Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Nghiên cứu thành phần hóa học vỏ quả măng cụt xanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.23 MB, 82 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
--------------------ĐỖ VĂN ĐĂNG

NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN HÓA HỌC VỎ QUẢ MĂNG CỤT XANH

(Garcinia Mangostana L.)

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Hà Nội – 2011

i


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
--------------------Đỗ Văn Đăng
NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN HÓA HỌC VỎ QUẢ MĂNG CỤT XANH

(Garcinia Mangostana L.)
Chuyên ngành
Mã số

:
:

Hóa học hữu cơ
60 44 27

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. NGUYỄN VĂN ĐẬU

Hà Nội – 2011

ii


Lời cảm ơn
Tôi vô cùng cám ơn PGS. TS. Nguyễn Văn Đậu đã giao
đề tài hay và hướng dẫn tôi tận tình trong suốt thời gian làm
luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong phòng
Hóa học các hợp chất thiên nhiên, trong Khoa Hóa học cũng
như các anh chị bạn bè trong khoa Hóa học đã giúp đỡ tôi
rất nhiều trong thời gian làm luận văn.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn các thành viên trong phòng
Hóa học các hợp chất thiên nhiên đã giúp đỡ tôi nhiều trong
quá trình hoàn thành luận văn.

iii


DANH MỤC BẢNG BIỂU

TÊN BẢNG BIỂU

TRANG

Bảng 1.1


Các xanthon được tách từ vỏ quả măng cụt

09

Bảng 4.

Hiệu suất các phần chiết từ vỏ quả măng

STT
1
2

3

4

5

6

7

8

1
Bảng 4.
2
Bảng 4.
3


Bảng 4.4

Bảng 4.
5
Bảng 4.
6
Bảng 4.

cụt
Kết quả phân tích cặn chiết điclometan
bằng TLC

Quá trình phân tách cặn chiết điclometan
(GMD) bằng CC

Kết quả phân tích cặn chiết n- BuOH bằng
TLC

Quá trình phân tách cặn chiết n- butanol
(GMB) bằng CC

Các dữ liệu phổ 1H- và 13C NMR của các
hợp chất (D1-4)
Kết quả thử hoạt tính chống oxy hóa DPPH

iv

36

38


39

41

41

50

52


7
9

Bảng 4.
8

Kết quả thử hoạt tính kháng sinh

52

DANH MỤC HÌNH VẼ

STT

TÊN HÌNH VẼ

Hình ảnh cây măng cụt ( Garcinia


TRANG

1

Hình 1.1

2

Hình 1.2

3

Hình 1. 3

Khung cơ bản của xanthon

08

4

Hình 2. 1

Sắc ký lớp mỏng

24

5

Hình 2. 2


Sắc ký cột

25

6

Hình 4. 1

Phổ H- NMR của D1

1

44

Mangostana L.)

Hình ảnh quả măng cụt ( Garcinia
Mangostana L.)

v

05

06


1

47


1

49

7

Hình 4. 2

Phổ H- NMR của D3

8

Hình 4. 3

Phổ H- NMR của D4

DANH MỤC SƠ ĐỒ

ST

TÊN SƠ ĐỒ

T

Quy trình chiết các lớp chất trong vỏ quả

TRANG

1


Sơ đồ 4. 1

2

Sơ đồ 4. 2

Quá trình phân tách cặn GMD

40

3

Sơ đồ 4. 3

Quá trình phân tách cặn GMB

42

măng cụt xanh

vi

37


vii


LỜI MỞ ĐẦU


Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, mức sống của
con người ngày càng được nâng cao hơn. Đặc biệt, trong lĩnh vực y – dược học, từ
những năm đầu của thế kỉ XIX, việc kết hợp giữa các phương pháp khoa học kỹ
thuật và các loại thực vật xuất phát từ thiên nhiên đã đưa con người tiến một bước
lớn trong việc phát minh ra nhiều loại thuốc, có khả năng chữa nhiều căn bệnh
được cho là nan y ở các thế kỉ trước đó.
Xanthon là một trong những khám phá mang tính tích cực của con người.
Giới khoa học đang tiếp tục nghiên cứu sâu về các xanthon vì những lợi ích bất
ngờ cho cơ thể con người và khả năng tham gia vào nhiều vấn đề sức khỏe. Trong
công nghệ thực phẩm thì xanthon là thành phần tốt nhất từ trước đến nay mà
chúng ta có được. Nó được ví như một dưỡng chất thực vật đa năng trong lĩnh vực
dinh dưỡng. Bên cạnh đó, xanthon còn mang lại nhiều hoạt tính sinh học, nổi bật
là hoạt tính chống oxy hóa.
Theo như nhiều nguồn thông tin thu thập trên thế giới cũng như trong
nước, thì măng cụt là một trong “mười siêu trái cây”, mệnh danh là ‘’ nữ hoàng
trái cây’’, được xếp vào nhóm thực phẩm chức năng, chứa một lượng lớn các loại
xanthon. Điều này giải thích vì sao từ hàng nghìn năm nay, các chất pha chế từ
quả măng cụt được sử dụng rộng khắp trên toàn thế giới như một phương thuốc
chữa bệnh hay một loại thuốc bổ, có tính chống oxy hóa, kháng khuẩn, kháng
viêm, giảm đau, kháng nấm, giúp hệ tiêu hóa tốt...vv. Gần đây, người ta còn khám

1


phá ra khả năng chữa bệnh tim, tác dụng bảo vệ gan, mật, hay hơn nữa là chống
được các bệnh như ung thư, HIV... Tuy nhiên, điều đặc biệt ở chỗ, các hoạt tính
đó của trái măng cụt xuất phát chủ yếu từ vỏ quả măng cụt – phần mà chúng ta
thường loại bỏ sau khi lấy phần thịt quả.
Cùng với yếu tố Việt Nam là một trong những nước có nguồn măng cụt với
số lượng lớn, phong phú trên thế giới, việc tập trung nghiên cứu, tìm hiểu hóa

dược của trái măng cụt là cần thiết, có lợi, tận dụng được nguồn nguyên liệu sẵn
có. Xuất pháp từ những lý do đó chúng tôi tiến hành nhiên cứu đề tài:
“Nghiên cứu thành phần hóa học vỏ quả măng cụt xanh (Studying the
compositon of Green fruit hulls of Garcinia Mangostana L.)”
Để góp phần nghiên cứu thành phần hóa học của vỏ quả măng cụt xanh các
nhiệm vụ được đặt ra:
- Xây dựng phương pháp chiết hiệu quả với vỏ quả măng cụt xanh.
- Khảo sát định tính và phân tách các chất từ vỏ quả măng cụt xanh.
- Xác định cấu trúc các chất phân lập được từ vỏ quả măng cụt xanh
- Thử hoạt tính chống oxi hóa và kháng sinh đối với một số chất phân lập
được.

2


CH ƯƠNG 1. TỔNG QUAN

1.1. Vài nét về họ bứa (Clusiaceae) .
1.1.1. Đặc điểm thực vật
Họ Bứa hay họ măng cụt có danh pháp khoa học: Clusiaceae (còn gọi là
Guttiferae, được Antoine Laurent de Jussieu đưa ra năm 1789), là một họ thực vật
có hoa bao gồm khoảng 27-28 chi và 1050 loài các cây thân gỗ hay cây bụi, thông
thường có nhựa trắng như sữa và quả hay quả nang để lấy hạt[3].
Đặc điểm thực vật: cây gỗ hay cây bụi thường xanh, cành thường mọc
ngang. Trong thân và lá có ống tiết nhựa mủ màu vàng. Lá mọc đối đơn, nguyên,
không có lá kèm. Gân cấp hai thường gần thẳng góc với gân chính. Hoa đều, nhỏ,
thường đơn tính hoặc vừa đực vừa hoa lưỡng tính trên cùng một cây. Mọc đơn độc
hay họp thành cụm hoa. Đài 2-6 tồn tại dưới quả. Tràng 2-6 cánh dễ rụng nhị
nhiều, tự do hay dính lại thành bó. Bộ nhụy gồm 3-5 lá, noãn tạo thành bầu trên.
Quả khô mở vách hay quả thịt.

Họ bứa được phân bố đều trên toàn thế giới, tập trung chủ yếu ở các vùng
có khí hậu nhiệt đới, ngoại trừ 2 chi Hypericum và Triadenum phân bố ở Trung
Quốc. Nhiều loài trong số đó đã mang lại nhiều lợi ích cho các quốc gia. Ví dụ
như làm vật liệu xây dựng, dược phẩm, thuốc nhuộm, nhựa, mỹ phẩm (lấy tinh

3


dầu), đặc biệt có những loài là trái cây bổ dưỡng cho con người (măng cụt, táo
mammey) và được coi là một loại thuốc cổ truyền.
1.1.2. Một số chi trong họ bứa (Clusiaceae)
Họ Bứa có 4 chi quan trọng sau:
Thứ nhất, chi bứa (Garcinia) có nguồn gốc ở Châu Á, Australia, vùng nhiệt
đới và miền nam Châu Phi và Polynesia. Chi này có khoảng 50–300 loài cây thân
gỗ hay cây bụi thường xanh, hoa khác gốc và một vài loài có thể sinh sản vô tính.
Tên gọi garcinia lấy theo tên của nhà thực vật học Laurence Garcia, người đã sưu
tập các mẫu cây cỏ và sống tại Ấn Độ vào thế kỷ 18.
Thứ hai, chi Calophyllum (theo tiếng Hy Lạp nghĩa là lá đẹp) có khoảng
180–200 loài. Chi này có nguồn gốc từ Madagascar, Đông Phi, phía Nam và Đông
Nam Á (từ hướng Đông Pakistan cho tới Việt Nam và Indonesia), những hòn đảo
Thái Bình Dương và Mỹ La Tinh.
Thứ ba, chi Clusia gồm có khoảng 140–150 loài, phân bố chủ yếu ở các
vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, thường là các cây bụi hay cây leo (bò), có chiều
cao từ trung bình lên tới 20m, với tán lá xanh. Một số loài bắt đầu cuộc sống như
những thực vật biểu sinh, rồi phát triển những gốc dài mà đi xuống tới nền, dần
dần làm nghẹt và giết chết cây chủ, rất giống với cây đa.
Thứ tư, chi Mammea gồm khoảng 50 loài, được phân bố rải rác trên thế
giới. Chúng được tìm thấy ở vùng nhiệt đới của Mỹ và Tây Ấn Độ, Châu Phi,
Madagascar; Indonexia, Malaysia và Thái Bình Dương. Quả chỉ có một hạt, ăn
được.

1.2. Cây măng cụt (Garcinia mangostana L.)
Măng cụt có tên tiếng Anh, Mỹ là mangosteen; Pháp: Mangoustanier;
Trung Quốc: Sơn trúc tử; Thái Lan: Mankhut[2- 4].

4


1.2.1. Đặc điểm thực vật
Cây cao 6-25m, thân lớn, đường kính có thể lên đến 25-35cm, có nhựa
vàng. Lá dày cứng, mọc đối, không lông, mặt dưới có màu nhạt hơn mặt trên. Hoa
đa tính, thường có hoa cái và hoa lưỡng tính. Hoa lưỡng tính có cuống có đốt, 4 lá
đài, 4 cánh hoa màu trắng, 16-17 nhị và bầu 5-8 ô. Quả tròn mang đài tồn tại có vỏ
quả rất dai, xốp, màu đỏ như rượu vang chứa 5-8 hạt, quanh hạt có lớp áo hạt
trắng, ngọt ngon. [4]
1.2.2. Nguồn gốc và phân bố
Măng cụt được khai hóa đầu tiên ở Thái Lan hoặc My-an-mar, cách đây ít
nhất 2000 năm, và sau đó được mở rộng sang những vùng nhiệt đới khác. Hiện có
khoảng 10 loài khác nhau được trồng để lấy quả. Cây măng cụt ưa khí hậu nóng
ấm. Ở Việt Nam loài cây này được trồng phổ biến ở đồng bằng Sông Cửu Long và
Đông Nam Bộ, nhiều nhất ở Lái Thiêu, Thủ-Dầu-Một. Ở các nước Đông Nam Á,
măng cụt được trồng nhiều tại Thái Lan, Cam-pu-chia, My-an-mar, Sri Lanka và
Phi-lip-pin.
Măng cụt cho trái sau 10–15 năm trồng nhưng cây có thể sống trên 50
năm. Cây tốt có thể cho trái sau 7–8 năm trồng (vùng Lái Thiêu, Thủ-Dầu-Một,
Việt Nam). Tại miền nam nước ta, măng cụt trổ hoa vào tháng 1 – 2 dương lịch và
bắt đầu thu trái từ tháng 5 đến tháng 8 dương lịch[4].

5



Hình 1.1 Hình ảnh cây măng cụt ( Garcinia Mangostana L.)

Hình 1.2 Hình ảnh quả măng cụt ( Garcinia Mangostana L.)
1.2.3. Hóa thực vật của cây măng cụt
1.2.3.1. Tinh dầu [2, 3]
Hương thơm của trái măng cụt có được là do nó có chứa một số lớn các
chất dễ bay hơi. Điều này được xác định thông qua GC-MS sử dụng EI-MS.

6


Sắc ký lỏng hiệu năng cao(HPLC) phát hiện trong tinh dầu măng cụt có 52
chất chính, trong đó khoảng 28 chất đã được xác định. Thành phần thơm quan
trọng nhất là hexyl acetate (7,80 %), cis-hex-3-enyl acetate (1,40%) và cis-hex-3en-1-ol (27,27 %). Các chất còn lại tuy chiếm thành phần ít hơn nhưng cũng đóng
góp tạo nên hương vị của trái măng cụt, phức tạp và thoảng qua: mùi trái cây
(hexenal, hexanol, α-bisabolen), mùi xoài (α-copaen), mùi hoa nhài (furfuryl
methylceton), mùi huệ dạ hương (phenyl axetaldehit), mùi cỏ (hexenol, hexanal),
mùi cỏ héo (pyridin), mùi lá ướt (xylen), mùi hoa khô (benzaldehit), mùi hồ đào
(δ-cadinen)... Axeton, ethyl xyclohexan đóng góp tính chất dịu ngọt trong lúc
toluen, α-terpinol đem lại mùi đường thắng, methyl butenol, guaien mùi dầu,
valenxen đặc biệt mùi mứt cam.
1.2.3.2. Các axit phenolic được tách ra từ quả măng cụt
Theo các nghiên cứu trước đây, đã có khoảng 10 axit phenolic (chủ yếu là
các dẫn xuất của axit hydroxybenzoic) được xác định trong cây măng cụt thông qua
GC-MS. Ngoài một số axit như vanillic, veratric, caffeic, p-coumaric, ferulic, phydroxyphenylaxetic, benzoic, cinnamic, mandelic... thì nổi trội lên là một số axit
phenolic có hàm lượng lớn hơn hẳn ở các bộ phận khác nhau của cây măng cụt như:
axit protocatechuic (vỏ quả và vỏ cây); axit p-hydroxybenzoic (áo hạt); axit mhydroxybenzoic (vỏ quả); 3,4–dihydroxymandelic (vỏ cây) [8, 28,37,49].
O

OH


OH
OH

HO

HO

OH

O

OH

3,4 – dihydroxymandelic

axit protocacheuic

7


O

OH
O

OH

OH


HO

axit p-hydroxybenzoic

axit m-hydroxybenzoic

1.2.3.3. Các xanthon được tách ra từ vỏ quả măng cụt
Trái măng cụt đã được chỉ ra là có chứa một lượng lớn các chất chuyển hóa
thứ cấp như là prenyl xanthon và oxygen xanthon[13,14, 28, 49].
Xanthon hay xanthen-9H-one là chất chuyển hóa thứ cấp được tìm thấy
trong một số họ thực vật lớn, nấm và địa y. Chúng là một trong những ngành quan
trọng của hợp chất dị vòng được oxy hóa. Khung cơ bản của xanthon được biết
đến như 9-xanthenone hay dibenzo-γ-pyron và được sắp xếp một cách cân đối
(hình 3). Các nguyên tử cacbon được đánh số theo sự thuận tiện của tổng hợp sinh
học. Các nguyên tử cacbon ở vị trí từ 1-4 được đánh số theo vòng B có nguồn gốc
từ shikimate, và cacbon từ 5-8 được đánh số theo vòng A có nguồn gốc từ axetat.
[15, 27].

Hình 1.3 Khung cơ bản của xanthon
Xanthon được phân thành năm nhóm: xanthon oxy hóa đơn giản, xanthon
glycosid, prenyl xanthon, xanthonolignoid và xanthon miscellaneous. Trong đó,
các xanthon oxy hóa đơn giản lại được chia nhỏ thành 6 nhóm theo mức độ oxy
hóa[9, 15, 23, 30, 38].

8


Năm mươi xanthon đã được tách ra từ vỏ quả măng cụt. Hợp chất đầu tiên
trong số chúng được đặt tên là mangostin (1) (sau được đổi thành α-mangostin),
được tách ra vào năm 1855 (Schmid, 1855). Chất này mang màu vàng, thu được

từ vỏ hoặc nhựa khô của cây măng cụt (Dragendorff, 1930).
Sau này, Dragendorff (1930) và Murakami (1932) đã làm sáng tỏ cấu trúc
của mangostin. Yates và Stout (1958) đã đưa ra công thức phân tử, phân loại và vị
trí của các nhóm thế của α-mangostin. Hơn thế nữa, Dragendorff (1930) cũng đã
tách được β-mangostin (2), cấu trúc của hợp chất này vẫn chưa được làm sáng tỏ
cho đến năm 1968 (Yates và Bhat, 1968). Jefferson (1970) và Govindachari và
Muthukumar-aswamy (1971) cũng tách được α và β-mangostin.

Một số xanthon khác được tách ra từ vỏ quả măng cụt được trình bày trong
bảng 1.
Bảng 1.1 Các xanthon được tách từ vỏ quả măng cụt.

9


STT

Tên hợp chất

Công thức cấu
tạo

Tài liệu tham
khảo

1

γ-mangostin

(3)


[5]

2

Gartanin

(4)

[16]

3

8-deoxy gartanin

(5)

[16]

4

garcinone A

(6)

[17]

5

garcinone B


(7)

[17]

6

garcinone C

(8)

[17]

7

garcinone D

( 9)

[19]

8

garcinone E

( 10)

[19]

9


BR-xanthon A

(11)

[25]

10

BR-xanthon B

(12)

[25]

11

Mangostingone

(13)

[32]

12

garcimangosones B

(14)

[39]


13

tovophyllin A

(15)

[39]

14

Mangostenone C

(16)

[40]

15

Mangostenone D

(17)

[40]

16

Mangostenone E

(18)


[40]

17

Thwaitesixanthon

(19)

[40]

18

Demethylcalabaxanthon

(20)

[40]

19

Mangostanol

(21)

[40]

20

Mangostanin


(22)

[40]

21

11-hydroxy-1-isomangostin

(23)

[40]

22

tovophyllin B

(24)

[42]

23

Trapezifolixanthon

(25)

[42]

24


cudraxanthon G

(26)

[47]

25

8-hydroxycudraxanthon G

(27)

[47]

26

1-isomangostin

(28)

[47]

27

Smeathxanthon A

(29)

[47]


10


Theo nhiều báo cáo, α, β và γ-mangostin, gartanin, 8-deoxy gartanin,
garcinone E là những xanthon được nghiên cứu nhiều nhất do mang nhiều hoạt tính
sinh học.

11


12


1.3. Công dụng và các hoạt chất sinh học
1.3.1. Ứng dụng trong y học dân gian
Trái măng cụt thơm ngon cũng còn cống hiến nhiều môn thuốc. Từ lâu, ở
Á châu, bên Ấn Độ, hệ thống y học ayurvedic đã kê nó vào nhiều thang thuốc cổ

13


truyền, đặc biệt chống viêm, chữa tiêu chảy, ức chế dị ứng, làm giãn phế quản
trong cuộc điều trị hen suyễn. Nó cũng được xem như là thuốc chống dịch tả,
bệnh lỵ, kháng vi khuẩn, kháng vi sinh vật, chống suy giảm miễn dịch. Người
Thái dùng nó để chữa vết thương ngoài da. Người Malaysia, Philipin dùng nước
sắc vỏ chữa lỵ, đau bụng, đi tiêu lỏng, bệnh vàng da. Ngoài ra, người ta còn dùng
lá và vỏ cây măng cụt sắc lấy nước làm thuốc hạ nhiệt, điều trị bệnh tưa miệng ở
trẻ em, nấm candida ở phụ nữ và rối loạn đường tiết niệu. Rễ cây măng cụt sắc lấy
nước uống giúp điều hòa kinh nguyệt. Nước sắc vỏ quả cũng được dùng làm nước

rửa âm đạo trong trường hợp bị bệnh bạch đới, khí hư[3].
Tinh dầu trích từ vỏ măng cụt được dùng để chữa bệnh eczema (chàm bội
nhiễm) và các rối loạn về da khác.
Vỏ măng cụt đem sắc lấy nước uống còn chữa được viêm bàng quang, và
dùng ngoài da để chữa bệnh lậu, ung nhọt.
Theo Đông y, vỏ quả măng cụt có vị chua chát, tính bình, đi vào hai kinh
phế và đại tràng, có công năng thu liễn, sáp trường, chi huyết, dùng trị tiêu chảy,
ngộ độc chất ăn, khi bệnh thuyên giảm thì thôi, dùng lâu sinh táo bón. Sau đây là
một số bài thuốc từ quả măng cụt: chữa tiêu chảy, kiết lỵ, tiêu độc, chữa rối loạn
tiêu hóa.
- Lấy khoảng mười cái vỏ cho vào một nồi đất, đậy thật kín bằng một tàu
lá chuối. Sau đó đun sôi cho đến khi nước có màu thật sẫm, uống mỗi ngày 3-4
chén.
- Ở vùng nóng người ta còn phối hợp với các vị thuốc khác; bài 1: vỏ Măng
cụt khô 60g, hạt Mùi 5g hạt thìa là 5g đem sắc với 1200ml nước. Ðun sôi kỹ, còn
lại 600ml chiết ra để uống, ngày hai lần, mỗi lần 120ml. Nếu là người lớn, đau
bụng, có thể thêm thuốc phiện; bài 2: vỏ quả măng cụt (1 quả), rau sam, rau má,
cỏ mực mỗi thứ 20 gam, cỏ sữa lá nhỏ (hoặc lớn), rễ cây mua mỗi thứ 8 g, cam
thảo đất, vỏ quýt, gừng tươi mỗi vị 4 g, thêm 1 lít nước, sắc còn phân nửa, uống
trong ngày.

14


- Lấy một nắm vỏ khoảng 50g, đem cắt ra từng khoanh, cho vào nồi đất với
hai bát nước, sắc như sắc thuốc, đun nhỏ lửa cho sôi từ 15-30 phút. Sau đó để
nước âm ấm, chiết lấy nước uống làm nhiều lần, mỗi lần độ 1 ly nhỏ. Thuốc sắc
ngày nào thì uống trong ngày đó, có thể thêm đường để uống và đỡ khát.
- Lấy vỏ quả măng cụt thái nhỏ, phơi khô, tẩm rượu, sao thơm rồi tán thành
bột mịn. Khi ăn phải những thức ăn ôi thiu gây rối loạn tiêu hóa, ăn không tiêu, đi

tả, nôn mửa... nên lấy ngay một thìa bột thuốc nói trên hòa với nước đun sôi, cho
thêm ít muối trắng, uống ngay lúc nước còn nóng sẽ thấy đỡ.
1.3.2. Các hoạt tính sinh học của cây măng cụt (Garcinia mangostana L.)
1.3.2.1. Hoạt tính chống oxy hóa [13,22,24, 26, 41]
Năm 1994, Yoshikawa và các cộng sự thực hiện phương pháp dọn gốc 2,2diphenyl-1-picrylhydrazyl (DPPH) đối với phần chiết metanol từ vỏ quả măng cụt.
α và β mangostin đã chỉ ra hoạt tính chống oxy hóa thông qua sử dụng phương
pháp sắt thiocyanat. Năm 1995, Williams và các cộng sự đã phát hiện ra αmangostin làm giảm quá trình oxy hóa LDL (low density lipoproteins) đối với con
người, được cảm ứng bởi đồng hay gốc peroxyl. Họ cũng phát hiện ra rằng αmangostin, thứ nhất là kéo dài thời gian chậm trế của các đien liên hợp ở 234 nm
theo liều lượng, thứ hai là giảm bớt quá trình sản xuất TBARS (thiobarbituric
reactive substances), và thứ ba là làm giảm khả năng tiêu thụ α-tocopherol, được
cảm ứng bởi sự oxi hóa LDL. Sau đấy, năm 2000, Mahabusarakam và các cộng sự
cũng nhận ra rằng α-mangostin và những dẫn xuất tổng hợp từ đó ngăn cản quá
trình giảm mức tiêu thụ α-tocopherol, được cảm ứng bởi sự oxy hóa LDL. Những
tác giả này cũng nhận ra rằng sự thay đổi cấu trúc của α-mangostin cũng làm thay
đổi hoạt tính chống oxy hóa. Cụ thể, sự thay thế giữa C-3 và C-6 với dẫn xuất
aminoethyl làm tăng hoạt tính; bất kỳ sự thay thế nào cùng với các nhóm metyl,
axetat, propanediol hay nitrile đều khử hoạt tính chống oxy hóa.

15


Mặt khác, Leong và Shui (2002) đã so sánh toàn bộ khả năng chống oxy
hóa của 27 loại trái cây có giá trị trên thị trường Singapo, bao gồm cả măng cụt, có
sử dụng phép phân tích ABTS và DPPH; và họ chỉ ra rằng các chất tách ra từ trái
măng cụt có vị trí thứ 8 về hiệu quả chống oxy hóa.
Năm 2006, Weecharangsan và các cộng sự đã nghiên cứu hoạt tính chống
oxy hóa và bảo vệ thần kinh của bốn phần chiết thu được từ vỏ trái măng cụt (bao
gồm: nước, 50 % etanol, 95 % etanol, và etyl axetat). Khả năng chống oxy hóa
được đánh giá dựa vào phương pháp DPPH sử dụng 1, 10, 50 và 100 μg/mL ở mỗi
phần chiết. Phần chiết từ nước và etanol (50 %) chỉ ra khả năng chống oxy hóa

cao (nồng độ ức chế theo thứ tự định sẵn ở 50 % (IC 50) là 34,98 ± 2,24 và 30,76 ±
1,66 μg/mL). Khả năng chống oxy hóa của những phần chiết này được kiểm
nghiệm trên dòng tế bào ung thư ngoài sọ (neuroblastoma – NG108-15) thông qua
H2O2; cả 2 phần chiết đều bộc lộ tính bảo vệ thần kinh khi được sử dụng ở nồng
độ 50 μg/mL. Phần chiết chứa 50 % etanol có tính bảo vệ thần kinh cao hơn phần
chiết nước. Gần đây hơn, năm 2007, Chomnawang và các cộng sự đã chỉ ra là cặn
chiết etanol từ măng cụt sở hữu hoạt tính chống oxy hóa đáng kể, được xác định
thông qua sự ức chế về thông tin của các gốc DPPH là 50 %. Phần tách ra này đã
thể hiện chỉ số IC50 ở 6,13 μg/mL bằng cách so sánh với các cặn etanol của
Houttuynia cordata, Eupatorium odoratum và Senna alata (theo thứ tự IC50 là
32,53, 67,55 và 112,46 μg/mL). Thêm vào đó, phần chiết từ trái măng cụt khử
được đáng kể sản phẩm ROS (reactive oxygen species) của PML
(polymorphonuclear leucocytes) với 77,8 % tỉ lệ ức chế superoxide anion, theo thứ
tự là 62,6 %, 44,9 % và 35,18 %. Cũng trong năm 2007, Haruenkit và các cộng sự
đã chỉ ra tính chống oxy hóa của măng cụt dựa vào phân tích DPPH và ABTS. Họ
đã tìm ra chỉ tiêu của các chất tương đương trolox trên 100 g tính theo khối lượng
tươi, theo các phân tích DPPH và ABTS lần lượt là 79,1 và 1268,6 μM. Bên cạnh
đó, với các loài chuột được cho ăn theo khẩu phần ăn kiêng cơ bản bổ sung thêm
1% cholesterol cộng với 5% măng cụt thì sự tăng thể huyết tương và sự giảm tính
chống oxy hóa được thấy rõ với việc ngăn cản mỗi cholesterol.

16


Năm 2004, Moongkarndi và các cộng sự đã chỉ ra rằng phần chiết từ măng
cụt làm giảm hiệu quả quá trình sản xuất ROS nội bào, thông qua phương pháp
DCFH-DA (2,7-dichlorofluorescein diacetate) trong dòng tế bào SKBR3.
Năm 2008, Chin và các cộng sự đã nghiên cứu khả năng hoạt động loại bỏ
HO. của các xanthon tách ra từ măng cụt. Trong số 16 xanthon được kiểm nghiệm
chỉ có duy nhất γ-mangostin có khả năng này (IC50 0,2 μg/mL). Sau đó, họ cũng

kiểm tra các xanthon tương tự thông qua quá trình cảm ứng của khử quinone ( QR,
phase II drug-metabolizing enzyme), thử nghiệm trên các tế bào murine hepatoma.
Tất cả các xanthon, ngoại trừ α-mangostin đều gây cảm ứng với hoạt động khử
QR. Nồng độ làm gấp đôi giá trị hoạt động cảm ứng QR của các hợp chất trên lần
lượt là: 1,3 μg/mL ( 1,2-dihydro-1,8,10-trihydroxy-2-(2-hydroxypropan-2-yl)-9(3-methylbut-2-enyl)furo[3,2-a]xanthen-11-one),

2,2

μg/mL

(6-deoxy-7-

demethylmangostanin), 0,68 μg/mL (1,3,7-trihydroxy-2,8-di-(3-methylbut-2enyl)xanthon, 0,95 μg/mL (mangostanin).
1.3.2.2. Hoạt tính kháng ung thư
Rất nhiều nghiên cứu cho thấy xanthon trong vỏ măng cụt có hoạt tính
chống ung thư[13,31]. Các loại dòng tế bào như: Dòng tế bào ung thư biểu mô gan,
dòng tế bào ung thư vú ở người SKBR3 và dòng tế bào bạch cầu ở người được sử
dụng.
Năm 2002, Ho và các cộng sự đã nhận ra rằng garcinone E gây hiệu quả
độc tố tế bào rất mạnh mẽ trên dòng tế bào ung thư biểu mô gan. Họ đã nghiên
cứu hiệu quả độc tố tế bào của 6 xanthon được tách ra từ vỏ quả măng cụt và nhận
thấy rằng garcinone E là độc tố tốt nhất. Chính vì vậy, garcinone E được thử
nghiệm chống lại các dòng tế bào ung thư gan HCC36, TONG, HA22T, Hep3B,
HepG2 và SK-Hep-1; dòng tế bào ung thư phổi NCI-Hut 125, CH27 LC-1, H2891
và Calu-1; dòng tế bào ung thư dạ dày AZ521, NUGC-3, KATO-III và AGS.
Garcinone E đã tỏ rõ sự phân bố lớn về hiệu quả phụ thuộc liều lượng và thời gian
độc tố tế bào chống lại các dòng tế bào ung thư khác nhau; ngoại trừ tế bào ung

17



thư phổi CH27 LC-1, tất cả các dòng tế bào được kiểm nghiệm đều bị tiêu diệt.
Chỉ số về liều lượng gây chết người ở garcinone 50% (LD50) chống lại các dòng tế
bào trên là khoảng từ 0,1–5,4 μM. Hiệu quả chống ung thư của garcinone E theo
thứ tự là như sau: SK-hep-1 > HA22T > HepG2 > Hep3B > HCC36.
Năm 2003, Matsumoto và các cộng sự đã nghiên cứu ảnh hưởng của 6
xanthon (α, β và γ-mangostin, mangostinone, garcinone E và 2-isoprenyl-1,7dihydroxyl-3-methoxy xanthon) được tách ra từ vỏ quả măng cụt với khả năng ức
chế sự phát triển tế bào của dòng tế bào mắc bệnh bạch cầu ở người HL60. Họ đã
khảo sát hiệu quả độc tố tế bào 72h tính từ sau khi ủ bệnh với các xanthon ở 5 hay
40 μM. Tất cả các xanthon đã chỉ ra hiệu quả ức chế hoàn toàn, nhưng α, β và γmangostin hiệu quả hoàn toàn từ 10 μM trở đi. Hợp chất có hàm lượng lớn nhất
trong cặn là α-mangostin, đó cũng là chất có hoạt tính ức chế cao nhất (IC 50 10
μM). Sau này, α- mangostin được phát hiện ra là có cả hiệu quả đối với các dòng
tế bào mắc bệnh bạch cầu khác: K562, NB4 và U937. Những dòng tế bào này
thường bị α- mangostin ức chế ở 5–10 μM.
Năm 2005, Matsumoto và các cộng sự đã nghiên cứu khả năng chống tăng
trưởng của 4 prenyl xanthon (α, β, γ-mangostin và methoxyl-β- mangostin) trên tế
bào ung thư ruột người DLD-1. Ngoại trừ methoxyl-β- mangostin, 3 xanthon còn
lại ức chế mạnh mẽ sự phát triển tế bào ở 20 μM và 72h; khả năng chống ung thư
của chúng phụ thuộc vào số nhóm hydroxy.
Năm 2006, Suksamrarn và các cộng sự đã tách được 3 prenyl xanthon mới
từ vỏ quả măng cụt (mangostenones C, D và E), cùng với 16 xanthon được biết
đến trước đó. Khả năng gây độc tố tế bào của các xanthon này được kiểm nghiệm
chống lại 3 dòng tế bào ung thư khác nhau: ung thư biểu bì mồm (KB), ung thư vú
(BC-1), và ung thư phổi (NCI-H187). Mangostenone C đã được chứng minh hiệu
quả độc tố tế bào chống lại 3 dòng tế bào này, với IC 50 theo thứ tự là 2,8, 3,53,
3,72 μg/mL. Tuy nhiên, α-mangostin hiệu quả nhất với tế bào BC-1 (IC 50 0,92
μg/mL), tốt hơn thuốc ellipticine (IC50 1,46 μg/mL); α-mangostin cũng có hiệu quả

18



×