Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Nghiên cứu thành phần loài, cấu trúc quần xã san hô cứng và hình thái rạn san hô ven đảo phú quý tỉnh bình thuận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (13.44 MB, 91 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
--------------------------------------

Nguyễn Văn Hiếu

NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN LOÀI, CẤU TRÚC
QUẦN XÃ SAN HÔ CỨNG VÀ HÌNH THÁI RẠN SAN HÔ
VEN ĐẢO PHÚ QUÝ TỈNH BÌNH THUẬN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Hà Nội, 2010


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
--------------------------------------

Nguyễn Văn Hiếu

NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN LOÀI, CẤU TRÚC
QUẦN XÃ SAN HÔ CỨNG VÀ HÌNH THÁI RẠN SAN HÔ
VEN ĐẢO PHÚ QUÝ TỈNH BÌNH THUẬN

Chuyên ngành: Thuỷ sinh vật học
Mã số: 60.42.50
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Người hướng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN HUY YẾT



Hà Nội, 2010



Lời cảm ơn
Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và cảm ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Huy Yết,
người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên
cứu hoàn thiện luận văn tốt nghiệp.
Tôi xin cảm ơn đến PGS. TS. Nguyễn Xuân Quýnh và các thầy, cô giáo các
cán bộ trong bộ môn Động vật không xương sống Khoa sinh học - Trường Đại học
Khoa học tự nhiên - Đại học Quốc Gia – Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi
hoàn thiện luận văn này.
Trong thời gian làm luận văn tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của
Ban chủ nhiệm dự án “ Xây dựng Quy hoạch chi tiết khu bản tồn biển Phú Quý,
tỉnh Bình Thuận”, toàn thể các đồng nghiệp phòng Nghiên cứu Bảo tồn Biển và
Trung tâm Quan trắc Quốc gia Cảnh báo Môi trường biển - Viện nghiên cứu Hải
Sản. Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến gia đình tôi đã luôn ủng
hộ, động viên và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.

i


ii


iii



DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1. Số lượng loài san tạo rạn ở các vùng ven biển Việt Nam…..............
……...Error: Reference source not found
Bảng 2. Độ phủ san hô tại một số vùng chủ yếu ven biển Việt NamError: Reference
source not found
Bảng 3. Biến đổi độ phủ san hô cứng, san hô mềm và san hô chết ở một số địa điểm
xung quanh quần đảo Côn Đảo quan sát trước và sau cơn bão Linda năm 1997Error:
Reference source not found
Bảng 4. Hàm lượng Cyanua trong môi trường nước xung quanh đảo Bạch Long Vĩ
tháng 5/1998............................................................Error: Reference source not found
Bảng 5. Toạ độ mặt cắt tại các vùng rạn nghiên cứu san hô ven đảo Phú Quý. Error:
Reference source not found
Bảng 6. Giới hạn cho phép của một số thông số môi trường nước sử dụng đánh giá
tổng thể môi trường.................................................Error: Reference source not found
Bảng 7. Giá trị của một số thông số môi trường nước cơ bản ven đảo Phú Quý Error:
Reference source not found
Bảng 8. Hàm lượng COD, dầu và xyanua trong nước biển ven đảo Phú Quý...Error:
Reference source not found
Bảng 9. Cấu trúc thành phần loài quần xã san hô cứng ven đảo Phú Quý.........Error:
Reference source not found
Bảng 10. Đa dạng thành phần loài san hô cứng vùng biển Đông Nam Bộ........Error:
Reference source not found
Bảng 11. Danh sách thành phần loài san hô cứng và phân bố ven đảo Phú Quý
.................................................................................Error: Reference source not found
Bảng 12. Chỉ số Sorensen về sự tương đồng của loài giữa các vùng rạn khảo sát san
hô ven đảo Phú Quý................................................Error: Reference source not found
Bảng 13. Giới hạn phân bố theo độ sâu của quần san hô ven đảo Phú Quý......Error:
Reference source not found


iv


Bảng 14. Phân bố diện tích tại các vùng rạn san hô chủ yếu ven đảo Phú Quý.Error:
Reference source not found
Bảng15. Độ phủ trung bình san hô sống, hợp phần đáy tại 9 vùng rạn ven đảo Phú
Quý..........................................................................Error: Reference source not found

v


DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1: Bản đồ đảo Phú Quý ……………….
……………………………………..Error: Reference source not found
Hình 2. Vị trí mặt cắt khảo sát tại các vùng rạn ven bờ đảo Phú Quý................Error:
Reference source not found
Hình 3.Khảo sát tổng quan bằng phương pháp Manta tow...Error: Reference source
not found
Hình 4. Nhiệt độ (0C), độ muối (‰) trung bình tháng nhiều năm khu vực biển ven
đảo Phú Quý............................................................Error: Reference source not found
Hình 5. Chỉ số RQtt tính theo GHCP của Việt Nam và tính theo ngưỡng ASEAN
trong 2 đợt quan trắc chất lượng nước biển đảo Phú Quý (2010).....Error: Reference
source not found
Hình 6. Phân bố số lượng thành phần giống, loài san hô cứng tại các..............Error:
Reference source not found
khu vực nghiên cứu.................................................Error: Reference source not found
Hình 7. Phân bố số lượng loài san hô cứng trên các vùng rạn nghiên cứu.......Error:
Reference source not found
Hình 8. Sơ đồ cấu trúc mặt cắt ngang rạn san hô viền bờ điển hình gồm..........Error:
Reference source not found

5 đới cấu trúc...........................................................Error: Reference source not found
Hình 9. Đới bằng rộng với sự phát triển loài ưu thế thuộc vùng rạn Đông Bắc Phú
Quý..........................................................................Error: Reference source not found
Hình 10. Đới sườn dốc với tính đa dạng loài cao thuộc vùng rạn Nam Phú Quý
.................................................................................Error: Reference source not found
Hình 11. Phân bố rạn san hô theo hiện trạng độ phủ san hô ven đảo Phú Quý..Error:
Reference source not found
Hình 12. Biến động độ phủ san hô sống, san hô chết ven đảo..........Error: Reference
source not found

vi


Phú Quý theo thời gian...........................................Error: Reference source not found
Hình 13. Hoạt động neo đậu tầu thuyền và sả thải chất ô nhiễm ven đảo Phú Quý
.................................................................................Error: Reference source not found
Hình 14. Hoạt động nuôi cá lồng bè tại các khu vực ven đảo Phú Quý.............Error:
Reference source not found
Hình 15. Phân bố rạn san hô theo hiện trạng độ phủ san hô ven đảo Phú Quý..Error:
Reference source not found
Hình 16. Phân bố hệ sinh thái rong cỏ biển tại khu vực ven đảo Phú Quý........Error:
Reference source not found
Hình 17. Bản đồ phân vùng chức năng khu bảo tồn biển Phú Quý. .Error: Reference
source not found

vii


MỞ ĐẦU
San hô cứng thuộc ngành động vật Ruột khoang (Coelenterata) chỉ sống ở

biển, có thành phần loài rất phong phú. Cho tới nay trên thế giới có khoảng 2000
loài thuộc 172 giống, 22 họ san hô hiện đại đã được công bố [49]. Đa số các loài
san hô cứng đều sống thành tập đoàn ở vùng biển nông nhiệt đới, chỉ một số ít loài
sống đơn độc. Chúng có thể phân bố rộng, sống cả ở vùng nước lạnh, độ sâu lớn,
không có ánh sáng. Xét về vai trò tạo rạn, san hô cứng được chia thành hai nhóm:
nhóm san hô tạo rạn (Hermatypic) và nhóm san hô không tạo rạn (Ahermatypic).
Hai nhóm này có sự tương đồng về cấu trúc động vật, chỉ khác nhau cơ bản ở chỗ
san hô tạo rạn có tảo cộng sinh (Zooxanthellae) nằm trong mô thịt động vật, trong
khi đó nhóm san hô không tạo rạn không có. Vì vậy hai nhóm có sự khác nhau về
sinh thái và động thái dinh dưỡng. Nhóm thứ nhất vừa có khả năng dinh dưỡng
bằng quang hợp, vừa ăn cả động vật, nhóm thứ hai chỉ ăn thịt, phân bố không phụ
thuộc vào ánh sáng.
Về sinh thái, quần xã san hô là nhóm động vật sống bám đáy không di
chuyển, tạo thành các tập đoàn (colony) rất đông đảo, còn để lại nhiều di tích hoá
thạch được bảo tồn tại chỗ trong các lớp trầm tích trên khắp thế giới. Vì thế chúng
không chỉ có giá trị trong nghiên cứu địa tầng mà còn là đối tượng tốt cho nghiên
cứu biến đổi khí hậu trong những năm gần đây.
Ngoài ra hệ sinh thái rạn san hô có đặc tính đa dạng sinh học cao mà trước
hết là sự thể hiện giàu có về thành phần loài sinh vật trên rạn. Trên cùng một diện
tích phân bố ở từng vùng, không một hệ sinh thái biển nào có thành phần loài nhiều
hơn rạn san hô [53]. Rạn san hô là môi trường mà nhiều loài phụ thuộc vào đó. Nền
đáy cứng trên rạn là nơi mà nhiều loài sinh vật đáy sinh sống và sinh trưởng. Một số
lượng lớn các hang hốc trên rạn cung cấp nơi trú ẩn cho cá, đặc biệt là cá con và các
động vật không xương sống. Nhiều loài còn coi rạn san hô là nơi duy trì tồn tại của
chu trình sống và sử dụng rạn như là nơi kiếm ăn, đẻ trứng hoặc ương con và trú ẩn.
Vì vậy từ những năm 1991 trở về đây những chương trình nghiên cứu biển trên các
rạn san hô ở Việt Nam tập trung vào những vấn đề liên quan đến tiềm năng đa dạng


sinh học, hiện trạng khai thác sử dụng và cơ sở khoa học cho việc thiết lập các khu

bảo tồn thiên nhiên biển.
Cho đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về hiện trạng các rạn san
hô tại Việt Nam và có chung nhận định về sự suy giảm độ phủ san hô cũng như đa
dạng nguồn lợi sinh vật trong rạn và đưa ra các giải pháp bảo vệ nguồn lợi.
Để góp phần nhỏ vào công tác bảo tồn biển. Chúng tôi thực hiện đề tài “
Nghiên cứu thành phần loài, cấu trúc quần xã san hô cứng và hình thái rạn san hô
ven đảo Phú Quý tỉnh Bình Thuận” với các nội dung chính:
- Xác định thành phần loài, cấu trúc quần xã san hô cứng ven đảo Phú Quý, tỉnh
Bình Thuận.
- Xác định đặc điểm hình thái, diện tích và phân bố rạn san hô cứng ven đảo Phú
Quý, tỉnh Bình Thuận.
Với những kết quả nghiên cứu này nhằm bổ sung tư liệu về đa dạng sinh học
quần xã rạn san hô nói riêng và đa dạng sinh học biển nói chung của vùng ven biển
đảo Phú Quý. Từ đó kết hợp với các luận cứ khoa học cơ bản về điều kiện tự nhiên,
đa dạng sinh học, môi trường và xu hướng diễn thế của chúng trong mối tương quan
mật thiết với điều kiện thực tiễn kinh tế-xã hội làm cơ sở cho việc thiết lập xây
dựng và quản lý các khu bảo tồn biển mà trong đó hệ sinh thái rạn san hô đóng vai
trò đối tượng trung tâm.


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu rạn san hô trên thế giới.
Cuối thế kỷ XVIII, rạn san hô trở thành mối quan tâm lớn trên thế giới bởi vì
đây chính là nguyên nhân chủ yếu gây ra các vụ đắm tàu. Thật đáng ngạc nhiên khi
rạn san hô được quan tâm muộn như vậy vì một nửa đường bờ của Đại Tây Dương
nằm ở vùng nhiệt đới và 1/3 bờ biển nhiệt đới có san hô phân bố. Trong cuốn sách
“Rạn san hô” xuất bản năm 1842, Charles Darwin đã chỉ ra những vùng phân bố
chính của rạn san hô trên thế giới. Bản đồ này được coi là khá tin cậy trong phạm vi
lớn. Sau đó James Dana cũng có một công trình lớn vào năm 1872, tuy nhiên tác
phẩm đó lại bị Darwin phê phán do quan điểm về sự hình thành các đảo san hô

vòng. Darwin đã đúng và được nhiều nhà khoa học cùng thời ủng hộ. Tuy nhiên,
mối quan tâm của giới khoa học về cuộc tranh luận này đã dừng lại với bản đồ phân
bố và lý thuyết hình thái rạn của Darwin. Những quan tâm đối với san hô, một cách
tách biệt khỏi nghiên cứu về rạn, được thực hiện từ cuối thể kỷ thứ XVIII. Mẫu vật
san hô đã được thu thập trong nhiều chuyến khảo sát lớn và được định loại trưng
bày ở các bảo tàng Châu Âu và Mỹ. Trước khi có những tiến bộ về lặn có khí tài,
những vùng nghiên cứu chủ yếu giới hạn ở Biển Đỏ, Nhật Bản, Palau, Philippines,
Great Barrier Reef, Hawaii, đảo Marshall và vịnh Carribe. Tính ra đã có tới 400
công trình về phân loại san hô tạo rạn được xuất bản với 2000 tên gọi đã được đặt
và mô tả trước thời đại lặn có khí tài. Rất tiếc là nhiều mô tả thời đó rất sơ sài và tên
gọi thì khá lộn xộn. Về sau này, với các trang thiết bị hiện đại và qua nhiều chuyến
khảo sát lớn, hiểu biết về rạn san hô và san hô tạo rạn đã được cải thiện [21].
Cho đến nay, khoảng 700 loài san hô tạo rạn đã được ghi nhận trên thế giới với tính
đa dạng loài khác nhau giữa các vùng biển thế giới. Trong đó vùng đa dạng nhất là
nhiệt đới Tây Thái Bình Dương. Lý thuyết của Darwin cho rằng kiếu cấu trúc đảo
san hô vòng “là hình ảnh của một hòn đảo bị chìm ngập” đã được chứng minh bằng
các dẫn liệu về khoan sâu. Những nghiên cứu về rạn san hô trong thế kỷ hai mươi
đã tập trung đánh giá những tác động và hậu quả sinh thái do hoạt động của con
người gây nên đối với rạn và tìm kiếm các giải pháp nhằm bảo tồn rạn san hô cho


thế hệ tương lai.
Hiện nay, cứ 4 năm một lần một hội thảo quốc tế về rạn san hô được tổ chức.
Đây là cơ hội để hàng ngàn nhà nghiên cứu và quản lý trao đổi thông tin và cùng
nhau hành động vì sự tồn tại bền vững của rạn san hô và nâng cao lợi ích mà con
người được hưởng lợi từ rạn san hô[21].
Kết quả của chuyến khảo sát Ramble có thể được coi là công trình nghiên
cứu rạn san hô đầu tiên ở vùng Biển Đông trong đó đã nghi nhận 14 giống san hô
cứng ở quần đảo Macclesfield và đảo san hô vòng Tigia ( thuộc quần đảo Trường
Sa). Ngoài ra có những thông tin không chính thức cho rằng Darwin cũng đã ghé

qua các rạn san hô trong Biển Đông trên con đường nghiên cứu học thuyết về sự
hình thành các đảo san hô vòng (atoll) [46]
Những nghiên cứu về phân bố rạn san hô thế giới ghi nhận có hàng ngàn rạn
san hô, giới hạn phân bố của chúng chỉ ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới trải từ
khoảng 30 độ vĩ tuyến Bắc đến 30 độ vĩ tuyến Nam nơi mà nhiệt độ nước biển hiếm
khi xuống dưới 180C. Diện tích bao phủ rạn san hô lên đến 6 x 10 5 km2 [48]. Sự
khác biệt về hình thái, thành phần sinh học, tính đa dạng và cấu trúc phản ánh đặc
trưng địa-sinh học, tuổi, phân vùng địa động vật và điều kiện môi trường. Tuy
nhiên, chúng không luôn luôn tồn tại như hiện nay mà đã trải qua một lịch sử thay
đổi, biến động liên quan chặt chẽ đến những sự kiện lớn về địa chất và khí hậu toàn
cầu.
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu rạn san hô ở Việt Nam
Lịch sử nghiên cứu về hệ sinh thái rạn san hô Việt Nam ghi nhận những kết
quả nghiên cứu của Ramble như những công trình nghiên cứu đầu tiên ở vùng Biển
Đông. Trong đó Smith (1890) [46] đã ghi nhận 14 giống san hô cứng ở quần đảo
Macclesfield và đảo san hô vòng Tigia (Trường Sa).
Trước những năm 1954 các chương trình nghiên cứu về san hô ở Biển Đông
nước ta phần lớn được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu người Pháp thuộc Viện Hải
Dương học Nha Trang. Các công trình nghiên cứu sau đó được xuất bản bằng tiếng
Pháp, trong đó đáng kể nhất là tập hợp kết quả công trình nghiên cứu của Chevey P


[3] và Krempf.A ([12]. Những khảo sát tiếp theo của Serene , R. [56] ; Dawydoff.
C.N., (1952) [54] ở nhiều vùng biển ven bờ cũng cho phép nêu lên những nhận định
về thành phần san hô cứng, cấu trúc và phân bố của một số rạn san hô ở vịnh Hạ
Long, vịnh Thái Lan, Côn Đảo và ven biển miền Trung.
Từ năm 1955 đến năm 1975, nghiên cứu về rạn san hô được tiến hành không
nhiều. Đáng chú ý nhất là hai công trình nghiên cứu ở vịnh Nha Trang của Trần
Ngọc Lợi (1955) [56] mô tả các quần xã sinh vật rạn san hô ở vùng nước nông và
tài liệu phân loại san hô mềm của Tixier - Durivault (1970)[45].

Từ năm 1975 đến năm 1990 là thời kỳ có nhiều chương trình nghiên cứu lớn,
tiêu biểu là các chương trình hợp tác với Liên Xô. Những nghiên cứu cơ bản về rạn
san hô được quan tâm trong các công trình khoa học biển của Nhà nước và nhất là
trong các chuyến khảo sát liên hợp Việt Xô. Các công trình xuất bản trong thời kỳ
này đã cung cấp những dẫn liệu cơ bản về phân bố, quần xã sinh vật rạn, thành phần
loài san hô tạo rạn và hiện trạng của nhiều rạn san hô ở vùng biển ven bờ miền
Trung và quần đảo Trường Sa. Những kết quả đáng chú ý của giai đoạn này được
xuất bản vào những năm sau đó, bao gồm các công trình của Latypov [5,6,7,8];
Nguyễn Huy Yết [26, 27, 28, 29,30, 31, 34]; Võ Sĩ Tuấn [17, 18, 19], [20].
Các nghiên cứu về san hô thực hiện sau năm 1990 chủ yếu tập trung vào
những vấn đề liên quan đến tiềm năng đa dạng sinh học, hiện trạng khai thác sử
dụng và cơ sở khoa học cho việc thành lập các khu bảo tồn biển. Trong đó, những
báo cáo điều tra của các đội khảo sát Quỹ bảo vệ động vật hoang dã Quốc tế
(WWF) và Viện Hải Dương học là cơ sở ban đầu để đề xuất hệ thống khu bảo tồn
biển Việt Nam. Song song với vấn đề bảo tồn thiên nhiên, việc tổng kết và nghiên
cứu cũng cho phép giải quyết một số vấn đề cơ bản như địa động vật, phân vùng đa
dạng sinh học dựa trên đặc tính khu hệ san hô tạo rạn [9]. Từ năm 2000 đến nay,
Viện Hải dương học Nha Trang phối hợp với một số tổ chức Quốc tế khác tiến hành
các chương trình nghiên cứu cơ bản về hệ sinh thái rạn san hô, nhưng tiêu biểu là 2
nghiên cứu tổng thể đa dạng sinh học làm cơ sở khoa học cho việc phân vùng và
thiết lập khu bảo tồn biển ở vịnh Nha Trang (Khánh Hòa) và Cù Lao Chàm (Quảng


Nam). Từ kết quả khảo sát đó, 2 khu bảo tồn biển đầu tiên ở Việt Nam đã được thiết
lập vào các năm 2001 và 2003. Đối với rạn san hô miền Bắc, từ năm 2003-2004
Viện Nghiên cứu Hải sản phối hợp với Viện Tài nguyên Môi trường Biển Hải
Phòng đã thực hiện chương trình nghiên cứu đa dạng sinh học tại 2 đảo Cát Bà và
Cô Tô làm cơ sở khoa học cho việc xây dựng khu bảo tồn biển. Gần đây 2 chương
trình nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Hải sản do Đỗ Văn Khương làm chủ nhiệm :
-


Năm 2006-2008 Đề tài“Đánh giá nguồn lợi cá rạn san hô ở một số

vùng dự kiến thiết lập khu bảo tồn biển và một số loài hải sản có giá trị kinh tế cao
ở dốc thềm lục địa Việt Nam, đề xuất các giải pháp sử dụng bền vững nguồn lợi”.
-

Năm 2007-2009 Đề tài KC09 ”Đánh giá điều kiện tự nhiên và kinh

tế xã hội các khu bảo tồn biển trọng điểm phục vụ cho xây dựng và quản lý”.
Nội dung nghiên cứu bao gồm các kết quả nghiên cứu về đa dạng sinh học
biển, kết hợp với các nghiên cứu đánh giá kinh tế xã hội tại mỗi khu vực là những
tư liệu có giá trị cao trong định hướng thiết lập mạng lưới khu bảo tồn biển Việt
Nam trong thời gian tới.
1.2.1 Thành phần san hô cứng và san hô tạo rạn
Những nghiên cứu từ năm 1982 - 2004 đã xác định khoảng 400 loài thuộc 79
giống san hô cứng ở ven bờ biển Việt Nam. Kết quả thống kê thể hiện sự tương đối
giàu có về thành phần loài của vùng biển phía Nam với số lượng hơn hẳn vùng biển
phía Bắc và gần tương đương với các vùng giàu có san hô của thế giới như
Philippines (441 loài), Nam Papua New Guinea (282 loài), Biển Coral Sea (239
loài), Bắc Great Barrier Reef (324 loài), giữa Great Barrier Reef (343 loài) [50] và
Đông Indonesia (350 loài) [36]. Tổng số loài ghi nhận ở ven biển Việt Nam cho ta
nhận định rằng: Vùng biển Việt Nam là một trong những vùng có thành phần loài
san hô khá đa dạng của thế giới.
Trong 79 giống san hô cứng đã xác định ở Việt Nam, có 72 giống thuộc
nhóm san hô tạo rạn. Tuy nhiên, sự đa dạng loài san hô tạo rạn khá khác nhau giữa
các vùng phân bố (bảng 1).


Bảng 1. Số lượng loài san tạo rạn ở các vùng ven biển Việt Nam

Số lượng

Số lượng

Số lượng

Số lượng

giống san

loài san hô

giống san

loài san hô

hô cứng

cứng

hô tạo rạn

tạo rạn

Tây vịnh Bắc Bộ

56

200


56

186

Trung Trung Bộ

64

246

61

238

Nam Trung Bộ

77

400

71

350

Đông Nam Bộ

63

350


61

>300

Tây Nam Bộ

64

270

61

Trường Sa, Hoàng Sa

65

Vùng biển

256
65
256
(Nguồn: theo Võ Sỹ Tuấn, 2005)[21]

Về cấu trúc thành phần loài, trong thành phần loài đã xác định ở biển Việt
Nam, giống có số loài nhiều nhất là Acropora chiếm 16,8% tổng số loài đã ghi
nhận, sau đó là các giống Monipora (8,6%), Porites (4,5%), Fungia (3,7%),
Goniopora (3,5%), Pavona (2,4%). So sánh các vùng phía nam Việt Nam với vịnh
Bắc Bộ và một số vùng biển khác ở tây Thái Bình Dương cho thấy tỷ lệ của số loài
thuộc các giống này trên tổng số loài ít thay đổi hoặc thay đổi không có quy luật
ngoại trừ đối với giống Favia – nhóm san hô dạng khối điển hình. Điều cần chú ý là

giống này có tỷ lệ số lượng loài khá cao ở vùng biển xung quanh đảo Amacusa và
Tanegashima – các vùng biển của Nhật Bản ít chịu ảnh hưởng của các dòng nước
ấm Kuroshio từ phía nam [50] và vịnh Bắc Bộ - Bắc Việt Nam. Trong khi đó, sự
khác nhau của thông số này giữa vùng biển phía Nam Việt Nam và các vùng còn lại
kể cả ở Okinawa ( Nhật Bản) không đáng kể.
Thống kê trên đây cho thấy, vịnh Bắc Bộ có thành phần loài nghèo hơn rõ rệt
so với các vùng biển ở phía Nam Việt Nam. Hơn nữa, sự phổ biến của rạn san hô ở
một số vùng trong Vịnh – nơi có nhiệt độ khá thấp vào mùa đông, còn bất ngờ ngay
cả đối với giới nghiên cứu. Vì vậy, liệu tính chất thành phần loài có sự khác biệt
giữa vịnh Bắc Bộ và các vùng biển phía Nam hay không.
Một số phân tích trên đây cho thấy, nếu không kể về số lượng, tính chất
thành phần loài san hô cứng của vùng biển ven bờ phía Nam Việt Nam không khác


biệt nhiều so với vịnh Bắc Bộ. Trong khi đó luận điểm phân vùng địa động vật của
Gurjanova, (1976) cho rằng khu hệ động vật vịnh Bắc Bộ thuộc phân vùng Trung
Hoa- Nhật Bản, còn vùng biển phía Nam từ 13 độ vĩ tuyến Bắc trở vào thuộc phân
vùng Ấn Độ-Mã Lai.( trích Võ Sĩ Tuấn ctv, 2005). Dường như tính chất thành phần
loài san hô cứng không phù hợp với luận điểm này. Đây cũng là cơ sở để một số tác
giả Maliautin & Latypov, 1991[9] phủ nhận phân chia vùng địa động vật ở Biển
Đông. Vấn đề cần xem xét thêm là hầu hết san hô cứng tạo rạn mang tính chất
nhiệt đới rõ rệt và đều phát tán từ trung tâm ở vùng nhiệt đới thông qua vai trò của
dòng chảy trên biển. Yếu tố này thay đổi theo mùa rất phức tạp đối với các vùng
biển ven bờ và chi phối tính chất khu hệ san hô. Ngay cả ở vùng biển vĩ độ cao phía
Bắc như Okinawa cũng có khu hệ san hô cứng khá điển hình nhờ ảnh hưởng của
dòng chảy Kuroshio. San hô tạo rạn không có con đường phát tán ngược lại từ phía
Bắc như nhiều nhóm sinh vật có nguồn gốc hình thành đa dạng khác. Vì vậy, cần
phải thận trọng khi dựa vào tính chất thành phần loài san hô để xem xét phân vùng
địa động vật.
1.2.2 Phân bố và đặc điểm sinh thái rạn san hô

Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của vùng biển Việt Nam nói chung khá
thuận lợi cho sự phát triển của san hô tạo rạn, trừ các vùng chịu ảnh hưởng của các
lưu vực sông với độ muối thấp và độ đục cao. Rạn san hô phân bố hầu hết tại các
vùng nước nông ven bờ, ven đảo có nền đáy chắc, rất giàu có ở các quần đảo
Trường Sa và Hoàng Sa. Tuy nhiên tính chất phân bố và hình thái các rạn san hô
tương đối khác nhau giữa các vùng địa lý.[21]
Vùng ven bờ thuộc bờ Tây vịnh Bắc Bộ có điều kiện tự nhiên ít thuận lợi nhất
trên phương diện sinh thái san hô tạo rạn. Các yếu tố bất lợi là nhiệt độ thấp vào
mùa đông và ảnh hưởng lớn của các dòng vật chất từ đất liền. Vùng có rạn san hô
phân bố thường chỉ ở phần ngoài của các vịnh Hạ Long, Bái Tử Long, Quần đảo Cô
Tô, Long Châu… Hầu hết vùng này đều có đáy biển nông , nhiều bùn. Vì vậy, rạn
san hô ở bờ Tây vịnh Bắc Bộ thường rất hẹp và chỉ phân bố đến độ sâu khoảng 57m, chỉ những nơi xa rạn mới có thể xuống đến 10m. Tuy nhiên, với vị trí địa lý


đảo Bạch Long Vĩ là nơi thuận lợi nhất cho sự phát triển của rạn san hô vịnh Bắc
Bộ.
Vùng ven bờ miền Trung và các đảo Đông Nam Bộ rạn san hô phát triển thuận
lợi hơn so với vùng biển phía Bắc. Đây là những vùng biển có nhiệt độ nước thường
xuyên cao trên 200C và chịu ảnh hưởng lớn của biển khơi. Địa hình ven biển cũng
tạo thành nhiều các vũng vịnh và đảo tạo nên sự đa dạng về sinh cảnh. Nhờ vậy, san
hô phân bố phổ biến ở dải ven bờ từ Đà Nẵng đến Bình Thuận, xung quanh hầu hết
các đảo từ Cù Lao Chàm đến Côn Đảo. Hình thái rạn cũng rất đa dạng có thể rộng
từ 50m đến 800m.
Ở vùng biển Tây Nam Bộ, vùng ven bờ không thuận lợi cho san hô phát triển
do đáy biển có nhiều bùn, nước có độ trong thấp rạn phân bố xung quanh các đảo xa
bờ như Phú Quốc, Nam Du, Thổ Chu. So với các vùng biển khác, chế độ thuỷ văn,
động lực ít có những biến động lớn. Do vậy, rạn san hô tương đối đồng nhất về hình
thái. Sự khác biệt chủ yếu do yếu tố nền đáy tạo nên. Các rạn thường có chiều rộng
từ 50-100m và phân bố đến độ sâu 10-13m nước.
Các Quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa gồm hàng trăm đảo, bãi ngầm hình thành

do quá trình phát triển sinh - địa học của rạn san hô. Rạn san hô hiện tại có thể phân
bố đến độ sâu 40-50m và có diện tích rất rộng. Các đảo san hô vòng (atoll) điển
hình có thể kéo dài tới 50km và bao gồm các vành khuyên đảo nổi và bãi ngầm.
Lagun bên trong đảo san hô vòng chỉ có độ sâu dưới 50m, trong khi thềm ngoài dốc
đột ngột xuống hàng trăm mét. Một dạng hình thái khác là các đảo hoặc bãi ngầm
đơn độc chỉ rộng cỡ 2-3km với lagun nông ở bên trong chỉ sâu khoảng 5-7m [21].
1.2.3. Đặc điểm cấu trúc và hình thái rạn san hô.
Ở vùng biển Việt Nam, chỉ mới ghi nhận hai kiểu cấu trúc là rạn riềm (fringing
reef) và rạn dạng nền (plat-form reef). Ở vùng biển khơi xa, rạn san hô thuộc về một
kiểu cấu trúc hoàn toàn khác – đó là các đảo san hô vòng. Rạn dạng nền cũng tồn tại
với cấu trúc là các đảo hoặc bãi ngầm không liên kết thành dải hình vành khuyên
rộng lớn. Đây có thể coi là các “đảo san hô vòng giả” (pseudo-atoll).


Theo quan sát tổng quan đặc điểm hình thái rạn san hô ven bờ Việt Nam, rạn
riềm ven bờ chủ yếu tập trung từ Quảng Trị đến vịnh Cà Ná. Các rạn riềm ven bờ
đều không xuất hiện dọc đường bờ vịnh Bắc Bộ, Biển Đông và Tây Nam Bộ, nơi
mà các đường bờ biển và ảnh hưởng của sông đều không thuận lợi cho chúng. Rạn
riềm ven đảo phổ biến nhất ở vùng biển Việt Nam gồm: Các cụm đảo trên thềm lục
địa như Hạ Long, Cát Bà, Cô Tô, Cù Lao Chàm, Lý Sơn, các đảo nhỏ ở Khánh Hoà,
Phú Quý, Côn Đảo, Phú Quốc, Thổ Chu, Nam Du. Các điều kiện chủ yếu thuận lợi
cho rạn tồn tại bao gồm nền đáy cứng xung quanh đảo, ảnh hưởng của sông ngòi từ
đất liền đến đảo không lớn.
Về mặt hình thái các rạn san hô riềm nói chung thuộc vào hai dạng khác nhau:
rạn riềm điển hình và rạn riềm không điển hình. Rạn riềm điển hình là giai đoạn
hoàn chỉnh của quá trình hình thành rạn san hô và các thành phần cấu trúc của rạn
được hình thành đầy đủ.
Rạn dạng nền theo Veron J.E.N. (1986), được gọi là rạn dạng đốm - thuật
ngữ của Stoddard là rạn phát triển trên các bãi cạn, đồi ngầm. Cùng với quá trình
phát triển của địa chất, chúng có thể hình thành nên các đảo san hô. Kiểu rạn này ở

Việt Nam chưa được nghiên cứu nhiều. Trong khi đó, sơ đồ địa hình thềm lục địa
Việt Nam cho thấy vùng biển nước ta phân bố nhiều bãi cạn, đồi ngầm. Những tư
liệu tập hợp được chỉ cho phép nêu lên nhận xét về hình thái rạn ở một số bãi cạn
[49].
Ví dụ: bãi cạn lớn (vịnh Nha Trang) được cấu thành bởi đá macma tuổi trước
Đệ Tam [16]. Diện tích của nó khoảng 10 km 2, nhô lên từ độ sâu khoảng 20m. San
hô tạo rạn phát triển chủ yếu ở sườn dốc phía Đông Bắc và đạt độ phủ khá cao.
Thành phần san hô chủ yếu gồm các loài Seriatopira histrix, Porites lutea, P. rus,
Galaxea fascicularis, Lobophyllia corymbosa, Acropora valida. Trên đỉnh bãi cạn
thành phần loài san hô nghèo và tập đoàn có kích thước nhỏ. Rong mơ phát triển
mạnh ở vùng này và bao phủ gần hết diện tích nền đáy.
Vùng biển bắc Bình Thuận có nhiều bãi cạn ở vùng có độ sâu nhỏ hơn 20m.
Trong đó lớn nhất là bãi cạn Breda ( bắc Cù Lao Cau) có diện tích 22km2 và nhô


nên từ độ sâu 10m đến cách mặt biển 4m. Vật liệu tạo nên bãi cạn là các đá trầm
tích giàu carbonat tuổi Đệ Tam, trên bề mặt thường có các trầm tích sinh lưu
chuyển [18]. Nền đáy trên bãi cạn chủ yếu được bao phủ bởi san hô mềm giống
Sarcophyton. Xen kẽ với chúng là một số san hô cứng dạng khối Goniastrea,
Porites, Platygyra… Tuy nhiên, sự nghèo nàn của quần xã san hô cứng hiện nay và
nền đáy lộ đá đã phủ nhận nhận xét trên. Cấu trúc bãi cạn hoàn toàn do quá trình địa
chất hình thành [21].
Nhìn chung hầu hết các bãi cạn nghiên cứu, rạn san hô hiện đại kém phát
triển. Điều đó còn đúng với quá khứ. Chính sự kém phát triển suốt lịch sử phát triển
đã không cho phép hình thành các rạn nền điển hình với vật liệu tạo nên các bãi cạn
hoàn toàn là san hô chết như các vùng biển khác. Do vậy đến nay, rạn dạng nền trên
thềm lục địa không hình thành bất cứ một rạn san hô nào.
1.2.4. Hiện trạng rạn san hô Việt Nam
Trong những năm gần đây, gần 200 điểm rạn san hô đã được khảo sát ở dải
ven biển Việt Nam. Thông kê số liệu cho thấy hiện trạng độ phủ của san hô trên các

rạn không ở trạng thái tốt. Số liệu thống kê còn thể hiện các rạn ở xa bờ hoặc xa các
vùng tập trung dân cư thường có độ phủ, chất lượng rạn tốt hơn các khu vực rạn
vùng ven bờ [37]. Tổng hợp dẫn liệu các công trình nghiên cứu cho thấy tình trạng
độ phủ san hô cứng sống tại một số khu vực chủ yếu vùng ven bờ Việt Nam.[21]
(bảng 2).
Bảng 2. Độ phủ san hô tại một số vùng chủ yếu ven biển Việt Nam
Vùng nghiên cứu

Số điểm
khảo sát

Khoảng giao động
độ phủ (%).

Độ phủ trung
bình (%).

Năm
khảo sát

1

Hạ Long – Cát Bà

21

12 - 65

40,6 ± 15,2


1998

2

Bạch Long Vĩ

5

2,7 - 4,7

21,7 ± 15,7

1995

3

Hai Vân-Sơn Trà

7

35 – 62,7

50,5 ± 15,7

1996

4

Cù Lao Chàm


5

18,4 – 53,7

33,9 ± 12,4

2002

5

Vịnh Nha Trang

8

5,6 – 44,4

26,4 ± 15,9

2002

6

Ninh Thuận

6

16,3 – 55,9

36,9 ± 13,5


2002

Stt


7

Vịnh Cà Ná

6

18,4 – 68,4

40,5 ± 24,1

1996

8

Côn Đảo

8

1,6 – 50,3

23,3 ± 18,2

2002

9


Phú Quốc

6

28,7 – 52,5

42,2 ± 8,6

2002

10

Nam Du

4

37,8 – 62,8

47,4 ± 11,7

2002

11

Thổ Chu

4

4,6 – 15,9


11,3 ± 4,80

2002

Độ phủ san hô sống trên rạn tại một số khu vực phân bố chủ yếu vùng ven bờ
Việt Nam đang bị giảm dần theo thời gian, có nhiều nơi độ phủ giảm đến trên 30%.
Điều này cho thấy rằng rạn san hô đang bị phá huỷ và có chiều hướng suy thoái.
Ngoài ra, bằng phương pháp phân tích gián tiếp qua kỹ thuật bản đồ trong
mối tương quan với các hoạt động kinh tế xã hội ở vùng ven biển, áp dụng mô hình
Reef at Risk, Bucke và ctv (2002)[37] đã chỉ ra mức độ bị đe dọa của các rạn san hô
Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng. Theo đó, hầu hết các rạn san hô ven
bờ Việt Nam bị đe doạ bởi hoạt động của con người, với 50% số rạn bị xếp ở mức
độ đe dọa cao và 17% ở mức độ rất cao. Đánh bắt huỷ diệt đươc đánh giá là rất phổ
biến và trầm trọng với trên 85% số rạn bị đe doạ ở mức độ trung bình và cao. Khai
thác quá mức được đánh giá là mức đe dọa lớn cho khoảng một nửa số rạn. Các mối
đe dọa được coi là thấp hơn gồm tiềm năng lắng đọng trầm tích (47% số rạn), phát
triển vùng ven biển (40% số rạn) và ô nhiễm trên biển (7%).
So sánh với tình trạng của các rạn san hô trong khu vực, mô hình tính toán
cho thấy Việt Nam nằm trong nhóm có tỷ lệ các rạn bị đe doạ nhiều nhất (cùng với
Philippines, Trung Quốc, Đài Loan và Indonesia). Chỉ có các rạn quần đảo
Andaman (Ấn Độ), biển Myanmar và Thái Lan có trên 20% số rạn còn ở mức chịu
đe doạ ít [37].
Một số dẫn liệu nghiên cứu tại đảo Côn Đảo, Bà Rịa –Vũng Tầu và Bạch
Long Vĩ, Hải Phòng của tác giả Võ Sĩ Tuấn và Nguyễn Huy Yết là những nghiên
cứu cho thấy sự tác động mạnh mẽ từ tự nhiên và con người đến môi trường và sự
sinh thái rạn san hô. Sự suy giảm độ phủ mạnh mẽ rạn san hô trước và sau bão
Linda tại Côn Đảo (bảng 3).



Bảng 3. Biến đổi độ phủ san hô cứng, san hô mềm và san hô chết ở một số địa điểm
xung quanh quần đảo Côn Đảo quan sát trước và sau cơn bão Linda năm 1997
Địa

điểm

nghiên cứu

1994-1995 (Trước bão Linda)

4/1998 (Sau bão Linda)

SH cứng

SH mềm

SH chết

SH cứng

SH mềm

SH chết

Bến Đầm

44,7

0


11,4

31,56

0,31

49,38

Bông Lan

55,4

2,3

29,2

10,73

0,63

50,31

Chim Chim

36,0

23,0

5,2


47,50

19,38

0

Đất Dốc

37,5

0

20

19,69

1,25

58,20

Hòn Cau

52,0

0

42,0

0,63


0

74,38

Hòn Trọc

51,5

8,3

6,8

8,76

4,15

65,60

Bãi Dương

43,4

8,3

31,6

2,19

0,63


85,31

Nguồn: Võ Sĩ Tuấn (2001)
Những dẫn liệu về hàm lượng Cyanua vượt chỉ tiêu cho phép ở vùng biển
Bạch Long Vĩ (bảng 4) minh chứng cho việc lạm dụng chất độc trong đánh bắt hải
sản.
Bảng 4. Hàm lượng Cyanua trong môi trường nước xung quanh đảo Bạch
Long Vĩ tháng 5/1998
Đối tượng
Nước biển

Hàm lượng (Trung bình)
0,38-1,12 mg/l (0,704 mg/l)

Ghi chú

Trầm tích đáy

2160-4190 mg/kg (2980 mg/kg)

Hàm lượng vượt tiêu

Rong biển tươi

20,01-60,24 mg/kg (38,85 mg/kg)

Thịt bào ngư tươi

310,5-732,4 mg/kg (544,1 mg/kg)


chuẩn cho phép từ
7,6-22,4 lần

Nguồn: (Võ Sĩ Tuấn và Nguyễn Huy Yết, 2001)


1.3. Tổng quan điều kiện tự nhiên và tình hình nghiên cứu nguồn lợi hải sản và
rạn san hô ven đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận.
1.3.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên
1.3.1.1. Vị trí địa lý
Huyện đảo Phú Quý là một quần đảo xa bờ của tỉnh Bình Thuận với 10 đảo
lớn nhỏ. Trong đó, đảo Phú Quý (bao gồm đảo Phú Quý và 5 hòn đảo nhỏ khác) có
diện tích 16,4 km2, nằm ở Nam Biển Đông, có tọa độ địa lý 10 029’ - 10033’N và
108055’ - 108058’E.
Đảo Phú Quý còn có tên gọi khác là Cù Lao Thu, Cù Lao Khoai Xứ… cách
thành phố Phan Thiết 120km về hướng Đông Nam; cách quần đảo Trường Sa
540km về phía Tây Bắc; cách thị xã Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa 150km (về phía
Nam); cách Côn Đảo 330km (về phía Đông Bắc); cách thành phố Vũng Tàu 200km
(về phía Đông) [14],[15].
Phú Quý được xác định là đảo trọng điểm trong hệ thống đảo ven bờ, nằm
giữa trung tâm khai thác hải sản lớn nhất Nam Trung Bộ và miền Đông Nam Bộ với
vùng ngư trường rộng mở, có nguồn lợi hải sản dồi dào, phong phú, đa dạng. Từ
Phú Quý ngư dân có thể vươn ra các ngư trường xa khơi.


Hình 1: Bản đồ đảo Phú Quý (tỷ lệ 1:40.000)
(Nguồn: Nguyễn Viết Thịnh và nnk, 2002)



×