Tải bản đầy đủ (.docx) (84 trang)

Nghiên cứu quá trình chuyển đổi và phát triển các mô hình hợp tác xa kiểu mới ở huyện Vụ Bản tỉnh NamĐịnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (608.86 KB, 84 trang )

PHẦN 1
I.TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trên thế giới các hợp tác xã (HTX) đã hình thành hơn 150 năm. Ở
nhiều nước có thể chế độ chính trị xã hội khác nhau, hiện nay các hợp tác xã
vẫn tồn tại và một số nước đang có xu hướng mở rộng.
Ở Việt Nam, trong quá trìn0h thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng
khơi xưởng và lãnh đạo, cơ chế quản lý tập trung bao cấp từng bước bị xóa
bỏ, cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước hình thành và ngày càng
được hoàn thiện để điều tiết các quan hệ kinh tế trong nền kinh tế quốc dân.
Trong những năm qua, các HTX tổ chức theo mô hình cũ đối mặt với khó
khăn và thác thức nghiêm trọng vì không thích ứng được với cơ chế kinh tế
mới. Đại bộ phận các HTX tồn tại một cách hình thức, không có phương
hướng và nội dung hoạt động dẫn đến nhiều hợp tác xã đã tan rã.
Trong tiến trình đổi mới nền kinh tế Nhà nước đã ban hàng nhiều chủ
trương chính sách nhằm tạo điều kiện cho các hộ nông dân trở thành đơn vị
kinh tế tự chủ. Chính sách đất đai đã quy định : Nhà nước giao cho các tổ
chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài. Người sử dụng đất có
quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp và cho thuê và được
bồi thường thiệt hại trong trường hợp đất bị thu hồi. Sự biến đổi về quan hệ
ruộng đất cũng đã tạo ra cơ sở và động lực cho sự tự chủ của người nông
dân, trên cơ sở đó góp phần dân chủ hóa đời sống kinh tế, xã hội ở nông
thôn, xây dựng nông thôn mới. Việc thực hiện các chính sách khác như phát
triển các thành phần kinh tế, chính sách thị trường, chính sách đầu tư và
nhiều mối quan hệ giữa Nhà nước và nông dân đã có những thay đổi cơ bản,
tạo cơ sở và động lực phát triển lực lượng sản xuất (LLSX), chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông thôn. Nhờ vậy, nông nghiệp và cơ cấu kinh tế nông thôn
của nước ta trong hơn thập kỷ qua đã đạt được những thành tựu nổi bật, tạo
1
ra những bước chuyển biến quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội ở nông
thôn.
Cả nước nói chung và huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định nói riêng từ khi


các hợp tác xã kiểu cũ được tiến hành chuyển đổi thành lập các HTX kiểu
mới hoạt động theo luật thi các ngành nông nghiệp và cơ cấu kinh tế nông
thôn đã có sự chuyển biến lớn, tạo thuận lợi để chuyển sang nền kinh tế
hàng hoá. Trong khi điều kiện huyện mới được thành lập sau một năm bắt
đầu thực hiện luật HTX. Từ đó cho đến nay nền kinh tế của huyện đã đạt
được kết quả khả quan. Đặc biệt là HTX nông nghiệp ngoài ra còn có HTX
khác cũng đang trên đà tiến chuyển.
Tuy nhiên kết quả bước đầu đã đạt được như vây. Song để cho quá
trình hoạt động của HTX trong các bước tiếp theo mang lại hiệu quả kinh tế
cao cả về số lượng và chất lượng và theo cùng với sự phát triển kinh tế của
đất nước thì việc nghiên cứu một số nội dung, điều kiện chuyển đổi và phát
triển các hình thức hợp tác và tổ hợp tác trong nông thôn là rất có ý nghĩa và
mang tính cấp thiết. Chính vì vậy chúng tôi nghiên cứu đề tài : "Nghiên cứu
quá trình chuyển đổi và phát triển các mô hình hợp tác xa kiểu mới ở
huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định".
II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI.
Để góp phần giải quyết vấn đề bức xúc cấp thiết trên, đề tài nhằm vào
các mục đích sau:
- Nghiên cứu đặc điểm, điều kiện hình thành các hình thức hợp tác và
tổ hợp tác trước khi áp dụng luật HTX ở huyện Vụ Bản - tỉnh Nam Định.
- Nghiên cứu quá trình chuyển đổi và phát triển các hình thức hợp tác
và tổ hợp tác qua ba năm từ khi áp dụng luật hợp tác xã ở huyện Vụ Bản -
tỉnh Nam Định.
- Góp phần đề xuất phương hướng phát triển các mô hình HTX ở
huyện Vụ Bản - tỉnh Nam Định.
2
III. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu quá trình chuyển đổi và phát triển các mô
hình HTX ở huyện Vụ Bản - tỉnh Nam Định. Trong phạm vi nghiên cứu luận
văn, với khả năng và thời gian có hạn, đề tài tập trung nghiên cứu quá trình

chuyển đổi và phát triển một số mô hình HTX vận tải (HTXVT), HTX nông
nghiệp (HTXNN). Trên cơ sở lý luận về HTX trước khi chuyển đổi, trong,
sau chuyển đổi và quá trình phát triển của nó để từ đó đề xuất một số biện
pháp phát triển KTHT ở huyện Vụ Bản - tỉnh Nam Định.
3
PHẦN II
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN TÀI LIỆU CỦA VIỆC NGHIÊN
CỨU ĐỔI MỚI HTX
Việt nam đã trải qua hơn 10 năm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông
nghiệp, trên cơ sở xác định hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ. Kinh tế gia
đình đã phát triển với nhiều loại hình hợp tác trong sản xuất và lưu thông
hàng hoá, thực chất là sự trở lại tư tưởng của những nhà sáng lập ra chủ
nghĩa xã hội (CNXH) khoa và và những học giả khác trong lịch sử về chế độ
HTX. Điều đó xuất phát từ nhu cầu cấp bách phải cải tổ, đổi mới mô hình
kinh tế quốc dân cũng như đổi mới chế độ hợp tác trong nông nghiệp.
I. NHỮNG LUẬN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ KINH TẾ HỢP TÁC VÀ HTX
1. Một số khái niệm HT, HTX và HTXNN.
- Hợp tác (HT) được mô tả như là một nhóm người cùng nhau làm việc
và hướng về một mục đích và lợi ích chung.
- Hợp tác xã (KTX) là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động
có nhu cầu, lợi ích chung tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy
định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên
nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất kinh
doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế xã hội của
đất nước.
- Hợp tác xã nông nghiệp (HTXNN) là tổ chức kinh tế tự chủ do nông
dân và những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp
vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh của
tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt
động dịch vụ hỗ trợ cho kinh tế hộ gia đình xã viên và kinh doanh trong lĩnh

4
vực sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản
và kinh doanh ngành nghề ở nông thôn phục vụ cho sản xuất nông nghiệp.
2. Cơ sở lý luận về kinh tế hợp tác và hợp tác xã
HTX là sản phẩm của lịch sử. Nó có từ trước khi chủ nghĩa Mác -
Lênin ra đời. Lúc đầu khi phê phán nghiên cứu các nhà CNXH không tưởng,
Mác và Ăngghen chưa thấy được vai trò to lớn của HTX đối với hình thái
kinh tế xã hội. Sơ dĩ như vậy là do hai ông cho rằng có thể chuyển trực tiếp
từ chủ nghĩa tư bản (CNTB) lên CNXH mà không cần có những bước quá
độ trung gian. Nhưng từ giữa thập kỷ 60 chú ý đến thực tiễn của lịch sử về
sự hình thành của các "HTX công nhân".
Sau cuộc cách mạng dân chủ tư sản ở Châu Âu (1848 - 1894). Mác và
Ăngghen đã dần thấy được triển vọng của chế độ HTX trong xã hội tương
lai. Trong tuyên ngôn độc lập hội liên hiệp công nhân quốc tế (Quốc tế I)
Mác và Ăngghen đã đi đến thống nhất vai trò to lớn của HTX sau khi giai
cấp công nhân giành chính quyền. Vào năm 1886, Mác và Ăngghen khẳng
định rõ "khi chuyển sang nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa hoàn toàn chúng ta
phải ứng dụng rộng rãi nền sản xuất hợp tác hoá (HTH) làm khâu trung
gian".
Tư tưởng HTH của các nhà kinh điển bao trùm tất cả đời sống kinh tế
xã hội mới, trong đó nông nghiệp có những nét đặc thù nào? vấn đề này còn
xem xét sự phát triển của tư tưởng của Mác, Ăngghen và LêNinh trong quá
trình xã hội hóa nền nông nghiệp.
Thấy được vai trò to lớn của "Nông trại gia đình" đối với "nghề nông
hợp lý" song điều đó không có ý nghĩa là Mác tuyệt đối hóa tính chất bền
vững của nền kinh tế tiểu nông. Mác nhận thấy rằng đối với "Nghề nông
hợp lý" phải có "bàn tay của người tiểu nông sống bằng lao động của mình"
hoặc là phải có "Sự kiểm soát của những người sản xuất có liên kết với
nhau". Đây là cơ sở đầu tiên về một chế độ hợp tác trong nông nghiệp mà
5

Mác chưa kịp hoàn chỉnh. Hơn nữa, đối với nông dẫn, Cac Mác và Ăngghen
đều tỏ một thái độ hết sức thận trọng. Chính vì thế mà Ăngghen nêu luận
điểm "Cần để cho người nông dẫn suy nghĩ trên luống cày của họ".
Ăngghen đã khẳng định một điều kiên quyết rằng khi giai cấp vô sản giành
được chính quyền thì tuyệt đối không được tước đoạt những người tiểu nông
dù bất kỳ dưới hình thức gì nhưng buộc phỉa làm đối với những chủ đâtài
sản lớn. Nhà nước vô sản phải bằng những biện pháp hết sức tỷ mỉ, khuyến
khích họ "Liên hợp kinh tế của họ với hiệp hội, mà trong đó có thể ngày
càng giảm bớt sự bóc lột làm thuê, những hiệp hội đó dần dần sẽ chiếm
được đa số áp đảo trong những bộ phận cấu thành của hiệp hội sản xuất toàn
xã hội vĩ đại với quyền lợi và nghĩa vụ bình đẳng.
Chính sự phát triển LLSX của kinh tế hộ nông dân đã dẫn đến nhu cầu
hợp tác phong phú và đa dạng. Kế thừa các tổ chức HTX truyền thống đã ra
đời hàng thế kỷ trước. Ngày nay ở hầu hết các nước TBCN phát triển, các
hình thức kinh tế hợp tác (KTHT) giữa nông hộ, nông trại vẫn được duy trì,
phát triển và ngày càng phát huy tác dụng tích cực trong "Nghề nông hợp
lý" ở trình độ cao.
Bằng phương pháp biện chứng Macxit và bằng hoạt động thực tiễn của
mình Lenin đã có những đóng góp quan trọng vào việc phát triển những
luận điểm của Mác và Ăngghen. Năm 1908 khi bàn về việclựa chọn con
đường phát triển của nông nghiệp nước Nga, Lênin đã nhận thấy rằng :
Không thể phát triển nông nghiệp theo con đường CNTB, CNTB phổ vì đó
là kiểu phát triển kém hiệu quả mà phải là kiểu "Một chủ trại tự do trên
mảnh đất tự do, nghĩa là mảnh đất đó được dọn sạch tàn tích trung cổ. Đó là
kiểu Mỹ".
Lenin cho rằng : Causky đã đặt vấn đề rất chính xác và đúng đắn khi
nói rằng nông nghiệp không phát triển theo cùng một kiểu với chủ nghĩa.
Thực cho đến ngày nay càng khẳng định sự thắng thế của con đường khác
6
với kiểu "Nông trại kỹ nghệ ở Anh" hoặc điền trang "kiểu phổ" mà Mác,

Lênin phê phán ở nhiều nước, trong đó có những nước thuộc khu vực chúng
ta.
Lênin nhìn nhận những hình thức hợp tác như vậy có vai trò gì trong
chế độ mới? Điều này có liên quan đến quan niệm về mô hình kinh tế mới
qua sự phát triển về lý luận của từng người trong từng giai đoạn lịch sử.
Trong hệ thống kinh tế mới (NEP), Lênin đã thừa nhận rằng: "Những
HTX, với tư cách là đơn vị kinh tế độc lập, hạch toán kinh tế, gắn sự trao đổi
là một trong những hình thức kinh tế hết sức quan trọng của Nhà nước
TBCN". Điều này đã được khẳng định rõ hơn khi Lênin thừa nhận kinh tế
HTX - Nhà nước. Năm 1921, Lênin lo ngại rằng những HTX như vậy "Sẽ
nhất định sinh ra những quan hệ tư bản, tiểu tư sản, góp phần phát triển
những quan hệ ấy, đẩy những nhà tư bản lên hàng đầu và mang lại cho họ
những lợi ích lớn nhất". Sở dĩ như vậy Lênin cho rằng việc sử dụng những
quan hệ hàng hoá - tiền tệ nhất định sẽ nảy sinh ra các quan hệ sản xuất
TBCN.
Theo Lênin, HTX là thiết chế kinh tế xã hội nhờ đó kinh tế nông dân
hoạt động trong mạng lưới của nền kinh tế xã hội, thực hiện quá trình xã hội
hóa nền kinh tế của họ. Lênin cũng cho rằng, đây là khâu trung gian mà Nhà
nước vô sản cầm nắm lấy để chuyển nông dân từ chỗ là người nông dân
riêng lẻ vào quỹ đạo của CNXH. Lênin cho rằng HTX của nông dân là con
đường tất yếu, uyển chuyển dễ chấp nhận đối với nông dân để đưa họ lên
CNXH.
Trong HTH phải giải quyết mối quan hệ giữa ba lợi ích (lợi ích xã hội,
lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân) mà nổi cộm lên là lợi ích tập thể và lợi ích
cá nhân, tất yếu phát sinh của nền kinh tế hàng hoá, đó là quan hệ CNTB,
các HTX mang tính chất TBCN. Trái lại, trong Nhà nước vô sản HTX là
hình thức CNTB - Nhà nước. Lênin cho rằng: "Chế độ của những xã viên
7
HTX văn minh là chế độ CNXH" và khả năng này thông qua kiểu tổ chức
kinh tế đó để Nhà nước giúp đỡ, kiểm soát và hướng dẫn nông dân xây dựng

chế độ kinh tế mới. Kiểu tổ chức HTX như vậy đem lại khả năng kết hợp
được những nguyên tắc dường như trái ngược nhau giữa lợi ích cá nhân và
lợi ích xã hội đảm bảo cho "lợi ích cá nhân" phục tùng "lợi ích chung", điều
mà trước đây nan giải đối với CNXH. Trong sự kết hợp đó không được xóa
bỏ quyền sở hữu tư nhân về vật phẩm tiêu dùng và TLSX của nông dân. Nhà
lý luận HTX Nga - Tchayanoy (1889 - 1939) đã có nhiều công trình nghiên
cứu về nông thôn - nông nghiệp được Lênin đánh giá cao. Ông đã nghiên
cứu tỉ mỉ sự gắn bó, dung hợp, tác động qua lại lẫn nhau giữa kinh tế hộ
nông dân với kinh tế HTX. Năm 1927, ông đã đưa ra định nghĩa về HTX
như sau: "HTX là hiệp hội các hộ nông dân. HTX chỉ là xã hội hóa một phần
sản xuất, chính phần của sản xuất lớn có ưu thế hơn sản xuất nhỏ. Quá trình
này có thể thực hiện mà không phá hoại nông dân lao động, bằng cách tổ
chức các ngành và hoạt động mà sự liên hiệp lại trên nguyên tắc sao cho có
hiệu quả kinh tế. HTH là một quá trình xã hội hóa từng bước kinh tế nông
dân, kinh tế HTX ra đời và phát triển không phá vỡ kinh tế gia đình nó tách
dần một số lĩnh vực và một số công việc và nếu làm ở gia đình không có lợi
bằng HTX là sự bổ sung cho kinh tế hộ nông dân, phục vụ cho nó, mà vì thế
thiếu kinh tế nông nghiệp thì HTX không có ý nghĩa gì cả". Sự tách rời này
diễn ra trước hết và phổ biến ở những khâu những quá trình cách xa công
việc trực tiếp của người nông dân với sinh vật. Ông đề xuất tập chung hóa
tối thiểu ở những quá trình sinh học, dần dần từng bước tập trung ở những
lĩnh vực có liên quan từ gần đến xa từ những khâu trong quá trình lưu thông,
chế biến nông sản dịch vụ kỹ thuật…
Sự tách rời và kết hợp lại như vậy sẽ biến đổi dần nền kinh tế nông dân,
tạo ra những nhân tố của nền sản xuất XHCN. Con đường đó sẽ từng bước
chuyển nền kinh tế nông dân biệt lập sang hình thức cao nhất của sản xuất
xã hội. Sự chuyển biến đó dài hay ngắn còn tùy thuộc vào trình độ phát triển
8
của LLSX. Sự tích tụ trong sản xuất nông nghiệp đi liền với sự phát triển
của những hình thức HTH theo chiều từ dưới lên trên. Sự hình thành phát

triển chế độ HTX như thế là quá trình tự nguyện của kinh tế hộ nông dân.
Nhà lý luận về HTX Mỹ - Rmelianov (1942) cho rằng HTX không phải
là một doanh nghiệp tập thể. HTX có điểm giống như công ty cổ phần vì
vốn do nhiều người góp lại. HTX có thể có cổ phần ở đây chỉ có nghĩa là
các xã viên cùng góp một số vốn vào để cùng hoạt động. Cổ phần mang tính
chất cá nhân rõ rệt chứ không phải mang tính vô danh như trong các công ty
cổ phần mang tính chất hạn chế. Các hộ nông dân tham gia vẫn giữ được
tính độc lập của họ. Do hộ nông dân tham gia vào HTX với những phần
không đều nhau nên phải đảm bảo tính công bằng của phần dịch vụ phí
không sử dụng (lãi) phải chia theo số lượng dịch vụ mà HTX đã thực hiện
cho các hộ, nghĩa là doanh số dịch vụ.
Về nguyên tắc: HTX đã được 28 người thợ dệt ở Rochdadale (Anh)
thành lập HTX tiêu thụ đầu tiên năm 1844 đề ra trong đó có nguyên tắc :Tự
do gia nhập; kiểm soát quản lý dân chủ, thể nhiện bằng quy tắc mỗi người
một phiếu; trả lãi dịch vụ phí thừa tỉ lệ với doanh số do HTX thực hiện…
Những nguyên tắc này đã được thử thách thực tế ở các nước có nền kinh tế
thị trường phát triển. Vấn đề này, Mác và Ăngghen đều tỏ thái độ hết sức
thận trọng đối với nông dân, coi đây là phương hướng, nguyên tắc của HTX.
Từ Đại hội VIII, Đảng cộng sản Nga, tháng 3 năm 1919, Lênin đã phê
phán gay gắt "ở đây dùng bạo lực thì có nghĩa là làm nguy hại đến toàn bộ
sự nghiệp. ở đây cần phải làm công tác giáo dục lâu dài… và không được
dùng mệnh lệnh". "Chỉ những HTX do những người nông dân điều hành
theo sáng kiến của họ và lợi ích của các HTX ấy được kiểm nghiệm trên
thực tế mới có giá trị".
Những luận điểm cơ bản trên đây cũng như lý luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin được chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc và vận dụng thành
9
công trong hoạt động thực tiễn ở Việt Nam. Người cho rằng khi xem xét vấn
đề nông dân phải kết hợp chặt chẽ vấn đề chính trị với vấn đề gốc rễ là vấn
đề kinh tế nông nghiệp. Việc quan tâm hàng đầu của người khi giành chính

quyền là độc lập dân tộc là người cày có ruộng. Trong "Đường cách mệnh"
(1927), Hồ Chí Minh viết : "Đảng cộng sản cầm quyền tổ chức ra Chính phủ
công, nông, binh phát đất cho nông dân người cày có ruộng… ra sức tổ chức
kinh tế mới". Trong giai đoạn phát triển kinh tế đất nước, lợi ích của nhân
dân và nông dân được đặt lên hàng đầu. Chính trị là sự biểu hiện trong luận
điểm "Nếu nước độc lập mà dân không hướng mục đích tự do thì độc lập
chẳng có ý nghĩa gì". Trong thời kỳ đất nước khôi phục và phát triển kinh tế
nhiều thành phần, bắt đầu từ nông nghiệp đã có thắng lợi to lớn để chứng
minh tư tưởng ấy. Người đã tiếp cận tư tưởng Mác về "Nghề nông hợp lý",
đã đóng góp hoàn thiện và áp dụng trong điều kiện cụ thể tại Việt Nam.
Người đặc biệt nhấn mạnh đặc điểm to lớn của nước ta trong thời kỳ quá độ
là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH. Hồ Chí Minh đã
hiểu rõ sức mạnh của sự hợp tác, liên kết, nhưng làm thế nào để tổ chức ra
sự tổ chức và liên kết đó, nhất là trong nông thôn lạc hậu, nông nghiệp manh
mún ở nước ta. Theo người "Sửa chữa cái xã hội ấy mấy ngàn năm (trì trệ,
lạu hậu nhân dân không có ruộng, canh tác manh mun…), làm xã hội mới
XHCN ấy mới là khó khăn. Nhưng biết làm đồng tâm hợp lực thì chắc chắn
làm được".
Về mục đích: Của các tổ hợp tác tuy cách làm thì khác nhau rất nhiều
nhưng mục đích thì nước nào cũng như nhau, đó là mưu lợi của những
người tham gia HTX, giúp đỡ tương trợ nhau, hạn chế bóc lột CNTB và đế
quốc.
Về lý luận: Người sử dụng ngay tục ngữ Việt nam "Nhóm lại thành
giầu chia ra thành khổ"… Người nói: "Muốn làm hòn núi cao phải vào tổ
đổi công và HTX vì nhiều người hợp lại thì sẽ làm được nhiều và tốt hơn".
10
Về loại hình: Người đưa ra bốn loại hình HTX: Một là HTX tín dụng,
hai là HTX mua bán, ba là HTX sản xuất, bốn là HTX vận tải. Và giải thích
HTX khác với hội buôn vì hội buôn lợi riêng, HTX lợi chung và tuy HTX là
để giúp đỡ nhau nhưng không giống các hội buôn từ thiện. Theo Người,

ngoài nguyên tắc chung của HTX là tự nguyện, cùng có lợi, dân chủ, còn
mang tính tương trợ giúp đỡ lẫn nhau và chống sự bóc lột. HTX tín dụng là
ngân hàng của dân, là nơi cung cấp vốn cho sản xuất và đời sống hoạt động
phải có hiệu quả và tạo được uy tín tín dụng trong nông thôn. Vai trò tác
dụng của mua bán là mang tính chất hợp tác nhằm có lợi cho nông dân đi
mua bán, chứ chưa nhấn mạnh tính chất kinh doanh thuần túy. Đối với HTX
sản xuất Người đưa ra ví dụ: "Người trồng bông khôn gcó bàn đánh bông,
không có đồ kéo sợi, cho nên phải bán bông rẻ. Nếu góp nhau làm HTX,
mua đủ đồ ra mà làm thì ít công mà lợi nhiều". Có thể nói thiên tài của
Người không chỉ đưa ra một lý thuyết về kinh tế hợp tác mà còn thể hiện
tầm nhìn xa, với một tinh thần thân ái, nhân văn sâu sắc đối với người nông
dân. Có lẽ vậy, ngay từ khi viết "Đường cách mệnh" để tuyên truyền tư
tưởng cách mạng giành độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh đã chuẩn bị con
đường phát triển kinh tế - xã hội trong nông nghiệp - nông thôn là HTX.
Về phương châm: Theo Người chỉ cần phát triển đổi công từng vụ việc
tiến tới đổi công thường xuyên mùa này sang mùa khác.
Về nguyên tắc : Một là, không được cưỡng bức ai hết; hai là, làm sao
cho những gia đình trong tổ đổi công đều có lợi; ba là, quản trị phải dân chủ
và phương pháp tổ chức đổi công là: không nên làm ham, làm mau, làm
rầm rộ, mà phải đi bước nào vững chắc bước ấy; phải thiết thực; phải làm từ
nhỏ đến lớn. Tư tưởng này cho thấy, Người đã vận dụng khéo léo các
nguyên tắc HTH của chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh thực trạng nông
thôn Việt Nam lúc đó. Theo người muốn xây dựng tổ đổi công và HTX được
11
tốt, phải đoàn kết, phải làm cho mọi người tham gia và phải bàn bạc dân chủ
và tính toán cho công bằng hợp lý.
Về quy mô : Theo Người không nhất thiết phải làm theo địa giới hành
chính. Việc lập một hay nhiều HTX tùy thuộc vào yêu cầu và các điều kiện
cụ thể từng nơi. Đây là tư tưởng liên hiệp HTX, vừa là kết quả vừa là tiền đề
tất yếu về mặt tổ chức trong sự phát triển HTHT trong nông thôn, trên cơ sở

đa dạng hóa nền kinh tế nhiều thành phần.
Như vậy, đối với Hồ Chí Minh, kinh tế hợp tác và HTX không phải là
mục đích mà chỉ là phương tiện thúc đẩy kinh tế phát triển. Hồ Chí Minh đã
thấy được trình độ non yếu trong công tác quản lý của cán bộ ta, nhất là tư
tưởng nóng vội, chủ quan, duy ý chí trong việc phát triển KTHT ở nông
thôn. Hồ Chí Minh nói "Nông dân cần trông thấy lợi ích bộ phận và lợi ích
toàn cuộc. Cho nên việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại
cho dân phải hết sức tránh". Mục đích của việc xây dựng và phát triển của
HTX là nhằm cải thiện đời sống cho nhân dân.
Tóm lại, các luận điểm cơ bản của các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội
khoa học về chế độ kinh tế môi trường và HTX tập trung chủ yếu vào vấn đề
sau:
Do đặc điểm của ngành sản xuất nông nghiệp kiểu tổ chức trang trại
gia đình có hiệu quả cao, ưu việt hơn những trang trại có quy mô lớn và
không thể tổ chức theo kiểu xí nghiệp công nghiệp.
HTX chỉ là phương tiện đưa nông dân đến sự ấm no, văn minh, chống
sự bóc lột và cũng là con đường đơn giản nhất, dễ tiếp thu nhất đối với nông
dân trong quá trình xây dựng chế độ mới.
Sự ra đời của chế độ hợp tác p;hải dựa vào trên cơ sở tự nguyện của
người tham gia, theo yêu cầu sản xuất của người kinh doanh , cũng từ đó sẽ
đảm bảo được các nguyên tắc HTH và HTX hoạt động có hiệu quả hơn. các
quan hệ hợp tác nẩy sinh trên cơ sở của nhu cầu kinh tế gia đình, kinh tế
12
nông trại, dù bất kỳ hình thức nào cũng không được dùng mệnh lệnh cưỡng
bức nông dân vào HTX hoặc tước đoạt TLSX của nông dân.
Chế độ KTHT và HTX phải giải quyết hài hoà các quan hệ lợi ích giữa
nông dân với xã hội và giữa hộ nông dân với các tổ chức kinh tế hợp tác và
HTX.
2. Hợp tác hóa nhìn từ kinh nghiệp của các nước trên thế giới.
2.1. Hợp tác xã nông nghiệp ở Trung Quốc

Ở Trung Quốc, sau cách mạng năm 1919, ở nông thôn do nhu cầu sản
xuất đã thể hiện các hình thức hợp tác đơn giản; đổi công, tương trợ, các
HTX cấp thấp về sản xuất, tiêu thụ, vận chuyển, tín dụng… Từ năm 1955
đến năm 1957 có 87% hộ nông dân và 800.000 HTX, thực tế đó là các công
xã nhân dân với quy mô cao nhất là tập trung cao độ về ruộng đất và lao
động phân phối theo ngày công. Hình thức tổ chức HTX ở đây áp dụng hình
thức công xã giống như trong quân đội. Đội sản xuất là đơn vị cấp cơ sở
gồm 30 hộ trở nên với diện tích canh tá từ 15 đến 20 ha. Trên đội sản xuất là
đại đội, mỗi đại đội gồm 10 đội, trên đại đội là trung đoàn sản xuất bao gồm
khoảng 10 đại đội. Nhiệm vụ của các trung đoàn là xây dựng các kết cấu hạ
tầng cơ sở, thủy lợi, xưởng thủ công và xí nghiệp nông thôn. Trên trung
đoàn là công xã gồm khoảng 50.000 lao động, nhiệm vụ chủ yếu làm chức
năng hành chính. Sản phẩm của công xã nộp cho Nhà nước (thuế, giá bán do
Nhà nước quy định…) sau đó Nhà nước phân phối lại theo chế độ khẩu
phần. Trong công xã, những gia đình nghèo được phân phối không theo kết
quả lao động. Thực chất tổ chức mô hình công xã như vậy là xóa bỏ quan hệ
hàng hoá tiền tê, thực hiện chế độ bao cấp gần như hoàn toàn. Trong sản
xuất mọi sáng kiến và động lực cá nhân không được khuyến khích đã kìm
hãm sản xuất. Trước tình hình đó từ năm 1978 các công xã sản xuất bị giải
thể, thực hiện giao khoán dài hạn cho hộ nông dân tổ chức sản xuất theo
13
từng hộ gia đình và đang phát triển các hình thức liên kết kinh tế mới, các
hình thức HTX dịch vụ cho các nông hộ.
2.2. Hợp tác xã nông nghiệp ở Thái Lan.
Ở Thái Lan, HTX đầu tiên được thành lập từ năm 1916 với 16 thành
viên, mục đích của HTX là giúp đỡ nông dân trang trải những món nợ và
bảo vệ quyền canh tác trên ruộng đất đi thuê. Do hoạt động có hiệu quả cao
cùng với sự giúp đỡ của Nhà nước nên chỉ 2 năm sau đã có hơn 60 HTX
nông nghiệp được thành lập ở hầu hết các tỉnh trong cả nước. Cho đến nay
HTX nông nghiệp ở Thái Lan vẫn giữ vai trò quan trọng trong hệ thống

HTX cả nược. Hoạt động của các HTX nông nghiệp rất đa dạng, có thể kể
đến một số hoạt động chính của HTX như : cho xã viên vay vốn, nhận tiền
gửi tiết kiệm của xã viên, thu mua nông sản của xã viên để kinh doanh, cung
ứng vật tư, máy móc nông nghiệp, hạt giống cho xã viên, cung ứng các loại
dịch vụ cho xã viên.
Hệ thống tổ chức HTX nông nghiệp theo 3 cấp : HTX cấp huyện, tỉnh
và quốc gia. HTX cấp huyện do một ban thường trực quản lý, thành viên của
ban này gồm đại diện của tất cả các Hiệp hội nông dân cấp xã trong phạm vi
huyện, để giúp đỡ các HTX có một ban cố vấn bao gồm chủ yếu là các quan
chức Nhà nước do người đứng đầu huyện làm chủ tịch, ba hoặc nhiều HTX
cấp huyện hợp thành HTX cấp tỉnh. Các HTX nông nghiệp ở Thái Lan được
hình thàn từ những người nông dân tự nguyện liên kết lại với nhau. Cơ quan
quyền lực cao nhất của HTX là đại biểu đại hội xã viên hay đại hội đại biểu
xã viên, đại hội bầu ra hội đồng ban quản trị, hội đồng ban quản trị chỉ định
chủ nhiệm, chủ nhiệm lập và điều hanh bộ máy quản lý HTX.0
2.3. Hợp tác xã nông nghiệp ở Liên Xô.
Ở Liên Xô cũ, do nền sản xuất hàng hoá TBCN phát triển chậm hơn
nên các hình thức HTX cũng phát triển muộn hơn so với các nước TBCN.
Các hình thức HTX trong nông nghiệp phát triển chủ yếu vào cuối thế kỷ
14
XIX đầu thế kỷ XX. Các HTX được hình thành một cách tự nguyện của
những hộ nông dân trong các lĩnh vực tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ, tín
dụng…
Cách mạng tháng 10 thành công, Nhà nước Sô Viết thực hiện khẩu hiệu
"Người cày có ruộng". Sau đó trong những năm nội chiến (1918 - 1920), về
cơ bản nông nghiệp nước Nga vẫn là cá thể. Cũng trong giai đoạn này, tư
tưởng tả khuynh nảy nở. Họ cho rằng tập thể hóa (TTH) và HTX càng
nhanh càng sớm thì càng nhanh có chủ nghĩa xã hội, từ đso kinh tế tiểu nông
đã bị xóa bỏ, đưa nông dân vào các doanh nghiệp nông nghiệp Nhà nước và
cho đó là làm ăn lớn. Tiến hành phong trào TTH tuyệt đối đại bộ phận nông

dân trong vòng 3 đến 4 năm để hoàn thành cải tạo CNXH và áp dụng biện
pháp cưỡng chế.
Nội chiến kết thúc, với chính sách kinh tế mới (NEP) và những tư
tưởng mới về HTH đã chỉ ra biện chứng của quá trình phát triển : phục hồi
củng cố và phát triển kinh tế tiểu nông vào cuộc xây dựng CNXH. Khả năng
đó chính là nhờ con đường HTH tự nguyện, vì lợi ích của nông dân, thông
qua lợi ích của họ để gắn bó với lợi ích xã hội, chứ không phải con đường
TTH cưỡng bức phi kinh tế. Nhờ đó mà nước Nga thoát khỏi khủng hoảng
và có bước phát triển mạnh trong thời kỳ 1921 - 1928. Tuy nhiên, sau khi
Lênin mất, phong trào HTH lại tiếp diễn và ngày càng gay gắt hơn.
Sau này, những nhà lãnh đạo Liên Xô, những nhà khoa học và kể cả
những người dân đều thấy rõ bản chất mô hình trang trại tập thể. Viện sỹ
V.Tikhonov khi nói về quá trình TTH cưỡng bức như sau: "Sau bài học đẫm
máu ấy, người nông dân trở thành thế nào? Bị tách khỏi ruộng đất khỏi sự
phân phối sản phẩm, anh ta tđã từ chỗ làm chủ trở thành người thừa hành
các công việc". Và kết luận sự ngu dốt về mặt lý luận và do đó sự bất lức
trong chính sách quản lý. Đó là một tệ hại nặng nhất mà đất nước phải gánh
chịu. Chính vì vậy những năm 1980, Liên Xô đã phải thi hành cải tổ căn bản
15
lĩnh vực nông nghiệp. Đã xuất hiện một cách tự nguyện các HTX sản xuất
cung tiêu, dịch vụ với quy mô nội dung khác nhau ở trong và ngoài nông
trường quốc doanh và nông trường tập thể, nông trại gia đình đã hình thành
và hoạt động có hiệu quả.
2.4. HTX nông nghiệp ở Nhật Bản
Khác với các nước Đông Âu - nơi phát triển mạnh các HTX chuyên
ngành, ở Nhật Bao bìả lại phổ biến phát triển các HTX tổng hợp chiếm tới
99,2% số nông trại. Hệ thống HTX ở Nhật Bản gồm 3 cấp : cấp Trung wong
hình thành liên hiệp toàn quốc gia HTX Nhật Bản (AZENOH) bao gồm các
hiệp hội, liên đoàn toàn quốc về ngân hàng tín dụng nông nghiệp, bảo hiểm
nông nghiệp, xuất bản thông tin nông nghiệp. Sau cấp Trung ương là cấp

quận thành phố (KRZALEN) làm nhiệm vụ cung ứng trực tiếp cho các nông
trại vốn tín dụng, dịch vụ kỹ thuạt mua nông sản. Liên hiệp HTX nông
nghiệp quận với 10.000 hộ xã viên thường có 500 đến 600 cơ sở cấp xã, thị
trấn và các HTX cơ sở, các HTX cơ sở tập hợp 99,2% số nông trại tham gia.
Nhìn chung quy mô các HTX ngày càng tăng lên và số HTX giảm đi.
Ở NHật Bản, các hợp tác xã không làm nhiệm vụ chỉ đạo, quản lý trực
tiếp đất đai, lao động hoạt động sản xuất của các nông trại mà chỉ làm các
dịch vụ cho sản xuất như là ấp trứng, xưởng chế biến, xưởng sửa chữa công
cụ máy móc. Ngoài ra còn một số cơ sở phục vụ sinh hoạt như nhà văn hóa,
cửa hàng ăn uống, hệ thống thông tin liên lạc… quy mô đất canh tác của các
HTX ở các vùng trồng lúa thường nhỏ còn quy mô canh tác ở các HTX
trồng loại cây trồng khác và chăn nuôi bò thường lớn hơn. Bên cạnh hình
thức HTX tổng hợp, ở Nhật Bản còn phát triển các HTX chuyên ngành như:
Nuôi ong, nuôi lợn, gia cầm, nghề vườn và các HTX thủ công nghiệp.
Tóm lại, qua tóm tắt sơ lược về quá trình HTH là HTX nông nghiệp ở
một số nước trên thế giới cho thấy : HTX là một hình thức tổ chức kinh tế
có khả năng thu hút số đông người tham gia nhằm giải quyết những mục
16
đích, nhu cầu chung cả về kinh tế và xã hội. HTX hỗ trợ giúp đỡ và tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh của các thành viên, đồng thời
bảo vệ những lợi ích chính đáng của họ nhất là trong cơ chế thị trường.
Cơ sở cho sự hình thành và phát triển kinh tế HTX nông nghiệp là kinh
tế hộ nông dân hay kinh tế trang trại. HTX không phải là mục tiêu cuối cùng
của tổ chức sản xuất mà chỉ là một hình thức và biện pháp nhằm thúc đẩy và
phát triển sản xuất nông nghiệp và nó là con đường xã hội hóa nền nông
nghiệp.
Đa số các HTX được hình thành không phải trên cơ sở tập thể hóa mà
bằng góp vốn và phân chia lợi ích, do vậy không đụng chạm đến quyền sở
hứu của từng hộ, nông trại. Mặt khác nó lại tạo điều kiện làm tăng thêm
năng lực sản xuất và lợi ích của từng hộ, nông trại. Do vậy hội nông dân dễ

dàng chấp nhận và tham gia một cách hoàn toàn tự nguyện.
17
3. Hợp tác hóa nông nghiệp ở Việt Nam và những vấn đề cần đặt ra khi
đổi mới hiện nay.
3.1. Hợp tác xã nông nghiệp ở Việt Nam
Kinh tế HTX ở nước ta hình thành từ những năm 1950 và phát triển
mạnh trong những namư (1960- 1962) ở miền Bắc và năm (1976 - 1980) ở
miền Nam. Trong thời gian dài, nhất là trong những năm kháng chiến chống
Mỹ, phong trào HTX ở miền Bắc đã góp phần tích cực tạo công ăn việc làm,
góp sức người sức của cho thắng lợi trên cả hai miền đất nước. Năm 1987
là năm đạt tới đỉnh cao nhất của sự phát triển về số lượng HTX, tiếp đó là
giai đoạn có nhiều biến đổi lớn nhất là từ khi chuyển sang nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước. Đến cuối năm 1987 cả nước có 17.022
HTX nông nghiệp và có 36.352 tập đoàn sản xuất nông nghiệp, (thực cất là
HTX bậc thấp có quy mô ở các tỉnh Nam Bộ cũ) đã thu hút 93% số hộ vào
làm ăn tập thể. Từ khi tiến hành đổi mới kinh tế theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng CNXH. Việc đổi mới HTX trở thành
một yêu cầu khách quan và bức xúc. Nghị quyết 10 của bộ chính trị (khóa
VI) ngày 5 tháng 4 năm 1998 và các nghị quyết tiếp theo của Trung ương
đã xác định : hộ xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ kinh tế hợp tác có nhiều
hình thức từ thấp đến cao, mọi tổ chức sản xuất kinh doanh do những người
lao động tự nguyện góp vốn, góp sức, được quản lý theo nguyên tắc dân chủ
không phân biệt quy mô, mức độ tập thể hóa TLSX. Nghị quyết ban chấp
hành Trung ương Đảng lần thứ 5 (Khóa VII ngày 10 tháng 6 năm 1993) chủ
trương : "Tiếp tục đổi mới HTX theo hướng phát huy tiềm năng to lớn và vị
trí quan trọng lâu dài của kinh tế hộ xã viên, đồng thời làm tốt quy hoạch
hướng dẫn sản xuất phát triển kinh doanh công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, dịch vụ mà từng hộ xã viên không làm được hoặc làm không có hiệu
quả, cùng với chính quyền địa phương chăm lo sự nghiệp phúc lợi xã hội.
Thực hiện đúng nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi".

18
Thực hiện Nghị quyết của Đảng, các HTX nông nghiệp đã tập trung
giải quyết những vấn đề cơ bản để phát huy vai trò tự chủ của hộ xã viên.
Đến nay ruộng đất và hều hết các TLSX cơ bản đã khác và đã có chủ cụ thể
hóa về ruộng đất và các tư liệu sản xuất cơ bản, HTX chỉ giữ lại những cơ
sở vật chất kỹ thuật có liên quan trực tiếp đến đời sống chung của xã viên và
cũng giao khoán cho các hộ nhóm lao động hoặc người lao động quản lý sử
dụng như các công trình thủy lơi, đường điện trạm biến thế, các cơ sở dịch
vụ máy móc lớn… phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt; phần lớn các tài sản
còn lại đã hóa giá bán cho hộ xã viên hoặc hóa giá và chuyển sang UBND
xã quản lý để phục vụ chung cho của xã ví dụ: Qua điều tra 360 HTX ở tỉnh
Hải Hưng, giá trị bình quân mỗi hợp tác xã là 411.276.000 đồng, Hợp tác xã
giữ lại chỉ chiếm 21,2%; chuyển nhượng cho hộ cá nhân 39,9%; chuyển
giao sang UBND xã 40,9%.
Hiện nay các HTX đã và đang tiếp tục giao quyền sử dụng ruộng đất ổn
định lâu dài cho hộ xã viên HTX rút dần sự can thiệp trực tiếp vào quyền
chủ động sản xuất kinh doanh cho hộ xã viên. Hộ xã viên tự quyết định việc
sản xuất kinh doanh của hộ xã viên, tự do mua vật tư, thuê dịch vụ, bán sản
phẩm. HTX và hộ xã viên quan hệ bình đẳng thông qua hợp đồng kinh tế,
việc thu quỹ cho hợp tác xã về cơ bản đã được xóa bỏ. Chính quyền không
giao chỉ tiêu pháp lệnh cho kế hoạch sử dụng của hợp tác xã, bỏ việc giao
nghĩa vụ bán nông sản đối với xã viên giảm bớt những công việc HTX phải
làm thay cho chính quyền và những khoản đóng góp khác.
Khi chuyển sang cơ chế thị trường, HTX chuyển sang kinh doanh dịch
vụ cho hộ xã viên và hướng dẫn sản xuất cho kinh tế hộ cá nhân phát triển,
phải cạnh tranh trong cơ chế thị trường nhiều thành phần kinh tế tham gia
sản xuất hàng hoá, nhiều HTX không có khả năng trụ vững đã phải giải thể.
Từ năm 1988 đến năm 1994 đã có 2.958 HTX tự giải thể chiếm 17,4% tổng
số HTX v có 33.804 tập đoàn sản xuất như tỉnh An Giang, Minh Hải, Cần
19

Thơ, Trà Vinh, Cao Bằng. Một số khá đông HTX tồn tại chỉ là hình thức
chiếm 43,3% những HTX này đang là lực cản nặng nề đối với kinh tế hộ xã
viên. Việc chuyển những HTX loại này sang hình thức hợp tác khác còn
đang lúng túng và không ít những HTX chỉ hoạt động được vài khâu, vài
việc nhưng mức độ và kết quả thấp. Một số ít HTX đổi mới đã có kết quả.
Theo báo cáo của các tỉnh đến cuối năm 1994 số lượng HTX đã đổi mới có
kết quả là 2.560 HTX chiếm 16,3% tổng số nhưng trên thực tế tỷ lệ này chỉ
vào khoảng 10% và đang có xu hướng giảm. Các HTX đổi mới có kết quả
đã chuyển sang kinh doanh dịch vụ, giúp cho kinh tế hộ xã viên phát triển;
tổ chức thêm ngành nghề mới hoặc khôi phục ngành nghề truyền thống để
tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho xã viên; hướng dẫn xã viên tiếp cận
thị trường chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ mới cho các hộ chăm lo
xây dựng cơ sở hạ tầng, phát huy việc làm tình nghĩa thực hiện một số phục
lợi xã viên; có quy chế quản lý thích hợp như khoán vốn cho chủ nhiệm
HTX, tổ chức dịch vụ.
Ở nhiều nơi HTX nông nghiệp cũ giải thể hoặc tuy còn nhưng vai trò bị
lu mờ, các hộ nông dân trở thành đơn vị kinh tế tự chủ đã xuất hiện nhu cầu
HTX mới nên nhiều nơi nông dân đã tự nguyện lập ra các hình thức kinh tế
hợp tác đa dạng như:
Các tổ dẫn nước xuất hiện nhiều nơi ở đồng bằng sông Cửu Long,
nhiều hộ trên cùng một cánh đồng rủ nhau bỏ công sức làm chung một
đường dẫn nước.
Các tổ liên gia giúp nhau vay vốn ngân hàng
Các hội nghề nghiệp làm vườn, nuôi tôm, nuôi hươu… giúp nhau tiếp
cận với khoa học, công nghệ mới, kinh nghiệm làm ăn giao dịch tiêu thụ sản
phẩm …
Các hình thức góp vốn góp sức xây dựng cơ sở hạ tầng như đường
điện, kênh dẫn nước, giao thông…
20
Những tổ hợp tác mới có khi chỉ hình thành trong một thời gian nhất

định nhưng xu hướng đang hình thành đơn vị kinh doanh có đủ tư cách pháp
nhân hoạt động thực sự theo cơ chế HTX. Hiện nay nhìn chung các tổ hợp
tác kiểu mới có quy mô nhỏ trên dưới 10 hộ tổ chức gọn nhẹ, nội dung hoạt
động còn đơn giản nhưng thiết thực, phân chia lợi ích công bằng, cùng có
lợi nên được nông dân đồng tình hưởng ứng; Nhiều tổ hợp tác kiểu mới xuất
hiện ngay trong HTX kiểu cũ. Ngoài sự xuất hiện những HTX kiểu mới đã
một số HTX trên cơ sở hợp nhất một số tập đoàn sản xuất nông nghiệp một
cách tự nguyện thành lập HTX để tập trung vốn, tổ chức hoạt động dịch vụ
cho xã viên tốt hơn.
3.2. Những vấn đề đặt ra khi đổi mới HTX hiện nay.
Nền kinh tế nước ta xuất phát từ nền kinh tế nông nghiệp, sản xuất nhỏ
lạc hầu, sang nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phần tham gia theo
cơ chế thị trường, phát triển đa dạng các hình thức kinh tế hợp tác trong đó
có HTX. Đây cũng là thời gian chuẩn bị cho công cuộc công nghiệp hóa đất
nước, thì hàng loạt các vấn đề mới lại nảy sinh yêu cầu cần phải giải quyết.
Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn vẫn là một trong xí nghiệp
chiến lược phát triển kinh tế xã hội chủ yếu của nước ta cho nên việc giải
quyết những mẫu thuận để cho kinh tế hộ và kinh tế HTX phát triển dựa trên
kinh tế hộ tự chủ làm cho hai nhân tố này trở thành những nhân tố cộng
sinh. Do vậy trong tình trạng hiện nay, việc tạo điều kiện thuận lợi để cho
kinh tế hợp tác ra đời và phát triển mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế nông nghiệp
nông thôn cũng là việc tháo gỡ những mâu thuẫn vướng mắc và những yêu
cầu đặt ra mà mức chủ yếu là :
Cần lựa chọn các hình thức hợp tác thích hợp. Mọi hình thức hợp tác
kiểu mới phải xuất phát từ lợi ích kinh tế của người nông dân, người lao
động. Lợi ích kinh tế là mục tiêu đồng thời là tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả
của chế độ hợp tác. Bất kỳ hình thức kinh tế hợp tác nào, ngành nào lựa
21
chọn nếu không tôn trọng lợi ích của người nông dân thì người nông dân
cũng sẽ từ chối hoặc thờ ơ vì quyền lợi kinh tế đóng vai trò quyết định "Cần

phải nêu cao tính hơn hẳn của HTX bằng những kết quả thiết thực là làm
cho thu nhập của xã viên được tăng thêm, làm cho xã viên sau khi vào HTX
thu hoạch nhiều hơn hẳn kho còn ở ngoài. Như thế xã viên sẽ phấn khởi gắn
bó chặt chẽ với HTX của mình".
Biểu 1: So sánh đặc trưng giữa mô hình HTX nông nghiệp kiểu cũ và
mô hình HTX kiểu mới
STT
Tiêu thức HTX NN kiểu cũ HTX kiểu mới
1 Cơ sở ra đời Theo chủ trương của cấp trên Từ nhu cầu sản xuất kinh doanh của họ
2 Mức độ tự nguyễn Thấp Cao
Hình thức tổ chức Lớn, đơn giản, gần với địa giới
hành chính thôn xã một người
chỉ tham gia một HTX
Nhỏ, đa dạng, không lệ thuộc vào ranh
giới hành chính một người có thể tham
gia vào người HTX với các ngành khác
nhau
4 Chủ thể tham gia Người lao động xã viên Hộ, cổ đông
5 Cơ sở kinh tế tham
gia
Ruộng đất và tư liệu sản xuất
chủ yếu được tập thể hóa
Chủ yếu là sở hữu riêng sử dụng chung
6 Tính chất vốn tài sản Ruộng đất và tư liệu sản xuất
chủ yếu được tập thể hóa
Chủ yếu là đóng góp cổ phần
7 Nội dung kinh
doanh
Chủ yếu là sản xuất thuần
nông, tự cấp

Chủ yếu làm dịch vụ đầu vào, đầu ra
cho kinh tế hộ
8 Cơ chế quản lý Chủ yếu là hiện vật bao cấp Kinh doanh theo cơ chế thị trường
9 Tính chất hoạt động Để phát triển kinh tế tập thể
của chính bản thân mỗi HTX
và thay thế căn bản hoạt động
kinh tế mỗi hộ
Vì yêu cầu và mục tiêu phát triển kinh
tế của mỗi hộ có thành viên đã góp cổ
phần góp sức để thành lập HTX nên nó
vì kinh tế hộ chứ không phải thay thế
kinh tế hộ
10 phân phối Đề ra theo lao động nhưng còn
mang nặng tính bình quân
Theo lao động vốn cổ phần và mức độ
sử dụng
11 Mục đích thành lập Đưa nông dân vào làm ăn tập
thể và phát triển kinh tế tập thể
Không coi lợi nhuận là mục tiêu tối cao
mà vì sự phát triển và hiệu quả của kinh
tế hộ.
22
Biểu 2: So sánh đặc trưng giữa mô hình hợp tác và hợp tác xã nông
nghiệp kiểu mới
STT
Tiêu thức Tổ hợp tác HTX nông nghiệp kiểu mới
1 Bản chất kinh tế
và nguyên tắc tổ
chức hoạt động
Căn bản giống HTX Theo luật HTX quy định

2 Quy mô Nhỏ Tối thiểu có 7 xã viên
3 Tính chất pháp lý Không có tư cách pháp
nhân thực hiện theo luật
dân sự
Có tư cách pháp nhân thực
hiện theo luật HTX hiện
hành.
4 Mức độ định Mang tính chất tạm thời ổn định lâu dài
5 Tài sản Không có tài sản độc lập Có tài sản độc lập tự chịu
trách nhiệm về các hoạt
động bằng tài sản của HTX
6 Tổ chức Chưa có bộ máy tổ chức
chặt ché
Cơ cấu tổ chức và bộ máy
quản lý chặt chẽ
7 Cơ sở hoạt động Hợp đồng giữa các tổ
viên
Theo luật và điều lệ của
HTX
8 Hướng phát triển HTX Tổ chức kinh tế. Từ với quy
mô ngày càng lớn (liên hiệp
liên minh với các HTX NN)
Trong mấy năm gần đây hàng vạn tổ chức hợp tác với nhiều hình thức
phong phú, đa dạng như tổ nhóm hợp tác từng vụ, từng việc và HTX từng
khâu, từng giai đoạn của quá trình sản xuất. HTX kinh doanh tổng hợp đã
được các hộ nông dân xây dựng ở nhiều địa phương trong cả nước, trong đó
phần lớn các tổ chức hợp tác đơn giản. Những dạng hợp tác đó mang mở ra
triển vọng trên con đường phát triển ở nông thôn. Chúng ta không phủ nhận
việc chuyển đổi HTX kiểu cũ sang kiểu mới, nhưng việc mở rộng xu hướng
đó một cách ồ ạt theo phong trào sẽ không đem lại kết quả thiết thực.

23
ở những vùng nông nghiệp có trình độ sản xuất hàng hoá cao, để gắn
bó chặt chẽ giữa sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm, để bảo vệ lợi ích
của mình trong nền kinh tế thị trường nông dân dễ nhận thấy động cơ lợi ích
và tham gia một cách tự nguyện tổ chức HTX tại những vùng nông nghiệp
hàng hoá có môi trường thuận lợi và có nội dung để hoạt động. Có thể hình
thành những HTX đa ngành (kinh doanh tổng hợp), HTX chuyên ngành
hoặc các HTX thực hiện một vài công đoạn của sản phẩm trong quá trình
sản xuất hoặc dịch vụ. Cần khuyến khích hình thành và phát triển các dạng
HTX đơn giản như tổ, nhóm hợp tác từng khâu, từng việc của quá trình sản
xuất hoặc dịch vụ để tiến tới hình thành và phát triển của các hợp tác xã
chuyên ngành hoặc HTX đa ngành.
Đối với những vùng sản xuất hàng hoá chưa phát triển, chủ yếu là sản
xuất tự cấp tự túc thì nên lựa chọn các hình thức hợp tác thấp để giải quyết
một số khó khăn của hộ nông dân trong sản xuất tiêu thụ sản phẩm và đời
sống. Hình thức hợp tác có thể là tổ, nhóm hợp tác với quy mô nhỏ, hoạt
động trong một số khâu làm đất, cung cấp giống… Cùng với sự phát triển
sản xuất, nâng cao trình độ sản xuất hàng hoá, những hình thức đơn giản
trên sẽ phát triển, từ đó hình thành các HTX. Trước mắt ở những vùng này
không nên đưa nông dân vào các hình thức hợp tác bậc cao hoặc chuyển đổi
HTX kiểu cũ sang HTX kiểu mới một cách nhanh chóng khi trình độ lực
lượng sản xuất còn thấp kém. Bước đi trên đây là hợp quy luật, sẽ đưa
phong trào HTX ở nước ta đi từng bước vững chắc để tiếp tục đổi mới và
phát triển
24
PHẦN III
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
1. Vị trí địa lý

Vụ Bản là 1 trong 10 huyện, thành phố của tỉnh Nam Định. Một tỉnh
trọng điểm nông nghiệp của đồng bằng châu thổ sông Hồng.
Vụ Bản nằm ở phía tây bắc của tỉnh Nam Định, có trung tâm huyện lỵ
(thị trấn Gôi) cách thành phố Nam Định (Trung tâm tỉnh Ninh Bình) là 13
km, có đường sắt Bắc - Nam và quốc lộ 10A chạy qua với 13 km, có 2 tỉnh
lộ và tỉnh lộ 12 và 56 cắt vuông góc chạy qua huyện.
- Phía Đông giáp thành phố Nam Định.
- Phía Nam giáp sông Đào.
- Phía Tây và Tây nam giáp huyện ý Yên.
- Phía Bắc giáp huyện Mỹ Lộc.
- Phía Tây Bắc giáp huyện Bình Lục (Hà Nam) và 1 phân của huyện ý
Yên.
Với vị trí địa lý như trên Vụ Bản rất thuận lợi để giao lưu kinh tế - văn
hóa, tập trung các nguồn lực cho phát triển kinh tế nói chung và sản xuất
nông nghiệp nói riêng
2. Địa hình.
Nhìn chung Vụ Bản có địa hình tương đối bằng phẳng, phía Bắc vùng
thượng huyện đất hơi thấp và được cao dần lên ở phía Nam (Phần giáp quốc
lộ 10).
Từ đất đai, địa hình và các tiêu chí khác, người ta chia Vụ Bản thành
hai tiểu vùng sinh thái kinh tế khác nhau:
25

×