ĐẠI HỌC THÁI
NGUYÊN ^
TRƯỜNG ĐẠI HỌC
NÔNG LÂM
----------------------------------------
MA THANH THUYẾT
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM TÁI SINH Tự NHIÊN CỦA
THỰC VẬT THÂN GỖ Ở CÁC KIỂU RỪNG TRÊN NÚI
ĐÁ TẠI KHU BẢO TỒN LOÀI VÀ SINH CẢNH NAM
XUÂN LẠC, HUYỆN CHỢ ĐỒN, TỈNH BẮC KẠN
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hê đào tao
••
Chun ngành
Khoa
Khóa học
: Chính quy :
Lâm Nghiệp :
Lâm Nghiêp :
2011 - 2015
THÁI NGUYÊN, NĂM 2015
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN ^
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
----------------------------------------
MA THANH THUYẾT
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM TÁI SINH Tự NHIÊN CỦA
THỰC VẬT THÂN GỖ Ở CÁC KIỂU RỪNG TRÊN NÚI
ĐÁ TẠI KHU BẢO TỒN LOÀI VÀ SINH CẢNH NAM
XUÂN LẠC, HUYỆN CHỢ ĐỒN, TỈNH BẮC KẠN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hê đào tao
••
Chun ngành
Khoa
Khóa học
: Chính quy :
Lâm Nghiệp :
Lâm Nghiêp :
2011 - 2015
Giảng viên hướng dẫn 1: ThS. Phạm Thu Hà
2: ThS. Nguyễn Văn Mạn
3
LỜI CẢM ƠN
Để hồn thiện chương trình đạo tạo Đại học thì quá trình thực tập tốt nghiệp được
xem là khâu quan trọng giúp sinh viên củng cố kiến thức tiếp thu được trên giảng đường Đại
học và cũng là cơ hội để sinh viên thử sức với công việc, va chạm với những tình huống
khơng có trong sách vở, bớt đi sợ bỡ ngỡ khi ra trường.
Được sự giới thiệu của Ban giám hiệu, Bạn chủ nhiệm khoa Lâm Nghiệp, trường Đại
học Nông Lâm Thái Nguyên, tôi đã thực hiện đề tài “Nghiên cứu đặc điểm tái sinh tự nhiên
của thực vật thân gỗ ở các kiểu rừng trên núi đá tại khu Bảo tồn loài sinh cảnh Nam Xuân Lạc
huyện chợ đồn, tỉnh Bắc Kạn”.
Có được kết quả như hôm nay tôi xin trân thành cảm ơn thầy giáo Th.s Nguyễn Văn
Mạn và cô giáo Th.s Phạm Thu Hà là người đã tận tình giúp đỡ, dẫn dắt tơi suốt thời gian thực
tập và viết khóa ln tốt nghiệp.
Tôi xin cảm ơn sâu sắc các bác, các cô, các chú và các anh chi hiện đang công tác tại
Khu Bảo tồn loài sinh cảnh Nam Xuân Lạc đã giúp đỡ tơi hồn thành tốt nhiệm vụ được giao
và cung cấp đầy đủ các số liệu cần thiết phục vụ cho quá trình nghiên cứu đề tài.
Cảm ơn gia đình, bạn bè và người thân đã động viên, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian
thực tập và trong quá trình hồn thành khóa luận tốt nghiệp.
Trong q trình
thực hiện khóa luận tốt nghiệp tơi đã cố gắng hết
mình,
nhưng do kinh nghiệm và kiến thức còn hạn chế nên chắc chắn khơng tránh khỏi những sai sót
và khiếm khuyết. Tơi rất mong được sự tham gia đóng góp ý kiến từ phía các thầy, cơ giáo và
các bạn sinh viên để khóa luận của tơi được hồn thiện hơn nữa.
Tơi xin trân thành cảm ơn !
Thái Nguyên, ngày 25 tháng 5 năm 2015
Sinh Viên
Ma Thanh Thuyết
4
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của bản thân tôi, các số liệu
và kết quả nghiên cứu trình bày trong khóa luận là q trình điều tra trên thực địa hồn tồn
trung thực, khách quan.
Thái Nguyên, 25 tháng 05 năm 2015
Xác nhận của giáo viên hướng dẫn
Người viết cam đoan
Đồng ý cho bảo vệ kết quả trước Hội
đồng khoa học
ThS. Phạm Thu Hà
Ma Thanh Thuyết
Xác nhận của giáo viên chấm phản biện
Giáo viên chấm phản biện xác nhận sinh viên đã sửa sai sót
sau khi hội đồng chấm yêu cầu.
(ký, ghi rõ họ tên)
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HÌNH
DANH MỤC CHỮ VIÉT TẮT
Tên viết tắt
Tên đầy đủ
KBT
Khu bảo tồn
TSR
KBTL&SCNXL
Tái sinh rừng
Khu bảo tồn loài và sinh cảnh Nam Xuân Lạc
IVI%
Ni
Chỉ số sinh thái cây tái sinh
Số lồi cây cá thể thứ i
ƠTC
Ơ tiêu chuẩn
ƠDB
Ơ dạng bản
STT
Số thứ tự
UBNN
Ủy ban nhân dân
MỤC LỤC
4.1.
4.2.1.............................................................................................................................Đặc
điếm tầng cây cao.................................................................................................
4.2.2............................................................................................................................Đặc
điếm tầng cây bụi, thảm tươi................................................................................
4.2.3............................................................................................................................Đặc
điếm địa hình, đất đai tho nhưỡng........................................................................
4.2. Đề xuất một số giải pháp bảo tồn và phát triến thực vật thân gỗ tại khu vực
nghiên cứu........................................................................................................................
4.3.1............................................................................................................................Giải
pháp chung...........................................................................................................
4.3.1............................................................................................................................Giải
pháp riêng............................................................................................................
PHẦN 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ................................................................................
5.1. Kết luận................................................................................................................
5.2. Đề nghị................................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................
34
38
40
41
41
42
43
43
45
46
7
PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Rừng là tài nguyên vô cùng quý giá, vốn được mệnh danh là “lá phổi” của trái đất, là
một bộ phận quan trọng của môi trường sống, luôn gắn liền với đời sống của đồng bào các dân
tộc miền núi. Rừng khơng chỉ có giá trị về kinh tế mà cịn có ý nghĩa rất lớn trong nghiên cứu
khoa học, bảo tồn nguồn gen, bảo tồn đa dạng sinh học, điều hồ khí hậu, phịng hộ đầu
nguồn, hạn chế thiên tai, ngăn chặn sự hoang mạc hố, chống sói mịn, sạt lở đất, ngăn ngừa lũ
lụt, đảm bảo an ninh quốc phòng, đồng thời rừng cũng tạo cảnh quan phục vụ cho du lịch sinh
thái, du lịch cộng đồng.
Khoa học ngày nay đã chứng tỏ các biện pháp bảo vệ, sử dụng và tái tạo lại rừng chỉ có
thể giải quyết thỏa đáng khi có một sự hiểu biết đầy đủ về bản chất các quy luật sống của rừng
tương ứng với những điều kiện tự nhiên môi trường khác nhau. Tái sinh rừng là một q trình
sinh học mang tính đặc thù của hệ sinh thái. Nó đảm bảo cho nguồn tài nguyên rừng có khả
năng tái sản xuất mở rộng, nếu chúng ta nắm được các quy
điều khiển
được quy
luật
tái sinh, chúng ta sẽ
luật
đó
phục vụ
cho sản xuất kinh doanh. Vì vậy tái sinh rừng chở thành vẫn đề then chốt trong việc xác định
các phương thức kinh doanh rừng.
Hiện nay trong nhiều vùng rừng tự nhiên của nước ta đã mất rừng do sử dụng phương
thức khai thác - tái sinh không đáp ứng được lợi ích lâu dài của nền kinh tế và bảo vệ môi
trường. Các phương thức khai thác - tái sinh không hợp lý đã và đang làm cho rừng tự nhiên
suy giảm cả về số lượng lẫn chất lượng. Ở Việt Nam, năm 1943 diện tích rừng cịn khoảng
14,3 triệu ha, tỷ lệ che phủ khoảng 43%. Đến năm 1999, theo số liệu thống kê chỉ còn 10,9
triệu ha rừng, trong đó 9,4 triệu ha rừng tự nhiên và 1,5 triệu ha rừng trồng và độ tre phủ
tương ứng khoảng 33,2%. Do vậy, việc tái sinh tự nhiên là một trong những biện pháp và
nhiệm vụ quan trọng. [15]
Khu bảo tồn loài và sinh cảnh Nam Xuân Lạc (KBTL&SCNXL) huyện Chợ Đồn, tỉnh
Bắc Kạn được thành lập theo Quyết định số 342/QĐ-UB ngày 17/03/2004 của UBND tỉnh
Bắc Kạn với diện tích 1.788 ha, nằm trong địa giới hành chính của xã Xuân Lạc và chủ yếu là
8
rừng gỗ quý hiếm trên núi đá vôi. Mặc dù diện tích nhỏ, nhưng KBTL&SCNXL là hành lang
quan trọng nối liền Vườn quốc gia Ba Bể với Khu Bảo Tồn Thiên Nhiên Nà Hang. Hiện trạng
rừng ở Khu bảo tồn này còn khá nguyên vẹn, nhiều nơi chưa bị tác động bởi con người, cịn
lưu giữ nhiều lồi động động vật quý hiến đang có nguy cơ bị tuyệt chủng ở Việt Nam và trên
thế giới như Voọc đen má trắng, Voọc mũi hếch, Vạc Hoa và các loài thực vật quý hiếm như
Trai, Nghiến, Đinh, Lan Hài và Thông (Báo cáo đánh giá kết quả hoạt động của Khu bảo tồn
loài và sinh cảnh Nam Xuân Lạc, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn,2011).
Nằm trong hệ thống rừng đặc dụng của Việt Nam, KBTL&SCNXL là một đơn vị địa lý
sinh vật vô cùng đa dạng đối với việc bảo vệ môi trường. Nhưng trên thực tế nơi đây đang
chịu tác động bởi sức ép về dân số. Chính vì vậy, cơng tác bảo tồn tính đa dạng sinh học, bảo
vệ nguồn gen quý cũng như các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác tại Khu bảo tồn đã được
tỉnh Bắc Kạn rất quan tâm. Từ khi thành lập, KBTL&SCNXL đã có một số cuộc điều tra,
đánh giá tài nguyên rừng, bước đầu cũng đã đánh giá được giá trị, tiềm năng và ý nghĩa của
một khu bảo tồn. Nhưng một số nội dung quan
một cách có
trọngchưa được
hệ thống, đó
là
thực
hiện
đánh
giá đặc điểm cây tái sinh phân loại một cách chính xác, yếu tố địa lý cấu thành hệ thực vật,
công dụng và mức độ nguy cấp của các loài quý hiếm để từ đó đưa ra các biện pháp bảo tồn
thích hợp. Để góp phần đánh giá tính đa dạng thực vật trên vùng núi đá tại KBTL&SCNXL,
làm cơ sở cho công tác bảo tồn và sử dụng hợp lý tài nguyên sinh vật tại đây, chúng tôi chọn
đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm tái sinh tự nhiên của thực vật thân gỗ ở các kiểu rừng
trên núi đá tại khu bảo tồn loài và sinh cảnh Nam Xuân Lạc, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc
Kạn”.
1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài
-
Xác định được đặc điểm tái sinh tự nhiên của thực vật thân gỗ ở các kiểu rừng trên
núi đá tại khu vực nghiên cứu.
-
Đề xuất được một số giải pháp xúc tiến tái sinh và bảo tồn thực vật thân gỗ đặc biệt là
các loài quý hiếm.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
- Ý nghĩa trong khoa học
9
Qua việc thực hiện đề tài sẽ giúp sinh viên tiếp cận và làm quen với lĩnh vực nghiên
cứu khoa học, củng cố lại kiến thức đã học, vận dụng lý thuyết vào thực tế, biết cách thu thập,
phân tích và xử lý thông tin. Nâng cao kỹ năng làm việc theo nhóm, đánh giá và quyết định
lựa chọn các phương án giải quyết vấn đề.
- Ý nghĩa trong thực tiễn
Đây là đề tái có ý nghĩa thực tiễn vơ cùng quan trọng, đề tài góp
phần nghiên cứu về sự đa dạng sinh học của các loài sinh vật trên
trái đá. Đánh giá tính đa dạng các lồi cây thân gỗ trên núi đá giúp
ta biết được khả năng sinh trưởng phát triển, khả năng thích nghi
sinh tồn của sinh vật tại nơi đây, cũng như thấy được sự tác động
tích cực và tiêu cực của thiên nhiên và con người lên hệ sinh thái
trên núi đá. Từ đó, giúp ta xác định được các biện pháp phù hợp tác
động vào nhằm bảo tồn, phát triển các hệ sinh thái. Khai thác, sử
dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách hiệu quả và bền
vững.
PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở khoa học
2.1.1.
Cơ sở sinh thái của cấu trúc rừng
Cấu trúc rừng là một khái niệm dùng để chỉ quy luật sắp xếp tổ hợp của các thành
phần cấu tạo nên quần xã thực vật rừng theo không gian và thời gian. Cấu trúc là một trong
những nội dung nghiên cứu quan trọng về hình thái quần thể thực vật. Tuy nhiên, khái niệm về
cấu trúc không chỉ bao gồm những nhân tố cấu trúc về hình thái mà cả những nhân tố cấu trúc
về sinh thái. Giữa cấu trúc và sinh thái rừng có mỗi quan hệ chặt chẽ với nhau. Bất kỳ một quy
luật cấu trúc quần thể nào cũng đều có
bên trong
nội
dung sinh thái
của nó. Khơng qn
học
triệt quan điểm sinh
thái trong khi nghiên cứu cấu trúc rừng thì sẽ khơng có cơ sở khoa học để giải thích những quy
luật cấu trúc của quần thể thực vật. Cấu trúc rừng bao gồm cấu trúc sinh thái, cấu trúc hình thái
và cấu trúc tuổi. (Phùng Ngọc Lan, 1986) [7].
2.1.2.
Cơ sở lý luận về tái sinh phục hồi rừng
Theo Baru (1976), tái sinh phục hồi rừng là “ Phát triển một loạt những biện pháp sử lý để
thu được tái sinh, ở điều kiện cường tráng và lành mạnh, đưa lớp cây này đến tuổi thành thục
là nền tảng của một phương thức lâm sinh và phương thức này đến lượt nó lại là một trong
những cơ sở chủ yếu để kinh doanh rừng với một năng suất bền vững... ”.
Xét về mặt lý luận, tái sinh rừng luôn bao gồm cả hai thuật ngữ, thứ nhất hoàn trả lại
diễn tả sự lặp lại của toàn bộ quần xã sinh vật giống như nó đã xuất hiện trong tự nhiên. Thuật
ngữ thứ hai là phục hồi chỉ sự phục hồi lại và được hiểu là những xúc tiến điều chế quản lý
rừng đã bị suy thoái, xáo trộn và được ngăn chặn. Nếu đối chiếu tái sinh rừng và phát triển
rừng thì thuật ngữ “hồn trả” là một q trình, cịn
kiện.
Xúc
tiến cho rừng
sự “phục
tự phục
hồi
hồi”
chính là điều
hoặc tác
động để rừng phục hồi theo những quy luật diễn thế tự nhiên là một quá trình. Bảo vệ, quản lý
cho q trình đó liên tục, khơng bị dứt qng là điều kiện. Đây chính là nội dung cơ bản trong
kỹ thuật phục hồi rừng bằng khoanh nuôi [8].
2.1.3.
Một số khái niệm
- Tái sinh rừng
Q trình sinh
học mạng tính đặc thù của hệ sinh thái
rừng, biểu hiện ở sự
suất hiện của một thế hệ cây con của những loài cây gỗ dưới tán rừng. TSR là quá trình phục
hồi thành phần cơ bản của rừng, chủ yếu là tầng cây gỗ. Theo nghĩa rộng TSR là sự tái tạo một
hệ sinh thái rừng mới đảm bảo cho rừng tồn tại và phát triển. Có hai phương thức TSR, tái sinh
tự nhiên ( rừng phát triển khơng có sự can thiệp của con
(rừng
phát triển
nhờ sự
tác
người), tái sinh nhân
tạo
độngcủa con người
như khoanh nuôi, trồng, tỉa, chăm sóc).
Theo Phùng Ngọc Lan, (1986), thì tái sinh rừng được hiểu theo nghĩa rộng là sự tái
sinh của hệ sinh thái rừng. Tái sinh rừng hiểu theo nghĩa hẹp là quá trình phục hồi lại thành
phần cơ bản của rừng [7].
Theo Ngô Quan Dê và cộng sự, (1992), tái sinh tự nhiên là quá trình tạo thành thế hệ
mới bằng con đường tự nhiên về cơ bản khơng có sự tác động của con người. Kết quả của
phương thức tái sinh này phụ thuộc vào quy luật khách quan của tự nhiên. Tái sinh nhân tạo là
phương thức tái sinh có sự tác động tích cực của con người từ khi gieo giống, trồng cây, chăm
sóc để tạo rừng mới trên đất rừng. Về mặt kỹ thuật, tái sinh nhân tạo và trồng rừng giống nhau,
nhưng khác nhau ở địa điểm tiến hành. Trồng rừng là tiến hành trên đất chưa có rừng hoặc có
rừng nhưng đã mất từ lâu, đất khơng cịn tính chất đất rừng. Trái lại tái sinh nhân tạo tiến hành
trên đất còn mang tính chất đất rừng. Cây tái sinh có triển vọng là cây tái sinh có chiều cao
bằng hoặc vượt chiều cao thảm tươi, cây bụi xung quanh nó và có phẩm chất từ trung bình trở
lên. Khi vận dụng quy luật này cần thống nhất ba yêu cầu sau. Thứ nhất, cây đó qua thời gian
cây mạ; thứ hai, chiều cao cây tái sinh phải bằng hoặc vượt chiều cao lớp thảm tươi, cây bụi
xung quanh nó; thứ ba, cây có sinh lực tốt, khơng cong queo, sâu bệnh [3].
- Phục hồi rừng
Võ Đại Hải và cộng sự thì phục hồi rừng trước hết là phục hồi lại thành phần chủ yếu
của rừng là thảm thực vật cây gỗ sẽ tạo điều kiện cho
sự xuất hiện các
thành phần cây khác của rừng như tầng cây bụi, tầng cỏ khuyết, khu hệ động vật, vi sinh vật...
và các yếu tố khác của rừng như chế độ nhiệt, chế độ ẩm... Vì vậy khái niệm phục hồi rừng sẽ
có ý nghĩa rộng lớn là phục hồi lại cả quần lạc sinh vật hay một hệ sinh thái rừng hoàn chỉnh.
Trong thực tế quá trình phục hồi rừng được đánh giá bằng sự xuất hiện và chất lượng của thế
hệ mới các cây gỗ [4].
Phục hồi rừng là một quá trình sinh học gồm nhiều giai đoạn và kết thúc bằng sự xuất
hiện một thế hệ mới thảm cây gỗ bắt đầu khép tán. Quá trình phục hồi sẽ tạo điều kiện cho sự
cân bằng sinh học liên tục và cũng vì thế mà chúng ta có thể sử dụng chúng liên tục được. [4].
2.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngồi nước
2.2.1.
Tình hình nghiên cứu trên thế giới
2.2.1.1.
Nghiên cứu cấu trúc rừng
Trên thế giới việc nghiên cứu cấu trúc rừng đã được tiến hành từ lâu nhằm xác định cơ
sở khoa học cho việc đề xuất các biện pháp kỹ thuật tác động vào rừng, góp phần nâng cao
hiệu quả kinh tế và môi trường của rừng. Các công trình của các tác giả Richards, Baru,
Catinot, Odum, Van Stennis v.v.. được coi là những nền tảng cho những nghiên cứu về cấu
trúc rừng, đặc biệt là rừng tự nhiên nhiệt đới.
Rừng tự nhiên có tầng tán khơng phân biệt rạch rịi, vì thế việc phân chia cịn nhiều
hạn chế. Đối với rừng mưa nhiệt đới nhiều tác giả chia làm 3 tầng, đó là tầng cây cao thường
hình thành tầng vượt tán, tầng tán chính, tầng dưới tán. Một số tác giả còn chia
rừng làm 5 tầng. Tầng trội, tầng chính, tầng dưới tán, tầng cây
bụi
và thảm tươi.
2.2.1.2.
Nghiên cứu về tái sinh rừng
Quá trình tái sinh ở rừng nhiệt đới vơ cùng phức tạp và cịn ít được nghiên cứu. Phần
lớn tài liệu nghiên cứu về tái sinh tự nhiên của rừng mưa nhiệt đới thường chỉ tập chung vào
một số lồi cây có giá trị kinh tế dưới điều kiện rừng đã ít nhiều bị biến đổi. Van steenis
(1956), đã nghiên cứu hai đặc điểm tái sinh phổ biến của rừng mưa nhiệt đới là tái sinh phân
tán liên tục của các lồi cây chịu bóng và tái sinh vệt của các loài cây ưu sáng.[14]
Đối với rừng
nhiệt đới, các nhân
tố như ánh sáng, độ
ẩm của đất, kết cấu
quần thụ cây bụi, thảm tươi là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến cây tái sinh.
G.N. Baur, (1976), cho rằng: Sự thiếu hụt ánh sáng ảnh hưởng đến sự phát triển cây
con. Nhưng đối với sự nảy mầm và quá trình sinh trưởng của cây mầm ảnh hưởng đó lại khơng
rõ. [8]
Xanniknow, (1967) Vipper, (1973) dẫn theo Nguyễn Văn Thêm, (1992), trong nghiên
cứu tái sinh rừng, người ta nhận thấy rằng cỏ và tầng cây bụi qua quá trình sinh trưởng thu
nhận ánh sáng, các chất dinh dưỡng sẽ làm ảnh hưởng đến cây tái sinh. Những
phần
thưa, rừng đã bị khai thác nhiều,
lâm
tạo ra nhiều
khoảng
chống lớn, tao điều kiện cho cây bụi thảm tươi phát triển mạnh. Trong điều kiện đó, chúng sẽ
là nhân tố cản trở sự phát triển và khả năng sinh tồn của cây tái sinh. Nếu lâm phần kín, đất
khơ, nghèo dinh dưỡng cây bụi thảm tươi phát triển chậm tạo điều kiện cho cây tái sinh vươn
lên.[10]
Tóm lại, nghiên cứu về tái sinh rừng trên thế giới cho chúng ta hiểu biết về phương
pháp nghiên cứu và quy luật tái sinh tự nhiên của một số vùng, đặc biệt là sự vận dụng hiểu
biết về quy luật tái sinh để xây dựng các biện pháp kỹ thuật lâm sinh hợp lý nhằm quản lý rừng
bền vững.
2.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
2.2.2.I.
Nghiên cứu cấu trúc rừng
Rừng tự nhiên nước ta thuộc kiểu rừng nhiệt đới, rất phong phú và đa dạng về thành
phần loài, phức tạp về cấu trúc. Trong những năm gần đây, cấu trúc rừng ở nước ta đã được
nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Sở dĩ như vậy vì cấu trúc là cơ sở cho việc định hướng phát
triển rừng, đề ra biện pháp lâm sinh hợp lý.
Thái Văn Trừng (1978), khi nghiên cứu kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới
nước ta, đã đưa ra mơ hình cấu trúc rừng, những tầng vượt tán, tầng ưu thế sinh thái, tầng dưới
tán, tầng cây bụi và tầng cỏ quyết. Tác giả đã vận dụng và có sự cải tiến bổ sung phương pháp
biểu đồ mặt cắt của Davit - Risa, trong đó tầng cây bụi và thảm tươi được phóng với tỷ lệ lớn
hơn. Ngồi ra, tác giả cịn dựa vào bốn tiêu chuẩn để phân loại thảm thực vật rừng Việt Nam,
đó là: dạng sống ưu thế của những thực vật
của tầng
ưu thế
tầng cây lập quần,
độ tàn che
sinh thái, hình thái sinh thái của nó và trạng thái của
tán lá. Dựa vào đó, tác giả chia thảm thực vật rừng Việt Nam thành 14 kiểu [11].
Đào Công Khanh (1996), [6], Bảo Huy (1993) [5] đã căn cứ vào tổ thành lồi cây mục
đích để phân loại rừng phục vụ cho việc xây dựng các biện pháp lâm sinh. Lê Sáu (1996) [9]
dựa vào hệ thống phân loại của Thái Văn Trừng kết hợp với hệ thống phân loại Loeschau, chia
rừng ở khu vực Kon Hà Nừng thành 6 trạng thái.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu về cấu trúc rừng gần đây thường thiên về mô
hình hóa các quy luật kết cấu lâm phần và việc đề xuất các biện pháp kỹ thuật tác động vào
rừng thường ít đề cập đến các yếu tố sinh thái nên chưa thực sự đáp ứng mục tiêu kinh doanh
rừng ổn định lâu dài.
2.2.2.
2. Nghiên cứu tái sinh rừng
Vấn
đề tái sinh ở nước
ta chưa
được nghiên cứu nhiều. Một số kết quả
nghiên cứu về tái sinh thường được đề cập trong các cơng trình nghiên cứu về thảm thực vật,
các báo cáo khoa học và một phần được công bố trên các tạp chí.
Tái sinh rừng tự nhiên nhiệt đới là một vấn đề rất đa dạng và phong phú. Quá trình này
bị chi phối bởi nhiều yếu tố như vị trí địa lý, biện pháp tác động đến tầng cây cao, nguồn ngốc
hình thành rừng... Chính vì thế cho dù quy trình tái sinh có quy luật nhất định, vốn có tồn tại
khách quan, nhưng do các tác động trên làm cho chúng trở nên phức tạp. Tái sinh là vấn đề
quan trọng, quyết định đến bảo vệ và phát triển rừng bền vững, vì thế nghiên cứu quá trình tái
sinh là một việc làm khơng thể thiếu trong các nghiên cứu về cấu trúc tự nhiên.
Nguyễn Duy Chuyên (1988) khi nghiên cứu quy luật phân bố tái sinh tự nhiên rừng lá
rộng thường xanh hỗn loại vùng Quỳ Châu Nghệ An, đã khái quát đặc điểm phân bố của nhiều
lồi cây có giá trị kinh doanh và biểu diễn bằng các hàm lý thuyết,
làm
cơ
sở định
hướng giải pháp lâm sinh cho các vùng
từ
đó
sản xuất
nguyên liệu. [2].
Tác giả Lê Đồng Tấn (1999) [12] và cộng sự đã nghiên cứu quá trình phục hồi tự
nhiên một số quần xã thực vật sau nương rẫy tại Sơn La. Tác giả đã kết luận mật độ cây tái
sinh giảm dần từ trân đồi lên đỉnh đồi, tổ hợp loài cây ưu thế trên ba vị trí địa hình và ba cấp
độ đốc là khác nhau, sự khác nhau chính là tổ thành các lồi trong tổ hợp đó.
Tác giả Phạm Ngọc Thường (2003) [13] nghiên cứu quá trình tái sinh tự nhiên và phục
hồi sau nương rẫy tại hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn đã cho thấy khả năng tái sinh của thảm
thực vật trên đất rừng cịn ngun trạng có số lượng loài cây gỗ tái sinh nhiều nhất, chỉ số đa
dạng lồi của thảm cây gỗ là khá cao.
Nhìn chung các cơng trình nghiên cứu về tái sinh rừng trên đây mới đề cập đến một số
cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài. Những vẫn đề này gần đây được nhiều
quan tâm
hơn.
Xu
hướng
tác
giả
nghiên cứu cũng chuyển dần từ định
tính sang định lượng, từ nghiên cứu lý thuyết sang nghiên cứu thực tiễn.
2.3. Tổng quan về điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội khu vực nghiên cứu
2.3.1.
2.3.1.
Điều kiện tự nhiên
!. Vị chí địa lý khu vực nghiên cứu
Khu Bảo tồn Loài và Sinh cảnh Nam Xuân Lạc được UBND tỉnh Bắc Kạn phê duyệt
tại Quyết định số 342/QĐ-UB ngày 17/3/2004 với tổng diện tích tự nhiên là 1.788 ha nằm trên
địa phận hai thôn Nà Dạ và Bản Khang thuộc xã Xuân Lạc, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn,
cách trung tâm thị trấn Bằng Lũng, huyện Chợ Đồn 35 km. Nằm giữa Khu bảo tồn thiên nhiên
Na Hang (tỉnh Tuyên Quang) và Vườn Quốc gia Ba Bể (tỉnh Bắc Kạn).
KBT Nam Xuân Lạc nằm trong tọa độ địa lý: Từ 22 0 17’- 22 019’ đến 120 45' - 130 10'
vĩ độ Bắc. Từ 105°28’-105°33’ kinh độ Đông
BẢN ĐỔ HIỆN TRẠNG KHU BẢO TổN LỒI VẢ SINH CÀNH NAM XN LẠC
Hình 2.1. Bản đồ hiện trạng KBTL&SCNXL
Về ranh giới hành chính:
-
Phía Bắc giáp thôn Bản Eng, Bản Tưn xã Xuân Lạc, huyện Chợ Đồn, tỉnh B ắc Kạn
-
Phía Tây giáp xã Thanh Tương và xã Vĩnh Yên, huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang.
-
Phía Đông giáp thôn Nà Áng xã Đồng Lạc, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn.
-
Phía Nam giáp thơn Phia Khao và thôn Khuối Kẹn xã Bản Thi huyện Chợ Đồn, tỉnh
Bắc Kạn.
2.3.1.2.
địa hình
Khu Bảo tồn Lồi và Sinh cảnh Nam Xn Lạc có địa hình phức tạp, bị chia cắt mạnh,
chủ yếu là rừng trên núi đá vôi ở miền bắc Việt Nam, với độ cao trung bình từ 400 m đến 800
m so với mực nước biển, đỉnh Tam Sao cao nhất 1.159 m và chia thành 2 vùng rõ rệt.
-
Vùng núi đá: Đây là vùng rừng phân bố tập trung trên núi đá vơi, nơi có địa hình phức
tạp, gồm
nhiều đỉnh núi cao,
dốc lớn từ 25 ^
300, có nơi đến 450, tài
nguyên rừng khu vực này nhìn chung là ít bị tác động bởi người dân địa phương.
-
Vùng núi đất: Nằm tập trung ở các thung lũng giữa các đỉnh núi cao, độ cao trung bình
từ 400 ^ 600 m, vùng này có tiềm năng để phát triển nông - lâm nghiệp.
2.3.1.3.
Đặc điểm địa chất và thổ nhưỡng
Địa chất có nguồn gốc trầm tích với các sản phẩm chủ yếu là kết von cùng với đá vơi
khó phong hố. Khu vực này cịn tiếp giáp với khu quặng (Chì và Kẽm) hiện đang được khai
thác.
Trong khu vực gồm có hai nhóm đất chính sau:
-
Đất thung lũng dốc tụ: hình thành ở các thung lũng thấp giữa các dãy núi, hứng các
sản phẩm xói mịn rửa trơi từ trên xuống, đất tốt tầng đất dày.
-
Đất
nâu đỏ trên núi
đá vôi: tầng đất dày tơi xốp, đất có hàm lượng dinh
dưỡng cao, tầng đất mỏng.
2.3.1.4.
Đặc điểm khí hậu
Theo số
liệu thống kê của trạm
Khí tượng thuỷ văn huyện Chợ Đồn - Bắc
Kạn thì Khu bảo tồn nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Một năm chia làm 2 mùa rõ
rệt: Mùa mưa nóng ẩm, mưa nhiều từ tháng 4 đến tháng 10. Mùa khô lạnh từ tháng 11 đến
tháng 3 năm sau.
-
Nhiệt độ: Trung bình năm dao động từ 20 - 22 oC. Nhiệt độ tối cao: 30oC, tối thấp 4oC.
Nhiệt độ trung bình mùa đơng là 11oC, mùa hè 25oC.
-
Mưa: Lượng mưa trung bình năm từ 1.153 - 1.528 mm. Tập trung chủ yếu vào tháng
6 và tháng 7 trong năm, tháng có lượng mưa lớn nhất đạt trên 320 mm. Mùa khơ lượng
mưa trung bình khơng vượt q 60 mm/tháng.
-
Nắng: Tổng số giờ nắng trung bình khoảng 1450 giờ/năm.
-
Gió: Hướng gió thịnh hành vào mùa hạ là hướng Đông - Nam, về mùa đông là hướng
Đông - Bắc. Tốc độ gió trung bình đạt 1m/s, song vào những lúc có dơng, bão tốc độ
gió có thể đạt 27-28 m/s.
-
Độ ẩm khơng khí: Dao động khoảng 75 - 82%, cao nhất là 88% tập trung vào tháng 7
trong năm.
-
Sương muối: Thường xuất hiện từ tháng 10 đến tháng 1 năm sau nhưng mức độ
khơng cao, ít gây ảnh hưởng đến sản xuất nông - lâm nghiệp.
2.3.1.5.
Đặc điểm thủy văn
Trong khu
vực có 1 con
suối chính bắt nguồn từ xã Sơn Phú, huyện
Na
Hang, tỉnh Tuyên Quang chảy theo hướng Tây Bắc qua các thôn Nà Dạ, Bản Eng, Bản Tưn...
của xã rồi đổ ra hồ Ba Bể, có chiều dài khoảng 9 km. Ngồi ra cịn suối Tả Han và các khe nhỏ
bắt nguồn từ các đỉnh núi đổ vào suối Tả Han. Do hiện tượng Cáxtơ nên một số khe, suối chảy
ngầm trong lòng núi đá.
2.3.2.
Điều kiện kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu
2.3.2.1.
Dân số, dân tộc và nguồn lao động
Khu bảo tồn cách trung tâm thị trấn Bằng Lũng huyện Chợ Đồn 35 km về phía Bắc
giao thơng đi lại khó khăn. Khu bảo tồn tiếp giáp và nằm trên địa bàn của xã Xuân Lạc, Đồng
Lạc và Bản Thi, với tổng số 1.732 hộ, 7.608 khẩu, phần lớn là đồng bào Dao, Tày và Mông.
Theo quy hoạch của UBND tỉnh Bắc Kạn thì vùng đệm của KBT có diện tích 7.508 ha
thuộc 9 thơn: Nà Dạ, Bản Eng, Bản Tưng (xã Xuân Lạc), Khuổi Kẹn, Kéo Nàng, Phia Khao
(Bản Thi) và Nà Án, Cốc Tộc (xã Đồng Lạc). Dân số vùng đệm là 1.709 người, 410 hộ. Mật
độ dân số ở xã Bản Thi là 29 người/km 2, Xuân Lạc là 35 người/km 2 và Đồng Lạc là 65
người/km2. Có 6 hộ với 32 nhân khẩu hiện đang sinh sống bên trong vùng lõi của KBT gồm 4
hộ ở xã Bản Thi và 2 hộ ở xã Xuân Lạc.
Dân tộc thiểu số chiếm 89,5% ở các xã xung quanh KBT với các dân tộc Dao, Mơng,
Tày, Nùng và Hoa, trong đó phần lớn là người Dao, Tày và Mông. Trước đây họ cư trú rải rác
trên các sườn núi và thung lũng, từ những năm 1980 bắt đầu định cư
làng theo
chương
trình
tập trung thành bản
Định canh định cư
của
chính phủ. Mỗi dân tộc có đặc trưng văn hóa riêng và và có nhiều điểm tương đồng nên các
sinh hoạt văn hóa ở vùng đệm khá phong phú.
Bảng 2.1. Dân số, dân tộc và tình trạng đói nghèo ở các xã xung quanh KBT
Dân số
T
T
V
Xã
Số
thơn
Diện tích tư
nhiên (ha)
Số
hộ
Số
khẩu
Số hộ
nghèo (hộ
(%))
Thành phần dân tộc
Kinh (số
khẩu (%))
r-fi 1 • Ả Ả /
Ả
Thiêu số (số
khẩu
Tên dân tộc thiêu số
1 Bản Thi
6,499
9
506
1,901
42
(8,3)
669
(35,2)
1.232 (68,8)
Dao, Tày, H’mông,
Nùng, Hoa
2 Đồng Lạc
3,662
10
557
2,378
96
(17,2)
131
(5,5)
2.247 (94,5)
Dao, H’mông
3 Xuân Lạc
8,421
14
669
3,329
388
(50,5)
-
3.329
(100)
Tổng
18.582
33
1,732
7,608
526
(30,4)
800
(10,5)
6,808
(89,5)
1
1
(Nguồn: UBND các xã vừng đệm, tháng 11/2012)
Tày, Dao, H’Mông
-
Ở 9 thôn vùng đệm của KBT người Kinh chiếm khoảng 5% còn lại là dân tộc thiểu số.
Các hộ người Kinh chủ yếu là bn bán, khai thác khống sản, công nhân viên nhà nước. Các
hộ người Kinh tập trung ở xã Bản Thi với 35% chủ yếu là cơng nhân khai thác khống sản nơi
có mỏ quặng Sunfua Kẽm lộ thiên với trữ lượng lớn. Các hộ sinh sống bên trong vùng lõi của
KBT đều là người Dao, họ sống và canh tác bên trong KBT từ lâu đời, chủ yếu là làm rẫy và
thu hái lâm sản theo mùa. Ở xã Đồng Lạc chỉ có 19 hộ người Kinh chiếm 3% còn lại xã Xuân
Lạc gần như 100% là người dân tộc thiểu số.
2.3.2.2.
Tình hình kinh tế và thu nhập của người dân sống xung quanh KBT
Nguồn thu nhập chính của cư dân vùng đệm KBT là lúa nước và các loại cây trồng
nông nghiệp như ngô, sắn, khoai tàu, các loại đậu. Do địa hình đất dốc nên loại hình canh tác
chính là nương rẫy. Mặc dù nơng dân có kinh nghiệm trồng lúa nước nhưng năng xuất nhìn
chung khơng cao. Năng suất một số cây trồng chính ở vùng đệm trong năm 2011 như sau:
Bảng 2.2. Tình hình sản xuất nơng nghiệp năm 2011
Lúa
Ngơ
Xã
Diện tích
(ha)
Bản Thi
61
Đồng Lạc
222
183
Xuân Lạc
Năng
Sản
Diện
Năng
Sản
suất
lượng
tích
suất
lượng
(tạ/ha)
40
(tấn)
255
(ha)
(tạ/ha)
40
(tấn)
255
46
1.080
784
43
311
37
764
43
61
74
206
(Nguồn: UBND các xã Bản Thi, Đồng Lạc và Xuân Lạc)
Ngoài nguồn thu từ các loại cây trồng nơng nghiệp; cây cơng nghiệp ngắn ngày cũng
đóng vai trị quan trọng trong thu nhập của người dân vùng đệm như cây Dong riềng, Sắn. Các
loại cây dài ngày chưa phát triển, cây ăn quả chủ yếu là Hồng và Chuối. Cây lâm nghiệp chủ
yếu là Xoan và Mỡ được trồng rải rác ở khu vực nương rẫy. Trong những năm gần đây UBND
huyện Chợ Đồn bắt đầu khuyến khích người dân trồng cây Keo để thay thế cây Mỡ.
Đất trồng lúa và các loại cây hoa màu chiếm 7% diện tích tự nhiên (bình qn chưa
đến 0,2 ha/người). Đất cho các loại cây lâu năm chỉ có 18 ha dùng để trồng cây Hồng không
hạt. Các loại cây lâm nghiệp được trồng xen ở khu vực canh tác nương rẫy và trong rừng sản
xuất.
Đất rừng chiếm 70% diện tích tự nhiên ở 3 xã vùng đệm với đầy đủ 3 loại rừng, trong
đó rừng đặc dụng KBT Nam Xuân Lạc chiếm 14% diện tích đất lâm nghiệp. Rừng
xuất có
diện
tích lớn nhất,
sản
chiếm 56% diện tích đất lâm nghiệp
(7.147 ha) cịn lại là rừng phịng hộ chiếm 30%.
Phần lớn diện tích đất canh tác ở vùng đệm chưa có sổ đỏ, cơng tác đo đạc và cấp sổ
đỏ tiến hành chậm nên nhiều hộ không có sổ đỏ khơng tiếp cận được với các nguồn tín dụng
tại địa phương. Các loại cây trồng chính và diện tích của chúng được trình bày ở Bảng 2.3.
Qua số liệu ở Bảng 2.3 cho thấy 2 loại cây lương thực chính được trồng ở cả vùng đệm là lúa
và ngơ. Diện tích lúa rẫy chiếm số lượng tương đối lớn đất canh tác, nhưng thiếu số liệu thống
kê do việc phát nương làm rẫy bị nghiêm cấm. Phần lớn lúa rẫy được canh tác ở khu vực rừng
sản xuất. Các loại đậu là cây trồng mang lại thu nhập cao nhất trong các loại cây trồng nông
nghiệp ở vùng đệm.
Các loại rau chủ
của người dân vùng
yếu phục vụ cho nhu cầu
đệm,
được trồng nhiều ở xã Đồng Lạc, ở các xã khác có diện tích khơng đáng kể.
Bảng 2.3. Cây trồng ở vùng đệm
Cây nông nghiệp, hoa màu (ha)
Cây dài ngày (ha)
TT Xã
Lú Ngô
Sắn
Khoai Rau
Đậu Hồng Xoan
a
91
5
14
1 Bản Thi
61
6
10
20
79
25
23
13
2 Đồng Lạc
222
18
8
3 Xuân Lạc
183
20
23
11
2
28
6
5
Tổng
46
37
54
30
14
28
18
6
6
7
(Nguồn: Báo cáo Kinh tế xã hội năm 2011 của UBND các xã vùng đệm)
30
63
\------------------- 1------------------------ 1-----------------7-1--------------------------- 1------------------------------- 1------------------------ 1----------------------- 1---------------------------- 1---------------------------
2.3.2.3.
>
Tập quán sinh hoạt, sản xuất
Khái quát chung
Cư dân trong vùng chủ yếu sống tập trung thành các bản, những hộ ở trên cao rải rác
đã chuyển xuống thấp sống định cư cùng bản làng, phần lớn trong số họ đến định cư ở khu vực
này vào những năm 1979 - 1980 là các hộ nghèo người Mông và Dao. Một trong những tập
quán cần được thay đổi của cả người Dao và người Mông là săn
bắt động
vật rừng.
Thường các gia
tự
Họ đi săn
đình đều có súng
săn
tạo.
khơng chỉ vì mục đích thực phẩm, thu nhập mà đây còn là tập quán.
Một số hộ sinh sống trong KBT chủ yếu phát nương làm rẫy để canh tác nông nghiệp
và sử dụng tài nguyên từ KBT. Hiện nay còn 4 hộ người Dao xã Bản Thi và 2 hộ người Dao xã
Xuân Lạc với 32 nhân khẩu sống trong KBT. Các hộ này vẫn còn săn bắt như dựng những lều
lán để tiếp tay cho những thợ săn, sau khi săn bắn được họ đem bán cho những nhà hàng bên
Chợ Đồn. Hơn nữa, 53 hộ tại thôn Nà Dạ phần lớn có diện tích canh tác nương rẫy trong Khu
bảo tồn.
>
Trồng trọt
Diện tích đất nơng nghiệp chiếm tỷ lệ quá nhỏ so với tổng diện tích. Trong đó đất
trồng lúa, màu bình qn 383m 2/khẩu. Sản phẩm trồng trọt chủ yếu là lúa nước, ngô, lúa
nương, sắn...
Vấn đề an toàn lương thực cũng vẫn chưa đảm bảo đối với một số hộ nghèo, thiếu ăn
vào những lúc giáp hạt (tháng 2-4) trước khi đến mùa gặt.
Ruộng nước được phân bố nơi thấp gần khu dân cư, ven suối và một số diện tích nhỏ
ruộng bậc thang. Năng suất lúa thấp do kỹ thuật canh tác chưa cao phụ thuộc nhiều vào điều
kiện tự nhiên, giống chưa được cải thiện. Lúa nương được canh tác trên các sườn đồi, núi thấp.
Do đất dốc và hoàn toàn phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên nên năng suất không cao và bấp
bênh. Diện tích lúa nương thường khơng ổn định do sự du canh qua nhiều vùng khác nhau
quanh các điểm dân cư.
Các loại rau màu như Ngô, Sắn. thường được trồng trên những nơi đất cao, bằng
phẳng nhưng không có điều kiện khai hoang ruộng nước. Do diện tích ruộng nước chỉ hơn
lsào/người, chủ yếu là ruộng 1 vụ, người dân phải làm nương rẫy để bổ sung nguồn lương
thực. Diện tích đất nương rẫy hiện nay tuy khơng cao nhưng nếu ln chuyển hàng năm thì
diện tích rừng bị chuyển đổi sẽ tăng nhanh đáng kể.
>
Chăn ni
Diện tích trong khu
vực phù hợp với chăn nuôi nhưng chưa phát triển và
chưa được trú trọng đầu tư. Thành phần đàn gia súc tương đối đơn giản, chủ yếu là trâu, bị,
ngựa, lợn, gà... Ngựa là vật ni quan trọng đối với người dân vùng cao, trong khi chưa có
đường giao thơng thì ngựa cịn là phương tiện vận chuyển hữu hiệu. Công tác thú y chưa phát
triển, các thơn bản chưa có cán bộ thú y hoặc cán bộ chưa được học qua trường lớp chính quy.
Có một số hộ đã xây dựng ao ni cá, tuy nhiên số hộ chăn nuôi cá không nhiều, đa số chỉ là
các ao tạm thời, chưa có kỹ thuật chăn nuôi cá tốt. Điều kiện tự nhiên ở địa phương rất thuận
lợi cho phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm.
Tuy nhiên, chăn thả rông gia súc được xem như là một mối đe dọa. Trâu và Bị thả
rơng quanh năm và chỉ đưa về nhà vào mùa sản xuất. Gia súc chăn thả trong khu bảo tồn
không chỉ từ các thơn có ranh giới với khu bảo tồn, thậm trí cả từ các xã lân cận. Để thay đổi
thói quen chăn thả rơng gia súc, cần có sự hỗ trợ tập huấn về kỹ thuật trồng cỏ, quy hoạch các
vùng chăn thả cố định.
>
Thuỷ lợi
Trên các khu vực canh tác nơng nghiệp điều kiện nguồn nước khơng khó khăn, nhưng
do chưa được đầu tư nên hệ thống thuỷ lợi chưa phát triển. Người dân địa phương thường đắp
các phai đập nhỏ làm hệ thống tự chảy phục vụ sản xuất và sinh hoạt. Các cơng trình tự tạo này
chỉ tồn tại được trong mùa khô, đến mùa mưa chúng bị nước cuốn trôi và rất cần đầu tư cho hệ
thống thủy lợi để tăng năng suất cây trồng, tăng vụ trên diện tích đã có, đảm bảo an ninh lương
thực, góp phần cho người dân tham gia vào công cuộc bảo tồn đa dạng sinh học.
>
Lâm nghiệp
Trong khu vực khơng có hoạt động sản xuất lâm nghiệp của các Lâm trường. Khai thác
gỗ của nhân dân mà chủ yếu là thu hái lâm sản tự phát. Trước đây lâm sản chính do người dân
khai thác từ rừng chủ yếu là gỗ, các loài động vật để phục vụ làm nhà và làm nguồn thực
phẩm, đôi khi trở thành hàng hoá. Từ khi thành lập khu bảo tồn, thực hiện giao đất giao rừng
(một số thôn), lực lượng kiểm lâm đã cắm bản cùng người dân tham gia bảo vệ rừng thì hiện
tượng khai thác gỗ và săn bắn thú rừng bừa bãi khơng cịn xảy ra thường xun, công khai như
trước. Hiện nay, người dân chủ yếu thu hái nguồn lâm sản ngoài gỗ phục vụ nhu cầu tại chỗ.
Hoạt động khai thác củi đun: Gỗ củi là chất đốt chủ yếu ở vùng nông thôn, người dân
thường lấy cành khô, cây khô từ Khu bảo tồn, đặc biệt để có củi khơ thì sau những lần đi lấy
củi họ đều chặt một số cây tươi trong khu vực để lần sau lại có củi khơ. Theo ước tình trung
bình một tháng mỗi hộ sử dụng khoảng từ 300 - 350 kg củi khô (sử dụng nhiều củi hay ít phụ
thuộc vào mùa, đặc biệt vào mùa đơng sử dụng củi để sưởi ấm). Nếu lượng củi này chỉ khai
thác trên rừng thì tương tự như hoạt động đốt phá rừng và rất lâu sau rừng mới được hồi phục.
Ngồi lượng củi do các thơn nằm trong và giáp khu bảo tồn khai thác ra hàng năm lượng củi
do các thôn khác trong xã vào Khu bảo tồn khai thác cũng rất lớn. Chính vì thế cần thiết phải
có các hoạt động nhằm hạn khai thác với số lượng củi đun lớn thông qua xây dựng các loại bếp
đun cải tiến tiết kiệm củi).
Hoạt động khai thác gỗ: Hiện tại cịn một số ít người dân vẫn lén lút vào khu bảo tồn
chắt trộm gỗ để làm nhà, đóng đồ gia dụng cho gia đình, và tìm mọi kẽ hở của lực lượng kiểm
lâm để tiêu thụ. Các loài cây gỗ thường được người dân khai thác như Nghiến, Trai, Dâu
rừng... việc khai thác được thực hiện ngay trong rừng và vận chuyển về nhà. Đây là hoạt động
khai thác tài nguyên trái pháp luật và không bền vững làm ảnh hưởng đến việc bảo tồn tài
nguyên rừng. Hầu hết các thơn đều có khai thác
truyền,
quản
lý
chặt chẽ
nhưng
của lực lượng
do có sự
tuyên
Kiểm
lâm
nên hoạt động này ngày một giảm dần. Hoạt động này sẽ được làm tốt hơn khi năng lực quản
lý của lực lượng kiểm lâm được tăng lên.
Hoạt động khai thác măng: Măng, nấm, mộc nhĩ được người dân thu hái để sử dụng và
bán, không chỉ những người dân sống trong khu bảo tồn (6 hộ với 32 nhân khẩu) thu hái mà cả
những người dân ở ngoài vùng đệm vào KBT khai thác.
Cây thuốc: Người dân địa phương đặc biệt là người dân tộc thiểu số thường thu hái các
loại thảo dược để dùng cho mục đích chữa bệnh. Nhìn chung việc thu hái cây thuốc của các
thầy lang là không nhiều và không ảnh hưởng lớn đến sự đa dạng sinh học, sự bền vững vì nó
phụ thuộc vào nhu cầu của người bệnh đi tìm thầy lang. Một tác nhân lớn gây ảnh hưởng đến
sự phục hồi của các loại cây thuốc là chiến dịch thu mua cây thuốc quý như Ba kích, Sâm cau,
Sâm trâu, khúc khắc, Hoàng đằng, huyết đằng, Tầm gửi...của các tay buôn, họ gom hàng và
chuyển đi tiêu thụ ở nơi khác hoặc bán sang Trung Quốc.
Săn bắt động vật rừng: Tất cả các loài thú, rùa, rắn đều là đối tượng bị săn bắn. Những
người này săn bắn bằng nhiều cách khác nhau: súng săn tự chế, bẫy đặt trên mặt đất, bẫy thòng
lọng và bẫy bằng đèn ánh sáng. Các loài hiện nay thường bị săn bắt hoặc gài bẫy là chồn, hon,
sóc, dúi, cầy, hươu, nai, rắn, rùa và các loài chim...
2.3.2.4 . Hiện trạng cơ sở hạ tầng tại các xã vùng đệm
>
Giao thơng
Các xã vùng Khu bảo tồn đã có đường giao thông đến trung tâm xã, từ trung tâm xã đi
các thôn đều bằng đường đất, tuy nhiên do đường đất, độ dốc cao, nền địa chất kém bền vững
nên hiện tượng sạt lở, thậm chí trượt núi gây tắc đường khơng có khả năng khắc phục ngay.
Hiện nay để đi một số thôn trong xã phải đi bộ. Việc giao lưu văn hố, hàng hố gặp nhiều khó
khăn, khơng muốn nói là cách biệt với bên ngồi. Mặc dù xã đã chú trọng xây dựng đường liên
thôn, xã, nhưng đường hẹp, dốc, lầy lội vào mùa mưa đi lại rất khó khăn.
>
Y tế, giáo dục
Các xã đều đã có trạm y tế và cán bộ y tế, nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu của nhân
dân địa phương và cần tăng cường cán bộ y tế tuyến xã để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người
dân. Các dịch bệnh lớn hầu như không xảy ra do làm tốt cơng tác phịng bệnh.
>
Điện lưới quốc gia
Hiện có khoảng 75% số hộ được sử dụng điện lưới quốc gia dùng vào sinh hoạt. Điện
lưới quốc gia đã góp phần thúc đẩy mạnh mẽ khâu sản xuất mang lại diện mạo của vùng nông
thôn miền núi trong thời kỳ đổi mới. Số hộ còn lại chủ yếu dùng điện thắp sáng từ máy thuỷ
điện nhỏ, bình quân từ 2-3 hộ/1 máy.
2.3.2.5.
Khái quát về tài nguyên rừng khu vực nghiên cứu
* Diện tích rừng
Khu Bảo tồn lồi sinh cảnh Nam Xn Lạc có 1.788,0 ha đất lâm nghiệp có rừng nằm
trên địa phận 2 thôn, bao gồm thôn Bản Khang với 1.001,0 ha thuộc tiểu khu (254, 255) và
thôn Nà Dạ với 787,0 ha thuộc tiểu khu 257 thuộc xã Xuân Lạc..
Diện tích rừng của khu bảo tồn được phân bỗ ở 2 phân khu, đó là:
-
Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt với 1.646,0 ha, trong đó rừng phục hồi 449,3 ha, rừng
hỗn giao nứa/vầu và gỗ 317,3 ha, rừng nghèo 680,4 ha và rừng trên núi đá 199,0 ha.
-
Phân khu phục hồi sinh thái với 142,0 ha, trong đó rừng phục hồi 77,9 ha và rừng hỗn
giao 64,1 ha.
Diện tích rừng thuộc khu bao tồn phân theo trạng thái được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 2.4. Diện tích rừng khu bảo tồn phân theo trạng thái
TT Trạng thái
Diện tích (ha)
Tổng cộng
Tỉ lệ (%)
1.788,0
100,0
1
Rừng hỗn giao (Gỗ+nứa/vầu)
381,4
21,3
2
3
Rừng phục hồi (IIA)
231,6
13,0
Rừng phục hồi (IIB)
295,6
16,5
4
Rừng nghèo (IIIA1)
680,4
38,1
5
Rừng trên núi đá
199,0
11,1
(Nguồn: BQL khu bảo tồn loài và sinh cảnh Nam Xuân lạc, 2012)
*Trữ lượng rừng
Theo báo cáo tổng thể quy hoạch Khu bảo tồn loài và sinh cảnh Nam Xuân Lạc 2012,
hệ sinh thái (HST) rừng ở khu bảo tồn đã bị suy giảm nhiều về chất lượng, các trạng thái rừng
IIIA2, IIIA3 còn nhiều và phân bố tập trung trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt của Khu bảo
tồn. Rừng nguyên sinh chưa bị tác động đều đạt từ trạng thái rừng IIIb trở lên vớiởit ưữ lư
ơợng trên 200m3/ha. Các loài cây gỗ phổ biến gồm những cây cao trên 30m, đường kính 70
đến 80 cm, nhiều cây đến trên 100 cm, mật độ 15 - 20 cây/ha. Rừng có tán đứt qng khơng
liên tục, độ tàn che 0,3 - 0,5. Các loài thường gặp gồm Nghiến (Exentrodendron tonkinense),
Trai (Garcinia fragraeoides), Sâng (Pometia pinnata), Giổi (Michelia sp.), Gội (Aglaia
dasyclada, Aglaia spectabilis), Quếch (Chisochetonpaniculatus)...
Rừng thứ sinh phục hồi sau khai thác kiệt phân bố ở khu vực chân và sườn núi, nơi gần
các khu dân cư hay đường đi lại thuận lợi. Do tác động của khai thác, trữ lượng của kiểu rừng
này không cao từ 80 - 110m3/ha.
Rừng thứ sinh phục hồi sau nương rẫy là những khoảnh nhỏ phân bố ở vùng chân núi
liền kề với rừng nguyên sinh hay rừng thứ sinh bị khai thác kiệt. Rừng có 1 tầng cây gỗ, 1 tầng
cây bụi và thảm tươi, tầng cây gỗ cao 6 - 8 m, đường kính 10 - 15 cm, mật độ 500 - 600
cây/ha, độ tàn che 0,5 - 06.