Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

luận văn thạc sĩ Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh giun xoăn dạ múi khế ở trâu, bò và thử nghiệm quy trình phòng trị tại huyện Phú Bình - tỉnh Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.15 MB, 85 trang )

1

Phần 1

Mở Đầu
1.1. Đặt vấn đề

Trong mấy năm gần đây, chăn ni trâu, bị ở nước ta đã và đang phát triển
mạnh, đóng vai trị quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội, giúp khai thác tối
ưu các tiềm năng thiên nhiên (đồng cỏ, bãi chăn thả), tiềm năng con người (lao
động phụ, dư thừa), các phế phụ phẩm của nông nghiệp và công nghiệp chế biến,
đồng thời cung cấp một lượng lớn thực phẩm (thịt, sữa,...) cho nhân dân và phân
chuồng cho sản xuất cây trồng.
Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách và biện pháp thúc đẩy chăn
ni trâu, bị phát triển cả về số lượng và chất lượng nhằm nâng cao đời sống cho
người chăn ni.
Tuy nhiên, trong thực tế vẫn cịn một số khó khăn, hạn chế việc phát triển
chăn ni trâu, bò, đặc biệt là dịch bệnh. Trong các bệnh ký sinh trùng gây hại cho
trâu, bò, bệnh giun xoăn dạ múi khế khá phổ biến và gây nhiều thiệt hại đến sức sản
xuất của trâu, bò. Giun xoăn ở dạ múi khế hút máu ký chủ, làm cho ký chủ bị thiếu
máu nặng, đồng thời giun làm tổn thương niêm mạc dạ múi khế, gây hội chứng tiêu
chảy. Gia súc bị bệnh còi cọc, chậm lớn, giảm sức đề kháng với các bệnh khác và
dễ chết nếu mắc bệnh nặng.
Phú Bình là một huyện của tỉnh Thái Ngun có điều kiện tự nhiên thuận lợi
cho chăn ni trâu, bị phát triển. Theo điều tra sơ bộ của Chi cục thú y tỉnh Thái
Ngun, trâu, bị ở tỉnh Thái Ngun nói chung và huyện Phú Bình nói riêng bị
nhiễm giun xoăn dạ múi khế với tỷ lệ cao.
Ở tỉnh Thái Nguyên nói chung và huyện Phú Bình nói riêng, chưa có cơng
trình nào nghiên cứu về bệnh giun xoăn dạ múi khế, những hiểu biết của người chăn
nuôi về bệnh giun xoăn dạ múi khế còn rất hạn chế. Xuất phát từ yêu cầu của thực



2

tế trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ
bệnh giun xoăn dạ múi khế ở trâu, bị và thử nghiệm quy trình phịng trị tại
huyện Phú Bình - tỉnh Thái Nguyên".
1.2. Mục tiêu của đề tài

- Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh giun xoăn dạ múi khế trâu, bò ở
huyện Phú Bình - tỉnh Thái Nguyên.
- Xác định khả năng phát triển của trứng và khả năng tồn tại của Êu trùng
giun xoăn dạ múi khế có sức gây bệnh ở ngoại cảnh.
- Nghiên cứu biện pháp phòng trị bệnh giun xoăn dạ múi khế cho trâu, bị.
1.3. Mục đích của đề tài

- Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở khoa học để khuyến cáo và góp phần
xây dựng quy trình phịng trị bệnh giun xoăn dạ múi khế cho trâu, bị có hiệu quả cao.
1.4. ý nghĩa của đề tài

- Ý nghĩa khoa học:
Kết quả của đề tài là những thông tin khoa học về một số đặc điểm dịch tễ
của bệnh giun xoăn dạ múi khế ở trâu, bị.
Góp phần xây dựng biện pháp phịng trị bệnh do giun xoăn dạ múi khế gây
ra ở trâu, bò.
- Ý nghĩa thực tiễn:
Kết quả của đề tài là lời khuyến cáo giúp người chăn nuôi áp dụng được các
biện pháp phòng trị bệnh giun xoăn dạ múi khế một cách có hiệu quả, giảm tỷ lệ
nhiễm, giảm thiệt hại kinh tế cho người chăn nuôi.



3

Phần 2

Tổng quan tài liệu
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài

2.1.1. Giun xoăn dạ múi khế ký sinh ở gia sóc nhai lại
2.1.1.1. Vị trí của giun xoăn dạ múi khế trong hệ thống phân loại động vật
Giun xoăn ký sinh chủ yếu ở dạ múi khế trâu, bò, bê, nghé gồm nhiều giống loài.
Skrjabin K.I và Petrov A.M (1963) [27] cho biết, họ Trichostrongylidae (Leiper, 1912)
có 3 họ phụ: họ Trichostrongylinae (Leiper, 1908); họ phụ Haemonchinae (Skrjabin
et Schulz, 1952); họ phụ Cooperinae (Skrjabin et Schikhobalova, 1952). Nhiều loài
giun của 5 giống trong 3 họ phụ này ký sinh ở dạ múi khế và ruột non loài nhai lại
(trâu, bò, dê, cừu, hươu). Trong điều kiện tự nhiên, tất cả các loài động vật nhai lại
đều bị cảm nhiễm Trichostrongylidae. Cụ thể theo Skrjabin K.I và cs (1963) [27];
Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [17]; Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2008) [11], giun
xoăn dạ múi khế có vị trí trong hệ thống phân loại động vật học nh sau:
Ngành Nemathelminthes Schneider, 1873
Líp Nematoda Rudolphi, 1808
Phân líp Rhabditia Pearse, 1942
Bé Strongylida Railliet et Henry, 1913
Phân bé Strongylata Railliet et Henry, 1913
Siêu họ Trichostrongyloidea Cram, 1927
Họ Trichostrongylidae Leiper, 1912
Phân họ Trichostrongylinae Leiper, 1905
Giống Trichostrongylus Looss, 1905
Loài T. colubriformis (Giles, 1892)
Loài T. axei (Cobbold, 1879)
Loài T. probolurus (Railliet, 1896)

Giống Ostertagia Ransom, 1907
Loài O. ostertagi (Stiles, 1892)
Loài O. circumcincta (Stadelmann, 1894)
Giống Marshallagia Orloff, 1933
Loài M. marshalli (Ransom, 1907)


4

Phân họ Haemonchinae Skrjabin et Schulz, 1952
Giống Haemonchus Cobbold, 1898
Loài H. contortus (Rudolphi, 1803)
Loài H. similis (Travassos, 1914)
Phân họ Cooperinae Skrjabin et Schikhobalova, 1952
Giống Cooperia Ransom, 1907
Loài C. curticei (Giles, 1892)
Loài C. punctata (Linstow, 1906)
Phân họ Nematodirinae Skrjabin et Orloff, 1934
Giống Nematodirus Ransom, 1907
Loài N. oiratianus (Rajevskaia, 1929)
Loài N. skrjabini (Mizkewisch, 1929)
Giống Mecistocirrus Railliet et Henry, 1912
Loài M. digitatus (Linstow, 1906)
2.1.1.2. Thành phần loài giun xoăn dạ múi khế ký sinh ở trâu, bò
Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [8] cho biết, có 7 giống lồi phổ biến
gồm trên 100 lồi, gia sóc nhai lại nhiễm hỗn hợp các giống này, trong đó có 2
giống gây tác hại lớn là Haemonchus và Mecistocirrus. 7 giống gồm:
Tên giống

Ký chủ


Vị trí ký sinh

Haemonchus
Mecistocirrus
Trichostrongylus
Osrtertagia
Marshallagia
Cooperia
Nematodirus

Cừu, dê, trâu, bò
Trâu, bò, dê, cừu, lợn
Trâu, bò, dê, cừu
Trâu, bò, dê, cừu
Dê, cừu, bò
Dê, cừu, bò
Dê, cừu, bò

Dạ múi khế, ruột non
Dạ múi khế, dạ dày lợn
Dạ múi khế, ruột non
Dạ múi khế
Dạ múi khế, dạ lá sách
Dạ múi khế, ruột non
Ruột non

Các loài giun này thường gây bệnh hỗn hợp. Trong đó có 3 lồi
Haemonchus contortus, Haemonchus similis và Mecistocirrus digitatus gây tác
hại lớn cho ký chủ.



5

Theo Trịnh Văn Thịnh và Đỗ Dương Thái (1978) [21], thành phần loài giun
xoăn dạ múi khế ở dạ dày trâu, bò Việt Nam nh sau:
Trichostrongylus axei (Cobbold, 1879)
Cooperia laterouniformis (Chen, 1937)
Haemonchus contortus (Rudolphi, 1803)
Mecistocisrrus digitatus (Linstow, 1906)
Dẫn liệu của Skrjabin K.I và Petrov A.M (1963) [27] cho biết, thành phần
lồi giun xoăn ký sinh trong dạ dày trâu, bị, dê, cừu và các loài nhai lại hoang dại
khác gồm:
Trichostrongylus axei (Cobbold, 1879)
Trichostrongylus colubriformis (Giles, 1892)
Ostertagia ostertagi (Stiles, 1892)
Ostertagia circuncincta (Stadelmanm, 1894)
Marshalla marshalli (Ransom, 1907)
Haemonchuscontortus (Rudolphi, 1803)
Cooperia curticei (Giles, 1892)
Cooperia punctata (Linstow, 1906)
Các nghiên cứu đều thống nhất rằng, các lồi giun xoăn dạ múi khế của gia
sóc nhai lại rất phong phú, chúng đều thuộc họ Trichostrongylidae Leiper, 1912.
Giun trịn hình sợi chỉ to hoặc nhỏ. Miệng ở tận cùng đầu, xoang miệng khơng có, ở
một số giun có bao miệng nhỏ nhưng xoang miệng không thể hiện rõ và có thể có
răng ở trên thành hoặc ở dưới đáy xoang. Ở con đực túi sinh dục phát triển tốt, đại
đa số thùy bên lớn, thùy lưng thể hiện yếu hoặc khơng có. Có hai gai giao hợp, có
hoặc khơng có bánh lái. Âm hộ của con cái nằm sau thân. Giun cái đẻ trứng theo
phân ra ngoài.
2.1.1.3. Đặc điểm hình thái, kích thước các lồi giun xoăn chủ yếu ở dạ múi khế

VỊ hình thái chung, giun xoăn dạ múi khế có thân hình sợi chỉ khơng phân
đốt, cơ thể đối xứng hai bên. Bên ngoài được che phủ một lớp Kitin hay còn gọi là


6

lớp biểu bì có các vân, vân ngang hoặc vân chéo (Trịnh Văn Thịnh, Đỗ Dương
Thái, 1978) [21].
Trịnh Văn Thịnh và cs (1982) [22] mô tả cấu tạo của giun xoăn dạ múi khế
gồm các bộ phận sau:
- Hệ tiêu hóa gồm: miệng, mơi, túi miệng, thực quản, ruột, hậu mơn.
- Hệ thần kinh: đơn giản, có vịng dây thần kinh thực quản và các gai cảm
giác toàn thân.
- Hệ bài tiết: gồm 2 ống bài tiết chạy từ phần sau của cơ thể lên đến phần
đầu, rồi xuống và đổ ra lỗ huyệt.
- Hệ sinh dục của giun đực và giun cái có cơ quan sinh dục đực hoặc cái.
* Các loài thuộc giống Haemonchus.
- H. cotortus: Theo Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [17], loài Haemonchus contortus
(Rudolphi, 1803) ký sinh ở dạ múi khế và ruột non của bị, trâu, dê trên phạm vi tồn
quốc và phổ biến trên tồn cầu. Tác giả đã mơ tả hình thái H. contortus (theo Kamenskii,
1929): giun đực dài 18,7 - 22,3 mm, rộng nhất 0,352 - 0,416 mm. Trứng có vỏ mỏng,
kích thước 0,080 - 0,085 mm x 0,040 - 0,045 mm. Đặc điểm hình thái cấu tạo của lồi
Haemonchus contortus mà Nguyễn Thị Lê mô tả ở trên phù hợp với sự mô tả của
nhiều tác giả khác (Skrjabin K.I và Petrov A.M, 1963; Trịnh Văn Thịnh, 1978,
1982; Johannes Kaufmann, 1996; Urquharrt, 1996....).
H. similis: Thân nhỏ, màu vàng sẫm. Gai cổ rất rõ. Lỗ bài tiết ở phía trước
cách đầu 0,231 mm. Túi miệng rất nhỏ, có răng. Quanh miệng có mơi bao bọc, phần
sau thực quản phình to. Giun đực dài 8,000 - 11,000 mm, rộng 0,232 - 0, 265mm.
Giun cái dài 12,500 - 21,000 mm, rộng 0,315 - 0,378 mm. Trứng hình bầu dục, có
kích thước 0,073 - 0,079 x 0,031 - 0,042 mm (Nguyễn Thị Kim Lan và cs, 1999

[8]). Vỏ trứng mỏng, có phơi bào (Trịnh Văn Thịnh và cs, 1982) [22].
* Loài Mecistocirrus digitatus
Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [8] đã mô tả: giun màu hồng nhạt,
biểu bì có vân. Túi miệng nhỏ, có 1 răng lớn, thực quản dài 1,600 - 1,800 mm,
rất nhỏ, phần sau hơi rộng.
Giun đực dài 25,000 - 31,000 mm, giun cái dài 35,000 - 39, 000 mm Trứng dài
0,099 - 0,105 mm, rộng 0,046 - 0,049 mm, có hai lớp vỏ mỏng bao bọc.


7

* Các loài thuộc giống Trichostrongylus.
Giống Trichostrongylus gồm nhiều loài, trong đó có một số lồi quan
trọng ký sinh ở dạ múi khế và ruột non của gia sóc nhai lại.
- T. axei (Cobbold, 1879): được phát hiện ở nhiều nơi trên thế giới. Ở Việt
Nam, các nhà khoa học đã tìm thấy lồi giun này ở các tỉnh Quảng Ninh, Lạng
Sơn... Nhiều tác giả đã mô tả (theo Ransom, 1911): giun đực dài 3,4 - 4,5 mm,
rộng nhất 0,05 - 0,07 mm. Giun cái dài 4,6 - 5,5 mm, rộng 0,055 - 0,075 mm.
Kích thước trứng 90 - 92 x 35 - 42 µm (Drozdz và Malcrewski, 1967; Phan Thế
Việt, 1977; Trịnh Văn Thịnh, 1978 Nguyễn Thị Lê, 1996; Nguyễn Thị Kim Lan
và cs, 2008).
- T. colubriformis: Ngoài loài giun T. axei cịn có một lồi, mà theo Skrjabin K.I
và Petrov A.M (1963) [27], điển hình cho giống Trichostrongylus, đó là lồi T.
colubriformis. Theo nhiều tác giả thì lồi giun này phổ biến ở bò, dê, cừu trên phạm vi
toàn cầu. Ở nước ta, phát hiện giun ở dạ múi khế và ruột non bò, dê ở các tỉnh phía
Bắc. Giun đực dài 4,0 - 6,0 mm, rộng 0,078 - 0,095 mm. Giun cái dài 5,0 - 6,0 mm;
rộng nhất ở vùng lỗ sinh dục (0,080 - 0,100 mm). Trứng có kích thước 73 - 76 x 40 43 µm (Nguyễn Thị Lê và cs, 1996) [17].
- T. probolurus : Giun đực dà i 4,300 - 6,500 mm. Giun cá i dà i
4,833 - 6,270 mm, rộng 0,066 - 0,1112 mm. Trứng có kích thước
0,072 - 0,095 x 0,042 - 0,0582 mm.

*Các loài thuộc giống Cooperia.
- C. laterouniformis: Trịnh Văn Thịnh và cs (1978) [21] cho biết:
Loài này thân hình sợi chỉ, biểu bì mỏng có vân ngang, vân dọc dài khắp thân;
chóp đầu thường có hình một túi phình; thực quản hơi rộng ở phần trên và phần
cuối; vòng thần kinh ở khoảng 2/3 thực quản.
Giun đực dài 4,944 mm, rộng 0,071 mm. Giun cái dài 5,700 mm, rộng nhất
0,069 mm; chỗ phình đầu dài 0,023 mm và rộng 0,011 mm; thực quản dài 0,297
mm, rộng nhất 0,069 mm. Trứng có kích thước 0,073 - 0,030 mm.
- C. pectinata: Giun đực dài 7,000 mm, rộng 0,130 - 0,160 mm. Giun cái dài
7,500 - 9,000 mm, rộng 0,110 - 0,135 mm (Nguyễn Thị Kim Lan và cs, 1999) [8].
- C. punctata: Theo Skrjabin K.I và Petrov A.M (1963) [27], giun cái dài
5,700 - 10,000 mm. Giun đực dài 5,000 - 9,000 mm. Giun cái dài 5,700 - 10,00 mm.


8

* Các loài thuộc giống Nematodirus.
Skrjabin K.I và Petrov A.M (1963) [27] cho biết:
- N. oiratianus: Con đực dài 11,000 - 16,500 mm. Con cái dài 14, 500 - 17,6
00 mm. Trứng rất lớn, dài 0,255 - 0,272 mm, rộng 0,119 - 0,153 mm.
- Loài N. skrjabin: Con đực dài 15,500 - 17, 250 mm và rộng 0,124 - 0,183

mm. Con cái dài 28,500 - 29,500 mm, rộng 0,450 - 0,650 mm. Trứng lớn, dài
0,229 - 0,265 mm, rộng 0,084 - 0,114 mm.
* Phần lớn trứng giun thuộc họ Trichostrongylidae có hình dạng và
kích thước gần giống nhau nên nếu chỉ căn cứ vào hình thái trứng thì khơng
thể xác định được lồi giun. Theo nhiều tác giả, có thể ni trứng
Trichostrongylidae nở và phát triĨn thành Êu trùng có sức gây bệnh. Sau đó
phân loại theo khố định lồi của Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [17] dựa vào
hình thái, kích thước và cấu tạo của ấu trùng có sức gây bệnh.


Hình 2.1. Các dạng Êu trùng cảm nhiễm bộ Strongylida
1. Haemonchus contortus; 2. Cooperia; 3. Trichostrongylus; 4. Ostertagia;
5. Chabertia; 6. Oesophagostomum columbianum; 7. Oesophagostomum
venulosum; 8. Bunostomum; 9. Nematodirus
Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [17]


9

2.1.1.4. Chu kỳ sinh học của một số loài giun xoăn chủ yếu ở dạ múi khế
- Chu kỳ sinh học (vịng đời) của các lồi giun xoăn dạ múi khế tương đối
giống nhau. Giun cái đẻ trứng với số lượng lớn trong một ngày. Trứng phát triển ở
môi trường bên ngồi thành Êu trùng có sức gây bệnh rồi lại nhiễm vào ký chủ.

Hình 2.2. Vịng đời phát triển của giun xoăn dạ múi khế
* Chu kỳ sinh học của Haemonchus sp.
Skrjabin K.I và Petrov A.M (1963) [27] cho biết: giun cái đẻ trứng, trứng
được bài xuất cùng phân ra mơi trường bên ngồi. Nhiệt độ của mơi trường bên
ngồi thích hợp cho trứng phát triển tiếp tục là 20 - 30 0C. Trong phân, vào ngày thứ
hai đã thấy có Êu trùng giai đoạn I nở ra khỏi trứng. Những Êu trùng này ăn phân
và sống trong phân một thời gian, nhưng không cảm nhiễm được cho súc vật. Ở giai
đoạn này, Êu trùng kém bền vững hơn ở các giai đoạn sau: chúng chết khi phơi khô
và ở nhiệt độ trên 300C. Sù thay đổi về nóng và lạnh cũng làm cho Êu trùng bị chết.
Ở nhiệt độ 15 - 200C, ấu trùng giai đoạn I chỉ sau 1 đêm đã ở giai đoạn tiềm sinh,
kéo dài 12 - 15 giê. Trong thời gian này, Êu trùng lột xác, sau đó sống trở lại và
chuyển vào giai đoạn II.
Ở giai đoạn II, Êu trùng mất đi khả năng ăn uống và cũng không thể ký sinh
được. Qua một ngày sau, đôi khi chưa đến 1 ngày, Êu trùng lại trở lại giai đoạn tiềm
sinh lần thứ hai. Trong thời gian này, Êu trùng lớn lên, nhưng tầng cutin bao quanh



10

vẫn giữ nguyên và tạo thành nắp. Sau khi hình thành nắp thì Êu trùng chuyển vào
giai đoạn III. Lúc này, Êu trùng đã có khả năng cảm nhiễm cho động vật. Từ khi đẻ
trứng đến giai đoạn Êu trùng cảm nhiễm cần thời gian không dưới 4 - 5 ngày.
Ở giai đoạn III, Êu trùng có sức đề kháng đặc biệt. Chúng chết trong môi
trường Èm khi nhiệt độ 500C và trong môi trường khô khi 600C. Những Êu trùng
này đặc biệt chịu được sự khô hạn. Khi khô hạn, chúng có thể ở trong trạng thái
tiềm sinh trên 1 năm rưỡi. Đối với các chất tiêu độc, Êu trùng cũng rất bền vững:
dung dịch creolin 2 - 3%, lizol và các chất khác không giết được Êu trùng. Êu trùng
chết trong dung dịch axit cacbonic 5% không tinh khiết. Cũng nh ở giai đoạn I và II,
Êu trùng cảm nhiễm chết dưới tác động của nước tiểu. Bởi vậy, trong các chuồng
ni súc vật khơng thể tìm thấy Êu trùng sống. Phát triển đến giai đoạn cảm nhiễm
ở trong phân, sau đó Êu trùng tự rời bỏ phân đi nơi khác.
Vào mùa đông, Êu trùng ở trên đồng cỏ thường bị chết. Mùa hè, Êu trùng
cũng có thể bị chết dưới tác động của ánh nắng mặt trời và nhiệt độ cao.
Khi Êu trùng chui ra khỏi phân, nếu mơi trường xung quanh phân Èm thì Êu
trùng có khả năng bị lên phía trên theo vật Èm đó. Nếu phân ở trong cỏ thì Êu trùng
sẽ chuyển động theo những ngọn cỏ ở xung quanh. Quá trình chuyển động thẳng
đứng theo ngọn cỏ xảy ra càng nhanh hơn nữa ở những nơi đồng cỏ thấp, trong các
mùa vụ Èm ướt, trong thời gian mưa nhiều, trong sương mù và khi có nhiều sương
xuống. Để Êu trùng có thể bị theo ngọn cỏ khơng cần phải có lượng Èm nhiều, mà
chỉ cần một lớp Èm rất Ýt bọc trên cỏ cũng đã đủ cho Êu trùng chuyển động. Khi
độ Èm cao, Êu trùng khơng có khả năng bám vào cỏ, mà rơi xuống cùng với nước
và được nước mang đến những nơi thấp hơn. Bởi vậy, tất cả những nơi đồng cỏ
thấp, đầm lầy và các vũng đọng nước mưa là những nơi chính làm cho trâu, bị
nhiễm Haemonchus.
Trong những điều kiện bất lợi (khơ hoặc q ướt) thì Êu trùng cảm nhiễm

cuộn tròn lại. Nếu Êu trùng bị khô (kể cả trong thời gian dài) được làm Èm ướt thì
chỉ sau 20 - 30 phót, Êu trùng sẽ sống trở lại, duỗi thẳng và tiếp tục di chuyển theo
ngọn cỏ. Êu trùng giai đoạn III, mặc dù không ăn uống gì, trong điều kiện mơi
trường Èm vẫn có khả năng sống tới 3 - 4 tháng.
Những Êu trùng cảm nhiễm được súc vật nhai lại nuốt cùng thức ăn và nước
uống vào dạ dày. Ở đây, chúng "vứt bỏ" vỏ và chuyển sang giai đoạn IV. Thực hiện


11

xong 1 lần lột xác nữa, Êu trùng có khả năng ký sinh và hút máu ký chủ. Sau 2 - 3 tuần,
Haemonchus trở thành thành thục, con cái bắt đầu đẻ trứng.
Thời gian sống của Haemonchus trong cơ thể gia sóc nhai lại chưa rõ, nhưng
người ta cho rằng, thời gian này không quá 1 năm. Càng về sau, giun càng già và
mất đi khả năng tiếp tục ký sinh.
Urquhart G. M. (1996) [36], làm rõ thêm vòng đời của Haemonchus
contortus: ấu trùng cảm nhiễm vào ống tiêu hoá súc vật nhai lại, thực hiện hai
lần lột xác trong ống dẫn tuyến. Chỉ trước khi lột xác lần cuối chúng mới phát
triển đến giai đoạn lấy máu ký chủ từ những mao quản ở niêm mạc. Khi trưởng
thành, chúng di chuyển tự do trên bề mặt niêm mạc. Thời gian hồn thành vịng
đời ở dê, cừu là 2 - 3 tuần và ở đại gia súc là 4 tuần.
* Chu kỳ sinh học của Trichostrongylus sp.
Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2008) [11] cho biết: Nhiều tác giả, khi nghiên
cứu về chu kỳ sinh học của giun tròn đều thống nhất: các lồi thuộc giống
Trichostrongylus có vịng đời trực tiếp, khơng cần ký chủ trung gian (nghĩa là
khơng có sự thay đổi ký chủ) (Direct nematode life cycle). Trứng giun theo phân ra
ngồi, gặp điều kiện thích hợp (nhiệt độ và Èm độ), sau 20 - 24 giờ nở ra Êu trùng
kỳ I. Êu trùng này hình gậy, thực quản hình ống và có ruột cấu tạo đơn giản, hoạt
động mạnh. Chúng dùng các loại vi sinh vật ở xung quanh làm chất dinh dưỡng, sau
10 - 30 giờ lột xác thành Êu trùng kỳ II to hơn Êu trùng kỳ I, cấu tạo tương đối

giống nhau. Êu trùng này hoạt động rất mạnh và cũng lấy vi sinh vật xung quanh
nuôi sống bản thân. Sau 12 - 60 giờ thành Êu trùng kỳ III có sức gây nhiễm. Trước
khi thành Êu trùng kỳ III, Êu trùng kỳ II khơng lột xác, màng bọc ngồi trở thành
màng ngồi của Êu trùng kỳ III. Lúc này Êu trùng kỳ III khơng thể lấy thức ăn ở
bên ngồi mà chỉ sống dựa vào thức ăn do Êu trùng kỳ II tích luỹ lại ở trong ruột.
Êu trùng ở bên ngoài đến giai đoạn này là kết thúc, chúng có sức đề kháng mạnh, có
thể sống lâu. Tuy nhiên, nếu khơ hoặc có ánh nắng Êu trùng dễ chết.
Khi gia sóc nhai lại ăn cỏ, uống nước có Êu trùng gây nhiễm, vào đường tiêu
hố, Êu trùng mất màng ngồi, tiếp tục phát triển, lột xác thành Êu trùng kỳ IV, lại
tiếp tục phát triển, lột xác thành Êu trùng kỳ V và phát triển thành giun trưởng


12

thành (Skrjabin K.I và Petrov A.M, 1963) [27], Phạm Văn Khuê và Phan Lục,
1996) [7].
* Vòng đời của Mecistocirrus digitatus
Phạm Sỹ Lăng và Phan Địch Lân (1997) [12] cho biết: Lồi này có vịng đời
cơ bản giống vịng đời của Haemonchus. Êu trùng gây nhiễm qua thức ăn nước
uống vào đường tiêu hóa vật chủ. Sau 3 ngày một số Êu trùng xâm nhập vào tuyến
niêm mạc dạ múi khế hồn thành vịng đời là 59 - 82 ngày. Tuổi thọ của giun 9 - 12
tháng.
2.1.2. Bệnh giun xoăn dạ múi khế ở gia sóc nhai lại
2.1.2.1. Thiệt hại kinh tế do bệnh giun xoăn dạ múi khế gây ra
Nguyễn Phước Tương (2002) [24] cho biết: Chăn ni trâu, bị ở nước ta
đang được chú trọng phát triển. Tuy vậy, số bê, nghé chết cao, chủ yếu là do bệnh
truyền nhiễm và bệnh ký sinh trùng. Trong đó có bệnh giun xoăn dạ múi khế. Giun
ký sinh trong đường tiêu hóa, hút máu của trâu, bị, gây tổn thương cơ học, tiết độc
tố làm cho con vật gầy yếu, mở đường cho vi khuẩn, virút xâm nhập và gây bệnh
cho trâu, bò.

Việc điều trị chỉ được tiến hành khi gia súc đã mắc bệnh nặng, khả năng cày
kéo kém nên gây thiệt hại đáng kể về kinh tế cho người chăn nuôi.
Bệnh giun xoăn dạ múi khế gây ra bởi O. ostertagi là bệnh có thể lây sang
người. Người mắc bệnh này khi ăn rau sống được bón phân trâu, bị mắc bệnh.
Trứng, Êu trùng có sức gây bệnh khi vào ống tiêu hóa của người sẽ phát triển thành
Êu trùng kỳ IV, kỳ V, sau đó phát triển thành giun trưởng thành ký sinh tại ruột
non.
2.1.2.2. Đặc điểm dịch tễ học của các bệnh giun xoăn dạ múi khế
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2008) [11], bệnh giun xoăn dạ múi khế có
liên quan tới điều kiện thời tiết, khí hậu, mùa vụ và tuổi con vật.
Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [8] cho biết, bệnh phân bố rất rộng, có ở
tất cả các vùng miền núi, trung du và đồng bằng. Tỷ lệ nhiễm ở gia sóc nhai lại từ
30,7 - 100%. Gia sóc nhai lại ở mọi lứa tuổi đều nhiễm giun xoăn, nhưng nói chung
gia súc trưởng thành có sức đề kháng mạnh hơn gia sóc non, gia súc gầy sút, gia súc
già yếu sức đề kháng giảm.
Soulsby E. J. L. (1982) [34] cho rằng: nhìn chung, sự phát triển của các giun
xoăn họ Trichostrongylidae ở giai đoạn sống tự do (ngoài ngoại cảnh) phụ thuộc
vào điều kiện khí hậu. Ở nước Anh, Êu trùng có thể phát triển đến giai đoạn gây


13

nhiễm trong 2 tuần, nhưng thường thì dài hơn và phụ thuộc vào khí hậu. Súc vật
nhai lại nhiễm giun ở tất cả các tháng trong năm, nhưng nhiễm nhiều và nặng hơn ở
những tháng mùa hè Êm và Èm.
Nguyễn Hữu Vũ và cs (2000) [25] cho rằng, gia súc mắc bệnh nhiều vào vụ
Hè và tăng vào vụ Thu. Đường truyền bệnh chủ yếu là do những con mắc bệnh thải
trứng theo phân ra đồng cỏ, bãi chăn, khi gia súc uống nước có lẫn Êu trùng dễ nuốt
phải Êu trùng có sức gây nhiễm. Bệnh nhiễm ở mọi lứa tuổi nhưng nhiều hơn ở gia
sóc non dưới 1 năm tuổi (Skrjabin K.I và Petrov A.M, 1963 [27]).

Theo Phan Địch Lân và cs (1989) [14], trứng và Êu trùng có có sức đề
kháng mạnh, nhiệt độ thích hợp nhất cho trứng phát triển là 33,3 0C. Nhưng nếu với
nhiệt độ đó mà Èm độ cao (96%) thì trứng khơng phát triển được. Êu trùng gây
nhiễm ở nơi Èm ướt, nhiệt độ 50 0C mới chết, nơi khô cạn phải 60 0C mới chết. Êu
trùng gây nhiễm sống được ở nơi khơ cạn 1 năm. Dung dịch CuSO 4 có thể diệt
trứng giun trong 8 giờ rưỡi và diệt Êu trùng trong vịng 3 giê, DDT 1% khơng diệt
được trứng.
Ở Việt Nam, theo Nguyễn Thế Hùng (1994) [6], Nguyễn Thị Kim Lan và cs
(1998, 2000) tỷ lệ nhiễm giun xoăn dạ múi khế ở dê tăng lên vào vụ Hè - Thu, giảm
đi vào vụ Đông - Xuân; tỷ lệ nhiễm cao ở dê dưới 1 năm tuổi. Bệnh phân bố rộng,
các cơ sở nuôi dê ở vùng núi, trung du và đồng bằng đều có bệnh, tỷ lệ nhiễm từ
71,79 - 74,63%.
Từ những cơng trình nghiên cứu và nhận xét của nhiều tác giả, có thể thấy
một điều rất rõ là: "Sự tồn tại và phát triển của sinh vật (trong đó có các lồi giun
xoăn) tại một nơi nào đó thường phụ thuộc vào tổ hợp các điều kiện mơi trường,
trong đó khí hậu là một trong những điều kiện quan trọng ảnh hưởng sâu sắc nhất"
(Trần Đức Hạnh và cs, 1997) [4].
2.1.2.3. Cơ chế sinh bệnh của bệnh giun xoăn dạ múi khế
Sau khi xâm nhập vào dạ múi khế và ruột non, giun bám chắc và chọc thủng
niêm mạc để hút máu ký chủ, gây viêm, loét niêm mạc và chảy máu mao mạch.
Ngoài ra, nhiều giun còn cắm sâu đầu vào các ống dẫn tuyến trong dạ múi khế và
gây viêm các ống tuyến đó. Khi hút máu, chúng tiết ra độc tố làm máu không đông,
gây hiện tượng ngộ độc cho cơ thể ký chủ. Vì vậy, khi giun khơng hút máu nữa
máu vẫn chảy và theo phân ra ngồi. Q trình tiến triển nặng hơn nếu ghép
cùng với các bệnh do các loài giun khác gây nên. Theo Nguyễn Thị Kim Lan và


14

cs (1999) [8], gia sóc khi bị nhiễm giun xoăn dạ múi khế sẽ ảnh hưởng tới tình

trạng sức khỏe, làm giảm sức sản xuất của con vật.
Tác hại của giun xoăn dạ múi khế thể hiện qua 5 tác động sau:
- Tác động cơ giới: Êu trùng và giun trưởng thành hút máu ký chủ,
miệng bám chặt vào niêm mạc ruột và dạ múi khế tạo thành các nốt loét xuất
huyết.
- Tác động tiết độc tố: Độc tố do chúng tiết ra làm máu ký chủ không đông,
độc tố làm ký chủ trúng độc; gầy còm, thiếu máu, rối loạn tiêu hóa, thủy thũng.
Giun xoăn kích thích niêm mạc dạ dày, cản trở tiết men Pepsinnogen, ảnh hưởng
đến tiêu hóa chất xơ.
- Tác động chiến đoạt chất dinh dưỡng: Giun nuôi dưỡng bản thân bằng máu ký
chủ, và tiết độc tố làm máu không đông, gây xuất huyết, con vật bị thiếu máu nghiêm trọng.
- Tác động truyền bệnh: Giun bám chặt vào niêm mạc gây tổn thương, phá
vỡ vịng tuyến thượng bì, tạo điều kiện cho vi khuẩn từ môi trường xâm nhập gây
nên các bệnh ghép với các bệnh ký sinh trùng.
2.1.2.4. Đặc điểm bệnh lý và lâm sàng của bệnh giun xoăn dạ múi khế
*Bệnh do Haemonchus contortus
Giun H. contortus gây tác hại lớn cho gia sóc nhai lại. Haemonchosis gây ra rối
loạn nặng tồn cơ thể: tổn thương đường tiêu hoá, hệ thần kinh, hệ tuần hoàn và các
tuyến nội tiết. Con vật mắc Haemonchosis bị kiệt sức nhanh, thiếu máu nặng, thấy
có những biến đổi bệnh lý trong não và tuỷ sống. Skrjabin K.I và Petrov A.M
(1963) [27] đã giải thích nh sau: sau khi xâm nhập vào dạ múi khế, H. contortus
bám chắc và chọc thủng niêm mạc, gây ra chảy máu mao mạch. Ngồi ra, nhiều
giun cịn cắm sâu đầu vào các ống dẫn tuyến trong dạ múi khế và gây viêm các ống
đó. Haemonchus hút máu ký chủ. Khi ăn máu Haemonchus thải ra độc tố đặc biệt
làm ngộ độc cơ thể ký chủ.
Khi súc vật nhiễm bệnh nặng, niêm mạc dạ múi khế bị phủ một lớp màng
dày lên, có những chỗ chảy máu. Các chất trong dạ múi khế thường lỗng và có
màu nâu. Ở con vật mắc bệnh thường thấy dạ múi khế viêm cataz mãn tính, vì vậy
lượng thức ăn ở đây không được thấm đầy đủ dịch vị. Thức ăn chuyển từ dạ múi
khế vào ruột ở dạng bán nhuyễn thể nên mức hấp thu vào máu cũng giảm đi. Độc tố



15

của giun làm cho con vật bệnh kiệt sức, thiếu máu và bị phù. Con vật chết vì suy
mịn do thiếu máu.
Quá trình tiến triển của Haemonchosis lại càng nặng hơn khi con vật bị bệnh
ghép cùng với những Trichostrongylus khác. Điều này hầu như thường xuyên xảy
ra, vì theo nguyên nhân bệnh, người ta thường gọi những bệnh đó là
Trichostrongylidosis (nghĩa là vật bị Haemonchosis ghép với các bệnh giun xoăn
khác. Trâu, bị, dê, cừu bị Haemonchus thì mệt mỏi, chậm chạp, kiệt sức, niêm mạc
thiếu máu, có thể bị ỉa chảy xen lẫn táo bón. Súc vật non thường không đứng được
phải nằm dệt. Vật dễ chết nếu mắc bệnh nặng.
Theo Trịnh Văn Thịnh và Đỗ Dương Thái (1978) [21], bệnh giun xoăn ở dạ dày
và ruột dê giống Mơng Cổ nhập nội, do các lồi Haemonchus contortus,
Trichostrongylus và Oesophagostomum. Có trường hợp đã thấy 1200 - 1500
Haemonchus ở dạ múi khế 1 dê (cao nhất có thể đến 4 - 5 nghìn giun). Theo tác giả,
khi có đến 600 giun trong cơ thể dê đã thấy các triệu chứng: thiếu máu, gầy sút, rối
loạn tiêu hoá, lúc đi tả lúc đi táo, kém ăn, đi tụt lại sau đàn; con đực nhảy kém.
Bệnh thấy ở tất cả các lứa tuổi, nhưng nặng nhất ở dê dưới 1 năm tuổi. Bệnh phát
mạnh vào mùa Hè - Thu.
Những biến đổi bệnh lý và lâm sàng ở súc vật bệnh cịn chịu ảnh hưởng của
chế độ chăm sóc ni dưỡng. Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2008) [11] cho biết, triệu
chứng và những biến đổi bệnh lý của Haemonchosis thể hiện ở những gia súc được
nuôi dưỡng kém rõ rệt hơn là những con vật được ni dưỡng bình thường.
Mất máu nên cơ thể bị thiếu máu nghiêm trọng là triệu chứng thấy rất rõ ở gia
súc mắc bệnh do Haemonchus. Andrews (1942) đã xác định lượng máu thải theo
phân ở hai cừu con nhiễm liều chí tử Êu trùng Haemonchus. Sau khi nhiễm 6 - 10
ngày, phân bắt đầu có máu. Trong 10 ngày tác giả tính được ở một con mất 1,5 lít
máu, cịn con kia mất 2,4 lít máu trong phân (Dẫn theo Skrjabin, 1963; Trịnh Văn

Thịnh và cs, 1982; Phan Địch Lân và cs, 1989; Phạm Văn Khuê và cs, 1996).
Về biểu hiện lâm sàng của con vật bị Haemonchosis, Phan Địch Lân,
Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2002) [15] cho biết, ngoài các triệu chứng thiếu máu,
kém hoạt động, ăn uống giảm sút, kiết lỵ và táo bón xen kẽ, con vật cịn bị thuỷ
thũng dưới cổ, trước họng và ngực. Biểu hiện rõ rệt nhất là ở những chỉ số máu:
giảm hồng cầu, giảm huyết sắc tố, bạch cầu tăng. Khi quá yếu, con vật thường chết.


16

Có thể gặp Haemonchosis ở ba dạng hay là ba giai đoạn. Skrjabin K.I và
Petrov A.M (1963) [27] đã phân biệt ba giai đoạn đó nh sau:
- Trong giai đoạn đầu, ở dạ múi khế có số lượng Haemonchus khơng nhiều
lắm (một con đến một vài trăm con). Trường hợp này triệu chứng lâm sàng không
xuất hiện.
- Trong giai đoạn hai, triệu chứng lâm sàng và bệnh tích (biến đổi giải phẫu
bệnh lý) cũng chưa thể hiện rõ rệt. Số lượng giun nhiều hơn ở giai đoạn một.
Giai đoạn một và hai của Haemonchosis không thể coi là nguyên nhân làm
vật chết, nếu như không ghép cùng với các bệnh khác.
- Giai đoạn ba là giai đoạn con vật thể hiện triệu chứng điển hình, số lượng
giun nhiều hơn hai giai đoạn trên.
Nguyễn Thị Kim Lan (2000) [9] đã theo dõi 41 dê bị bệnh giun xoăn dạ múi
khế, thấy: 82,93% thiếu máu nặng, 100% gầy xơ xác, 63,41% ỉa lỏng liên miên,
36,59% ỉa chảy xen táo bón từng đợt, 39,02% bị thuỷ thũng ở ngực, bụng và 4 chân.
Mổ khám dê chết do giun xoăn dạ múi khế thấy, niêm mạc dạ múi khế phủ màng dầy,
có nhiều chỗ chảy máu. Chất chứa trong dạ múi khế thường loãng, màu nâu. Dạ múi
khế và ruột non viêm cataz mãn tính, niêm mạc thuỷ thũng, có nhiều mụn lt. Trong
chất chứa dạ múi khế và trên niêm mạc có nhiều giun xoăn ký sinh.
Theo Phan Địch Lân, Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2002), dê bị bệnh giun
xoăn dạ múi khế thường thiếu máu, kém hoạt bát, ăn uống sút kém, ỉa chảy và táo

bón xen kẽ. Thuỷ thũng dưới cổ, trước bụng, ngực và 4 chân. Con vật gầy yếu dần,
đi lại khó khăn, hay bị bỏ rơi sau đàn. Khi quá gầy yếu và thiếu máu, con vật chết.
*Bệnh do các loài giun xoăn khác ở dạ múi khế
Một số loài giun thuộc giống Trichostrongylus, Cooperia, Mecistocirrus ký
sinh ở dạ múi khế có thể gây bệnh cho gia sóc nhai lại, hoặc hỗn hợp nhiều lồi,
hoặc riêng lẻ từng loài.
Bệnh lý của Trichostrongylosis phụ thuộc vào cường độ cảm nhiễm. Người
ta đã biết là gia súc bị chết khi nhiễm tới 60 - 120 nghìn Êu trùng cảm nhiễm
Trichostrongylus axei. Những con vật non nhiễm mức độ nặng chậm lớn và kém
phát triển. Bệnh chia làm hai thời kỳ. Thời kỳ thứ nhất - cấp tính, kéo dài gần 6 tuần
(ở thời kỳ này một số con non bị cảm nhiễm nặng, ngừng phát triển, sút cân và chết.
Mổ khám thấy dạ múi khế bị viêm cấp tính có kèm theo những nốt loét). Thời kỳ


17

thứ hai - mãn tính, triệu chứng giảm dần, con vật lên cân, những nốt loét trong dạ
múi khế dần dần lành thành sẹo. Giun Trichostrongylus gây bệnh yếu hơn
Haemonchus (Skrjabin K.I và Petrov A.M,1963) [27].
Theo Drozdz và Malczewski (1967) [26], vai trị gây bệnh của các lồi giun
thuộc giống Trichostrongylus như sau: trong giai đoạn Êu trùng, giun xâm nhập
niêm mạc dạ múi khế và tá tràng, gây tác động đầu độc ở cục bộ và toàn thân, biểu
thị bằng sự thiếu máu dần, ỉa chảy và suy nhược ở con vật bệnh. Beker và Douglas
cho biết, bệnh do Trichostrongylus có triệu chứng thiếu máu là do tuổi thọ của hồng
cầu ngắn đi 5 lần và tuỷ xương không còn khả năng tái sinh hồng cầu để bù lại.
Nhưng nếu súc vật được ni tốt thì khơng có những tổn thương về máu. Vì lý do
này mà một số nhà nghiên cứu cho là, sự thiếu máu trong bệnh do Trichostrongylus
ở gia súc ni dưỡng kém có thể là do giun chiếm đoạt những nguyên tố vi lượng
có trong ruột ký chủ. Khi cảm nhiễm nặng, thấy viêm cấp tính niêm mạc dạ múi
khế, trên đó có những tổn thương hình miệng phễu đường kính 0,25 - 20 mm, bờ

trắng, lồi. Súc vật ốm giảm uống nước, tăng cân rất Ýt hoặc sút cân.
Trong bệnh do Cooperia, người ta thấy quá trình viêm ở ruột non dẫn đến
tổn thương niêm mạc, trên niêm mạc hình thành những hạt màu trắng. Tuyến lâm
ba bên cạnh bị teo. Tác động toàn thân của giun Cooperia - theo Andrews (1938) biểu hiện bằng sự trao đổi vật chất tăng nhanh ở súc vật bệnh, kèm theo giảm đồng
hoá thức ăn làm cho con vật bị giảm thể trọng. Những gia súc gây nhiễm thí nghiệm
dù ni tốt hơn những con đối chứng nhưng vẫn tăng trọng Ýt (Drozdz và
Malcrewski, 1967; Phạm Văn Khuê và Phan Lục, 1996).
Theo Skrjabin K.I và Petrov A.M (1963) [27], khi con vật bị bệnh nặng,
Cooperia có thể gây ra viêm niêm mạc ruột. Một số giun Cooperia (Cooperia
punctata) có thể xâm nhập vào thành ruột, gây viêm và tạo thành áp xe ruột. Các hạch
lâm ba gần đó bị sưng, thối hố bã đậu. Êu trùng giun khi cư trú trong niêm mạc ruột
tạo thành những hạt ký sinh, kích thước từ 3 - 5 mm. Vật nhiễm Cooperia nặng bị rối
loạn chức năng tiêu hoá, ỉa chảy và kiệt sức, có thể chết vì bệnh q nặng.
Mamedov A. K. (1959) thấy rằng, ở trong tuyến hạ vị Cooperia punctata
bám chắc sâu vào nhu mô bằng phần trước của chúng, chứng tỏ là có sự cư trú ngẫu
nhiên của giun này trong tuyến hạ vị.


18

Mecistocirrus digitatus cũng sống bằng máu ký chủ như nhiều lồi giun xoăn
khác. Vai trị gây bệnh của nó (theo Ivaszkin, 1949) là: giun lấy dinh dưỡng bằng
máu và phá hoại niêm mạc nơi giun sống, gây viêm niêm mạc, do đó gây nên những
rối loạn tiêu hố. Bệnh làm con vật kiệt sức, giảm hiệu suất và thường dẫn đến chết.
Skrjabin K.I và Petrov A.M (1963) [27] cho biết, giun Mecistocirrus
digitatus là loài giun ăn máu. Bệnh làm gia sóc non kém phát triển và thường thấy
chết vào mùa xuân. Mổ khám thấy hiện tượng viêm cataz dạ múi khế, niêm mạc bị
xuất huyết điểm hoặc xuất huyết vùng.
Nhiều tác giả khác (Trịnh Văn Thịnh, 1978; Trịnh Văn Thịnh, 1982; Phạm
Văn Khuê và Phan Lục, 1996; Phạm Sỹ Lăng và cs, 2002) cũng thống nhất với các

tác giả trên về bệnh lý và lâm sàng của Mecistocirrosis.
2.1.2.6. Chẩn đoán bệnh giun xoăn dạ múi khế
Nghiên cứu về các phương pháp chẩn đốn bệnh do các lồi giun thuộc họ
Trichostrongylidae gây nên, nhiều tác giả khẳng định: không thể chẩn đốn chính
xác bệnh nếu khơng tiến hành các phương pháp tìm trứng giun trong phân.
Theo Skrjabin K.I và Petrov A.M (1963) [27]; Trịnh Văn Thịnh (1963) [20],
kết hợp quan sát triệu chứng trên con vật còn sống với xác định trứng bằng cách soi
phân. Triệu chứng có thể thấy là viêm dạ dày ruột mãn tính, ỉa chảy xen táo bón. Soi
phân bằng phương pháp phù nổi dễ thấy trứng. Mổ khám con vật chết cũng cần phải
làm để tìm giun ở dạ múi khế và tá tràng; thấy được ngay những lồi lớn (2 - 3 cm),
cịn những lồi nhỏ (4 - 5 mm) thì phải dùng kính lúp hoặc kính hiển vi (phóng đại 20
- 30 lần). Trịnh Văn Thịnh cho biết: ký sinh trùng thường dễ thấy, vì có hàng trăm,
hàng nghìn giun thuộc nhiều lồi cùng ở lẫn với nhau. Cũng cần chú ý đến sự lưu
hành của bệnh: bệnh rất nặng, thường làm 1/2 số súc vật mắc bệnh chết, 1/2 số còn
lại bần huyết đến nỗi giá trị giảm tới 50%, khi mổ thịt thường phải giữ lại vì gầy rạc.
Bệnh đáng sợ hơn ở súc vật ni đàn (dê, cừu), vì chỉ cần đưa 1 con ốm vào là đủ làm
lây bệnh sang cả đàn. Con non dị cảm với bệnh hơn con trưởng thành. Các giống
nhập nội vào nước ta dễ mắc bệnh nặng và dễ chết. Đặc điểm dịch tễ học của bệnh là
những căn cứ góp phần xác định chính xác hơn.
Trịnh Văn Thịnh và cs (1982) [22]; Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) [7]
cho biết, để chẩn đoán bệnh do Haemonchus và Mecistocirrus không thể chỉ căn cứ
vào triệu chứng lâm sàng, vì đối với con vật cịn sống, triệu chứng lâm sàng không


19

điển hình. Mặt khác, trứng khó phân biệt với các lồi khác nên khó xác định. Theo
các tác giả thì có thể xét nghiệm phân theo phương pháp sau: ni trứng cho nở
thành Êu trùng (lấy phân con vật nghiền nát, trộn lẫn với đất vô trùng, cho vào đĩa
lồng, giữ cho độ Èm 60 - 70%, nhiệt độ 25 - 30 0C, pH: 6,8 - 7,4; nuôi trong 4 - 5

ngày. Sau đó phân lập Êu trùng theo phương pháp Baerman, xem kính hiển vi tìm
Êu trùng). Whitlock H. V. (1956) đề nghị kỹ thuật cấy phân dê, cừu nh sau: cho
xuống đáy 1 lọ nhỏ một lớp bông dầy 1 cm, đổ đầy phân đã nghiền nát vào lọ. Lấy
ống hút bơm nước chảy theo bê trong của lọ cho đến khi ướt bông ở đáy. Cho lọ
nhỏ này vào 1 cái lọ to và đổ nước vào lọ to cho đến khi mặt nước xâm xấp ngang
miệng cái lọ nhỏ thì thơi. Đậy lọ to lại và cho vào tủ Êm 27 0C trong 8 ngày. Những
Êu trùng nở ra sẽ bò lên miệng lọ nhỏ bên trong và tràn vào nước ngoài lọ to. Lấy
nước Êy cho vào ống nghiệm, để lắng cặn trong 3 giờ. Gạn nước trên đi, tìm Êu
trùng trong cặn.
Sau khi lấy được Êu trùng sống và rất di động, phải giết Êu trùng bằng cách
thêm vào nước chứa Êu trùng vài giọt dung dịch Iod + Ioduar kali có 2% Iod (Iod
2g + Ioduar kali 4g + Nước 100 ml; bắt đầu hoà tan Ioduar kali trong 20 ml nước,
thêm Iod bột và khi Iod đã tan hết thì thêm cho đủ nước); hoặc làm nóng vừa phải
để giết Êu trùng. Theo Premvati (1958), nhóng Êu trùng vào một dung dịch (Bleu
cresyl + gôm arabic + formol nhẹ) trong 20 - 25 phút, có thể làm cho dễ quan sát
những đặc điểm về cấu tạo. Kiểm tra dưới kính hiển vi với độ phóng đại 75 - 100
lần và chú ý những đặc điểm sau để chẩn đốn.
- Có hay khơng có vỏ bọc Êu trùng và số lượng các vỏ bọc Êy.
- Chiều dài của Êu trùng (kể cả vỏ).
- Chiều dài của đuôi (đo từ hậu môn đến điểm chót của thân thể).
- Hình dạng đi, vỏ của Êu trùng.
- Số lượng và hình thái các tế bào ruột....
Ngồi các phương pháp trên, đối với gia sóc nhai lại cịn sống, có thể chẩn
đốn bằng phương pháp miễn dịch học.
Kháng nguyên chẩn đoán chế từ giun trưởng thành, Êu trùng hoặc dịch trong
cơ thể Êu trùng. Có thể pha loãng thành các nồng độ khác nhau từ 1: 5000 đến 1:
10.000. Dùng kháng nguyên tiêm trong da, tiêm dưới da, nhỏ mắt, làm phản ứng
lắng cặn, phản ứng kết hợp bổ thể....., nhưng thường dùng phương pháp tiêm trong



20

da (tiêm nội bì). Liều tiêm kháng nguyên thường dùng là 0,1 - 0,5 ml. Sau khi tiêm
3 - 15 phót, theo dõi sự biến đổi ở nơi tiêm. Nếu nơi tiêm sưng to, xung quanh đỏ,
đường kính khoảng 2 - 4 cm thì phản ứng dương tính, ngược lại là âm tính. (Trịnh
Văn Thịnh và cs, 1982) [22]; (Phạm Văn Khuê và Phan Lục, 1996) [7]. Hiện nay,
có thể chẩn đoán bệnh giun sán bằng một số phương pháp nh phương pháp
miễn dịch huỳnh quang, miễn dịch men ELISA.... Tuy nhiên, các phương pháp
này còn Ýt được sử dụng trong thó y mà chủ yếu được dùng trong y học
(Nguyễn Thị Lê và cs, 1996) [17].
2.1.2.7. Phòng trị bệnh giun xoăn dạ múi khế
*Điều trị bệnh
Từ những vấn đề đã trình bày ở trên, chúng ta đã thấy vai trò gây bệnh của
những giun tròn thuộc họ Trichostrongylidae là rất nghiêm trọng. Vì vậy, cần có
các biện pháp điều trị hiệu quả.
Theo Trịnh Văn Thịnh (1963) [20] có thể áp dụng kết hợp 3 biện pháp trong
chữa Trichostrongylidosis. Đó là:
- Cách ly súc vật ốm và tẩy giun kịp thời bằng các thuốc: CuSO 4 (dung dịch
1/100 trong nước mưa), liều 15 - 150 ml/con (tuỳ theo lứa tuổi và trạng thái sức
khoẻ con vật); hoặc dùng thuốc Phenothiazin (0,2 g/kgTT trâu, bò; 0,5 g/kgTT dê,
cừu) trong 2 ngày. Thuốc có tác động nhiều nhất đến giống Haemonchus.
- Tránh không cho nhiễm bệnh trở lại bằng cách không chăn lại vào đồng cỏ
đã nhiễm mầm bệnh trong 1 năm.
- Bồi dưỡng con vật ốm.
Skrjabin K.I và Petrov A.M (1963) [27] xác định, vấn đề chữa bệnh giun
xoăn dạ múi khế gia sóc nhai lại phụ thuộc vào các giai đoạn phát triển của ký sinh
vật. Khi thấy bệnh ở giai đoạn ba thì cần tiến hành chữa cho cả đàn, không phụ
thuộc vào mùa vụ nào. Khi thấy giai đoạn hai xuất hiện, cần phải chọn những con
ốm và những con nghi mắc bệnh ra để chữa, không phụ thuộc vào thời gian nào.
Khi thấy bệnh ở giai đoạn một thì tiến hành tẩy giun theo kế hoạch mùa thu và mùa

xuân, vào thời gian nuôi nhốt. Để chữa bệnh, dùng Phenothiazin, cho uống dưới
dạng viên lớn hoặc nước nhũ tương. Các chất để làm nhũ tương có thể là dung dịch
Gelatin 1%, bét bentonit.


21

Drozdz và Malcrewski (1967) [26] cho rằng, Phenothiazin là một trong
những thuốc căn bản nhất và thường được sử dụng để chống những bệnh do ký sinh
vật ở dạ dày, ruột gia sóc nhai lại. Thuốc này sử dụng dưới hình thức dung dịch
khơng bền vững trong nước, hoặc hình thức viên, nang, bánh.... nhưng thường dùng
trộn vào thức ăn, không cần nhịn ăn và dùng thuốc tẩy. Tác giả cho là Phenothiazin
tác dụng tốt hơn với giun Haemonchus, Trichostrongylus, nhưng với Cooperia và
Ostertagia thì thuốc có tác dụng yếu. Thuốc cũng có tác dụng khác nhau với các
giai đoạn phát triển khác nhau của giun. Nói chung, thuốc này tác dụng yếu với
giun chưa trưởng thành, điều đó dẫn đến sự cần thiết điều trị nhắc lại. Phenothiazin
tương đối Ýt độc, nhưng những lồi gia sóc nhai lại khác nhau phản ứng với thuốc
khác nhau. Dê nhạy cảm nhất với thuốc, bò Ýt nhạy cảm hơn, còn cừu lại chịu được
một liều tới 400g. Thuốc thải trừ theo đường mật, nước tiểu và sữa trong 48 giờ đầu
và kéo dài 3 - 5 ngày. Ngoài ra, các thuốc Ronnel, Trolen (liều 100 mg/kgTT) rất
hiệu nghiệm với Haemonchus.
Theo Trịnh Văn Thịnh và cs (1982) [22]; Phan Địch Lân và cs (1989) [14];
Phạm Văn Khuê và cs (1996) [7], có thể dùng các thuốc sau điều trị bệnh giun xoăn
dạ dày và ruột loài nhai lại:
- Phenothiazin: hiệu quả tốt, liều 0,2 g/kgTT (bị, trâu), 0,5 - 1 g/kgTT (dê,
cừu). Có thể trộn lẫn thuốc với nước cháo đun nóng, nồng độ 2,5 - 3%, cứ 100 ml
nước cháo trộn với 10 g thuốc.
- Dung dịch sulfat đồng 1% cũng có tác dụng với giun. Liều dùng:
Gia súc nhỏ: 15 - 20 ml/con
Gia súc trưởng thành: 80 - 150 ml/con

Đối với dê, dùng liều thấp hơn (dê lớn không quá 60 ml).
Đối với bê, dùng liều 2 - 3 ml/kgTT.
Trong thời gian chăn dắt người ta dùng liều thuốc nhỏ: sulfat đồng với muối
ăn, theo tỷ lệ 1: 100; sulfat đồng với Phenothiazin và muối, tỷ lệ 1: 5: 100 cho
ăn trong cả thời gian chăn dắt, nếu thời tiết nóng thì ngừng độ 2 - 4 tuần.
Khi pha sulfat đồng cần chú ý pha với nước cất hoặc nước mưa sạch, không
dùng dụng cụ kim loại, pha xong dùng ngay. Cho uống thuốc qua ống cao su một
đầu có phễu, khơng để thuốc lọt vào khí quản. Nếu con vật trúng độc, cho ăn trứng
gà hoặc uống 5 - 10 g Magie oxyt (MgO).


22

Jorgen Hansen và Brian Perry (1994) [30] cho biết, những loại thuốc có tác
dụng điều trị giun và cả Êu trùng giun trong cơ thể cừu là: Albendazole, Febantel,
Fenbendazole, Oxfendazole, Levamisole và Ivermectin.
Johannes Kaufmann (1996) [29] còng cho biết, những hố dược có tác dụng
diệt giun xoăn dạ dày - ruột ở trâu, bò và cừu: Albendazole, Febantel,
Fenbendazole, Ivermectin, Levamisol, Netobimin, Morantel tartrate, Oxfendazole.
Kieran P. J. (1994) [33] nghiên cứu và cho thấy, thuốc Moxidectin với liều chỉ
định là 0,2 mg/kgTT có thể tránh được một số chủng giun trịn ở loài nhai lại mà
những chủng này đã thể hiện sự kháng lại thuốc Ivermectin. Thuốc Moxidectin tá ra
có khả năng phòng chống tốt hơn với cả 3 giống giun phổ biến là Haemonchus,
Ostertagia và Trichostrongylus. Tác giả khuyến cáo, trong những chương trình điều
trị chiến lược, nên dùng Moxidectin để giảm những rủi ro về sự tăng khả năng
kháng lại thuốc của giun.
Theo Nguyễn Phước Tương (1994) [23], thuốc có tác dụng điều trị
Trichostrongylidosis (tác dụng với cả giun trưởng thành và còn non, đồng thời làm
giảm sức sống của trứng giun trước khi bài xuất ra ngoài), gồm:
- Albendazole


: liều 5 - 10 mg/kgTT. Cho uống dạng nhũ tương dầu.

- Asuntol

: liều 8 mg/kgTT. Cho uống.

- Fenbendazole

: liều 5 mg/kgTT. Cho uống

- Levamisole

: liều 7,5 mg/kgTT. Cho uống.

- Mebendasole

: liều 15 - 20 mg/kgTT. Cho uống

- Mebenvet

: liều 150 - 200 mg/kgTT. Cho uống.

- Oxfendazole

: liều 5 mg/kgTT. Cho uống.

- Oxibendazole

: liều 10 - 15 mg/kgTT. Cho uống.


Phạm Khắc Hiếu và Lê Thị Ngọc Diệp (1997) [5] cho biết: Phenothiazin,
Thiabendazole, Tetramisole... là những thuốc có hiệu quả tẩy giun xoăn ký sinh ở dạ dày
ruột loài nhai lại rất tốt. Phenothiazin có tác dụng tốt với giun trưởng thành nhưng tác
dụng yếu với Êu trùng và giun non. Do đó, sau 4 tuần cần điều trị lại. Dùng liều không
quá 20 - 25 gam/lần. Nếu dùng quá liều và kéo dài làm cho con vật bị thiếu máu, bỏ ăn,
thiếu sắc tố trên da và dẫn tới viêm hố sừng (Keratitis). Thiabendazole là thuốc tương
đối mới, có tác dụng rất tốt với giun Haemonchus, Ostertagia, Trichostrongylus,
Cooperia.... Có thể dùng liều chung là 50 - 100 mg/kgTT. Thuốc Tetramisole có hiệu lực


23

tẩy với cả giun trưởng thành và Êu trùng, cho uống liều 15 mg/kgTT hoặc tiêm dưới da
dung dịch 3 - 10%.
Dùng thuốc tẩy giun xoăn dạ múi khế cho dê, Nguyễn Thị Kim Lan (2000) [9]
đã báo cáo kết quả như sau: Thuốc Niclosamid - tetramisole B (liều 66 mg/kgTT),
Oxfendazole (liều 5 mg/kgTT), Levamisole (liều 7 mg/kgTT), Mebenvet (liều
130 mg/kgTT) và Vermitan (liều 35 mg/kgTT) có hiệu lực tẩy sạch giun xoăn
dạ múi khế tương ứng là: 97,14%; 100%; 97,5%; 96,77% và 96,67%.
*Vấn đề phòng bệnh
Theo quan điểm của Skrjabin K.I (1944) muốn diệt trừ bệnh giun sán, phải
dự phịng có tính chất chủ động: dùng tất cả các phương pháp cơ giới, vật lý (ánh
sáng, độ nóng), hố học (thuốc), sinh vật học (sinh vật nọ tiêu diệt sinh vật kia) để
tiêu diệt giun sán trên cơ thể ký chủ, tiêu diệt giun sán ở ngoại cảnh, tiêu diệt giun
sán ở tất cả các giai đoạn phát dục (trứng, Êu trùng, giun sán trưởng thành).
Trên cơ sở đó, việc phòng bệnh giun xoăn dạ múi khế phải đạt được các yêu
cầu sau:
- Điều trị cho con vật ốm khỏi bệnh và đảm bảo cho ngoại cảnh không bị
nhiễm mầm bệnh, tránh mầm bệnh nhiễm vào các con vật khác. Sau khi tẩy phải

diệt trừ tất cả giun và trứng được thải ra ngoài để ngăn ngừa mầm bệnh phát tán.
- Định kỳ dùng thuốc tẩy giun xoăn dạ múi khế, chống tái nhiễm, bội nhiễm.
- Tập trung phân để xử lý diệt mầm bệnh.
Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [17] đã vận dụng học thuyết Skrjabin.K.I để đưa
ra biện pháp phòng chống các bệnh giun sán. Tác giả cho rằng, biện pháp hữu hiệu
để phòng chống các bệnh giun sán ở gia súc là biện pháp phòng chống tổng hợp,
nghĩa là ở những vùng sinh thái nhất định đồng thời sử dụng nhiều biện pháp có
hiệu quả đối với tất cả các giai đoạn phát triển của giun sán ở môi trường cũng như
trong cơ thể ký chủ.
Nh vậy, khâu quan trọng trong biện pháp phòng chống tổng hợp là tẩy giun
xoăn dạ múi khế cho gia sóc nhai lại. Có thể tẩy giun cịn non và giun trưởng thành.
Nhưng thực tế trong điều kiện khí hậu nóng Èm của Việt Nam, mầm bệnh giun
xoăn dạ múi khế hầu nh tồn tại và phát triển quanh năm. Vì thế, trong cùng một cơ
thể động vật, đồng thời tồn tại nhiều cá thể giun ở các giai đoạn phát triển khác
nhau. Tuy vậy, tốt nhất là chọn loại thuốc tẩy được cả giun non, nghĩa là khi chúng


24

chưa đạt đến giai đoạn trưởng thành, để tránh mầm bệnh phát tán ra mơi trường
ngồi.
Nguyễn Thị Lê (1996) [17] khuyến cáo rằng, để tẩy giun đạt hiệu quả cần
biết một số u cầu sau: chẩn đốn bệnh chính xác; trước tiên phải tẩy cho những
con vật bị nhiễm nặng hoặc có biểu hiện lâm sàng; với mục đích phịng bệnh thì nên
tẩy cho cả đàn gia súc vì có thể có những gia súc đang mang mầm bệnh nhưng chưa
phát hiện được; tốt nhất nên tẩy giun vào mùa xuân (tháng 3 - 4) và mùa thu (tháng
8 - 9); khi tẩy phải nhốt gia sóc trong chuồng 3 - 5 ngày để tập trung phân ủ diệt
mầm bệnh; sau 15 - 20 ngày kiểm tra để đánh giá hiệu quả của thuốc.
Để phòng chống bệnh giun xoăn dạ múi khế có hiệu quả, đồng thời với việc
tẩy giun phải sử dụng các biện pháp sau:

- Chuồng nuôi gia súc phải giữ sạch sẽ, khơ ráo, vì đây là nơi tiếp xúc
thường xuyên với mầm bệnh.
- Bãi chăn thả có ý nghĩa lớn trong việc phịng chống bệnh giun sán vì động
vật bị nhiễm bệnh giun sán chủ yếu ở bãi chăn. Bãi chăn Èm thấp, có nước là điều
kiện thuận lợi đối với sự phát triển của giun sán. Vì vậy nên chăn thả gia súc ở các
bãi cỏ khơ ráo. Nếu có điều kiện, nên sử dụng luân canh, luân phiên đồng cỏ trong
chăn nuôi để giảm bớt các bệnh giun sán.
- Xử lý phân gia súc để diệt trứng và Êu trùng giun xoăn dạ múi khế, làm
môi trường sạch hơn. Hàng ngày dọn phân và rác ở chuồng nuôi tập trung vào một
nơi, vun thành đống (cao và rộng 1,5 - 2m), đắp đất kín dày 20 - 30 cm, để sau 3 - 4
tuần, nhiệt độ đống ủ tăng lên 60 - 70 0C sẽ làm chết trứng và Êu trùng. Có thể cho
thêm tro bếp, vôi và lá xanh vào để tăng thêm nhiệt độ đống ủ.
- Đảm bảo nguồn thức ăn đủ về số lượng và chất lượng. Tốt nhất nên dùng
các loại cỏ trồng trên cạn, xa nơi chăn thả và chuồng nuôi làm thức ăn cho gia súc.
Bổ sung thêm các loại thức ăn giàu vitamin, nguyên tố vi lượng.
- Cho gia súc uống nguồn nước sạch.
Các tác giả Skrjabin K.I (1963) [27];Trịnh Văn Thịnh (1963) [20]; Soulsby
(1982) [34]; Trịnh Văn Thịnh và cs (1982) [22]; Phan Địch Lân và cs (1989) [14];
Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) [7]; Urquhart và cs (1996) [36]; Nguyễn Thị Kim
Lan (2000) [9] đều thống nhất áp dụng các biện pháp phòng trừ tổng hợp như:
- Định kỳ dùng thuốc tẩy giun.


25

- Tập trung phân để ủ diệt trứng và Êu trùng giun.
- Không chăn thả súc vật nhai lại ở những bãi chăn Èm thấp.
- Không cho súc vật nhai lại uống nước vũng tù có nhiều Êu trùng gây nhiễm.
- Thực hiện chăn thả luân phiên đồng cỏ để phòng bệnh.
Trong các biện pháp trên, biện pháp tẩy giun trước khi chúng trưởng thành

có tác dụng phịng bệnh rất tốt. Phenothiazin - mét trong những thuốc có tác dụng
ức chế giun trưởng thành đẻ trứng và tẩy cả giun non - được khuyên là nên dùng để
tẩy mang tính chất phịng bệnh cho gia sóc nhai lại. Trong thời gian chăn thả, mỗi
ngày cho uống thuốc một lần để phịng bệnh. Có thể dùng thuốc theo tỷ lệ:
Phenothiazin 10 phần, bột gạo 20 phần, bột xương 10 phần, muối ăn 60 phần. Ngồi
ra, có thể thêm một số ngun tố vi lượng nh đồng, coban, iot... Trộn lẫn những thứ
trên, cho thêm một Ýt nước cháo, làm thành viên, phơi khô, cho vào máng ăn, để
súc vật tự gặm (chú ý là nếu viên thuốc bị Èm ướt, súc vật ăn q nhiều có thể bị
trúng độc).
Ngồi ra, người ta còn tiêm vắcxin chế từ Êu trùng giun xoăn thuộc họ
Trichostrongylidae đã được làm giảm độc bằng chiếu tia X để phòng bệnh cũng cho
hiệu quả tốt (Jarret, 1959).
2.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngồi nước

2.2.1. Tình hình nghiên cứu bệnh giun xoăn dạ múi khế ở nước ngoài
Bệnh giun xoăn dạ múi khế phổ biến khắp các nước trên thế giới, gây tổn hại
lớn cho ngành chăn ni. Chính vì vậy có rất nhiều nhà nghiên cứu đã nghiên cứu về
tác hại của bệnh này, đồng thời đưa ra các biện pháp phòng và trị cho gia sóc nhai lại.
Theo Soulsby E.J.L (1982) [34], nhìn chung sự phát triển của các loài giun
xoăn họ Trichostrongylidae ở giai đoạn sống tự do (ở ngoài ngoại cảnh) phụ thuộc
vào điều kiện khí hậu. Ở nước Anh, Êu trùng có thể phát triển đến giai đoạn gây
nhiễm trong 2 tuần, nhưng thường thì dài hơn và phụ thuộc vào khí hậu trong thời
gian đồng cỏ ơ nhiễm. Trâu, bị nhiễm giun vào tất cả các tháng trong năm, nhưng
nhiễm nhiều và nặng hơn ở những tháng mùa Hè Êm và Èm.
Wharton D.A (1982) [38] báo cáo rằng, Êu trùng Trichostrongylus colubriformis
phát triển qua 4 - 6 ngày ở nhiệt độ 270C thành Êu trùng gây nhiễm. Nhiệt độ tối thiểu để
Êu trùng có thể tồn tại là 10 – 150C. Chúng phát triển nhanh nhất trong mùa Hè, Êu trùng
không thể sống được ở nhiệt độ cao và thấp quá.



×