Tải bản đầy đủ (.docx) (67 trang)

Luận văn thạc sĩ nghiên cứu khả năng tích lũy carbon của cây chè trong mô hình nông lâm kết hợp chè rừng tại xã yên ninh, huyện phú lương, tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (900.49 KB, 67 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

MA CÔNG HÙNG

NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG TÍCH LŨY CARBON CỦA CÂY CHÈ
TRONG MÔ HÌNH NÔNG LÂM KÉT HỢP CHÈ - RỪNG TẠI
XÃ YÊN NINH - HUYỆN PHÚ LƯƠNG - TỈNH THÁI NGUYÊN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo
Chuyên ngành
Khoa Khóa
học

CHÍNH QUY
LÂM NGHIỆP
LÂM NGHIỆP
2011 - 2015

THÁI NGUYÊN - 2015


MA CÔNG
HÙNG
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG TÍCH LŨY CARBON CỦA CÂY CHÈ
TRONG MÔ HÌNH NÔNG LÂM KẾT HỢP CHÈ - RỪNG TẠI
XÃ YÊN NINH - HUYỆN PHÚ LƯƠNG - TỈNH THÁI NGUYÊN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC



Hệ đào tạo
Chuyên ngành

: CHÍNH QUY :
LÂM NGHIỆP :

Lớp Khoa
Khóa học

K43 - LN - N01 :
LÂM NGHIỆP :

2011 - 2015
Giảng viên hướng dẫn: 1. TS. Nguyễn Thanh Tiến
2. Th.S Nguyễn Đăng Cường


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của bản thân
em. Các số liệu và kết quả nghiên là quá trình điều tra trên thực địa hoàn toàn
trung thực, chưa công bố trên các tài liệu, nếu có gì sai em xin chịu hoàn toàn
trách nhiệm.
Thái Nguyên, ngày 30 tháng 05 năm 2015

XÁC NHẬN CỦA GVHD

NGƯỜI VIẾT CAM ĐOAN

Đồng ý cho bảo vệ kết quả

trước Hội đồng khoa học!

TS: Nguyễn Thanh Tiến Ma Công
Hùng

XÁC NHẬN CỦA GIÁO VIÊN CHẤM PHẢN BIỆN
Giáo viên chấm phản biện xác nhận sinh viên đã sửa chữa sai sót
sau khi Hội đồng chấm yêu cầu!
(Ký, họ và tên)

LỜI CẢM ƠN

Sau khi học tập và nghiên cứu tại trường Đại học nông lâm Thái Nguyên,
em đã trang bị cho mình lượng kiến thức chuyên môn vững vàng cùng với
những kỹ năng
cần thiết
dưới sự giảng
dạy và
chỉ bảo
tận tình của toàn thể thầy cô
giáo. Đe củng cố lại những khiến thức đã học cũng như làm quen với công
việc ngoài thực tế, đúng với học đi đôi với hành thì việc thực tập tốt nghiệp là
một giai đoạn rất quan trọng, tạo điều kiện cho sinh viên cọ sát với thực tế
nhằm củng cố lại kiến thức đã tích lũy được trong nhà trường đồng thời nâng
cao tư duy hệ thống lý luận để nghiên cứu ứng dụng một cách có hiệu quả


những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn sản xuất, xây dựng phong cách
làm việc khoa học.
Xuất phát từ nguyện vọng của bản thân, được sự nhất trí của nhà trường,

Ban Chủ nhiệm khoa Lâm Nghiệp, sự hướng dẫn trực tiếp của thầy giáo TS.
Nguyễn Thanh Tiến và thầy giáo Th.S. Nguyễn Đăng Cường em tiến hành
nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu khả năng tích lũy carbon của cây Chè trong
mô hình Nông lâm kết hợp Chè - Rừng tại xã Yên Ninh, huyện Phú Lương,
tỉnh Thái Nguyên”. Trong thời gian nghiên cứu đề tài, được sự giúp đỡ, chỉ
bảo tận tình của thầy giáo TS. Nguyễn Thanh Tiến và thầy giáo giáo Th.S.
Nguyễn Đăng Cường, các thầy cô giáo trong khoa cùng với sự phối hợp giúp
đỡ của các ban ngành lãnh đạo UBND xã Yên Ninh và người dân, em đã hoàn
thành khóa luận đúng thời hạn. Qua đây em xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc
nhất đến các thầy cô giáo trong khoa Lâm Nghiệp, đặc biệt là thầy giáo TS.
Nguyễn Thanh Tiến và thầy giáo Th.S Nguyễn Đăng Cường người đã trực
tiếp hướng dẫn em trong suốt quá trình thực hiện khóa luận. Bên cạnh đó em
xin cảm ơn đến các ban ngành lãnh đạo, bà con xã Yên Ninh đã tạo điều kiện
giúp em hoàn thành khóa luận.
Do trình độ chuyên môn và kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế do vậy
khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót. Em kính mong nhận được sự giúp
đỡ của các thầy cô giáo cùng toàn thể các bạn đồng nghiệp để khóa luận này
được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày..... tháng..... năm 2015
Sinh viên
Ma Công Hùng


NLKH
ICRAF

Nông lâm kết hợp
International Centre for Research in Agroforestry (Trung tâm


FAO

nghiên cứu quốc tế về Nông lâm kết hợp)
Food and Agriculture Organization (Nông lương liên hợp quốc)

CDM

Clean Development Mechanism (Cơ chế phát triển sạch)

CIFOR

Center for International Forestry Research (Trung tâm nghiên cứu
nghiệp quốc tế)

REDD

Reducing Emissions from Deforestation and Forest Degradation

UBND

(Giảm phát thải từ suy thoái rừng và mất rừng)
Ủy ban nhân dân xã

OTC

Ô tiêu chuẩn

SKK

Sinh khối khô


SKT

Sinh khối tươi

VNĐ

Đơn vị tiền tệ Việt Nam

USD

Đơn vị tiền tệ Hoa Kỳ

C

Carbon

CO2

Carbondioxit

KNK

Khí nhà kính
MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN................................................................................................

4.4.1. Phân tích giá trị kinh tế môi trường hấp thụ CO2 của cây chè trong
5.1.................................................................................................................

TÀI LIỆU THAM KHẢO


6

PHẦN 1
MỞ
ĐẦU
1.1.

Đặt vấn đề

Hiện nay biến đoi khí hậu đang là vấn đề nóng bỏng trên toàn cầu nó đang
đe dọa nghiêm trọng đến lợi ích sống còn của nhiều dân tộc trên khắp hành
tinh. Con người đang phải đối mặt với những tác động của biến đổi khí hậu
như: Dịch bệnh đói nghèo, mất nơi ở, thiếu đất canh tác, sự suy giảm đa dạng
sinh học, xói mòn đất thêm trầm trọng do sản xuất nông nghiệp độc canh trên
đất dốc,

làm cho năng suất cây trồng ngày càng giảm, đất đai và môi

trường ngày càng suy thoái trầm trọng kéo theo đời sống của người dân càng
gặp khó khăn. Chính vì vậy, để đáp ứng nhu cầu về lương thực - thực phẩm cho
người dân đồng thời phải giữ gìn môi trường sinh thái đảm bảo tính bền vững
ổn định sản xuất. Phương thức canh tác Nông lâm kết hợp là một hướng giải
quyết hiệu quả mâu thuẫn trên, thông qua đó đảm bảo an ninh lương thực miền
núi đồng thời phát triển bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Mô hình
Nông lâm kết hợp mang lại nhiều lợi ích bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi
trường: Giảm dòng chảy bề mặt và xói mòn đất, duy trì độ mùn và cải thiện lý
tính của đất và phát huy chu trình tuần hoàn dinh dưỡng, tăng hiệu quả sử dụng

dinh dưỡng của cây trồng và vật nuôi; NLKH tận dụng đất có hiệu quả nên làm
giảm nhu cầu mở rộng đất nông nghiệp bằng khai hoang rừng. Theo kết quả đã
nghiên cứu luận án tiến sĩ nông nghiệp Đàm Văn Vinh (2011) [14] đánh giá
hiệu quả một số mô hình NLKH tại huyện Võ Nhai đề tài đã định lượng được
hiệu quả của 6 hệ thống hệ thống Nông lâm kết hợp: Hiệu quả kinh tế
nhất

cao

là hệ thống Rừng - chè - ruộng đạt 13.892,000

(triệu VND/ha/năm), thấp nhất là hệ thống Rừng - ruộng tổng thu nhập chỉ đạt


7

4,482 (triệu VND/ha/năm). Vì thế sản xuất NLKH không những đem lại hiệu
quả kinh tế cao cho người dân vùng núi mà còn tạo công ăn việc làm, đồng thời
còn có tác dụng bảo vệ môi trường sinh thái, góp phần sử dụng đất theo hướng
bền vững. Nghiên cứu khả năng tích lũy carbon cây chè để xác định giá trị kinh
tế đối với mô hình NLKH mà cây chè mang lại, nhằm bảo vệ môi trường sinh
thái của rừng trong mô hình NLKH là một hướng nghiên cứu mới cần quan
tâm. Kết quả những nghiên cứu mang tính định lượng này sẽ là cơ sở để xác
định giá trị chi trả cho các hộ gia đình canh tác mô hình NLKH. Ngoài giá trị
sản phẩm thu nhập từ chè mang lại hiệu quả kinh tế cho người dân trồng chè,
còn là cơ sở quan trọng đề xuất chi trả dịch vụ môi trường rừng cho mô hình
Nông lâm kết hợp, đề cao giá trị môi trường của mô hình.
Phú Lương là huyện miền núi, nằm ở vùng phía Bắc của tỉnh Thái
Nguyên, địa hình tương đối bằng phang là điều kiện thuận lợi để phát triển
Nông - Lâm Nghiệp. Nếu như nhìn ở khía cạnh làng nghề về chè thì Phú Lương

là huyện có số làng nghề nhiều nhất tỉnh, đến nay huyện có 18 làng nghề sản
xuất, chế biến chè. về tong diện tích chè thì Phú Lương là huyện đứng thứ 2
toàn tỉnh với gần 4.500 ha tập trung chủ yếu chủ yếu ở các xã: Tức Tranh, Vô
Tranh, Yên Ninh, Sơn Cẩm, Phú Đô... Trong đó, diện tích chè kinh doanh
chiếm 4.300 ha. Hằng năm bà con trong huyện sản xuất được trên 30 nghìn tấn
chè búp cung cấp

cho thị trường cả nước người dân nhận thức

được điều này và từng bước áp dụng xây phương thức canh tác mô hình Nông
lâm kết hợp mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Yên Ninh là xã miền núi phía Bắc của huyện Phú Lương, trước đây được
biết đến là xã có diện tích rừng khá thấp tuy nhiên hiện nay diện tích rừng và
đất rừng của toàn xã đã tăng lên đáng kể nhờ áp dụng mô hình canh tác Nông
lâm kết hợp. Cụ thể là mô hình Nông lâm kết hợp “chè - rừng” được trồng khá


8

phổ biến trên địa bàn xã, để đánh giá được giá trị thực tế của cây chè trồng
trong mô hình Nông lâm kết hợp “chè - rừng”, đồng thời qua đó có thể lượng
giá giá trị môi trường mà mô hình mang lại, chủ yếu là lượng CO 2. Nghiên cứu
khả năng tích lũy carbon của cây chè trong mô hình Nông lâm kết hợp là một
hướng nghiên cứu mới cần được quan tâm.
Xuất phát từ những vấn đề trên tôi tiến hành thực hiện đề tài “Nghiên
cứu khả năng tích luỹ carbon của cây Chè trong mô hình Nông lâm kết hợp
Chè - Rừng tại xã Yên Ninh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên”.
1.2.

Mục tiêu nghiên cứu


1.2.1.

Mục tiêu về lí luận

Góp phần xây dựng luận cứ khoa học cho việc định lượng giá trị môi
trường rừng trong mô hình Nông lâm kết hợp tại xã Yên Ninh, huyện Phú
Lương, tỉnh Thái Nguyên nói riêng và định giá rừng Việt Nam nói chung.
1.2.2.
Mục tiêu thực tiễn
-

Xác định được một số đặc điếm của mô hình NLKH Chè - Rừng tại xã
Yên Ninh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên.

-

Xác định lượng carbon tích lũy ở cây chè trong mô hình Nông lâm kết
hợp Chè - Rừng tại xã Yên Ninh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên.

-

Đề xuất phương pháp xác định lượng carbon tích lũy trong hệ thống mô
hình Nông lâm kết hợp tại khu vực nghiên cứu và ước tính giá trị môi
trường thông qua lượng CO2 hấp thụ.

1.3.
1.3.1.

Ý nghĩa của đề tài

Ý nghĩa học tập và nghiên cứu

Quá trình nghiên cứu đề tài củng cố cho sinh viên những kiến thức đã học
trên lớp vào thực tiễn, giúp cho sinh viên làm quen dần với thực tế sản xuất.
Sau khi hoàn thành đề tài sinh viên có thế học được các phương pháp, kĩ năng


9

trong lập kế hoạch, phân bo thời gian, viết báo cáo, phân tích số liệu... Đây là
những vấn đề cơ bản cần thiết cho công việc sau khi ra trường.
1.3.2.

Ý nghĩa trong thực tiễn sản xuất

Con người chúng ta đang sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên
khoáng sản cũng như chất đốt của con người làm cho nồng độ CO2
ngày càng tăng nhanh. Nghiên cứu này giúp ta biết ảnh hưởng CO2
đến môi trường và tác dụng của cây chè hấp thụ CO2, lượng carbon
tích lũy của cây chè trong mô hình NLKH từ đó làm cơ sở để thu phí
môi trường và định hướng phát triển nên Lâm nghiệp sạch.


PHẦN 2
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
2.1.

Cơ sở khoa học của nghiên cứu

2.1.1.


Công ước liên hợp quốc về biến đổi khí hậu

Biến đoi khí hậu là vấn đề toàn cầu, thách thứ nghiêm trọng đối với toàn
nhân loại

trong thế kỉ 21. Làm tổn hại đến môi trường sống như ngập lụt,

nước bien dâng cao, thay đổi khí hậu, gia tăng các loại bệnh tật...(WWF).
Nguyên nhân chính làm biến đổi khí hậu trái đất mạnh mẽ là do sự gia tăng hoạt
động

của con người tạo ra các chất khí thải nhà kính, khai thác quá

mức. Nhận thức được tầm quan trọng về biến đổi khí hậu nhiều nước trên cộng
đồng quốc tế nói chung và Việt Nam nói riêng đã có những nỗ lực nhằm ngăn
chặn và giảm thiểu biến đổi khí hậu.
Để chống lại sự biến đổi khí hậu mà tác động của nó đến loài người và hệ
sinh thái trên trái

đất, năm 1992 tại hội nghị thượng đỉnh trái đất ở Rio de

janeiro cộng đồng quốc tế đã thỏa thuận và ban hành công ước khung Liên Hợp
Quốc (UNFCCC) về biến đổi khí hậu. Đến tháng 9/2011 có 191 nước và đại diện
chính phủ các nước tham gia kí kết (chiếm 61,1% lượng khí thải từ các nước
Annex). Với mục tiêu đặt ra nhằm “Cân bằng lại lượng khí thải trong môi trường
ở mức độ có thể ngăn chặn những tác động nguy hiểm cho sự tồn tại và phát
triển của con người vốn chịu ảnh hưởng sâu sắc của môi trường”.
Nghị định thư Kyoto đưa ra vào năm 1997 ở Kyoto Nhật Bản, sau đó chính
thức


có hiệu lực 16/02/2005, với cam kết 39 nước công nghiệp cắt

giảm 5,2% lượng khí thải nhà kính (so với năm 1990) trong vòng năm 2008 2012 (giai đoạn 1), dự định giai đoạn cam kết thứ 2 của nghị định thư bắt đầu
2013 - 2020.


2.1.2.

Thị

trường
carbon
2.Ỉ.2.Ỉ. Thị
trường
carbon
Thị trường carbon được tạo ra từ việc những to chức hoặc cơ chế tài chính
trao đổi các khoản hạn ngạch carbon (CO 2), để khuyến khích hoặc giúp các quốc
gia và các công ty hạn chế lượng giác thải của họ. Thị trường carbon được xem
là công cụ chính để giảm phát thải CO 2, một trong 6 loại khí gây hiệu ứng nhà
kính CO2 (Carbon dioxit), NO2 (Oxit nitơ), CH4 (Meetan), HFCs (Hydroíluo),
PFCs (Períluoro carbon), SF6 (Sunfua hexaíluorit). Thị trường carbon vận hành
theo mô hình một sở dao dịch hàng hóa và cơ chế khớp lệch giao dịch, khớp mức
giá tương tự như với mô hình của một sàn giao dịch chứng khoán. Vai trò gây
nên hiệu ứng nhà kính của các chất khí được xếp thứ tự theo tỉ lệ được trình bày
trong bảng sau:
Bảng 2.1. Tỉ lệ đóng góp gây hiệu ứng nhà kính của các loại khí
trong khí quyển
Các loại chất khí
Tỷ lệ (%) gây hiệu ứng

NO2
O3
CH4

5
8
12-20

CFC

15-25

CO2

50-60

-------------------------------^------------------------------------------------------------------------------------------------------—---------------------------------------------------------------------------

(Nguồn: Md. Mahmudur Rahman, 2004)

Tại London tháng 8 năm 2011 thị trường mua bán về chỉ tiêu phát thải khí
nhà kính đã được khai trường. Tại thị trường này sẽ có 6 lại khí nhà kính sẽ được


giao dịch trong đó quan trọng nhất là khí CO2.
Hiện Việt Nam đang tham gia vào thị trường carbon thông qua các dự án
cơ chế phát triển sạch (CDM). Theo đó, chiến lược của Việt Nam khi tham gia
thị trường carbon sau năm 2020 đó là: Xây dựng các dự án giảm phát thải
cho thị trường carbon tự nguyện; xây dựng kế hoạch hành động giảm phát
thải khí nhà kính phù hợp với điều kiện quốc gia (NAMA), trong đó sẽ đánh giá

tiềm năng giảm phát thải khí nhà kính của Việt Nam; xây dựng hoàn thiện khung
chính sách cho hoạt động kinh doanh và xây dựng các dự án carbon tại Việt
Nam. Còn về chính sách hỗ trợ, Việt Nam có các chính sách khuyến khích đầu
tư: Chính sách hướng dẫn quản lý hoạt động kinh doanh tín chỉ carbon, nâng cao
năng lực quy định đo đạc, báo cáo kiểm chứng (MRV) cũng như chuẩn bị
sàng cho

sẵn

Việt Nam tham gia hội nhập sâu hơn vào thị

trường carbon toàn cầu.
Việt Nam đã phê duyệt 105 dự án CDM và 15 dự án CDM được quốc tế
công nhận. Các dự án này đã đem lại những hiệu quả rõ rệt. Kết quả thu được từ
các dự án CDM ở nước ta trong thời gian qua là hết sức thiết thực. Điển hình là
dự án tăng hiệu quả sử dụng năng lượng trong lĩnh vực nồi hơi công nghiệp và
dự án thu gom khí đồng hành mỏ Rạng Đông của nhà thầu JVPC (Nhật). Dự án
trong lĩnh vực nồi hơi công nghiệp có mục tiêu giảm tiêu thụ năng lượng của nồi
hơi công nghiệp, nâng cao hiệu suất nồi hơi với chi phí đầu tư thấp, nhờ đó giảm
phát thải khí CO trong lĩnh vực công nghiệp. Kết quả cụ thể thu được từ dự án
2

này là giảm được khoảng 150 nghìn tấn CO2 mỗi năm, nhờ tăng được hiệu suất
trung bình của nồi hơi công nghiệp từ 45% lên 60%.
Bên cạnh các hoạt động đó, trong những năm gần đây Việt Nam đã có
những nỗ lực thực hiện một số nghiên cứu về vấn đề biến đổi khí hậu và CDM,
qua đó đã thu được một số dẫn liệu quan trọng như sau:
+ Các nguồn KNK chính ở Việt Nam là năng lượng, nông nghiệp, thay đổi



sử dụng đất và lâm nghiệp (trong đó thay đổi sử dụng đất là 50,5% và lâm
nghiệp là 18,7% tổng phát thải quốc gia). Theo kết quả kiểm kê KNK quốc gia
năm 1994 ở Việt Nam, tổng phát thải KNK là 103,8 triệu tấn CO 2, bình quân
khoảng 1,4 tấn/người/năm.
+ Các kết quả nghiên cứu chiến lược quốc gia về CDM, trong lĩnh vực thay
đoi sử dụng đất và lâm nghiệp, thì tiềm năng hấp thụ KNK của rừng vào khoảng
52,2 triệu tấn CO2 với chi phí giảm thấp dao động từ 0,13 USD/tấn CO2 - 2,4
USD/tấn CO2, trong khi chi phí giảm thấp CO 2 trong lĩnh vức năng lượng giao
động từ 22,3 USD/tấn - 154,22 USD/tấn CO2.
Do thị trường mua bán giảm phát thải KNK còn quá mới mẻ, các doanh
nghiệp còn thiếu thông tin về thị trường này, do

đó mặc dù tiềm năng thị

trường Việt Nam là rất lớn nhưng còn quá ít các doanh nghiệp tham gia. Đã đến
lúc nhà nước phải phổ biến rộng rãi hơn, cung cấp nhiều thông tin hơn cho các
nhà doanh nghiệp để họ có thể cân nhắc khi tham gia thị trường.
Đến nay có thể nói rằng hành trình của Việt Nam trên con đường tuân thủ
công

ước của Liên Hợp Quốc về thay đổi khí hậu, nghị định thư Kyoto

nói chung và cơ chế phát triển sạch nói riêng mới chỉ bắt đầu. Nhưng với những
thành công bước đầu, với những cơ chế, chính sách đã và đang xây dựng và
những nguồn lực sẵn có sẽ giúp Việt Nam thành công hơn nữa trong các dự án
CDM, vững bước hơn trên con đường hướng tới một quốc gia tăng trưởng về
kinh tế, phát triển về xã hội và bền vững về môi trường.
2.I.2.2.

Nghị định thư Kyoto


Hoạt động của thị trường các carbon được hỗ trợ bởi 3 cơ chế chính trong
nghị định thư Kyoto cũng mở ra cơ sở mới với các “cơ chế giao dịch và các loại
hàng hóa trên thị trường carbon”. Nghị định thư gồm 3 cơ chế: Kinh doanh phát
thải (IET), cơ chế phát triển sạch (CDM) và cơ chế cùng thực hiện (JI). Cơ chế
này đóng vai trò rất quan trọng đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt
Nam. Có 2 phương thức CDM, đó là CDM cho giảm khí nhà kính (CDM thông


thường hay CDM năng lượng) và CDM cho hấp thụ khí nhà kính bằng các bể
hấp thụ (trồng rừng/tái trồng rừng theo CDM hay AR - CDM). Tại điều 12 của
nghị định thư Kyoto, cho phép khu vực chính phủ và khu vực tư nhân của các
nước công nghiệp hóa thực hiện các dự án giảm phát thải tại các nước đang phát
triển và nhận được tín dụng dưới dạng “chứng nhận giảm phát thải” (CERs).
CDM thúc đẩy phát triển bền vững góp phần vào mục tiêu giảm nồng độ khí nhà
kính trong khí quyển.
Ở Việt Nam chiến lược quốc gia về biến đoi khí hậu vừa được Thủ
tướng phê duyệt tại Quyết định số 2139/QĐ - TTg ngày 5/12/2011. Quyết định
nêu rõ, biến đổi khí hậu là thách thức nghiêm trọng nhất đối với toàn nhân loại,
ảnh hưởng sâu sắc và làm thay đổi toàn diện đời sống xã hội toàn cầu. Là một
trong những nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất, Việt Nam coi ứng phó với biến
đổi khí hậu là vấn đề có ý nghĩa sống còn. Bốn mục tiêu cụ thể của chiến lược
được xác định là: (i) Đảm bảo an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh
nguồn nước, xóa đói giảm nghèo, bình đẳng giới, an sinh xã hội, sức khỏe cộng
đồng, nâng cao đời sống, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên trong bối cảnh biến đổi
khí hậu; (ii) nền kinh tế carbon thấp, tăng trưởng xanh trở thành xu hướng chủ
đạo trong phát triển bền vững; (iii) nâng cao nhận thức, trách nhiệm và năng lực
ứng phó với biến đổi khí hậu của các bên liên quan, phát triển tiềm lực khoa học
và công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực, hoàn thiện thể chế, chính sách, tận
dụng các cơ hội từ biến đổi khí hậu để phát triển kinh tế - xã hội; (iv) góp phần

tích cực với cộng đồng quốc tế trong ứng phó với biến đổi khí hậu. Trong bối
cảnh tác động của biến đổi khí hậu đến nước ta ngày càng gia tăng, đàm phán
quốc tế về biến đổi khí hậu ngày càng diễn biến phức tạp, định hướng các giai
đoạn thực hiện chiến lược được xác định như sau:
- Giai

đoạn

từ

nay

tới

2012: Các hoạt động thích

ứng cấp bách, không
thể trì hoãn cần phải được triển khai thực hiện. Quá trình đàm phán quốc tế về


giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và các cơ chế hỗ trợ tài chính giữa các nhóm
nước trên thế giới còn đang diễn ra phức tạp. Trong giai đoạn này cần chú
trọng các hoạt động nâng cao năng lực, tăng cường khoa học - công nghệ và rà
soát, điều chỉnh, bổ sung các cơ chế, chính sách, chiến lược tăng trưởng xanh,
thích ứng với biến đối khí hậu và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính phù hợp với
hoàn cảnh quốc tế sẽ được khẳng định rõ ràng hơn sau năm 2012.
-

Giai đoạn 2013 - 2025: Với định hướng cơ bản trở thành một nước công
nghiệp phát triển theo hướng hiện đại, theo dự tính sau năm 2025 Việt

Nam phải đặc biệt quan tâm đến vấn đề giảm phát thải khí nhà kính để
bảo vệ hệ thống
ứng

khí hậu trái đất.

với biến đối khí

Các hoạt

động

thích

hậu và

giảm nhẹ phát thải khí nhà kính được đồng thời tiến hành gắn liền với phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước.
-

Giai đoạn 2026 - 2050: Trong giai đoạn này, Việt Nam đã trở thành một
nước công nghiệp hiện đại, giảm phát thải khí nhà kính trở thành tiêu chí
trong các

hoạt động

phát

triển kinh tế


Các nhiệm vụ chiến

lược

sẽ

-



hội.

được rà soát, điều chỉnh, bố sung với định hướng phát triển mới nhằm xây dựng
và củng cố nền kinh tế carbon thấp có khả năng chống chịu và thích ứng cao với
các tác động của biến đối khí hậu.
Như vậy Nghị định thư Kyoto và cơ chế CDM mang lại nhiều tiềm năng
lớn cho các nước đang phát triển, thêm vào CDM sẽ mở ra nhiều cơ hội cho
giảm nhẹ môi trường và phát triển kinh tế xã hội, tiếp nhận đầu tư từ các nước
phát triển để thực hiện các dự án lớn về trồng rừng, phục hồi rừng, quản lí bảo vệ
rừng tự nhiên, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp theo hướng NLKH, thực hiện
chuyển giao công nghệ góp phần tạo công ăn việc làm, từng bước cải thiện thu
nhập và phát triển nông thôn.
2.1.2.3.

Chi trả dịch vụ môi trường hấp thụ CỠ2 của rừng


Trong các dịch vụ môi trường rừng mà cộng đồng vùng cao có thể được chi
trả từ giá trị thương mại carbon đó là (khả năng hấp thụ carbon của rừng, bảo vệ
vùng đầu nguồn và bảo tồn đa dạng sinh học), thì cơ chế đền bù cho thị trường

carbon là cao hơn cả, có thể thấy được rừng carbon có vai trò quan trọng trong
công tác xã hội giúp xóa đói giảm nghèo. Các kế hoạch đền bù carbon hiện nay
cũng được tăng lên nhanh chóng.
Trên cơ sở này hình thành khái niệm rừng carbon (Carbon Forestre), đó là
các khu rừng được xác định với mục tiêu điều hòa và lưu giữ khí carbon phát
thải từ công nghiệp. Khái niệm rừng carbon thường gắn với các chương trình dự
án nhằm cải thiện đời sống cho người dân sống trong và gần rừng, đang bảo vệ
rừng. Họ là những người trực tiếp bảo vệ rừng, chăm sóc rừng, chịu ảnh hưởng
của sự thay đoi khí hậu toàn cầu. Do đó cần có chính sách chi trả và đền bù phù
hợp đối với người dân, phải coi đó là một phần trong sinh kế của họ, có như vậy
thì rừng mới được bảo vệ và phát triển để góp phần bảo vệ môi trường khí hậu
trong tương lai. Hay nói cách khác các hoạt động tích lũy carbon dựa vào cộng
đồng có thể thành công nếu như có một cơ chế cụ thể để duy trì bảo vệ lượng
carbon lưu trữ gắn với sinh kế của người dân sống gần rừng và đang sử dụng đất
rừng.
Hiện nay cơ chế trao đổi carbon vẫn đang được tranh luận từ chương
trình CDM và cho đến nay khái niệm REDD cũng mới ở bước phát triển khung
khái niệm, tiếp cận và một số nơi đang được thúc đẩy thử nghiệm. Tuy nhiên với
xu thế biến đổi khí hậu như hiện nay lượng CO 2 phát thải không giảm xuống thì
bảo vệ rừng, phát triển rừng tự nhiên, phát triển NLKH là một chiến lược phát
triển đúng đắn nhằm cân bằng lượng khí phát thải hiệu ứng nhà kính, đồng thời
với nó các quốc gia đang cần đến vấn đề thỏa thuận đền bù, chi trả cho cộng
đồng ở các quốc gia đang phát triển để bảo vệ và phát triển rừng với mục đích
lưu giữ và tăng khả năng hấp thụ CO2 của sinh thái rừng, các kiểu sử dụng đất ở


vùng nhiệt đới.
*?

ĩ


2/ ^ r p Ạ __________________________________ _ A - »X

.2. Tông quan vân đê nghiên cứu
2.2.1.

Những nghiên cứu trên thế giới

Những năm gần đây vấn đề nóng lên của khí hậu toàn cầu đang được quan
tâm của

toàn thế giới. Nó đang từng bước tác động tiêu cực đến sinh

vật và môi trường trên trái đất, quá trình nóng lên của tái đất làm cho nước biển
dâng cao, hạn hán lũ lụt thường xuyên xảy ra. Hầu hết các nhà khoa học môi
trường cho rằng sự gia tăng đáng kể nồng độ các khí nhà kính mà chủ yếu là khí
CO2 trong khí quyển là nguyên nhân gây ra hiện tượng nóng lên toàn cầu, nó có
thể làm cho nhiệt độ trái đất tăng lên nhanh chóng từ 1,4 - 5, 8 C trong giai đoạn
0

1900 - 2100. Tính đến năm 2004 đã có 16 dự án về hấp thụ carbon qua việc
trồng mới và tái trồng rừng được thực hiện, trong đó Châu Mỹ - Latinh có 4 dự
án, Châu Phi có 7 dự án, Châu Á có 5 dự án và 1 dự án liên quốc gia được thực
hiện tại các nước Ản Độ, Brazil, Jordan và Kenya (FAO, 2004) [16].
Tại Mexico một dự án đang được thực hiện, mục tiêu của dự án là cung cấp
18.000 tấn CO2/năm với giá 2,7 USD/tấn CO2, dự án đã lôi cuốn trên 400 thành
viên thuộc trên 33 cộng đồng của 4 nhóm dân tộc thiểu số tham gia với nhiều hệ
thống Nông lâm kết hợp khác nhau. Kết quả của dự án đã làm tăng lượng carbon
tích luỹ, tăng cường năng lực cộng đồng, khuyến khích phát triển các hệ thống
sản xuất Nông nghiệp bền vững và góp phần bảo tồn đa dạng sinh học (Phạm

Xuân Hoàn, 2005) [2].
Tại Tây Phi một dự án khác nhằm giảm những thiệt hại do nóng lên toàn
cầu và giảm tỷ lệ đói nghèo của người dân trong vùng được thực hiện thông qua
việc tăng cường khả năng hấp thụ carbon của trảng cỏ Savannah (FAO, 2004)
[16]. Nhìn chung, mục tiêu của các dự án về khả năng hấp thụ carbon biến động
rất lớn, từ 7 tấn/ha trong dự án tại vườn quốc gia Noel Kempf


Mercado ở Bolivia đến 129 tấn/ha trong dự án thực hiện tại vùng Andean ở
Ecuador (FAO, 2004) [16].
Tại Trung Quốc nghiên cứu được thực hiện với rừng trồng hỗn loài giữa
Pinus massoniana và Schima superba cho thấy, lượng carbon biến động từ
146,35 - 215,30 tấn/ha, trong đó lượng carbon của cây trồng và thảm thực vật
dưới tán rừng chiếm 61,9% - 69,9%, lượng carbon trong đất chiếm từ 28,5 35,5% và lượng carbon trong vật rơi rụng chiếm từ 1,6 - 2,8% (Fang Yunting và
cộng sự, 2003) [17]. Đối với rừng trồng thuần loài Pinus massoniana, khả năng
cố định carbon cũng đã được đánh giá cho từng giai đoạn sinh trưởng. Theo Wei
Hai dong và Ma Xiangqing (2007), lượng carbon của cây trồng, vật rơi rụng và
đất của rừng 30 năm tuổi (rừng già) cao hơn lượng carbon của rừng 20 năm tuổi
(rừng trung niên) và hai loại rừng trên đều có lượng carbon tích trữ cao hơn so
với rừng 7 năm tuổi (rừng non). Tuy nhiên, đối với thảm thực vật dưới tán rừng
thì lượng carbon cao nhất được ghi nhận ở rừng già, sau đó đến rừng non và thấp
nhất là rừng trung niên.
Nghiên cứu về khả năng hấp thụ CO 2 của rừng trồng hỗn giao giữa P.
massoniana và Cunninghamia lanceolata kết quả nghiên cứu cho thấy, đối với
cả 2 loài, hàm lượng carbon tập trung chủ yếu ở tầng cây gỗ đạt trung bình
51,1%, tiếp đến là vật rơi rụng chiếm 48,3%, cây bụi chiếm 44,1% và thấp nhất
là trạng cỏ chỉ chiếm khoảng 33,0% so với tổng sinh khối khô từng bộ phận
tương ứng. Khả năng hấp thụ carbon của loài P. massoniana lớn hơn lượng
carbon của C. Lanceolata, trong đó hàm lượng carbon chứa trong gỗ, rễ, cành,
vỏ, lá của P. masoniana lần lượt là 58,6%, 56,3%, 51,2%, 49,8% và 46,8%,

trong khi đó loài C. lanceolata có hàm lượng carbon lần lượt là vỏ, lá, gỗ, rễ:
52,2%, 51,8%, 50,2%, 47,5% và cành thấp nhất là 46,7% (Kang Bing và cs,
2006) [19].
Trong các hệ sinh thái rừng nhiệt đới các bể chứa carbon chính là các sinh


khối sống của cây cối và thực vật dưới tán và khối lượng vật liệu chết của vật rơi
rụng, mảnh vụn gỗ và các chất hữu cơ trong đất. Carbon được lưu trữ trong sinh
khối sống trên mặt đất của cây thường là các bể chứa lớn nhất và ảnh hưởng trực
tiếp nhất bởi nạn phá rừng và suy thoái. Như vậy, ước tính carbon trong sinh
khối trên mặt đất của rừng là bước quan trọng nhất trong việc xác định số lượng,
dòng carbon từ rừng nhiệt đới. Phương thức đo lường đối với các bể chứa carbon
khác nhau đã được mô tả ở các tài liệu của Post và cộng sự (1999), Brown và
Masera (2003), Pearson và cs (2005), IPCC (2006) (Đỗ Hoàng Chung, 2012) [1].
Putz F.E. & Pinard M.A (1993), phương thức khai thác cũng có ảnh hưởng
rõ rệt tới mức thiệt hại do khai thác hay lượng carbon bị giảm. Bằng việc ápdụng
phương

thức khai thác giảm thiểu (RIL) tác động ở Sabah

(Malaysia) sau khai thác một năm, lượng sinh khối đã đạt 44 - 67% so với trước
khai thác. Lượng carbon trong lâm phần sau khai thác theo RIL cao hơn lâm
phần khai thác theo phương thức thông thường đến 88 tấn/ha (Phạm Xuân Hoàn,
2005) [2].
Tại Philippines khi nghiên cứu khả năng hấp thụ carbon của cây Lõi thọ tác
giả Leuvina thấy rằng: Lượng carbon chiếm 44,73% so với tong sinh khối của
cây Lõi thọ, trong đó hàm lượng carbon trong lá 44,89%, trong cành 44,47% và
trong thân 43,53%. Với mật độ 1000 cây/ha, rừng Lõi thọ ở độ tuổi 12 có
cố định 200


thể

tấn carbon, tương đương 736 tấn CO2 (Leuvina,

2007) [20].
Tại Ireland khả năng hấp thụ CO của rừng trồng đã được đánh giá lại cho
2

thời gian từ năm 1906 đến năm 2012 và được chia làm 2 giai đoạn, giai đoạn 1 từ
năm 1906 - 2002 và giai đoạn 2 từ 2003 - 2012. Đến năm 2002, tổng lượng
carbon

của rừng trồng ở Ireland đã tích trữ được 37,7 Mt

(megatonnes), trong đó từ năm 1990 - 2002 lượng carbon cố định được là 14,8
Mt. Theo dự đoán trong thời gian từ 2008 - 2012, trung bình mỗi năm rừng trồng


ở đây có thể cố định được 0,9 Mt carbon/năm. Với lượng carbon cố định được từ
rừng trồng có thể đáp ứng được 22% lượng phát thải khí nhà kính cần giảm theo
nghị định thư Kyoto mà nước này cam kết (Byrne và Milne, 2006) [15].
Năm 1995 Murdiyarso D. đã nghiên cứu và đưa ra dẫn liệu rừng
Indonesia có lượng carbon hấp thụ từ 161 - 300 tấn/ha trong phần sinh khối trên
mặt đất. Tại Thái Lan, Noonpragop K. đã xác định lượng carbon trong sinh khối
trên mặt đất là 72 - 182 tấn/ha. Ở Malaysia lượng carbon trong rừng biến động từ
100 - 160 tấn/ha và tính cả trong sinh khối và đất là 90 - 780 tấn/ha (ICRAF,
2001) [18].
Các nghiên cứu về phương pháp xác định lượng CO 2 hấp thụ hệ sinh thái
rừng, đã xác lập mối quan hệ giữa sinh khối và nhân tố đường kính, chiều cao,
mật độ cây rừng của K.G. MacDicken (1977). Năm 2004 Jenkins và cs đã lập

được mối tương quan giữa lượng carbon hấp thụ và đường kính ngang ngực cho
các loài cây khác nhau ở Bắc nước Mỹ, đến năm 2007, trung tâm Nông lâm kết
hợp thế giới (ICRAF) đã phát trien phương pháp dự báo nhanh lượng carbon lưu
trữ thông qua việc giám sát thay đoi sử dụng đất bằng phân tích ảnh viễn thám
(Vũ Tuấn Phương và cộng sự, 2008) [7].
2.2.2.

Những nghiên cứu ở Việt Nam

Mặc dù các nghiên cứu trong nước chưa thực sự đa dạng, chưa đánh giá
được một cách đầy đủ và toàn diện về khả năng tích lũy carbon của rừng tự
nhiên, rừng trồng và các phương thức canh tác Nông lâm nghiệp nhưng những
nghiên cứu ban đầu về lĩnh vực này có ý nghĩa rất quan trọng, làm nền tảng thiết
lập thị trường giao dịch carbon trong nước. Một số kết quả nghiên cứu đã được
ghi nhận như:
Nguyễn Duy Kiên (2007) [4] khi nghiên cứu khả năng hấp thụ CO 2 rừng
trồng Keo tai tượng (Acacia mangium) tại Tuyên Quang, đã cho thấy sinh khối
tươi trong các bộ phận lâm phần Keo tai tượng có tỷ lệ khá ổn định, sinh khối


tươi tầng cây gỗ chiếm tỷ trọng lớn nhất từ 75 - 79%, sinh khối tầng cây dưới tán
chiếm tỷ trọng 17 - 20 %, sinh khối vật rơi rụng chiếm tỷ trọng 4-5%.
Lý Thu Quỳnh

(2007) [9] nghiên cứu sinh khối và khả năng cố định

carbon của rừng Mỡ (Manglietia conifera Dandy) trồng tại Tuyên Quang và
Phú Thọ cho thấy, cấu trúc sinh khối cây cá thể Mỡ gồm 4 phần thân, cành, lá và
rễ, trong đó sinh khối tươi lần lượt là 60%, 8%, 7% và 24%; tổng sinh khối tươi
của một ha rừng trồng Mỡ biến động trong khoảng từ 53,4 - 309 tấn/ha, trong đó:

86% là sinh khối tầng cây gỗ, 6% là sinh khối tầng cây dưới tán và 8% là sinh
khối của vật rơi rụng.
Nguyễn Thanh Tiến (2012) [11] đã nghiên cứu khả năng hấp thụ CO 2 của
rừng phục

hồi IIB tại Thái Nguyên đã chỉ ra: Lượng CO2 hấp thụ trong

tầng cây gỗ, tầng tầng cây dưới tán, vật rơi rụng và trong đất rừng. Tổng
lượng CO2 hấp thụ trong lâm phần rừng II B là rất lớn, biến động từ 383,68 505,87 tấn CO2/ha, trung bình 460,69 tấn CO2/ha, trong đó lượng CO2 hấp thụ
tập trung chủ yếu ở tầng đất dưới tán rừng là 322,83 tấn/ha, tiếp đến là tầng
cây gỗ 106,91 tấn/ha, tầng cây dưới tán 15,6 tấn/ha và vật rơi rụng là 15,34
tấn/ha. Tổng lượng CO2 hấp thụ trong lâm phần rừng IIB ở các huyện khác nhau
cũng có sự khác biệt, đạt lớn nhất ở huyện Võ Nhai đạt 485,0 tấn/ha tiếp đến là
huyện Đại Từ đạt 450,809 tấn/ha và thấp nhất là huyện Định Hóa đạt 446,335
tấn/ha.
Ngô Đình Quế và cộng tác viên (2005) [8] tuỳ thuộc vào năng suất lâm
phần ở các tuổi nhất định mà khả năng hấp thụ CO 2 của các lâm phần có sự khác
nhau. Đe tích lũy khoảng 100 tấn CO2/ha, Thông nhựa phải đến tuổi 16 - 17,
Thông mã vĩ và Thông 3 lá ở tuổi 10, Keo lai 4 - 5 tuổi, Keo tai tượng 5 - 6 tuổi
và Bạch đàn uro ở tuổi 4 - 5. Tác giả đã lập phương trình tương quan hồi quy
tuyến tính giữa lượng CO2 hấp thụ hàng năm với năng suất gỗ và năng suất sinh
học, từ đó tính ra được khả năng hấp thụ CO 2 thực tế ở nước ta đối với 5 loài cây


trên. Cũng theo Ngô Đình Quế (2005), với tổng diện tích 123,95 ha khi trồng
Keo lai 3 tuổi, Quế 17 tuổi, Thông 3 lá 15 tuổi, Keo lá tràm 12 tuổi thì sau khi
trừ đi tổng lượng C của đường cơ sở, lượng C thực tế thu được qua việc trồng
rừng CDM là 7.553,6 tấn C hoặc 27.721,9 tấn CO2.
Nguyễn Viết Khoa (2007) [3] sau khi thực hiện đề tài “Nghiên cứu khả
năng hấp thụ C của rừng trồng keo lai thuần loài tại một số tỉnh phía Bắc” thu

được kết quả là tong lượng carbon tích lũy trong lâm phần Keo lai thuần loài rất
lớn, dao động từ 49,6 - 113,8 tấn/ha, trong đó tích lũy C trong đất chiếm 67,9%
và C tầng cây gỗ chiếm 27,5%, C trong vật rơi rụng chiếm 3,1%, trong cây bụi
thảm tươi là 1,5%. Lượng tích lũy C trong lâm phần Keo lai theo các cấp đất và
cấp tuổi khác nhau là khác nhau. Thông thường ở cấp đất tốt hơn, tuổi cao hơn,
mật độ rừng lớn hơn thì lượng C tích lũy sẽ lớn hơn. Nếu tăng trưởng rừng đạt
15m3/ha/năm, tổng sinh khối tươi và chất hữu cơ của rừng sẽ đạt được xấp xỉ
10 tấn/ha/năm

tương đương 15 tấn CO2/ha/năm, (Hoàng

Xuân Tý, 2004) [13].
Nguyễn Ngọc Lung, Nguyễn Tường Vân (2004) [6] đã sử dụng biểu quá
trình sinh trưởng và biểu sinh khối để tính toán sinh khối cho một số loại rừng.
Nguyễn Ngọc Lung và Đào Công Khanh (1999) [5], đã nghiên cứu Thông ba lá,
cấp đất III tuổi chặt 60, khi D = 40 cm, H = 27,6 cm, G = 48,3 m 2/ha, M = 586
m3/ha, tỷ lệ khối lượng khô/tươi cây lớn là 53,2%. Hệ số chuyển đổi từ thể tích
thân cây sang toàn cây là 1.373,6 tấn. Tính ra sinh khối thân cây khô tuyệt đối là
311,75 tấn, tổng sinh khối toàn rừng là 428,2 tấn. Còn nếu tính theo biểu sinh
khối thì giá trị là 434,2 tấn/ha. Sai số giữa biểu quá trình sinh trưởng và biểu sản
lượng là 1,4%.
Đặng Thịnh Triều (2010) [12] đề tài nghiên cứu “Nghiên cứu khả năng cố
định carbon của rừng trồng Thông mã vĩ (Pinus massoniana Lambert) và Thông
nhựa (Pinus merkusii Jungh et. de Vriese) làm cơ sở xác định giá trị môi trường


rừng

theo cơ chế phát triển sạch ở Việt Nam”, đã xác định được


khả năng hấp thụ carbon ở cấp tuổi 6 của lâm phần Thông mã vĩ khoảng từ
115,21 - 178,68 tấn/ha, của lâm phần Thông nhựa khoảng 117,05 - 135,54 tấn/ha
tùy thuộc vào cấp đất, đồng thời tác giả cũng đã xây dựng được bảng tra khả
năng hấp thụ carbon của cây cá thể cũng như lâm phần Thông mã vĩ và Thông
nhựa chung và riêng cho từng cấp đất, xác định được giá trị thương mại carbon
của rừng trồng Thông nhựa và Thông mã vĩ theo từng cấp đất.
2.2.3.

Nhận xét chung

Qua các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến vấn đề
carbon cho thấy các công trình được tiến hành khá đồng bộ ở nhiều lĩnh vực.
Phương pháp chủ yếu là lập ô mẫu, đo tính sinh khối, lập các mô hình quan hệ để
ước tính.
Ở Việt Nam vấn đề nghiên cứu khả năng hấp thụ CO 2 đối với rừng và các
mô hình NLKH ngày nay đang được quan tâm của toàn xã hội và cũng đạt được
nhiều kết quả, đặc biệt với một số loại cây trồng rừng ở nước ta như: Keo lai,
Keo lá tràm, Thông nhựa, Mỡ, Xoan... góp phần định giá trị môi trường rừng ở
nước ta. Tuy nhiên vấn đề nghiên cứu CO 2 đối tượng chủ yếu là cây gỗ rừng
trồng còn các cây trồng xen trong mô hình NLKH vẫn chưa được quan tâm
nghiên cứu.
Vấn đề chi trả

dịch vụ môi trường rừng trong hấp thụ CO2 của rừng

trồng được đưa vào chương trình CDM và các chương tình REDD cũng đang
được xúc tiến trong việc chi trả và giảm phát thải từ suy thoái và mất rừng tự
nhiên. Trong khi đó mô hình NLKH, một phương thức canh tác hài hòa giữa lợi
ích kinh tế sử dụng đất của nông dân với môi trường thì chưa được đề cập đến
giá trị hấp thụ CO2 của mô hình đó. Vì vậy các vấn đề liên quan cần được nghiên

cứu hoàn thiện là: Phương pháp nghiên cứu xác định lượng sinh khối, lượng
carbon tích lũy trong hệ thống NLKH; lượng hóa được giá trị dịch vụ hấp thụ


CO2 của mô hình NLKH và thúc đẩy một cơ chế chi trả nhằm nâng cao nhận
thức và trách nhiệm của cộng đồng trong quản lý sử dụng đất một cách bền vững
và có hiệu quả nhiều mặt.
Để góp phần giảm khí gây hiệu ứng nhà kính và làm cơ sở tính toán chi trả
phí dịch vụ môi trường rừng trực tiếp cho người dân trong mô hình NLKH của
mình. Tôi đã tiến hành nghiên cứu khả năng tích lũy carbon của cây Chè trong
mô hình Nông lâm kết hợp Chè - Rừng tại xã Yên Ninh, huyện Phú lương, tỉnh
Thái Nguyên.
2.3.

Tổng quan khu vực nghiên cứu

2.3.1.

Điều kiện tự nhiên

2.3.1.1.

Vị trí địa lý

Yên Ninh là một xã cực Bắc của huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên. Xã
có vị trí cách trung tâm huyện lỵ 20 km với đường quốc lộ 3, điểm đầu là xã Yên
Đo cuối là huyện Chợ Mới tỉnh Bắc Kạn. Phạm vi, ranh giới của xã tiếp giáp về
các phía như sau:
Phía Tây giáp ranh với xã Yên Trạch
Phía Bắc giáp ranh với xã Tân Thịnh và xã Tân Dương (Định Hóa)

Phía Đông giáp ranh với xã Yên Đĩnh và xã Quảng Chu (Chợ Mới, Bắc
Kạn) Phía Nam giáp ranh với xã Yên Trạch và xã Yên Đo (Phú Lương)
2.3.1.2.

Địa hình, địa thế

Xã thuộc địa hình trung du với nhiều đồi núi nằm rải rác trên toàn xã, tạo
nên địa hình tương đối phức tạp, độ cao trung bình là 40 - 35 0 so với mặt nước
biển. Địa hình cao về phía Nam thấp về phía Đông Nam, nhìn trung địa hình xã
có nhiều đồi núi cao bao bọc xen kẽ là các thung lũng nhỏ tạo điều kiện xây
dựng và phát triển các mô hình NLKH để phát triển kinh tế - xã hội.
2.3.1.3.

Khí hậu và thủy

văn a) Khí hậu


-

Yên Ninh nằm trong khí hậu nhiệt đới gió mùa, có 4 mùa rõ rệt: Mùa
xuân, Mùa hạ, Mùa thu, Mùa đông.

-

Nhiệt độ trung bình năm là 220C.

-

Độ ẩm không khí trung bình năm là 82%.


-

Lượng mưa trung bình năm là 2,097mm, trong đó mùa mưa chiếm 91,6%
lượng mưa cả năm, mưa nhiều nhất vào tháng 7 tháng 8.

-

Hướng gió chủ yếu vào mùa mưa là gió Đông Nam vào mùa khô gió
Đông Bắc.

b) Thủy văn
-

Nguồn thủy văn trên địa bàn xã Yên Ninh khá phong phú, có hệ thống
sông suối phân bố đều trên địa bàn, đặc biệt có Sông Chu chảy qua là một
phụ lưu của Sông Cầu, thuận lợi cho việc tưới tiêu, canh tác nông lâm
nghiệp.

-

Ngoài con sông trên xã còn nhiều suối nhỏ trên địa bàn như Suối Đục,
Suối Bén, trong hệ thống hồ dự trữ nước noi bật là hồ sinh thái Pác Nho
tại xóm Đồng Kem 4.

2.3.1.3.

Tài nguyên đất

Theo kết quả điều tra bổ xung chỉnh lý bản đồ theo tỷ lệ 1/50.000 bằng

phương pháp định lượng FAO/UNESCO do viện quy hoạch và thiết kế nông
nghiệp xây dựng và cứ vào nguồn gốc phát sinh, đất đai xã Yên Ninh thì toàn xã
có 4 nhóm chính: Đất phù xa, đất đen, đất xám bạc màu và đất đỏ.
2.3.2.

Đều kiện kinh tế - xã hội

2.3.2.1.

Điều kiện kinh tế

Diện tích đất nông nghiệp của xã là 4.263,8 ha, đất lâm nghiệp 3.146,52 ha
nên xác định được một trong những thế mạnh của xã là sản xuất Nông - lâm
nghiệp, kinh tế đồi rừng, mô hình trang trại. Tại xã đất được trồng chè phổ biến
với năng suất, sản lượng cao, nguồn lao động dồi dào. Yên Ninh là một địa điểm
thích hợp để hình thành và phát triển ngành công nghiệp hiện nay.


×