Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

NGHIÊN CƯÚ PHÁT TRIỂN CÁC MÔ HÌNH SINH THÁI RỪNG PHÒNG HỘ VEN HỒ HOÀ BÌNH. (THÍ ĐIỂM TẠI TIỂU KHU 54 LÒNG HỒ SÔNG ĐÀ VÀ KHOẢNH 3 XÃ THUNG NAI, HUYỆN CAO PHONG TỈNH HOÀ BÌNH)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.76 MB, 89 trang )


LUẬNVĂNTHẠCSỸNĂM2012

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN

NGUYỄN THỊ OANH

ĐỀ TÀI
NGHIÊN CƯÚ PHÁT TRIỂN CÁC MÔ HÌNH SINH THÁI RỪNG PHÒNG
HỘ VEN HỒ HOÀ BÌNH. (THÍ ĐIỂM TẠI TIỂU KHU 54 LÒNG HỒ SÔNG
ĐÀ VÀ KHOẢNH 3 XÃ THUNG NAI, HUYỆN CAO PHONG
TỈNH HOÀ BÌNH)

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Hà Nội, 2012



LUẬNVĂNTHẠCSỸNĂM2012

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN

NGUYỄN THỊ OANH

ĐỀ TÀI
NGHIÊN CƯÚ PHÁT TRIỂN CÁC MÔ HÌNH SINH THÁI RỪNG PHÒNG
HỘ VEN HỒ HOÀ BÌNH. (THÍ ĐIỂM TẠI TIỂU KHU 54 LÒNG HỒ SÔNG
ĐÀ VÀ KHOẢNH 3 XÃ THUNG NAI - HUYỆN CAO PHONG


TỈNH HOÀ BÌNH)

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
Chuyên nghành: Sinh thái môi trường
Mã số: 60 85 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN VĂN THỤY




Hà Nội, 2012

2





LUẬNVĂNTHẠCSỸNĂM2012
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến thày
hướng dẫn PGS.TS Trần Văn Thuỵ - Bộ môn Sinh thái môi trường, Trường Đại học
Khoa học Tự Nhiên Hà Nội đã tận tình hướng dẫn khoa học cho tôi trong suốt thời
gian qua. Tôi xin cảm ơn các thày cô trong khoa Môi trường, gia đình, bạn bè và
đồng nghiệp đã luôn tạo điều kiện và giúp đỡ cho tôi hoàn thành luận văn này cũng
như khoá học của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 12 năm 2012

Học Viên

Nguyễn Thị Oanh




3





LUẬNVĂNTHẠCSỸNĂM2012
MỤC LỤC
Lời cảm ơn
Danh Mục Bảng................................................................................................... .
Danh Mục hình.....................................................................................................
Các từ viết tắt.......................................................................................................
Mở đầu.................................................................................................................1
Chương 1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu........................................................3
Kết quả các nghiên cứu chức năng sinh thái rừng trên thế giới và ở Việt
Nam......................................................................................................................3
1.1.1. Trên thế giới ..................................................................................3
1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước...................................................7
Chương 2. Đối tượng, mục tiêu, nội dung và phương pháp nghiên
cứu.......................................................................................................................14
2.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu........................................................14
2.2. Mục tiêu nghiên cứu..........................................................................14
2.3. Nội dung nghiên cứu.........................................................................15

2.4. Phương pháp nghiên cứu...................................................................15
2.2.1. Phương pháp ngoại nghiệp......................................................15
2.2.2. Phương pháp nội nghiệp..........................................................18
2.2.2.1. Phương pháp kế thừa........................................................18
2.2.2.2. Phương pháp phân tích trong phòng thí nghiệm...............18
2.2.2.3. Phương pháp xử lý số
liệu.................................................................................................19
Chương 3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận...................................................20
3.1. Khái quát đánh giá các điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của khu vực nghiên
cứu........................................................................................................................20
3.1.1. Điều kiện tự nhiên..........................................................................20
3.1.1.1. Vài nét về khu vực phòng hộ sông Đà và
thuỷ điện Hoà Bình..............................................................................................20




4





LUẬNVĂNTHẠCSỸNĂM2012
3.1.1.2. Điều kiện tự nhiên của khu vực nghiên cứu........................22
a. Vị trí địa lý...........................................................................22
b. Địa hình...............................................................................22
c. Khí hậu................................................................................23
d. Thuỷ văn..............................................................................24
e. Điều kiện thổ nhưỡng...........................................................25

g. Tài nguyên rừng...................................................................26
h. Tài nguyên động vật.............................................................28
3.1.2. Điều kiện Kinh tế- xã hội.....................................................................29
3.1.2.1. Những tác động của hồ chứa Hoà Bình tới đời sống kinh tế xã hội
và môi trường vùng ven hồ.....................................................................................29
3.1.2.2. Dân số, dân tộc và lao động.....................................................29
a. Dân số...................................................................................30
b. Đặc điểm kinh tế..................................................................31
3.2. Hiện trạng các mô hình trồng rừng phòng hộ xây dựng tại khu vực nghiên
cứu...........................................................................................................................33
3.3. Diễn biến của một số yếu tố khí tượng tại khu vực nghiên cứu.......................35
3.4. Diễn biến thảm thực vật tại các mô hình nghiên cứu.......................................38
3.5. Hiệu quả chống xói mòn của các mô hình nghiên cứu.....................................40
3.6. Hiệu quả điều tiết dòng chảy bề mặt tại các mô hình nghiên cứu....................44
3.7. Ảnh hưởng của các mô hình tới tính chất đất...................................................47
3.8. Lượng rơi rụng tại các mô hình nghiên cứu.....................................................50
3.9. Nghiên cứu lượng dinh dưỡng bị mất theo các dòng chảy bề mặt tại các mô
hình nghiên cứu……………………………………………………………………25
3.10. Nghiên cứu phát triển các mô hình phục hồi rừng phòng hộ xung yếu ven hồ
sông Đà tỉnh Hoà Bình
3.10.1. Các giải pháp kỹ thuật......................................................................57
3.10.2. Các giải pháp kinh tế-xã hội.............................................................60
Kết luận và khuyến nghị..........................................................................................62




5






LUẬNVĂNTHẠCSỸNĂM2012
Kết luận.................................................................................................................62
Khuyến nghị..........................................................................................................63
Tài liệu tham khảo..................................................................................................64
Phụ lục........................................................................................................................




6





LUẬNVĂNTHẠCSỸNĂM2012
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1: Diện tích các loại đất vùng xung yếu sông Đà tỉnh Hòa Bình.
Bảng 3.2: Đặc trưng các yếu tố khí tượng khu vực nghiên cứu
Bảng 3.3: Dân số và lao động khu vực nghiên cứu
Bảng 3.4: Hiện trạng các mô hình nghiên cứu
Bảng 3.5: Nhiệt độ và lượng mưa quan trắc được tại khu vực nghiên cứu
Bảng 3.6: Diễn biến thảm thực vật tại một số mô hình nghiên cứu
Bảng 3.7: Lượng xói mòn tại các mô hình nghiên cứu qua các năm thu thập
Bảng 3.8: Chi phí nạo vét bùn do xói mòn gây ra tại các mô hình rừng trồng năm
2011
Bảng 3.9: Diễn biến dòng chảy bề mặt tại các mô hình nghiên cứu

Bảng 3.10 Kết quả phân tích một số tính chất lý hoá học đất tại các mô hình nghiên
cứu
Bảng 3.11: Ảnh hưởng của các mô hình nghiên cứu đến lượng rơi rụng
Bảng 3.12: Sự rửa trôi các chất dinh dưỡng tại một số mô hình nghiên cứu theo các
dòng chảy bề mặt
Bảng 3.13: Chi phí bị mất từ hàm lượng các chất dinh dưỡng bị rửa trôi tại các mô
h́nh rừng trồng năm 2011
Bảng 3.14. Đề xuất bổ sung một số giải pháp kỹ thuật




7





LUẬNVĂNTHẠCSỸNĂM2012
DANH MỤC HÌNH
Biểu đồ 1. Diễn biến về số lượng các loài cây tái sinh của các mô hình nghiên cứu
Biều đồ 2 . Lượng đất mất do xói mòn tại các mô hình nghiên cứu
Biểu đồ 3. Lượng dòng chảy bề mặt tại các mô hình nghiên cứu
Biểu đồ 4. Lượng rơi rụng tại các mô hình nghiên cứu




8






LUẬNVĂNTHẠCSỸNĂM2012
CÁC TỪ VIẾT TẮT




CP

: Che phủ

ĐC

: Đối chứng không trồng rừng

KL

: Khối lượng

MH1

: Mô hình trồng cây bản địa xen cây dược liệu

MH2

: Mô hình trồng Luồng thuần loài


MH3

: Mô hình Nông lâm kết hợp

MH4

: Mô hình Làm giàu rừng

MH5

: Mô hình cây bản địa đa tác dụng

MH6

: Mô hình trồng Keo lai xen cây bản địa

MH7

: Mô hình trồng cây cốt khí xen cây bản địa

MH8

: Mô hình trồng Luồng xen cây bản địa

N

: Nitơ

P


: Phốt pho

ts

: Tổng số

9





LUẬNVĂNTHẠCSỸNĂM2012

MỞ ĐẦU
Vùng đầu nguồn sông Đà là vùng phòng hộ có vai trò quan trọng đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta. Trong những năm qua, cùng với việc xây
dựng đập Hoà Bình là việc khai thác rừng bừa bãi, tập quán canh tác trên đất dốc
không đúng kỹ thuật của dân cư địa phương rất phổ biến (như đốt nương làm rẫy và
thức sử dụng đất không hợp lý...). Hậu quả là tài nguyên đất, rừng nơi đây đang
đứng trước nguy cơ suy thoái nghiêm trọng cả về số lượng và chất lượng. Điều này
gây ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái, kinh tế xã hội cũng như đời sống cộng
đồng dân cư trong khu vực. Do vậy, việc phục hồi, bảo vệ và phát triển rừng phòng
hộ đầu nguồn khu vực xung yếu nói chung và ở khu vực vùng lòng hồ sông Đà nói
riêng đang là vấn đề cấp bách trong những năm gần đây.
Theo Đặng Huy Huỳnh (1990), diện tích lưu vực hồ Hoà Bình là 2.567.000
ha, trong đó diện tích rừng trên lưu vực chỉ còn 266.000 ha. Lượng bùn cát lắng
đọng hàng năm do mưa, bão, trượt lở trung bình khoảng 83,6 triệu tấn. Với tốc độ
đó sau 25 năm lòng hồ thuỷ điện Hoà Bình sẽ mất 60% dung tích chính. Theo Lưu
Danh Doanh (Trung tâm khảo quản lý và khảo sát môi trường) [38] thì “Lưu vực

sông Đà và hồ chứa Hoà Bình thuộc khu vực có cường độ xói mòn vào loại mạnh
nhất so với các lưu vực sông khác ở nước ta. Trung bình hàng năm trên 1km2 bị mất
đi khoảng 20.000 - 40.000 tấn đất màu. Mức độ bồi lắng của hồ Hoà Bình thuộc
loại nghiêm trọng”.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do rừng phòng hộ trong khu vực đã, đang
bị suy thoái nghiêm trọng, chức năng phòng hộ và bảo vệ môi trường của rừng bị
suy giảm. Hậu quả trực tiếp của việc mất rừng và suy thoái rừng là xói mòn, mất
đất, bồi lắng lòng hồ do các nguyên nhân khác nhau. Do vậy, kiểm soát sự mất đất
do xói mòn đã trở thành vấn đề mang tính cấp thiết. Một trong những biện pháp
quan trọng là trồng rừng hay phục hồi lại rừng đã mất. Trong những năm qua, nhà
nước đã triển khai rất nhiều các chương trình, dự án nhằm khôi phục lại diện tích
1



LUẬNVĂNTHẠCSỸNĂM2012
rừng đã bị tàn phá tại khu vực ven hồ sông Đà (như chương trình PAM, dự án 661,
dự án RENFODA- JICA...). Các chương trình, dự án đã thiết kế và triển khai nhiều
mô hình trồng rừng và bước đầu mang lại những hiệu quả nhất định về mặt môi
trường vùng đầu nguồn. Tuy vậy, những nghiên cứu chuyên sâu mang tính quan
trắc theo thời gian của các công trình trên còn hạn chế. Vì vậy để đóng góp các cơ
sở khoa học cho vấn đề này, chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu phát triển các
mô hình sinh thái rừng phòng hộ ven hồ Hoà Bình. (Thí điểm tại tiểu khu 54
lòng hồ sông Đà và Khoảnh 3 xã Thung Nai, huyện Cao Phong, tỉnh Hòa
Bình)”.




2






LUẬNVĂNTHẠCSỸNĂM2012
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Khái quát các nghiên cứu chức năng sinh thái rừng trên thế giới và ở Việt Nam
1.1.1. Trên thế giới
Việc nghiên cứu về sinh thái rừng và ảnh hưởng của rừng trồng đến môi
trường đã được nhiều nhà khoa học trên thế giới quan tâm. Nhiều nghiên cứu đã
khẳng định vai trò to lớn của rừng trong việc phòng hộ đầu nguồn. Các chức năng
phòng hộ của rừng bao gồm cả việc giữ đất và do đó kiểm soát xói mòn và quá trình
lắng đọng bùn cát, điều tiết dòng chảy, hạn chế lũ lụt, cung cấp nguồn nước, kiểm
soát chất lượng nước... Việc mất đi lớp thảm phủ rừng do việc khai thác gỗ bừa bãi
hoặc sử dụng đất không hợp lý ở vùng đầu nguồn có thể gây ra những hậu quả
nghiêm trọng đối với vùng hạ lưu (Hamilton và King, 1993)[43].
Ở các nước phát triển trên thế giới, việc nghiên cứu về sinh thái rừng nói
chung và sinh thái rừng trồng nói riêng đã được rất nhiều nhà khoa học quan tâm
nghiên cứu và giới thiệu trong các tài liệu và diễn đàn quốc tế từ đầu thế kỷ 20. Các
nghiên cứu tập trung vào ảnh hưởng của rừng trồng tới lập địa. Mấy chục năm gần
đây, đã có nhiều nghiên cứu về rừng đã bước đầu cho thấy sự thoái hóa lập địa do
khai thác rừng Thông Pinus radiata với chu kỳ ngắn ở Úc. Theo các tác giả, có tới
90% chất dinh dưỡng trong sinh khối bị lấy đi khỏi rừng khi khai thác. Turvey
(1983) [35] cũng cho rằng sự thay thế rừng Bạch đàn tự nhiên bằng rừng Thông
Pinus radiatan với chu kỳ chặt 15- 20 năm cũng làm giảm độ phì của đất do khai
thác gỗ. Mặt khác, tầng thảm mục dày và khó phân giải của Thông cũng làm chậm
sự quay vòng của các nguyên tố khoáng và đạm ở các lập địa này.
Các nghiên cứu của các tác giả cũng quan tâm nhiều tới vai trò của rừng

trong việc phòng hộ môi trường, đề cập tới vấn đề dinh dưỡng đất, chế độ nước, khả
năng ngăn cản xói mòn, dòng chảy. Tác giả Gosh (1978) [35] đã đánh giá ảnh
hưởng của rừng trồng Bạch đàn đến chế độ nước và chất dinh dưỡng trong đất tại
Ấn Độ và nhiều vùng trên thế giới nhưng chưa có những kết luận khẳng định. Theo




3





LUẬNVĂNTHẠCSỸNĂM2012
Gósh các mối lợi về kinh tế do Bạch đàn đưa lại còn lớn hơn nhiều so với mặt hại
nếu có.
Những nghiên cứu cho thấy việc trồng rừng có thể đem lại những ảnh hưởng
tích cực khi mà độ phì đất được cải thiện và đem lại ảnh hưởng tiêu cực nếu nó làm
mất cân bằng hay cạn kiệt nguồn dinh dưỡng trong đất. Nhìn chung, việc trồng rừng
cải thiện các tính chất vật lý đất (xét sau một khoảng thời gian dài sau khi trồng).
Tuy nhiên, việc sử dụng cơ giới hoá trong xử lý thực bì, khai thác, trồng rừng cũng
chính là nguyên nhân dẫn đến sự suy giảm sức sản xuất của đất [41].
Trong vùng nhiệt đới, rừng cây mọc nhanh ảnh hưởng đến đất không chỉ ở
việc tiêu thụ dinh dưỡng. Tốc độ tuần hoàn vật chất cũng diễn ra một cách nhanh
chóng hơn. Khi trồng rừng thì có một yếu tố quan trọng là khi đó có sự đảo lộn quá
trình trao đổi vật chất giữa rừng và đất khi thay thế các hệ sinh thái tự nhiên đa dạng
bằng một hệ sinh thái nhân tạo độc canh có sự tác động của con người.
Những nghiên cứu gần đây tập trung tìm hiểu về các chức năng sinh thái
môi trường của rừng. Theo Lee Soo-hwa (Lee-Soo-hwa, 2007.

( cho rằng đất rừng tốt có thể thấm được
khoảng 250 mm nước mưa trong một giờ. Tuy nhiên, theo ông thì rừng Thông qua
tác động tới cấu trúc sẽ không tốt cho cải thiện nguồn nước thậm chí còn làm tăng
sự thiếu nước do làm cho một lượng nước lớn bị ngăn giữ lại từ các tầng tán và bốc
hơi. Ngược lại, khi rừng được cải thiện tầng tán thì sẽ tạo điều kiện cho nước mưa
thấm vào đất nhiều hơn, đất lưu giữ được nước tốt hơn và sự chiếu sáng sẽ làm cho
các vi sinh vật đất như giun hoạt động tốt hơn. Vì vậy có tác dụng duy trì nguồn
nước và cải thiện nguồn nước tốt hơn.
Theo Farley và cộng sự (2005) [35] đã chỉ ra rằng khi đất trảng cỏ và đất cây
bụi chuyển sang rừng trồng thì lượng dòng chảy năm giảm đi 44% và 31%. Tác
động làm giảm dòng chảy kiệt của rừng trồng còn thể hiện rõ hơn cả lượng dòng
chảy trung bình năm. Theo Nisbet (2001)[35], rừng có thể có tác dụng làm giảm
dòng chảy mặt và chống xói mòn tốt; tuy nhiên các hoạt động trồng rừng và tác




4





LUẬNVĂNTHẠCSỸNĂM2012
động vào rừng như: làm đường giao thông, làm đất khi trồng rừng, chăm sóc rừng,
khai thác ...có thể dẫn tới làm tăng dòng chảy mặt và xói mòn cho lưu vực.
Theo Zhang và cộng sự (2007)[35] cho rằng, nếu các chỉ số về trạng thái
thảm thực vật rừng (cấu trúc, loại đất, địa hình...) có ảnh hưởng đến dòng chảy của
lưu vực thì phân bố không gian của rừng cũng ảnh hưởng quan trọng, nhất là khi
rừng được phân bố ở những khu vực tiếp nối trực tiếp với hệ thống tích nước của

thuỷ vực như sông, suối, hồ... Mặt khác, rừng trồng có ảnh hưởng đối với dòng chảy
mặt và dòng chảy ngầm cho nên nó gây ảnh hưởng đối với độ mặn của nước sông
suối trong lưu vực. Ở những nơi lượng muối phân bố nhiều ở tầng lớp đất mặt thì
ảnh hưỏng đó sẽ thể hiện rõ chỉ trong vòng 2 - 5 năm sau khi trồng rừng. Tuy nhiên,
đối với vùng mà sự phân bố nguồn mặn chủ yếu ở tầng nước ngầm thì ảnh hưởng
đó sẽ chậm hơn rất nhiều tuỳ thuộc vào đặc điểm của hệ thống nước ngầm nơi đó.
Ngoài ra, những khoảng trống ở phần trên sườn dốc có thể gây ra ảnh hưởng đối với
sản lượng nước thấp hơn ở phần dưới sườn dốc. Vì vậy, cần ưu tiên lựa chọn vùng
trồng rừng cho hợp lý trên quan điểm quản lý nguồn nước.
Theo M. Guardiola và cộng sự (2010)[35], việc thay thế các rừng cây bản địa
bằng rừng Cao su ở Nam Keng (Trung Quốc) và ở Pang Khum (miền Bắc Thái
Lan) đã làm tăng lượng bốc thoát hơi nước, do đó làm giảm dòng chảy cũng như
lượng nước được tích trữ trong lưu vực. Mặc dù, việc trồng rừng và những biện
pháp bảo tồn đất có những tác dụng nhất định trong việc giảm đỉnh lũ nhưng ít có
trường hợp nào cho thấy các biện pháp đó có tác dụng làm tăng dòng chảy kiệt.
Nhiều nghiên cứu khác cũng cho thấy việc trồng rừng đã làm giảm sản lượng
nước bình quân và dòng chảy trong mùa khô của lưu vực. Trong không ít trường
hợp, dòng chảy kiệt bị giảm đáng kể sau khi trồng rừng. Tuy nhiên, trong một số
trường hợp nó lại tăng dòng chảy ngầm và dòng chảy kiệt nhờ có việc làm tăng tính
thấm nước của đất. Trung bình sự giảm sản lượng dòng chảy do trồng rừng biến
động trong khoảng từ 50 mm/năm đối với vùng khô cho đến 300 mm/năm đối với
vùng ẩm ướt. Điều đó có thể làm giảm sản lượng nước tương đối năm ở mức 20 40% (Ge Sun và cộng sự, 2005).[35].




5






LUẬNVĂNTHẠCSỸNĂM2012
Sự ảnh hưởng của rừng trồng tới dòng chảy không chỉ ở diện tích mà còn sự
phân bố của nó và các biện pháp tác động vào rừng. Ảnh hưởng sự phấn bố không
gian của rừng tới nguồn nước đã được nghiên cứu một cách khá hệ thống trong
công trình của Carsten và cộng sự (2007)[35]. Công trình này đã thừa nhận vai trò
của rừng đối với việc cải thiện nguồn nước và chu trình vật chất; đồng thời nghiên
cứu này cũng khẳng định rằng ảnh hưởng của rừng tới nước trên quy mô rộng vẫn
cần được nghiên cứu nhiều hơn nữa.
Nghiên cứu sử dụng đất rừng phòng hộ đầu nguồn cũng được quan tâm. Các
mô hình sử dụng đất đã được xây dựng có thể kể tới như: mô hình du canh của
Conklin, 1975; tiếp đó là phương thức Taungya được U.Pankle đề xuất năm 1806.
Phương thức Taungya của Pankle là trồng xen cây nông nghiệp ngắn ngày vào rừng
Tếch chưa khép tán. Đến năm 1977 King đã đề xuất phương thức nông lâm kết hợp
thay thế cho phương thức Taungya.
Các giải pháp kỹ thuật phục hồi rừng phòng hộ đầu nguồn cũng được nhiều
tác giả quan tâm nghiên cứu. Các tác giả chủ yếu quan tâm tới các vấn đề như tái
sinh rừng nhiệt đới, tổ thành cây tái sinh có khác biệt hay giống với tầng cây cao
như các tác giả: Mibbread, 1930; Richards, 1933, 1939,1965; Aubrerrille, 1983; ....
[9].Các phương thức kỹ thuật lâm sinh xử lý nhằm xúc tiến tái sinh rừng nhiệt đới
cũng được nghiên cứu bởi nhiều tác giả như Kennedy, 1935; Lancaster, 1953...
Trong những năm gần đây, Trung tâm Lâm nghiệp quốc tế (CIFOR) đã tiến
hành nghiên cứu về quản lý lập địa và sản lượng rừng cho rừng trồng ở các nước
nhiệt đới. CIFOR đã tiến hành nghiên cứu trên các đối tượng là Bạch đàn, Thông,
Keo trồng thuần loài tại các dạng lập địa ở các nước Brazil, Công gô, Nam Phi,
Indonesia, Trung Quốc, Ấn Độ và nay bắt đầu nghiên cứu ở Việt Nam. Kết quả
nghiên cứu cho thấy các biện pháp xử lý lập địa khác nhau và các loài cây trồng
khác nhau đã có ảnh hưởng rất khác nhau đến một số yếu tố độ phì đất, cân bằng
nước, sự phân huỷ thảm mục và chu trình dinh dưỡng khoáng.





6





LUẬNVĂNTHẠCSỸNĂM2012
1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Việt Nam là một quốc gia nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa. Tài nguyên
rừng của nước ta khá phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, trong những năm gần đây
cùng với sự tăng trưởng nhanh của nền kinh tế, nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu gỗ
của Việt Nam liên tục tăng lên khiến cho rừng luôn phải đối mặt với nguy cơ bị
khai thác quá mức, kèm theo đó là sự suy giảm đáng kể các chức năng sinh thái mà
rừng đã và đang cung cấp trong việc bảo vệ môi trường và phòng chống thiên tai. Ở
nước ta, vấn đề về môi trường rừng đã được khởi động nghiên cứu từ rất lâu. Tuy
nhiên, do nhiều lý do các nghiên cứu về sinh thái môi trường rừng chưa được chú ý
xứng đáng với vị trí của nó. Mặt khác, do điều kiện kinh tế của nước ta còn khó
khăn cũng như khó khăn chung của toàn xã hội nên vấn đề nghiên cứu môi trường
nói chung và môi trường rừng nói riêng vẫn còn rất nhiều bất cập và cần thiết phải
có nhiều các công trình nghiên cứu tiếp theo. Một số công trình nghiên cứu trước
đây được tóm tắt như sau:
Nghiên cứu đánh giá tác động của rừng tới môi trường, đặc biệt là rừng tự
nhiên ở nước ta cũng đã được quan tâm chú ý từ đầu những năm 1970 với cơ sở ban
đầu do Liên Xô cũ giúp đỡ, nội dung nghiên cứu tập trung vào khả năng chống xói
mòn và điều tiết nguồn nước của các trạng thái rừng; các nội dung nghiên cứu khác
như vai trò điều tiết tiểu khí hậu, đất đai... cũng được quan tâm nhưng chưa nhiều

và hệ thống.
Từ năm 1973 đến năm 1981 Viện Nghiên cứu Lâm nghiệp đã xây dựng các
khu nghiên cứu thuỷ văn rừng định vị ở Núi Tiên (Hữu Lũng) và Tứ Quận (Hà
Tuyên). Các công trình nghiên cứu trong thời gian này tập trung chủ yếu vào nghiên
cứu một số các nhân tố khí hậu rừng, khả năng ngăn cản nước mưa của tán rừng,
ảnh hưởng của độ tàn che rừng tới khả năng giữ đất và điều tiết dòng chảy mặt của
rừng như công trình của Bùi Ngạnh và Nguyễn Danh Mô (1984)[26], của Hoàng
Niêm (1994)[25]... Đây là những công trình nghiên cứu khởi điểm rất quan trọng,
tạo lập được một số cơ sở khoa học cho việc xây dựng rừng giữ nước, bảo vệ đất ở




7





LUẬNVĂNTHẠCSỸNĂM2012
nước ta đồng thời cũng mở ra một hướng nghiên cứu mới, định lượng về thuỷ văn
rừng.
Trong những năm 1980 các công trình nghiên cứu đã tập trung vào xói mòn
đất và khả năng giữ nước của một số thảm cây trồng nông nghiệp và công nghiệp,
đặc biệt là ở các vùng Tây Nguyên. Trong thời gian này, nhiều khu nghiên cứu quan
trắc định vị đã được xây dựng kiên cố bằng gạch và xi măng, gỗ, kim loại,… Hàng
loạt các công trình mang nhiều sắc thái và đi vào định lượng một cách vững chắc
như công trình nghiên cứu của Nguyễn Quang Mỹ, Lê Thạc Cán (1983), của
Nguyễn Quang Mỹ, Quách Cao Yêm, Hoàng Xuân Cơ (1984)[23]... Những công
trình nghiên cứu này đã làm rõ ảnh hưởng của nhân tố địa hình tới xói mòn, vai trò

phòng hộ về chống xói mòn của một số thảm thực vật nông nghiệp, đã chú ý tới độ
che phủ gắn liền với các giai đoạn phát triển của cây trồng, định hướng cho việc xây
dựng các giải pháp phòng chống xói mòn trên đất dốc.
Đầu những năm 1990, khi nước ta thực hiện chương trình 327 với đối tượng
chủ yếu là rừng phòng hộ, nghiên cứu thuỷ văn và xói mòn đất rừng cũng được đẩy
mạnh. Nguyễn Ngọc Bình đã nghiên cứu về các biện pháp công trình và cây xanh
che phủ ở Bắc Thái, Sơn La... Nguyễn Ngọc Lung và cộng sự (1996) [20] đã nghiên
cứu phân cấp xung yếu cho lưu vực nguồn nước. Kết quả những nghiên cứu này
cho thấy độ dốc tăng từ 10-15o thì xói mòn sẽ tăng lên 21,44%. Khi chiều dài sườn
dốc tăng lên gấp đôi thì xói mòn cũng tăng lên gấp 2 lần. Nghiên cứu của Võ Đại
Hải (1996) [13], Nguyễn Ngọc Lung và Võ Đại Hải (1996) [20] đã xây dựng 20 khu
nghiên cứu định vị ở Tây Nguyên dưới các dạng thảm thực vật có cấu trúc khác
nhau. Đây là những công trình nghiên cứu tương đối toàn diện về xói mòn đất rừng
ở nước ta, đặc biệt là đã làm rõ vai trò phòng hộ chống xói mòn và điều tiết nước
của rừng. Các nghiên cứu của Võ Đại Hải cho thấy khi giảm độ tàn che từ 0,7 - 0,8
xuống mức 0,3 - 0,4 thì dòng chảy mặt tăng 30,4% đối với rừng tự nhiên và 33,8%
đối với rừng Le. Khi độ dốc tăng lên thì thì lượng dòng chảy cũng tăng lên. Chẳng
hạn khi độ dốc tăng lên 2 lần thì lượng dòng chảy mặt tăng lên 58,1%.




8





LUẬNVĂNTHẠCSỸNĂM2012
Các nghiên cứu của Vũ Thanh Te, Trần Quốc Thưởng, Phạm Anh Tuấn

(2005) [33] về tác động của lớp phủ thực vật đến khả năng gây xói mòn đất và vận
chuyển bùn cát trên lưu vực sông chợ Lèn đã nhận thấy lớp phủ thực vật càng dày
thì khả năng làm chậm dòng chảy trên bề mặt sườn dốc càng tăng (từ 7 - 11 lần).
Một số tác giả khác đã tập trung nghiên cứu vai trò điều tiết nước, xói ṃn
của rừng, ảnh hưởng của thảm thực vật đến dòng chảy của các con sông, suối như
công trình của Nguyễn Viết Phổ (1992), Vũ Văn Tuấn (1982) [35], Thái Phiên và
Trần Đức Toàn (1988) [27].... Những nghiên cứu này đã cho ta thấy vai trò điều tiết
nước hữu hiệu của thảm thực vật rừng, đặc biệt là việc cung cấp nước cho các con
sông, suối vào mùa khô, dòng chảy kiệt ở những vùng có rừng cao hơn những vùng
không có rừng.
Khi so với lượng mưa, dòng chảy mặt biến động rất lớn và thường dao động
trong khoảng từ 3 - 5% đối với rừng Thông (Ngô Đình Quế, 2008) [31] trong đó
cao nhất ở trảng cỏ đến thảm cây bụi, rừng trồng và thấp nhất ở rừng tự nhiên.
Lượng dòng chảy mặt phụ thuộc vào nhân tố lượng mưa, địa hình, tính chất đất, cấu
trúc thảm thực vật và cả phương pháp quan trắc. Hệ số dòng chảy mặt có liên hệ
chặt chẽ với các nhân tố độ dốc mặt đất, hệ số xói mòn đất, độ giao tán hoặc độ tàn
che tầng cây cao, độ che phủ của thảm tươi cây bụi và độ che phủ của rừng (Phạm
Thị Hương Lan, 2005 ) [18].
Theo Nguyễn Quang Mỹ (1990) [23] thì vật rơi rụng ở trạng thái thô có thể
hút được lượng nước bằng 1,38 lần trọng lượng khô của nó, nếu đã bị phân huỷ 30 40% thì có thể hút được lượng nước gấp 3,21 lần trọng lượng khô. Về giá trị tuyệt
đối, lớp thảm mục có thể hút được 35,840 lít nước trên 1 ha rừng tự nhiên (tương
đương với một trận mưa 3,6 mm). Tuy nhiên thì tỷ lệ % lượng nước hữu hiệu của
vật rơi rụng thấp hơn tỷ lệ % lượng giữ nước tối đa của nó (chỉ đạt từ 2,5 - 83,2
mm/ha/năm, tương đương với mức 0,1 - 4,6% tổng lượng mưa) [20].
Trong nghiên cứu về vai trò bảo vệ nguồn nước của 4 dạng thảm thực vật
(thảm cây bụi cao, thảm cây bụi thấp, rừng trồng Keo và rừng trồng Bạch đàn),





9





LUẬNVĂNTHẠCSỸNĂM2012
Nguyễn Thế Hưng (2008) [35] đã cho thấy khả năng giữ nước của các thảm thực
vật giảm dần từ thảm cây bụi cao đến rừng trồng Keo, rừng trồng Bạch đàn và thấp
nhất là thảm cây bụi thấp, với tổng lượng nước hàng năm giữ được trong các thảm
thực vật tương ứng là 988,97 tấn/ha, 639,07 tấn/ha, 724,58 tấn/ha và 660,62 tấn/ha.
Vai trò của rừng trong việc giữ nước là rất quan trọng. Nghiên cứu của Võ
Minh Châu (1993) [9] cho thấy sự suy giảm diện tích rừng đầu nguồn sông Ngàn
Mọ từ 23,971 ha xuống còn 6.000 ha đã làm cho nước hồ Kẻ Gỗ giảm đi đáng kể,
giảm từ 340 triệu m3 nước xuống còn 60 triệu m3. Do đó không đảm bảo nước cho
sản xuất nông nghiệp trên diện tích 6.000 ha.
Một số công trình nghiên cứu đã được tiến hành về sử dụng đất dốc, hạn chế
xói mòn và tăng độ phì của đất cho một số vùng với những đối tượng cụ thể. Việc
thiết lập băng cây xanh theo đường đồng mức nhằm chia cắt dòng chảy bề mặt có
hiệu quả cao, lượng nước trôi có thể giảm từ 31% - 42%, lượng đất trôi có thể giảm
49% - 52% và năng suất cây trồng tăng 41% - 43% (Đậu Cao Lộc và các cộng tác
viên, 1998). Mặc dù hàng rào cây xanh họ đậu chiếm khoảng 10% diện tích, song
năng suất cây trồng vẫn tăng 15 - 25% so với không làm băng xanh (Nguyễn Tử
Xiêm và Thái Phiên) [27].
Nghiên cứu của Trần Quang Bảo (1999)[2] tại Cẩm Xuyên – Hà Tĩnh cho
thấy cường độ xói mòn đất dưới tán rừng Bạch đàn trắng phụ thuộc vào mật độ
rừng trồng và độ xốp, độ dốc, độ dày tầng đất. Số liệu nghiên cứu của Nguyễn
Quang Mỹ (1984)[23] ở Tây Nguyên cho thấy độ tàn che của thảm cây trồng có ảnh
hưởng rất lớn tới độ vẩn đục của dòng chảy (hay còn gọi là dòng rắn), thảm cây
trồng có độ che phủ yếu thì nồng độ đậm đặc của dòng chảy chiếm tỉ lệ cao hơn.

Thí nghiệm xói mòn đất dưới các thảm thực vật nông nghiệp khác ở Tây
Nguyên được Nguyễn Quang Mỹ nghiên cứu vào những năm 1980 cho thấy rằng
lượng nước tạo dòng và tổn thất về đất phụ thuộc vào đặc điểm che phủ của các
thảm cây trồng. Trong những điều kiện như nhau về đất, vi khí hậu, địa hình, kỹ
thuật canh tác,… nhưng khác nhau về thảm cây trồng thì lượng nước tạo dòng và




10





LUẬNVĂNTHẠCSỸNĂM2012
xói mòn đất ở đó khác nhau. Hay nói cách khác đi, ở đâu có độ che phủ đất kém thì
dòng chảy mặt và đất bị xói mòn lớn hơn. Cụ thể đất khai hoang chiếm 20%; đất
trồng lạc chiếm 19%; đất trồng sắn và ngô chiếm 14%; đất trồng lúa chiếm 13,5%;
đất trồng cỏ 12%; đất trồng khoai lang 5,5%; đất trồng cafe lâu năm tán che kín thì
lượng nước tạo dòng còn lại 2% ) [23].
Nguyễn Xuân Quát (1996)[28] đã nghiên cứu “Sử dụng đất tổng hợp và bền
vững”, kết quả đã đưa ra được các mô hình sử dụng đất tổng hợp và bền vững,
khoanh nuôi và phục hồi rừng Việt Nam, bước đầu đề xuất tập đoàn cây trồng thích
ứng cho các mô hình này. Nguyễn Hoàng Nghĩa (2003) [26] cũng đã có nghiên cứu
xác định phạm vi phân bố và vùng tiềm năng trồng rừng của một số loài cây dựa
vào nhu cầu khí hậu.
Trong những năm qua, cùng với việc xây dựng các công trình thuỷ điện là
việc phá rừng đầu nguồn làm cho gia tăng các hiện tượng xói mòn, bồi lắng lòng hồ
và đã dẫn đến nhiều hệ luỵ cho vùng và cho những vùng hạ du. Đã có nhiều dự án,

chương trình, đề tài nghiên cứu về hiện tượng này và những tác động của việc trồng
rừng đến môi trường vùng đầu nguồn. Trong đó có những phương pháp nghiên cứu
xói mòn đã được thực hiện. Một trong số đó là phương pháp nghiên cứu xói mòn
theo các mô hình định lượng được phát triển mạnh trong những năm gần đây nhờ
công nghệ tin học và GIS. Ưu điểm của phương pháp này là nhanh, độ chính xác
cao. Ở Việt Nam đã có một số tác giả áp dụng phương pháp nghiên cứu này ở các
mức độ khác nhau như: Phạm Ngọc Dũng - trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội,
Nguyễn Quang Mỹ - Đại học Tổng hợp, Võ Đại Hải - Viện Khoa học Lâm nghiệp
Việt Nam; Lại Huy Phương - Viện Điều tra Quy hoạch Rừng.
Gần đây, ngành lâm nghiệp đã có những nghiên cứu tập trung vào việc tạo
lập cơ sở cho việc gây trồng rừng thông qua việc nghiên cứu trên các đối tượng cây
trồng cụ thể trên những loại lập địa và vùng sinh thái khác nhau. Trong đó có những
nghiên cứu về Bạch đàn, Keo, Thông...và một số loài cây bản địa. Nghiên cứu về
quan hệ rừng Bạch đàn tới môi trường có khá nhiều các công trình của các tác giả




11





LUẬNVĂNTHẠCSỸNĂM2012
như: Thái Văn Trừng, Vũ Đình Phương, Hoàng Chương, Hoàng Xuân Tý, Nguyễn
Ngọc Bình, Đỗ Đình Sâm (Viện khoa học Lâm Nghiệp Việt Nam) [2]. Do trước đây
Bạch đàn được du nhập vào nước ta với những đặc tính được cho là rất tốt với Việt
Nam lúc đó như năng suất cao, ít sâu bệnh, gỗ sử dụng vào nhiều mục đích. Tuy
nhiên, sau một thời gian sử dụng loài cây Bạch đàn gần như cây trồng rừng chính áp

dụng cho mọi vùng, mọi điều kiện lập địa đã nảy sinh ra nhiều vấn đề về loài cây
này. Có nhiều ý kiến trái ngược nhau xung quanh mối tương tác giữa loài Bạch đàn
và môi trường. Nhiều nghiên cứu cũng đã được triển khai xung quanh các vấn đề
liệu Bạch đàn có làm tăng dòng chảy bề mặt, tăng xói mòn dất hay không hoặc là có
làm giảm độ phì đất hay không, có làm cho đất chua thêm hay không? Đỗ Đình
Sâm (1984) [2] đã chứng minh rằng việc trồng Bạch đàn không làm chua đất,
lượng nước do Bạch đàn tiêu thụ rất ít và đặc biệt là rừng trồng Bạch đàn luôn
thường xuyên làm cho đất tốt lên, nhất là ở những trạng thái lập địa nghèo.
Theo Bùi Thị Huế (1996) [2], mặc dù Bạch đàn có cường độ thoát hơi nước
mạnh nhưng do tổng diện tích lá nhỏ nên vẫn có lượng thoát hơi nước nhỏ hơn so
với rừng Keo cùng tuổi từ 1,5 đến 3,3 lần. Hiệu suất sử dụng nước của Bạch đàn
cao hơn Keo từ 1,7 đến 2,8 lần. Bên cạnh đó tác giả cũng thấy rằng, nếu trồng Bạch
đàn ở lập địa tốt thì sau 3 năm trồng rừng, lượng mùn trong lớp đất mặt giảm đi
khoảng 12,1 tấn so với trước khi trồng rừng. Đạm cũng bị giảm đi khoảng 123
kg/ha. Nhưng nếu trồng tại lập địa xấu, đất đồi trơ trọc sỏi đá như tại Thanh Vân Phú Thọ, sau 3 năm lượng mùn tăng lên được 2,8 tấn/ha, còn đạm tăng lên được 10
kg/ha. Ngoài ra cũng có những ý kiến cho rằng Bạch đàn làm khô và gây độc cho
đất. Nhưng nhìn chung các ý kiến này còn chung chung, chưa dứt khoát.
Hiện nay, ở Việt Nam chủ yếu xây dựng các mô hình trồng rừng sử dụng các
loại cây chủ yếu như Keo (3 loài là Keo lá tràm, Keo tai tượng và Keo lai). Các loài
Keo này được nhiều nghiên cứu ghi nhận là loài cây có ảnh hưởng tốt với môi
trường, với đất như: Có khả năng cố định đạm, cải thiện độ xốp của đất. Do sinh
khối lớn, sinh trưởng nhanh nên lượng rơi rụng, phân giải chất hữu cơ dưới rừng




12






LUẬNVĂNTHẠCSỸNĂM2012
trồng Keo hàng năm là khá lớn đảm bảo cung cấp mùn cho đất, góp phần vào cân
bằng dinh dưỡng trong đất.
Nghiên cứu về mối liên hệ giữa rừng trồng Keo và môi trường có các công
trình của Đỗ Đình Sâm, Ngô Đình Quế (2001) [29]. Trong đó, các nghiên cứu của
hai tác giả này tập trung vào diễn biến độ phì đất (với các yếu tố như độ xốp, hàm
lượng mùn, N,P, K; số lượng vi sinh vật đất) dưới ảnh hưởng của rừng trồng Keo ở
các độ tuổi khác nhau.
Các loài cây bản địa cũng được ưu tiên sử dụng vừa đem lại những lợi ích
kinh tế, bảo tồn nguồn gen địa phương vừa phù hợp với lập địa và điều kiện gây
trồng của từng vùng sinh thái khác nhau. Sự kết hợp giữa các loài bản địa với Keo,
các loài cây phù trợ đã được tiến hành trồng thí nghiệm ở nhiều nơi và thu được
những kết quả bước đầu tương đối khả quan.
Nhìn chung, các nghiên cứu trong nước về môi trường rừng và tác động của
rừng đến môi trường không được tiến hành liên tục và toàn diện cả về nội dung,
không gian, cũng như đối tượng nghiên cứu. Các nghiên cứu về sinh thái rừng trồng
cũng chưa thu được nhiều kết quả. Tại vùng xung yếu ven hồ Hoà Bình cũng đã tiến
hành trồng những mô hình sinh thái rừng trong đó sử dụng các loài cây bản địa với
mục đích phòng hộ môi trường vùng đầu nguồn. Các mô hình này bước đầu đã có
những tác động đáng kể và phát huy hiệu quả của công tác trồng rừng về mặt sinh
thái, môi trường và hiệu quả kinh tế - xã hội khu vực. Tuy nhiên, các nghiên cứu về
các mô hình sinh thái rừng này chưa được tiến hành một cách sâu, rộng, chưa có thể
áp dụng và nhân rộng vào thực tiễn cho những vùng có điều kiện sinh thái tương
đồng. Vì vậy, vấn đề nghiên cứu phát triển các mô hình sinh thái rừng phòng hộ ven
hồ Hoà Bình đặt ra là một vấn đề hết sức cấp bách và cần thiết cho việc xây dựng
vốn rừng phục vụ cho mục đích bảo vệ môi trường vùng đầu nguồn trong bối cảnh
hiện nay. Đề tài nghiên cứu chúng tôi chọn lựa chính là tìm ra cơ sở khoa học giải
quyết tính cấp thiết của vấn đề này.





13





LUẬNVĂNTHẠCSỸNĂM2012
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG, MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài tiến hành nghiên cứu trên đối tượng là thảm thực vật, môi trường đất,
nước trong các mô hình nghiên cứu sau:
- Mô hình trồng cây bản địa xen cây dược liệu. Ký hiệu là MH1
- Mô hình trồng Luồng thuần loài (MH2)
- Mô hình Nông lâm kết hợp (MH3)
- Mô hình Làm giàu rừng (MH4)
- Mô hình cây bản địa đa tác dụng (MH5)
- Mô hình trồng Keo lai xen cây bản địa (MH6)
- Mô hình trồng cây cốt khí xen cây bản địa (MH7)
- Mô hình trồng Luồng xen cây bản địa (MH8)
- Đối chứng: không trồng rừng (ĐC).
Trong đó các loài cây bản địa được sử dụng để trồng bao gồm: Trám trắng
(Canarium album), Sấu (Dracotomelum duperreanum), Re gừng (Cinnamomum
obtusifolium), Giẻ đỏ (Lithocarpus ducampii), Lim xanh (Erythrophleum fordii),

Lim xẹt (Peltophorum pterocarpum), Sao đen (Hopea odorata).
* Phạm vi nghiên cứu:
Các mô hình nghiên cứu được tiến hành tại tiểu khu 54 lòng hồ sông Đà
(MH1, 2, 3, 4, 5) và khoảnh 3 xã Thung Nai, huyện Cao Phong, tỉnh Hoà Bình
(MH6, 7, 8, ĐC). Thời gian từ năm 2006 đến năm 2011.
2.2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu chung
Góp phần xây dựng luận cứ khoa học làm cơ sở để đề xuất giải pháp cải tạo
và phục hồi rừng phòng hộ đầu nguồn sông Đà
2.1.2. Mục tiêu cụ thể




14





LUẬNVĂNTHẠCSỸNĂM2012
- Nghiên cứu ảnh hưởng của một số mô hình sinh thái rừng đến một số yếu
tố môi trường nhằm nâng cao chất lượng rừng trồng và cải thiện môi trường;
- Đề xuất một số giải pháp phát triển các mô hình sinh thái rừng phòng hộ
đầu nguồn khu vực ven hồ Hoà Bình.
2.3. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu hiện trạng các mô hình rừng trồng phòng hộ
- Nghiên cứu diễn biến thảm thực vật rừng tại các mô hình
- Hiệu quả chống xói mòn của các mô hình
- Hiệu quả điều tiết dòng chảy bề mặt tại các mô hình nghiên cứu

- Ảnh hưởng của các mô hình tới tính chất đất
- Nghiên cứu lượng rơi rụng tại các mô hình
- Lượng dinh dưỡng bị mất theo các dòng chảy bề mặt
- Nghiên cứu một số giải pháp để phát triển các mô hình rừng trồng tại khu
vực nghiên cứu
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp ngoại nghiệp:
- Bố trí thí nghiệm: theo khối ngẫu nhiên đầy đủ, mỗi công thức lặp lại 3 lần,
trong mỗi khối chọn được sự đồng nhất về điều kiện lập địa. Diện tích mỗi ô thí
nghiệm là 0,6 ha, các ô được bố trí theo phương pháp bốc thăm ngẫu nhiên. Trong
đó:
MH1: Trồng cây Bản địa xen cây Dược liệu. Cây bản địa gồm 5 loài: Re
gừng (Cinamomum obtussifolium), Giẻ đỏ (Lithocarpus ducampii), Sao đen (Hopea
odorata), Lim xanh (Erythrophleum fordii), Lim xẹt (Pentophorum pterocarpum),.
Các loài Dược liệu bao gồm có: Ba kích (Monrinda Officinalis), Sa nhân (Amonum
ovoideum), Gừng (Zinziber officinalis). Phương thức trồng hỗn giao theo hàng dọc
theo đường đồng mức.
MH2: Trồng Luồng thuần loài




15





LUẬNVĂNTHẠCSỸNĂM2012
MH3: Trồng cây lâm nghiệp (Lim xanh, Giẻ đỏ, Re gừng, Sao đen) kết hợp

với cây nông nghiệp (Na, Xoài, Ngô, Sắn), trồng theo phương thức một hàng cây
lâm nghiệp xen 1 hàng cây nông nghiệp.
MH4: mô hình làm giàu rừng: Khoanh nuôi rừng hiện có và bố trí trồng bổ
sung theo rạch bằng các loài Bản địa.
MH5: trồng cây Bản địa đa tác dụng, với các loài: Trám trắng (Canarium
album), Trám đen (Canarium nigrum), Sấu (Dracotomelum duperreanum).
MH6: trồng Keo lai (Acacia Hybrid) xen cây Bản địa. Keo lai có vai trò là
loài cây phù trợ. Các loài bản địa được trồng trong mô hình có vai trò là những cây
mục đích.
MH7: trồng cây Cốt khí (phù trợ) xen cây Bản địa. Ta tạo các băng Cốt khí
dọc theo đường đồng mức. Giữa các băng Cốt khí trồng cây bản địa hỗn giao theo
hàng.
MH8: trồng Luồng (Dendrocalagamus babatus) xen cây bản địa. Các loài
bản địa được trồng gồm Lim xanh, Giẻ đỏ, Re gừng.
ĐC: không tác động
- Thu thập số liệu ngoài hiện trường:
+ Điều tra trạng thái thực vật bằng phương pháp lập ô định vị với diện tích
1000m2 (40x25m). Các ô dạng bản được lập trong ô tiêu chuẩn điển hình với diện
tích 16m2 (4x4m), số lượng ô dạng bản là 5 ô. Các ô dạng bản được bố trí tại 4 góc
và trung tâm ô tiêu chuẩn điển hình. Sau đó ta tiến hành điều tra các chỉ tiêu như
đếm số loài, độ che phủ, và sự xuất hiện các loài mới.
+ Thu thập lượng xói mòn: tại mỗi mô hình xây dựng một ô định vị để
nghiên cứu về tình trạng xói mòn, dòng chảy bề mặt.
Số liệu xói mòn (thể hiện là lượng đất mất do xói mòn bề mặt) được thu thập
theo đợt mưa và căn cứ vào trạm khí tượng đặt tại Trạm nghiên cứu môi trường và
rừng phòng hộ sông Đà.
Lượng xói mòn thu thập dựa vào ô định vị xây dựng tại mỗi mô hình. Trong
mỗi mô hình ta xây dựng hai ô định vị để theo dõi. Các ô định vị được chọn đặt ở





16




×