Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Luận văn thạc sĩ thành phần loài thuộc họ eleotridae và đặc điểm sinh học của một số loài cá bống phân bố trên tuyến sông hậu (TT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (639.21 KB, 33 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN
THƠ

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Chuyên ngành: Nuôi trồng thủy sản
Ma ngành: 62620301

VÕ THÀNH TOÀN

THÀNH PHẦN LOÀI THUỘC HỌ ELEOTRIDAE
VÀ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA’ MỘT SỐ LOÀI
CÁ BỐNG PHÂN BỐ TREN TUYẾN SÔNG HẬU

Cần Thơ, 2016


Người hướng dẫn chính: PGS.TS. Trần Đắc Định Người hướng dẫn
phụ: TS. Hà Phước Hùng

Luận án được bảo vệ trước hội đồng chấm luận án tiến sĩ cấp trường
Họp tại:........................................................................................
Vào lúc.........giờ............ngày............tháng............năm.............

Phản biện 1
Phản biện 2
Phản biện 3

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
Trung tâm Học liệu, Trường Đại học Cần


Thơ. Thư viện Quốc gia Việt Nam.


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ LUẬN ÁN
1.1 Giới thiệu
Cá bống có thành phần loài lớn nhất với 220 giống và 1.875 loài thuộc 5 họ
(Eleotridae, Gobiidae, Periophthalmidae, Apocrypteidae và Gobioididae)
(Healey, 1971), trong đó họ Eleotridae có 31 giống, 178 loài (Froese and Pauly,
2014). Ở lưu vực sông MêKông có 34 giống, 101 loài thuộc 5 họ này
(Rainboth, 1996). Ở Việt Nam có 5 họ cá bống, riêng họ Eleotridae có 3 giống,
7 loài (Mai Đình Yên, 1992, Nguyễn Hữu Phụng, 1997 và Nguyễn Nhật Thi,
2000), nghiên cứu của Trần Đắc Định và ctv. (2013) cũng cho thấy có 7 loài
phân bố ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) gồm: Butis butis Hamilton,
1822 (Larson, 2012), Butis humeralis Valenciennes, 1837 (Bailly, 2015), Butis
koilomatodon Bleeker, 1849 (Bailly, 2015), Oxyeleotris marmorata Bleeker,
1852 (Allen, 2011), Eleotris melanosoma Bleeker, 1853 (Bailly, 2015),
Oxyeleotris urophthalmus Bleeker, 1853 (Bailly, 2015) và Bostrychus scalaris
Larson, 2008 (Larson, 2008). Một số loài có giá trị kinh tế gồm cá bống tượng,
bống dừa và bống trứng thường phân bố ở vùng nội địa và cửa sông (Murdy,
1989), vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới (Chotkowski et al., 1999), nhiều loài cá
bống đến đây đẻ trứng và hoàn thành vòng đời (Blaber et al., 2000). Trong số 7
loài, chỉ có một loài cá bống tượng đang là đối tượng được nuôi quan trọng
vùng ven Sông Hậu, hai loài cá bống khác có giá trị kinh tế do thịt thơm, ngon
và có sản lượng cao là cá bống trứng và bống dừa (Bộ Thuỷ sản, 1996); tuy
nhiên chúng chưa được quan tâm nghiên cứu nhiều, nên có rất ít công trình
nghiên cứu về sự phong phú, đặc điểm sinh học của chúng. Điều đó cho thấy
hiểu biết về thành phần loài, mức độ phong phú của các loài cá họ Eleotridae
phân bố vùng hạ lưu sông MêKông, cũng như đặc điểm dinh dưỡng và sinh học
sinh sản của cá bống trứng và cá bống dừa còn hạn chế, trong khi chúng là một
trong những nhóm cá có giá trị kinh tế cao ở vùng ĐBSCL. Vì vậy, nghiên cứu

thành phần loài cá thuộc họ Eleotridae và đặc điểm sinh học của một số loài cá
bống có giá trị kinh tế là rất cần thiết.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Nhằm xác định thành phần loài, mức độ phong phú của họ cá bống Eleotridae
và đặc điểm sinh học của một số loài có giá trị kinh tế phân bố trên tuyến Sông
Hậu, góp phần làm cơ sở cho công tác bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, cũng như làm
cơ sở cho nghiên cứu sinh sản nhân tạo một số loài cá bống kinh tế trong tương
lai.
1.3 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án nhằm bổ sung dẫn liệu khoa học về thành phần
loài cá thuộc họ Eleotridae và đặc điểm sinh học của một số loài cá bống kinh
tế phân bố trên tuyến Sông Hậu. Kết quả này là nguồn tư liệu phục vụ cho việc
giảng dạy và nghiên cứu khoa học nhằm quản lý, phục hồi và tái tạo nguồn lợi
3


thuỷ sản nói chung và nhóm cá bống nói riêng.
1.4 Những điểm mới của luận án
i) Kết quả khảo sát các yếu tố sinh thái cho thấy độ mặn có liên quan
đến sự phân bố của các loài cá bống họ Eleotridae, đặc biệt là cá bống
trứng (E. melanosoma) và bống trân (B. butis). Mức độ phong phú
tương đối (CPUE) của hai loài cá này biến động theo mùa và phụ
thuộc vào sự đa dạng các loài thuỷ sinh vật, tốc độ dòng chảy và độ
sâu của nước.
ii) Có 5 loài cá bống thuộc họ Eleotridae phân bố trên tuyến Sông Hậu,
trong đó cá bống trứng (E. melanosoma), bống dừa (O. urophthalmus)
và bống tượng (O. marmorata) xuất hiện nhiều ở đầu nguồn và giữa
nguồn, trong khi đó cá bống trân (B. butis) ở giữa nguồn và cuối
nguồn, đặc biệt là loài Butis humeralis chỉ phát hiện ở cuối nguồn. Khi
khai thác bằng lưới kéo cho thấy cá bống trứng (E. melanosoma) xuất

hiện ở đầu nguồn và giữa nguồn, cá bống trân (B. butis) chỉ có ở cuối
nguồn và mức độ phong phú tương đối (CPUE) của cá bống trứng
nhiều hơn cá bống trân, mùa mưa phong phú hơn mùa khô.
iii) Cá bống trứng (E. melanosoma) và cá bống dừa (O. urophthalmus) có
cấu tạo ống tiêu hóa phù hợp với loài cá ăn động vật, mặc dù có 4 loại
thức ăn xuất hiện trong phổ thức ăn nhưng chỉ có 3 loại được xem là
thức ăn ưa thích đối với hai loài cá này là giáp xác, thân mềm và cá
con. Tỉ lệ thành phần thức ăn của chúng cũng thay đổi theo chiều dài
thân cá.
iv) Hệ số thành thục sinh dục (GSI) của cá bống trứng và bống dừa cao từ
tháng 5 đến tháng 10, trong khi đó hệ số tích luỹ năng lượng (HSI)
thấp ở tháng 7, hệ số điều kiện (CF) cao nhất ở tháng 4 và tháng 11,
qua đó cho thấy mùa vụ sinh sản của hai loài này khá dài (từ tháng 5
đến tháng 10) và tập trung từ tháng 5 đến tháng 7. Kết quả cũng cho
thấy sức sinh sản của cá bống trứng dao động từ 49 đến 930 trứng/g cá
cái cao hơn cá bống dừa (từ 44 đến 477 trứng/g cá cái), sức sinh sản
tuyệt đối của cá bống trứng từ 2.981-19.520 trứng/cá cái và cá bống
dừa từ 1.290-9.999 trứng/cá cái. Chiều dài thành thục (L m) của cá
bống trứng đực là 8,62 cm và cá bống trứng cái là 7,79 cm; L m của cá
bống dừa đực là 11,36 cm và của cá bống dừa cái là 7,96 cm.
CHƯƠNG 3: VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Thời gian và địa điếm nghiên cứu
Thời gian thực hiện các nội dung của luận án này được tiến hành từ tháng 8
năm 2012 đến tháng 12 năm 2014.
Địa điểm thu mẫu các yếu tố sinh thái và các loài cá bống họ Eleotridae được
4


thực hiện tại ba khu vực gồm: đầu nguồn (An Phú và Long Xuyên), giữa nguồn
(Thốt Nốt và Ninh Kiều) và cuối nguồn (Long Phú và Trần Đề) của Sông Hậu

(Hình 2.1).

Hình 2.1: Sơ đồ khu vực thu mẫu dọc theo tuyến Sông Hậu (www.maps.google.com. cập
nhật ngày 05/06/2012)

3.2 Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
3.2.1
Xác định một số chỉ tiêu sinh thái (nhiệt độ, pH, độ mặn,
dòng chảy, độ sâu, thực vật phù du, động vật phù du, động vật
đáy) trên Sông Hậu
Xác định một số yếu tố sinh thái trong vùng nghiên cứu được thực hiện từ
tháng 8 năm 2012 đến tháng 6 năm 2013 cùng thời gian và địa điểm với việc
thu mẫu cá bống bằng lưới kéo tại đầu nguồn. giữa nguồn và cuối nguồn Sông
Hậu. mỗi khu vực thu 5 điểm. chu kỳ thu mẫu 2 tháng/lần. Trong đó:
a) Chỉ tiêu pH. nhiệt độ và độ mặn của nước được xác định bằng dụng cụ
chuyên dùng: pH kế. nhiệt kế và khúc xạ kế tại hiện trường (Hình 2.2).
b) Tốc độ dòng chảy được xác định bằng lưu tốc kế số (hiệu 23.090; Paul
and Sally, 1977): Tốc độ dòng chảy (km/giờ) = Khoảng cách đo
(km)/Thời gian đo (giờ); trong đó:
Khoảng cách đo = (Số vòng đã quay của rotor x Hệ số
rotor)/999999 Hệ số rotor cho lưu tốc kế (23.090) = 26873 (Paul
and Sally, 1977)
c) Độ sâu của nước ở các điểm khảo sát được đo đạc tại hiện trường bằng
thiết bị đo độ sâu (Hondex model PS-7FL) (Hình 2.2).

5


Thiết bị đo độ sâu


Khúc xạ kế

Lưu tốc kế và GPS

pH kế và nhiệt kế

Hình 2.2: Một số thiết bị dùng trong thu mẫu chỉ tiêu sinh thái

d) Xác định thành phần loài thực vật phù du, động vật phù du và động vật đáy
bằng lưới phiêu sinh thực vật (kích thước mắt lưới 30 pm), lưới phiêu sinh
động vật (60 pm), gàu đáy Petersen (diện tích miệng gàu d=0,028 m 2) và
sàn lưới (500 pm), thu 15 điểm tại ba khu vực trên tuyến Sông Hậu, mỗi
khu vực thu 5 điểm đại diện. Mẫu sau khi thu cho vào chai nhựa 110 mL cố
định bằng dung dịch formol có nồng độ từ 28% (Petersen, 1990), mẫu thực
vật phù du được cố định trong dung dịch formol 2%, động vật phù du 4% và
động vật đáy 8%. Sau đó đem về phòng thí nghiệm thủy sinh vật, Khoa
Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ phân tích và dùng kính hiển vi ở vật
kính E10 để quan sát.
+ Xác định thành phần giống loài thực vật phù du, động vật phù du và động vật
đáydựa theo tài liệu phân loại của Shirota (1966), Dương Đức Tiến và Võ Hành
(1997) và Carmelo et al. (1996).
+ Xác định mật độ thực vật phù du, động vật phù du và động vật đáy dựa theo tài
liệu của Boyd and Tucker (1992).
V Mật độ thực vật phù du:
X (cá thể/Lít) = (T*L000*Vcđ*103)/(A*N*Vm)
T là số cá thể đếm được theo từng nhóm ngành Vcđ là
thể tích mẫu cô đặc (mL)
A là diện tích 1 ô đếm (mm2)
N là tổng số ô được đếm của buồng đếm Sedgewick rafter cell S50 Vm là
thể tích mẫu thu qua lưới lọc (mL)


6


V Mật độ động vật phù du:
X (cá thể/m3) = (T*1.000*Vcđ*106)/(A*N*Vm)
T là số cá thể đếm được theo từng nhóm ngành Vcđ là thể tích mẫu cô đặc
(mL)
A là diện tích 1 ô đếm (mm2)
N là tổng số ô được đếm của buồng đếm Sedgewick rafter cell S50 Vm là
thể tích mẫu thu qua lưới lọc (mL)
V Mật độ động vật đáy: D (cá thể/m2) = X/(n*d)
X là số cá thể đếm được theo từng nhóm lớp n là số lượng
thu bằng gàu đáy Petersen d là diện tích miệng gàu đáy
Petersen (d=0,028 m2)
3.2.2
Xác định thành phần loài và mức độ phong phú (CPUE) của cá
bống họ Eleotridae phân bố trên tuyến Sông Hậu
Để xác định thành phần loài, mẫu cá bống được thu bằng nhiều loại ngư cụ khác
nhau như chài, vợt, lưới rê, lưới kéo và thu trực tiếp của ngư dân từ hoạt động đánh
bắt tại các địa điểm nghiên cứu gồm các loại nghề khai thác như lưới đáy, chài, đặt
dớn, giăng lưới, chất chà, lưới kéo. Mẫu cá sau khi thu được bảo quản lạnh và đưa
về phòng thí nghiệm phân tích nguồn lợi thủy sản Khoa Thủy sản, Đại học Cần Thơ
phân tích. Các chỉ tiêu phân tích gồm:
+ Tỉ lệ chiều dài chuẩn (cm) / chiều dài đầu (cm);
+ Tỉ lệ chiều dài chuẩn (cm) / chiều cao thân (cm);
+ Tỉ lệ chiều dài đầu (cm) / khoảng cách hai mắt (cm);
+ Tỉ lệ chiều dài đầu (cm) / chiều dài mõm (cm);
+ Tỉ lệ chiều dài cạnh đuôi (cm) / chiều cao cạnh đuôi (cm);
+ Tỉ lệ chiều cao thân (cm) / chiều cao cạnh đuôi (cm).

Bảng 3.1: Cỡ mẫu xác định chỉ tiêu hình thái của các loài cá bống

Loài cá
Số mẫu

Bống
trứng
45

Bống
dừa
50

Bống
tượng
36

Bống trân
(B.butis)
41

Bống trân
(B.humeralis)
54

Đơn vị tính: cá thể/loài

Hệ thống phân loại trong nghiên cứu này được xác định từ cấp họ (Eleotridae) dựa
theo Lindberg (1971) (trích dẫn bởi Kanayama, 1991), các cấp giống loài chủ yếu
dựa theo Smith (1991). Ngoài ra, tham khảo thêm tài liệu phân loại của các tác giả

như: Cuvier and Valenciennes (18281848), Cantor (1848) (trích dẫn bởi Manilo and
Bogorodsky, 2003), Taki (1974), Vương Dĩ Khang (1962). Ba giống cá thuộc họ
Eleotridae được xác định theo khoá phân loại sau:

7


1.a- Cạnh sau xương nắp mang trước có 1 gai nhọn hướng về trước .... Eleotris2.aDa đầu mỏng. Phần trán giữa hai mắt, xương sọ nổi lên rõ ràng. Toàn thân
Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương (1993), Nguyễn Nhật Thi (2000), Trần Đắc
Định và ctv. (2013), Froese and Pauly (2014) để so sánh và định danh các loài
cá bống thu được.
phủ vẩy lược. Vẩy đường dọc 26-30
.....................................................Butis
2.b- Da đầu dày, phủ kín xương sọ. Đầu và
phần trước của thân phủ vẩy tròn,
phần sau phủ vẩy lược. Vẩy đường dọc 6090 .....................................Oxyeleotris
Trong nghiên cứu này có tham khảo tài liệu
của Mai Đình Yên (1992), Trương

A)
B)

Vây bụng tách biệt nhau
Không có đường bên
Hình 2.3: Một số đặc điểm hình thái chủ yếu của cá bống (Trần Đắc Định và ctv., 2013)

C)
D)

Hai vây lưng tách biệt nhau, gồm có tia vây cứng và tia vi mềm

Màng mang không liên tục

Xác định mức độ phong phú tương đối (CPUE-cacth per unit effort) của các loài cá
bống này được thu thập bằng lưới kéo với các thông số kỹ thuật: chiều rộng khung
lưới là 4,5 m, chiều cao khung lưới là 0,5 m, kích thước mắc lưới ở phần miệng và
thân lưới là a=25 mm, ở đụt lưới là a=15 mm, chu kỳ thu mẫu 2 tháng/lần. Vị trí các
điểm thu mẫu dọc theo Sông Hậu trên sông chính và sông nhánh (từ sông chính đi
vào 1 km, nằm dọc hai bên sông chính) bắt đầu từ đầu nguồn và kết thúc ở cuối
nguồn tại khu vực An Giang, Cần Thơ và Sóc Trăng, mỗi khu vực thu 5 điểm, 3
điểm thu tại sông chính và 2 điểm thu tại sông nhánh, vị trí các điểm thu được xác
định bằng GPS (Global Positional System). Mức độ phong phú của cá bống được
đánh giá tại 15 điểm trên tuyến Sông Hậu ở ba khu vực đầu nguồn, giữa nguồn và
cuối nguồn. Vị trí các điểm này được xác định bởi các toạ độ và được thể hiện ở
Bảng 3.2, Bảng 3.3 và Bảng 3.4.
Bảng 3.2: Toạ độ các vị trí thu mẫu tại khu vực đầu nguồn Sông Hậu______________________________
Địa điểm
Nhánh sông
Tọa độ
Điểm 1 Sông chính (xã Long Bình , huyện An Phú)
ọ: 10o56,221' N X: 105o04,278'E
Điểm 2
Sông chính (xã Khánh An, huyện An Phú)
ọ: 10o56,277'N X:105o06,734'E
Điểm 3
Sông chính (xã Bình Hoà, thành phố Long Xuyên)
ọ: 10o33,025' N X:105o18,724'E
Điểm 4
Sông nhánh (xã Bình Hoà, thành phố Long Xuyên)
ọ: 10o28,767' N X:105o20,417'E
Điểm 5

Sông nhánh (xã Bình Hoà, thành phố Long Xuyên)
ọ: 10o28,113'N X:105o20,531'E

8


Trong đó: ọ là vĩ độ (Latitive), X là kinh độ (Longitive), N là
Bắc bán cầu, E là Đông bán cầu
Địa điểm
Nhánh sông
Điểm 1
Sông chính (Phường Thốt Nốt, Quận Thốt Nốt)

ọ:

Tọa độ
10o12,645' N X:105o35,591'E

Điểm 2

Sông chính (Phường Thốt Nốt, Quận Thốt Nốt)

ọ:

10o11,971' N X:105o35,696'E

Điểm 3

Sông chính (Phường Cái Khế, Quận Ninh Kiều)


ọ:

10o03,184' N X:105o47,542'E

Điểm 4

Sông nhánh (Phường Xuân Khánh, Quận Ninh Kiều) ọ:

Điểm 5

Sông nhánh (Phường Lê Bình, Quận Cái Răng)

10o00,456' N X:105o44,838'E
ọ:

10o00,467' N X:105o45,537'E

Trong đó: ọ là vĩ độ (Latitive), X là kinh độ (Longitive), N là Bắc bán cầu, E là
Đông bán cầu

o
o
Bảng 3.4: Toạ độ các vị trí thu mẫu tại khu vực cuối nguồn Sông ọ: 09 44,206'N X: 106 04,427'E
ọ: 09°43,695' N X: 106°04,406'E
Hậu
ọ: 09°43,241' N X: 106°04,246'E
ọ: 09°31,646' N X: 106°12,139'E
ọ: 09°30,144' N X: 106°12,838'E

Trong đó: ọ là vĩ độ (Latitive), X là kinh độ (Longitive), N là Bắc bán cầu, E là Đông bán cầu


______________________________________________________________________________________
Địa điểm
Nhánh sông
Tọa độ
Điểm 1 Sông chính (Thị trấn Đại Ngãi, Huyện Long Phú)
Điểm 2 Sông chính (Thị trấn Đại Ngãi, Huyện Long Phú)
Điểm 3 Sông nhánh (Thị trấn Đại Ngãi, Huyện Long Phú)
Điểm 4
Sông nhánh (Thị trấn Trần Đề, huyện Trần Đề)
Điểm 5 Sông chính (Thị trấn Trần Đề, huyện Trần Đề)

3.2.3
Nghiên cứu đặc điếm dinh dưỡng của cá bống trứng (Eleotris
melanosoma) và cá bống dừa (Oxyeleotris urophthalmus)
Mẫu cá được thu từ tháng 6 năm 2013 đến tháng 5 năm 2014, chu kỳ thu mẫu 2
tháng/lần và được thu ở các nhóm kích cỡ khác nhau, mỗi nhóm thu ít nhất là ^ 30
cá thể/loài (Bảng 3.5).
Bảng 3.5: Số lượng mẫu phân tích tính ăn của cá bống trứng và cá bống dừa

9


Đơn vị tính: cá thể/loài/tháng
Luai Cá

Mùa mưa (2013)
Tháng
10


Mùa khô (2014)

Tháng 6 Tháng 8

Tháng 1 Tháng 3

Thá
ng 5

Tổng
cộng

Bống trứng

53 56

61

45 49

38

302

Bống dừa

59 40

42


42 36

34

253

Mẫu cá
sau

khi thu được
cố

định trong dung dịch formaline 10%,

sau
đó

đem về phòng thí nghiệm nguồn lợi thuỷ sản của Khoa Thuỷ sản, Trường Đại học
Cần Thơ phân tích. Xác định tính ăn của cá dựa vào hình thái cấu tạo của hệ thống
ống tiêu hóa (hình dạng răng, miệng, lược mang, chiều dài ruột và thành phần thức
ăn trong ống tiêu hóa). Thức ăn trong mỗi dạ dày của cá được pha loãng với nước
cất ở thể tích thích hợp (từ 5-10 mL) và lắc đều, sau đó lấy 1 ml cho vào buồng đếm
(Sedgewick rafter cell S50) và đưa lên kính hiển vi quan sát và phân tích theo
phương pháp tần số xuất hiện và phương pháp khối lượng (Pillary, 1952).
Phương pháp xác định hình thái cấu tạo ống tiêu hoá Các mẫu cá bống

trứng và
xác định
và chiều
xác định


bống dừa thu được từ Bảng 3.5 được phân tích
các chỉ tiêu: độ rộng miệng, chiều dài toàn thân
dài ruột của cá (Pravdin, 1973). Tính ăn của cá
dựa vào chỉ số tương quan

1
0


giữa chiều dài ruột và chiều dài toàn thân cá (RLG). Giá trị RLG được tính theo
công thức của Al-Hussaini (1949): RLG=Chiều dài ruột (cm)/Chiều dài toàn thân
(cm) (RLG<1: cá ăn động vật; RLG=1: cá ăn tạp; RLG>1: cá ăn thực vật).
2.2.3.1
Phương pháp xác định phổ thức ăn
+ Phương pháp tần số xuất hiện: Số lượng dạ dày của cá hiện diện mỗi loại thức
ăn được tính ra phần trăm (%) trên tổng số dạ dày cá được quan sát, dựa theo tài
liệu định loại động và thực vật thuỷ sinh của Shirota (1966), Dương Đức Tiến và
Võ Hành (1997) và Carmelo et al. (1996).
+ Phương pháp khối lượng: Đa phần các loài cá bống họ Eleotridae có thành
phần thức ăn có nguồn gốc động vật với khối lượng tương đối lớn, do đó nghiên
cứu này sử dụng phương pháp khối lượng và kết hợp với phương pháp tần số
xuất hiện để xác định phổ thức ăn của cá bống trứng và cá bống dừa theo hai
bước: (i) sử dụng cân điện tử (3 số lẻ) cân tổng khối lượng mỗi loại thức ăn có
trong dạ dày cá; và (ii) khối lượng của mỗi loại thức ăn được qui đổi ra tỉ lệ phần
trăm (%) tính trên tổng khối lượng của mỗi thức ăn có trong dạ dày cá.
3.2.4
Nghiên cứu đặc điểm sinh học sinh sản của cá bống trứng
(Eleotris melanosoma) và bống dừa (Oxyeleotris urophthalmus)
Mẫu cá được thu từ tháng 8 năm 2012 đến tháng 7 năm 2013, chu kỳ thu mẫu là

1 tháng/lần. Các chỉ tiêu phân tích gồm:
(i) Giai đoạn thành thục sinh dục: dựa theo 6 bậc thang thành thục sinh dục
của Nikolsky (1963), kết hợp với phương pháp mô học của Drury &
Wallington (1980) và Kiernan (1990).
(ii) Tỉ lệ cá đực-cái: Quan sát đặc điểm hình thái kết hợp quan sát tuyến sinh
dục của cá để xác định giới tính.
(iii) Hệ số thành thục sinh dục (Gonadosomatic Index-GSI): xác định cho
từng tháng, GSI (%)=(GW/BW)*100 (GW: khối lượng tuyến sinh dục
cá; BW: khối lượng toàn thân cá).
(iv) Hệ số tích luỹ năng lượng (Hepatosomatic Index-HSI): cũng được xác
định cho từng tháng. HSI (%)=(LW/(BW)*100 (LW: khối lượng gan cá;
BW: khối lượng toàn thân cá).
(v) Tương quan chiều dài-khối lượng, hệ số điều kiện (CF): Xác định
phương trình tương quan giữa chiều dài và khối lượng cá dựa theo
Huxley (1924): W=a*Lb (W: khối lượng toàn than cá; L: chiều dài than
cá; a và b: hệ số). Hệ số điều kiện (CF) được xác định: CF=W/L b (W:
khối lượng toàn thân cá qua các tháng; L: chiều dài thân trung bình của
cá theo tháng; b: hệ số được xác định dựa vào phương trình W=a*Lb).


(vi) Mùa vụ sinh sản: được xác định dựa vào kết quả xác định các giaiđoạn
thành thục sinh dục, hệ số thành thục sinh dục (GSI), hệ số tích lũy năng
lượng (HSI) và hệ số điều kiện (CF) của cá.
(vii)
Sức sinh sản: xác định dựa vào khối lượng buồng trứng, số
lượng 1 mẫu trứng đại diện và được lấy tại 3 vị trí (phần đầu, phần giữa
và phần cuối buồng trứng). Sức sinh sản tuyệt đối xác định: PF=(n*G)/g
(G: khối lượng buồng trứng (g); g: khối lượng thân cá (g); n: số lượng
mẫu trứng đại diện (trứng)). Sức sinh sản tương đối xác định:
RF=PF/BW (PF: sức sinh sản tuyệt đối; BW: khối lượng cơ thể)

(Banegal, 1967).
(viii)
Chiều dài thành thục (L m): là chiều dài thành thục đầu tiên tại đó
50% tổng số cá thể trong quần đàn phát triển đến giai đoạn thành thục
(giai đoạn III) (King, 1995). Đường biểu diễn của P được thể hiện qua
phương trình: ln[(1-P)/P]= r*L m-r*L, đường biểu diễn của phương trình
này có dạng đường thẳng (y=ax+b), với hệ số gốc a=-r và tung độ gốc
b=r*Lm, bằng phương pháp hồi qui sẽ xác định được L m= -b/a và trong
nghiên cứu này Lm được xác định bằng phần mềm Stat (8.0).
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1 Xác định một số yếu tố sinh thái (nhiệt độ, pH, độ mặn, dòng chảy,
độ sâu, thực vật phù du, động vật phù du, động vật đáy) trên Sông
Hậu
4.1.1
Yếu tố thủy lý (pH, nhiệt độ, độ mặn)
Kết quả cho thấy pH ít biến động qua 6 đợt khảo sát (7,6-8,1), nhiệt độ từ 29,130,9oC, độ mặn chỉ có ở hạ nguồn trong tháng 2, 6 và 12, độ mặn trong mùa mưa
dao động từ 0-7,6%o và thấp hơn mùa khô (2-10,8%o). Kết quả cũng cho thấy
pH và nhiệt độ nước có biến động theo mùa (Hình 4.1). Theo Cees et al. (1995),
một số loài cá bống có khả năng phân bố ở độ mặn lên đến 25%0, tuy nhiên
chúng sống được trong nhiều loại hình thủy vực có độ mặn khác nhau và chúng
có thể sống trong môi trường có nhiệt độ nước dao động khá lớn (28,7-31,9 oC),
Khu vực kháo sát

Khu vực khảo sát

Địa điểm

“° sát

thậm chí đến 36,8oC.

Hình 4.1: Biến động pH, nhiệt độ và độ mặn của nước tại ba khu vực khảo sát

4.1.2

Tốc độ dòng chảy và độ sâu của thuỷ vực


Tốc độ dòng chảy có sự biến động lớn (0,1-1,3 km/giờ), các vị trí có tốc độdòng
chảy thấp tập trung ở giữa nguồn và cuối nguồn (0,1 km/giờ), cao nhất ở đầu
nguồn (1,3 km/giờ) (Hình 4.2).
Độ sâu thuỷ vực tại ba khu vực có biến động nhiều (4,3-14,4 m), trong đó các vị
trí khảo sát ở giữa nguồn có độ sâu cao nhất (8,7±2,7 m), thấp nhất ở thượng
nguồn (6,8±3,0 m) (Hình 4.2). Theo Đặng Ngọc Thanh và ctv. (2002), phân bố
của sinh vật đáy phụ thuộc vào độ sâu của thủy vực, theo chiều thẳng đứng thủy
vực nước tĩnh ở vùng ven bờ có nền đáy mềm bùn cát, nhóm thân mềm và tôm
SB Mùa mưa

Đầu nguồn

Giữa nguồn

Mùa khô

Khu vực khảo sát

Cuối nguồn

Khu vực khảo sát

cua phát triển nhiều hơn so với vùng đáy sâu.


Hình 4.2: Tốc độ dòng chảy và độ sâu của thủy vực ở ba khu vực khảo sát

4.1.3.1
Thực vật phù du (Phytoplankton): Có 31 loài ở đầu nguồn, 22
loài giữa nguồn và 15 loài cuối nguồn; vi khuẩn lam (Cyanobacteria),
tảo khuê (Bacillariophyta), tảo lục (Chlorophyta) chiếm ưu thế (1841%), tảo mắt (Euglenophyta), tảo giáp (Dinophyta), tảo vàng kim
(Chrysophyta) ít hơn (1-9%) (Hình 4.3).

Hình 4.3: Cấu trúc thành phần loài thực vật phù du ở ba khu vực khảo sát Tần số xuất hiện
thực vật phù du ở mùa mưa cao hơn mùa khô, các loài thuộc ngành vi khuẩn lam,


tảo khuê và tảo lục nhiều hơn so với các ngành còn lại và tập trung nhiều ở khu
vực đầu nguồn và giữa nguồn (Hình 4.4).


N Mùa khô * Mùa
mua

Mùa khô Mùa mua

Mùa khô Mùa mưa

Iấ

hỊ
ỉ1
1


Sỉ
I
M
1
i 1 __li_ i sỉ
iỉlu ^ $« Si
ầ ỉ i SGiữa nguồn
Đầu nguồn
Cuối nguồn
Ü thực vật phù du ở ba khu vực khảo sát theo mùa
Hình 4.4: Số lượng các loài
Mật độ thực vật phù du đầu nguồn và cuối nguồn cao hơn giữa nguồn
Tên ngành

Tên ngành

(Bảng 4.1). Đầu nguồn tảo khuê có mật độ cao nhất mùa khô (28.545±20.190 cá
thể/Lít), thấp nhất là tảo mắt (1.646±720 cá thể/Lít), giữa nguồn tảo lục cao nhất
(5.333±3.479 cá thể/Lít), thấp nhất là tảo mắt (1.633±809 cá thể/Lít), ở cuối
nguồn tảo khuê cao nhất (25.759±28.583 cá thể/Lít), thấp nhất là vi khuẩn lam
(86±33 cá thể/Lít). Qua đó cho thấy ngành tảo khuê chiếm ưu thế nhất so với các
ngành còn lại, mật độ xuất hiện cao nhất ở đầu nguồn và cuối nguồn, thấp nhất ở
Khu vực
Đầu
nguồn
Giữa
nguồn
Cuối
nguồn


Mùa vụ
Mùa khô
Mùa mưa
Mùa khô
Mùa mưa
Mùa khô
Mùa mưa

Bacillariophyta
28.545±2O.190
10.294±2.186
4.586±1.017
6.986±3.060
25.759±28.583
2.239±862

Euglenoph
yta
1.646±720
2.894±1.97
1.633±8091
3.703±2.06
70
0

Cyanobacteri
a 9.321±5.581
20.761±16.484
2.036±680
4.921±2.772

2.730±3.030
86±33

Chlorophy
ta
4.471±2.2
60
7.026±9.6
85
5.333±3.4
79
5.324±3.4
520
0

giữa nguồn.

Bảng 4.1: Mật độ trung bình thực vật phù du ở ba khu vực khảo sát trên tuyến Sông Hậu
Đơn vị tính: cá thể/Lít

4.1.3.2 Động vật phù du (Zooplankton) : cơ cấu giống loài động vật phù du xuất
hiện ở ba khu vực cũng khác nhau, trong đó Protozoa xuất hiện nhiều nhất với
51,4%, Rotifera chiếm 25,2%, Copepoda chiếm 18,9% và Cladocera chiếm 3,6%,
Veliger (ấu trùng lớp hai mảnh vỏ) xuất hiện rất ít (0,9%) ở đầu nguồn và giữa
nguồn (Hình 4.5). Kết
quả này tương tự với
Khác (0,9%)
Dương Trí Dũng và
Nguyễn Hoàng Oanh
(2011), thành phần động

vật phù du ở giữa
nguồn (rạch Cái Khế,
Cần Thơ) có 79 loài và
có 54 loài thường xuất
hiện, nhiều nhất vẫn là
Rotifer, tuy nhiên kết quả
này cao hơn nghiên
cứu của
Ngô
Đức
Chân
Rotifera
Protozoa
2%
^
(51,4%)
(2010) Hình 4.5: Cấu trúc thành
ở cuối
phần loài động vật phù du ở ba khu vực khảo sát
nguồn
Sông
f

(25,

)


Hậu có 48 loài.
Cladocera

(3,6%)

Copepoda
(18,9%)


25

Ể ầk iầ ,
Rotifera Cladocera Ccpepoda Ảu trùng

4.6:

Số

Đầu nguồn

lượng các

H

J,

sể dĩ

ỂÉ 11
....
Protozoa Rotifera Cladoceia Copepoda Ấu trùng

Hình


Giữa nguồn

Cuối nguồn

loài

động vật

phù

du ở ba

khu

vực khảo sát theo mùa Mật

độ động vật phù du mùa mưa cao hơn mùa khô, thấp nhất ở
giữa nguồn, cao nhất cuối nguồn (Bảng 4.2). Cladocera ở đầu nguồn cao nhất
(3.793±3.760 cá thể/m3), thấp nhất Copepoda (1.037±361cá thể/m^), giữa nguồn
Cladocera có mật độ cao nhất (1.137±376 cá thể/m 3), thấp nhất Protozoa
(696±630 cá thể/m3), cuối nguồn Protozoa cao hơn (35.408±38.256 cá thể/m3).

Bảng 4.2: Mật độ trung bình động vật phù du ở ba khu vực khảo sát trên tuyến Sông Hậu
Đơn vị tính: cá thể/m3
Khu vực
Đầu nguồn
Giữa nguồn
Cuối nguồn


Mùa vụ
Mùa khô
Mùa mưa
Mùa khô
Mùa mưa
Mùa khô
Mùa mưa

Protozoa
1.334±1.218
696±630
493±237
956±656
13.935±14.391
35.408±38.256

Rotifera
1.111±868
2.822±2.437
492±240
2.185±1.022
2.796±1.881
7.058±6204

Cladocera
3.259±3.532
3.793±3.760
1.137±376
637±342
178±308

894±1.344

Copepoda
1.037±361
3.437±3.879
696±333
815±334
537±465
3.081±2.543

3.1.3.3 Động vật đáy (Zoobenthos): có 73 loài (đầu nguồn: 17 loài, giữa nguồn:
23 loài, cuối nguồn: 33 loài) với 6 lớp: Gastropoda, Bivalvia, Crustacea, Insecta,
Oligochaeta, Polychaeta. Trong đó, Gastropoda nhiều nhất 12 loài (36%),
Bivalvia 8 loài (24%), Oligochaeta 4 loài (12%), Crustacea 4 loài (12%),
Polychaeta 3 loài (9%), Insecta 2 loài (6,%). Kết quả này cao hơn hạ lưu sông
Tiền (16 loài) (Vũ Ngọc Út và Dương Thị Hoàng Oanh, 2013).
loài, 24,2%)

(36,4%)

Hình 4.7: Cấu trúc thành phần loài động vật đáy ở ba khu vực
khảo sát


Mùa mưa Mùa
khô

W//A

ả .1

U n
iUÌOÉss



"1 "I TĨ
II li ¡¡I:

18I8

Tên ngành

MHBS* ♦*S\ **VS

'Mùa mưa Mùa khô

il

Tên ngành

Đầu nguồn

14,
1 11 iĩi
Tên ngành

Giữa nguồn
Cuối nguồn
Hình 4.8: Số lượng các loài động vật đáy ở ba khu vực khảo sát theo mùa


Mật độ động vật đáy vào mùa mưa cao hơn mùa khô, ở đầu nguồn và giữa
nguồn cao hơn ở cuối nguồn (Bảng 4.3). Khu vực đầu nguồn Oligochaeta có
mật độ cao nhất (82±57 cá thể/m2) và thấp nhất là Gastropoda (7±1 cá thể/m2),
khu vực giữa nguồn Bivalvia có mật độ cao nhất (58±17 cá thể/m 2), thấp nhất
là Insecta (1±1 cá thể/m2), trong khi đó ở cuối nguồn Bivalvia có mật độ cao
nhất (60±85 cá thể/m2) và thấp nhất là Crustacea (8±6 cá thể/m2), Oligochaeta
và Insecta không thấy xuất hiện.

Bảng 4.3: Mật độ trung bình động vật đáy ở ba khu vực khảo sát trên tuyến Sông Hậu
Đơn vị tính: cá thể/m2
Mùa
Oligochaet
Polychaet
Gastropod
Bivalvi
Crustace
Inse
Khu vực
vụkhô
cta
Mùa
25±7a
15±14a
63±43a
83±19a
50±30a
55±
Đầu
17
nguồn

Mùa mưa
82±57
23±4
7±1
11±10
16±20
8±5
Mùa khô
16±11
18±14
28±17
55±41
15±15
9±9
Giữa
nguồn
Mùa mưa
38±4
55±3
24±6
58±17
50±39
1±1
Mùa khô
0
30±22
12±15
60±85
8±6
0

Cuối
Mùa mưa
12±14
21±30
53±34
17±26
6±1
nguồn
0
3

4.2 Xác định thành phần loài và mức độ phong phú tương đối (CPUE)
của họ cá bống Eleotridae phân bố trên tuyến Sông Hậu
4.2.1
Thành phần loài cá bống họ Eleotridae
Nghiên cứu đã xác định được 5 loài cá bống gồm: cá bống trứng
(E.melanosoma), bống dừa (O. urophthalmus), bống tượng (O. marmorata),
bống trân (B. humeralis) và bống trân (B. butis). Trong đó, loài B. humeralis
chỉ có ở cuối nguồn và cá bống trân (B. Butis) có ở đầu nguồn và cuối nguồn;
tuy nhiên cá bống trứng, cá bống dừa và cá bống tượng xuất hiện ở cả khu vực
thượng nguồn, giữa nguồn và hạ nguồn của tuyến Sông Hậu (Bảng 4.4).

1
2
3
4
5

S
t

t

Tên khoa học
Eleotris melanosoma Bleeker, 1853
Oxyeleotris urophthalmus (Bleeker, 1851)
Oxyeleotris marmorata (Bleeker, 1852)
Butis butis (Hamilton, 1822)
Butis humeralis (Valenciennes, 1837)

Tên địa
phương
Cá bống trứng
Cá bống dừa
Cá bống
tượng

bống trân
Cá bống trân

Đầ
u
nguồn
++
+
+

Giữ
a
ngu
++

++
+
+

Cuố
i
ngu
++
++
+
+
+

(+): Số lượng loài xuất hiện ít (<30%); (++): Số lượng loài xuất hiện nhiều (3060%) (Scheffer & Robinson, 1939)
Dựa theo thang tần số xuất hiện của Scheffer và Robinson (1939) để xác định
loài cá chiếm ưu thế xuất hiện theo mùa ở đầu nguồn, giữa nguồn và
Bảng 4.4: Phân bố của các loài cá bống (Eleotridae) trên tuyến Sông Hậu__________________________


cuối nguồn trên tuyến Sông Hậu. Kết quả cho thấy cá bống trứng xuất hiện nhiều
ở ba khu vực, cá bống dừa xuất hiện nhiều ở giữa nguồn và cuối nguồn, cá bống
tượng và hai loài cá bống trân xuất hiện ít tập trung giữa nguồn và cuối nguồn;
kết quả này tương tự với nghiên cứu của Lê Ngọc Diện (2011) và Trần Đắc Định
và ctv. (2013). Theo Lê Ngọc Diện (2011), nghiên cứu bằng nghề lưới kéo ở giữa
nguồn Sông Hậu chỉ có cá bống trứng (E. melanosoma) và bống trân (B. butis)),
trong khi đó hai loài B. butis và B. humeralis chỉ có ở cuối nguồn.
Kết quả cũng cho thấy chiều dài thân cá bống trứng là nhỏ nhất và ít biến động
giữa mùa mưa và mùa khô (Hình 4.9), trong khi đó cá bống tượng có chiều dài
lớn nhất và biến động nhiều. Chiều dài cá bống trứng biến động nhiều ở thượng
nguồn, cá bống dừa có kích cỡ lớn nhất ở giữa nguồn từ tháng 4-6 (5,3-7,6 cm).

Theo Trịnh Liệt (2010), cá bống trứng và bống dừa con thường xuất hiện nhiều
vào đầu mùa mưa từ tháng 5-6, điều này phù hợp với nhận định của ngư dân khai
thác trong vùng.


'
1

1
I
I

20
16
18
14

Mùa mưa Mùa khô

12
10
8
6
4
2
0

Eleotrís
melanosoma


Oxyeleotrís
urophthalmus

Oxyeleotrís
marmorata

Butis butis Butis humeralis

Loài cá

Hình 4.9: Chiều dài của 5 loài cá bống xuất hiện trong mùa mưa và mùa khô

4.2.2 Mức độ phong phú tương đối (CPUE) của cá bống họ Eleotridae
Khảo sát bằng nghề lưới kéo trên tuyến Sông Hậu chỉ khai thác được cá bống
trứng (E. melanosoma) và cá bống trân (B. butis). Cá bống trứng xuất hiện đầu
nguồn và giữa nguồn; bống trân chỉ xuất hiện ở cuối nguồn. CPUE n cá bống
trứng vào mùa khô dao động từ 1-173 cá thể/ha thấp hơn vào mùa mưa (2-343
cá thể/ha), CPUEn cao nhất và biến động nhiều ở đầu nguồn và giữa nguồn
(Hình 4.10); CPUEn cá bống trân chỉ có ở cuối nguồn với số lượng rất thấp,
CPUEn vào mùa khô dao động từ 1-21 cá thể/ha và cao hơn mùa mưa (3-6 cá
thể/ha).
400
350 .

400 350 'ĩ'
Mùa mưa

300

400 350

■ Mùa mưa K Mùa khô

300 250 200

• 300

150 100 50 0

■ Mùa mưa Mùa khô

250 200

250

= 150

200 ;

100 50

150

0



100 50

À


À

0
Điểm 1 Điểm 2 Điểm 3 Điểm 4 Điểm 5
Vị trí thu mẫu

Điểm 6 Điểm 7 Điểm 8 Điểm 9 Điểm 10

Điểm 11 Điểm 12 Điểm 13 Điểm 14 Điểm 15

Vị trí thu mẫu

Vị trí thu mẫu

Đầu nguồn
Giữa nguồn
Cuối nguồn
Hình 4.10: CPUEn cá bống trứng và bống trân ở ba khu vực khảo sát trên tuyến Sông Hậu


4.3 Nghiên cứu đặc điếm dinh dưỡng của cá bống trứng (Eleotris
melanosoma) và bống dừa (Oxyeleotris urophthalmus)
4.3.1
Hình thái cấu tạo hệ tiêu hóa của cá bống trứng và cá bống
dừa
Cá bống trứng có miệng cận trên, rạch miệng nằm ngang kéo dài, miệng rộng,
to và co duỗi được, hàm dưới miệng dài hơn hàm trên và đưa ra trước. Răng
thường phân bố ở hai hàm và xương hầu, răng hàm nhọn, mịn, xếp thành nhiều
hàng, răng hầu nhỏ, nhọn xếp thành hình bầu dục ở vùng hầu. Lược mang cá là
cơ quan lọc và giữ thức ăn, giúp bảo vệ các tia mang phía sau, lược mang ngắn,

mảnh, xếp thưa và xếp thành hàng trên cung mang hướng vào xoang miệng hầu
và đây là nhóm cá ăn động vật (Nguyễn Bạch Loan, 2003). Thực quản nối tiếp
sau xoang miệng hầu và có dạng ống to, ngắn, vách khá dày, có thể co dãn do
mặt trong có nhiều nếp gấp. Dạ dày nằm tiếp sau thực quản có nhiệm vụ chứa
và lên men tiêu hóa thức ăn, có dạng túi ngắn vách dày, có nhiều nếp gấp có
khả năng giản nở, chúng thường có mối quan hệ với thức ăn và kích thước con
mồi. Ruột là phần cuối của ống tiêu hóa có nhiệm vụ tiết ra men tiêu hóa thức
ăn và tiếp nhận các men do các tuyến khác chuyển đến, đồng thời hấp thụ vật
chất dinh dưỡng đưa vào máu, ruột cá bống trứng có dạng gấp khúc và ngắn,
cho thấy cá ăn thiên về động vật. Ngoài ra, độ rộng miệng của cá bống trứng ở
ba nhóm kích cỡ có sự khác biệt nhau (Bảng 4.5), điều này cho thấy cá bống
trứng có sự chọn lựa kích cỡ thức ăn theo quá trình phát triển . Bảng 4.5: Độ rộng
miệng của cá bống trứng ở ba nhóm kích cỡ khác nhau_________________________________________
Nhóm kích cỡ cá

Chiều dài tổng (Lt, cm)

Độ rộng miệng (cm)

Cỡ mẫu

a

64

1

2,5-5,0

0,202±0,097


2

5,1-7,0

0,539±0,139b

88

71-9,0

c

97

3

0,854±0,227

Các giá trị trung bình trong một cột có cùng ký tự thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (P>0,05)

Chỉ số RLG (relative length of the gut) của cá bống trứng cũng được xác định ở
ba nhóm kích cỡ cá (0,439-0,666) (Bảng 4.6). Theo Nikolski (1963), những loài
cá có tính ăn động vật sẽ có trị số Li/Ls<1, cá ăn tạp có Li/Ls=1-3 và cá ăn thực
vật khi Li/Ls>3, kết quả này cho thấy tính ăn của cá bống trứng là ăn tạp thiên
về động vật.


Bảng 4.6: Chỉ số Lt, Li, RLG cùa cá bống trứng ở ba nhóm kích cỡ
Chiều dài tổng (Lt, cm)

Chỉ tiêu
Lt=2,5-5,0
Lt=5,1-7,0
Lt

4,57±0,52

6,00±0,51

Lt=7,1-9,0
67,62±0,48

Li
3,10±0,62
4,29±0,60
5,39±0,58
Li/Lt (RLG)
0,439±0,171
0,614±0,134
0,666±0,137
Lt: chiều dài toàn thân trung bình của cá (cm); Li: chiều dài trung bình của ruột cá (cm)

Cá bống dừa có

miệng rộng, cận trên,
15

rạch miệng hướng xuống, xoang



miệng hầu to, không có màng nhầy, co duỗi được và đặc trưng cho nhóm cá ăn
mồi có kích thước lớn. Răng phân bố ở hai bên hàm, vòm miệng và hầu, răng
hàm rất nhiều, bén nhọn và hầu hết có dạng răng chó mọc thành nhiều hàng ở cả
2 hàm trên và dưới. Lược mang được cấu tạo bởi 3 đôi cung mang, mỗi đôi cung
mang có 1 hàng lược mang (9-12 lược mang) nằm trong xoang miệng hầu, có
màu trắng hồng, mảnh, thưa, xếp thành một hàng dạng gai nhọn, cứng nằm trên
cung mang và hướng vào xoang miệng hầu. Thực quản nằm tiếp sau xoang
miệng hầu, có nhiệm vụ đưa thức ăn xuống dạ dày. Thực quản có dạng hình ống,
nhỏ và ngắn, mặt trong có nhiều nếp gấp, có độ đàn hồi cao cho thấy đây là loài
cá ăn động vật. Dạ dày cá nằm tiếp theo sau thực quản, nằm trong xoang nội
quan và có chức năng chứa thức ăn, cung cấp men tiêu hóa tham gia quá trình
tiêu hóa thức ăn, có hình túi, to, vách dày, mặt trong có nhiều nếp gấp có thể
giãn nở và chứa được mồi có kích thước lớn. Dạ dày ngắn, có hình chữ Y, vách
dày, nhiều nếp gấp tạo độ đàn hồi cao và có thể chứa thức ăn lớn. Kết quả cho
thấy độ rộng miệng có sự khác biệt ở ba nhóm kích cỡ, ở nhóm cá có chiều dài
tổng (Lt) từ 4,0-6,5 cm độ rộng miệng là 0,864±0,116 cm, ở nhóm cá có Lt=6,69,0 cm là 0,637±0,137 cm, ở kích cỡ Lt=9,1-12 cm là 1,078±0,231 cm, điều này
cho thấy cá bống dừa cũng có khả năng lựa chọn thức ăn và theo sự gia tăng độ
rộng miệng (Bảng 4.7).
Bảng 4.7: Độ rộng miệng của cá bống dừa ở ba nhóm kích cỡ khác nhau___________________________
Nhóm kích cỡ cá______Chiều dài toàn thân (Lt, cm)_______Độ rộng miệng (cm)_______Cỡ mẫu
1

2______________
3

(P>0,05)

Các giá trị trung bình trong một cột có cùng ký tự thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê

Chỉ số RLG của cá bống dừa cũng được phân tích ở cá có chiều dài tổng

từ 4-12 cm và chỉ số được xác định là nhỏ hơn 1, ở nhóm cá nhỏ nhất RLG là
0,63±0,12, trong khi ở nhóm cá lớn nhất là 0,74±0,15 (Bảng 4.8).
4

5___________________________________________________________________________________________________________________________________________

B
ảng 4.8: Chỉ số Lt, Li, RLG của cá bống dừa ở 3 nhóm kích cỡ___________________________________
6
Chiều dài toàn thân (Lt, cm)
7
Chỉ tiêu- - -----------------------------------------------------------4—--—14— --— -------- -----------------------------8_________________________________________________
______________________Lt=4,0-6,5___________Lt=6,6-9,0
_______________________________Lt=9,1-12,5
9
Lt
5,85±0,58
8,04±0,75
9,95±0,64
10
Li
3,65±0,67
5,24±1,05
7,29±1,40
11
Li/Lt (RLG)
0,63±0,12
0,65±0,11
0,74±0,15
12

Lt là chiều dài toàn thân trung bình của cá (cm); Li là chiều dài trung bình của ruột cá (cm)

4.3.2
Phổ thức ăn của cá bống trứng và cá bống dừa
4.3.2.1
Thành phần thức ăn theo phương pháp tần số xuất hiện Thành
phần thức ăn cá bống trứng gồm: giáp xác, thân mềm, cá con và thức ăn
2
3


khác (thực vật phù du và động vật phù du), trong đó giáp xác có tần số
xuất hiện là 19,57%, thân mềm là 8,70% và cá con là 2,20%, trong

2
4


13

Từ kết quả phân tích thành phần thức ăn theo
phương pháp khối lượng (Bảng 4.11 và Bảng 4.12)
kết hợp với kết quả xác định thành phần thức ăn
theo phương pháp tần số xuất hiện (Bảng 4.9 và
Bảng 4.10) đã xác định được phổ thức ăn của cá
bống trứng và cá bống dừa. Trong phổ thức ăn của
cá bống trứng nhóm giáp xác có tỉ lệ cao nhất
(78,5%), kế đến là thân mềm (15,0%), cá con
(6,3%) và thức ăn khác (0,2%). Trong phổ thức ăn
của cá bống dừa nhóm thân mềm có tỉ lệ cao nhất

(47,7%), kế đó là giáp xác (37,5%), cá con
(14,1%) và thức ăn khác (0,7%) (Hình 4.12). Theo
Watts (2004), thức ăn ưa thích của cá bống là cá

2
5


×