu tranh khắc phục mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, kiêu căng, thực dụng,
vụ lợi, xa lạ với bản chất của người chiến sĩ cách mạng. Lúc sinh thời Bác Hồ đã căn dặn “...
Nếu không phục vụ được nhân dân, phục vụ được cách mạng thì đừng vào Đảng. Bởi Đảng là tổ
chức cách mạng có sứ mệnh cao cả đoàn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh cho độc lập và chủ
nghĩa xã hội chứ không phải là nơi để tìm kiếm danh vọng, địa vị, thu hái lợi lộc...”. Độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội chính là niềm tin, lẽ sống, là động lực tinh thần to lớn của mỗi chúng ta.

24



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×