Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Thực chất, ý nghĩa cuộc cách mạng trong triết học do c mác và PH angghen thực hiện tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.21 KB, 21 trang )

Tóm tắt nội dung của tiểu luận

1


I. Lý do chọn đề tài
Triết học là môn khoa học có lịch sử lâu đời và có rất nhiều đóng góp
cho kho tàng tri thức nhân loại. Sự phát triển những tư tưởng triết học của
nhân loại là một quá trình không đơn giản. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm, và gắn với nó là cuộc đấu tranh giữa các phương
pháp nhận thức hiện thực – phương pháp biện chứng và phương pháp siêu
hình - tuy là cái trục xuyên suốt lịch sử triết học,song lịch sử diễn biến của nó
lại hết sức phức tạp.
Triết học Mác là một hệ thống triết học khoa học và cách mạng, chính
vì vậy nó đã trở thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học của giai
cấp công nhân và nhân loại tiến bộ trong thời đại mới. Triết học Mác đã kế
thừa những tinh hoa, từ đó đưa ra những nguyên lý khoa học giúp con người
nhân thức đúng và cải tạo thế giới.
Sự ra đời triết học Mác tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong
lịch sử phát triển triết học của nhân loại. C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa
một cách có phê phán những thành tựu tư duy nhân loại, sáng tạo nên chủ
nghĩa duy vật triết học triệt để, không điều hoà với chủ nghĩa duy tâm và phép
siêu hình. Để xây triết học duy vật biện chứng, Mác đã cải tạo chủ nghĩa duy
vật cũ và cả phép biện chứng duy tâm của Hêghen. Đó là một cuộc cách mạng
thật sự trong học thuyết về xã hội, một trong những yếu tố chủ yếu của bước
ngoặt cách mạng mà Mác và Ăngghen đã thực hiện trong triết học.
Vì vậy em đã chọn đề tài : “.Thực chất, ý nghĩa cuộc cách mạng trong
triết học do C.Mác và PH. Angghen thực hiện” cho bài tiểu luận của mình.

2



II. Giới thiệu về C.Mác và Ph. Anghen.
1.

C.Mác
C. Mác sinh ngày 5 tháng 5 năm 1818 ở thành phố Tơriơ trong gia
đình luật sư Heinrich Marx.
Năm mười hai tuổi (1830) C. Mác vào học trường trung học ở Tơriơ.
Sức học của C. Mác thuộc loại giỏi, đặc biệt C. Mác nổi bật ở những lĩnh vực
đòi hỏi tính độc lập sáng tạo. C. Mác cũng tỏ ra có năng lực về toán học.
Mùa thu 1835, C. Mác tốt nghiệp trường trung học, sau đó không lâu,
tháng mười 1835, C. Mác vào trường đại học tổng hợp Bonn để học luật. Hai
tháng sau theo lời khuyên của bố C. Mác tiếp tục học ở trường Đại học Tổng
hợp Berlin.
Ở trường Đại học, năm 1836, ngoài luật học, sử học và ngoại ngữ C.
Mác bắt đầu đi sâu nghiên cứu triết học. Mùa xuân 1837, C. Mác bắt đầu
nghiên cứu kỹ những tác phẩm của Hê-ghen, sang năm 1839 thì vùi đầu vào
nghiên cứu triết học, suốt cả năm 1939 và một phần của năm 1840 C. Mác tập
trung nghiên cứu những vấn đề lịch sử triết học Cổ đại.
Ngày 15 Tháng Tư 1841, khi mới 23 tuổi, C. Mác nhận được bằng
Tiến sĩ triết học với luận án Về sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của
Démocrite, và triết học tự nhiên của épicure tại trường Iêna.
Tháng Năm 1843, C. Mác đến Kroisnak, một thành phố nhỏ vùng
Rhein và ông đã chính thức làm lễ thành hôn với Jenny vôn Vestphalen.
Lần đầu tiên, C. Mác gặp Ph. Ăng-ghen vào cuối tháng Mười Một
1842, khi Ph. Ăng-ghen trên đường sang Anh và ghé thăm ban biên tập tờ
Rheinische Zeitung (Nhật báo tỉnh Ranh). Mùa hè năm 1844, Ph. ăng-ghen

3



đến thăm C. Mác ở Pa-ri. Hai ông đã trở thành những người bạn cùng chung
lý tưởng và quan điểm trong tất cả mọi vấn đề lý luận và thực tiễn. Theo yêu
cầu của Chính phủ Vương quốc Phổ, Chính phủ Pháp đã trục xuất C. Mác.
Ngày 3 tháng Hai 1845, C. Mác rời Pa-ri đến Brussel, ít lâu sau Ph. Ăng-ghen
cũng đến đây và hai ông lại tiếp tục cộng tác chặt chẽ với nhau. Sau khi cách
mạng năm 1848, ở Pháp nổ ra Chính phủ Bỉ trục xuất C. Mác. Ông lại đến Pari, Tháng tư 1848, C. Mác cùng với Ph. Ăng-ghen đến Kioln, tại đây Mác trở
thành Tổng biên tập tờ Nhật báo tỉnh Ranh, cơ quan của phái dân chủ. Năm
1849 Chính phủ Phổ đóng cửa tờ báo và trục xuất C. Mác. Ông lại đến Pa-ri,
nhưng lần này ông chỉ lưu lại ba tháng. Tháng Tám 1849, từ Pa-ri C. Mác đi
Luân-đôn và sống đến cuối đời (1883). C. Mác qua đời ngày 14 Tháng Ba
1883 ở Luân-đôn.
Hoạt động cách mạng sôi nổi và con đường tìm ra quy luật lịch sử
C. Mác
Công tác thực tiễn ở báo Rheinische Zeitung đã làm thay đổi cơ bản
thế giới quan của C. Mác chuyển từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy
vật và từ chủ nghĩa dân chủ - cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản.
Tháng Hai 1844, trên tờ tạp chí Niên giám Pháp - Đức C. Mác đăng
bài Góp phần phê phán triết học pháp luật của Hê- ghen. Từ tháng Tư - tháng
Tám 1844, C. Mác viết Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, thực chất là
những phôi thai của những tư tưởng hết sức quan trọng mà sau này C. Mác
phát triển một cách khoa học trong bộ Tư bản. Tháng hai 1845, cuốn sách Gia
đình thần thánh của C. Mác và Ph. Ăng- ghen viết chung ra đời phê phán
mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm chủ quan của phái Hê-ghen trẻ, thực chất là phê
phán toàn bộ chủ nghĩa duy tâm , đồng thời nêu ra vai trò quyết định của quần
chúng nhân dân trong lịch sử. Thời kỳ hoạt động của C. Mác ở Pa-ri kết thúc
(tháng Hai 1845), một thời kỳ mới sau đó mở ra với mục đích rõ ràng mà C.
4



Mác tự đặt ra cho mình: đề xuất một học thuyết cách mạng mới. C. Mác cùng
với Ph. Ăng- ghen hợp sức viết Hệ tư tưởng Đức (1845-1846) tiếp tục phê
phán chủ nghĩa duy tâm của Hê-ghen và phái Hê-ghen trẻ đồng thời phê phán
chủ nghĩa duy tâm không nhất quán của Ludvich Phoiơbach. Trong cuốn Sự
bần cùng của triết học (1847) C. Mác đã chống lại triết học tiểu tư sản của P.J.
Pruđông và trình bày những cơ sở của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chính trị
kinh tế học vô sản. Năm 1848 được sự uỷ nhiệm của Đại hội II Liên đoàn
những người cộng sản C. Mác và Ph. Ăng- ghen viết Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản- một văn kiện mang tính chất cương lĩnh của chủ nghĩa C. Mác và
đảng vô sản.
Tháng Sáu năm 1859, công trình thiên tài của C. Mác Góp phần phê
phán môn chính trị kinh tế học ra đời viết về tiền tệ và lưu thông tiền tệ;
nhưng điều đặc biệt quan trọng là lần đầu tiên tác phẩm đã trình bày học
thuyết Mác-xít về giá trị , cơ sở của học thuyết kinh tế của C. Mác.
C. Mác là người tổ chức và là lãnh đạo của Quốc tế cộng sản I thành
lập ngày 28 tháng 9 1864, ở Luân- đôn. Năm 1867 bộ Tư bản (tập I)- tác
phẩm chủ yếu của C. Mác ra đời. Tập II và III C. Mác không kịp hoàn tất, Ph.
Ăng-ghen đảm nhận việc chuẩn bị xuất bản hai tập này. Trong bộ Tư bản C.
Mác đã vạch rõ quy luật giá trị thặng dư dưới hình thái giá trị thặng dư tuyệt
đối và giá trị thặng dư tương đối; và quy luật giá trị với tư cách là quy luật
chung của nền sản xuất hàng hóa được phát triển trong quy luật cung và cầu,
trong những quy luật của lưu thông tiền tệ.
Trong tác phẩm những năm cuối đời C. Mác nêu lên hình thức hợp lý
nhất của chuyên chính vô sản là kiểu tổ chức chính trị như công xã Pa-ri
(Cuộc nội chiến ở Pháp- 1871).

5


Trong cuốn Phê phán cương lĩnh Gôta (1875) C. Mác đã kịch liệt phê

phán những sai lầm cơ hội chủ nghĩa của những người lãnh đạo đảng xã hội
dân chủ Đức, đề ra một vấn đề hết sức quan trọng về thời kỳ quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản và hai giai đoạn của chủ nghĩa cộng sản,
nghĩa là bản thân xã hội cộng sản phải phát triển qua hai giai đoạn: giai đoạn
thấp- chủ nghĩa xã hội, giai đoạn cao- chủ nghĩa cộng sản. Năm 1876 sau khi
Quốc tế cộng sản đệ nhất giải tán, C. Mác nêu lên ý kiến thành lập các đảng
vô sản ở các nước là nhiệm vụ chính trị hàng đầu trong phong trào công nhân.
2. Ph. Ăngghen
Ph. Ăngghen sinh ngày 28 tháng 11 năm 1820 ở Barmen, Vương quốc
Phổ (nay là Wuppertal, Đức ). Bố của ông là một chủ xưởng dệt lớn ở Phổ lúc
bấy giờ. Năm 1837 theo yêu cầu của Bố, Ăngghen phải thôi học trung học để
làm việc kinh doanh.
Trong thời gian này ông tự học các ngành sử học, triết học, văn học,
ngôn ngữ và thơ ca. Tháng 6 năm 1838, Ph.Ăngghen đến làm việc tại văn
phòng thương mại ở thành phố cảng Barmen.
Cuối năm 1839 Ph.Ăngghen bắt tay vào nghiên cứu các tác phẩm triết
học của Hênghen..Tháng 9 năm 1841, Ph. Ăngghen đến Bec – lin và gia nhập
đoàn pháo binh, nhưng ông vẫn lui tới Đại học Tổng hợp Bec – lin nghe các
bài giảng triết học, tham gia thảo luận về các bài giảng lịch sử tôn giáo. Mùa
xuân 1842, Ph. Ăngghen bắt đầu cộng tác với tờ Rheinische Zeitung ( Nhật
bào tỉnh Ranh ). Tháng 11 năm 1842, trên đường sang Anh, Ph.Ăngghen đã
ghé thăm trụ sở tờ báo C.Mác, Tổng biên tập tờ báo. Ông ở lại Anh 2 năm.
Bài báo “Tình cảnh giai cấp công nhân ở Anh” (1842) cùng với những bài
báo khác của Ph. Ăngghen viết ra năm đó đã phân tích rõ sự phân chia xã hội
thành ba giai cấp cơ bản: Giai cấp quý tộc chiếm hữu ruộng đất, giai cấp tư
sản công nghiệp và giai cấp vô sản.

6



Từ năm 1844 C.Mác và Ph.Ăngghen cộng tác chặt chẽ với nhau và trở
thành bạn thân. Nhờ sự giúp đỡ của Ph.Ăngghen về mặt tài chính, gia đình
của Mác mới có thể vượt qua những khó khăn trong cuộc sống và bộ Tư bản
mới được xuất bản trọn vẹn. Tình bạn của các ông đã thực sự trở thành một
“huyền thoại” như nhận xét của một giáo trình triết học Mỹ.
Tháng 2 năm 1845 cuốn sách “Gia đình và thần thánh” của C. Mác và
Ph. Ăngghen ra đời đã phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm và phương pháp
của nó. Hai ông cùng hợp sức viết công trình nổi tiếng “Hệ tư tưởng Đức”
(1845 – 1846), tiếp đó năm 1848 Đại hội II Liên đoàn những người Cộng sản
đã ủy nhiệm C. Mác và Ph. Ăngghen cùng viết “Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản”.
Trong thời gian sống ở Pari, Ph. Ăngghen quan tâm nhiều đến hoạt
động của BCH Trung ương Liên đoàn những người Cộng sản và trở thành Ủy
viên của Ban lãnh đạo, là một trong những người lãnh đạo câu lạc bộ công
nhân Đức (3/1848) do BCH Trung ương LĐ những người Cộng sản lập ra.
Tháng 4 năm 1848, ông cùng với C. Mác trở về Đức tham gia cuộc
cách mạng Đức. Tháng 10 năm 1848 ông đã đi Bỉ để tránh lệnh truy nã của
chính quyền Phổ nhưng không được phép cứ trú chính trị, Ph. Ăngghen đã
đến Pari sau đó sang Thụy Sĩ tham gia Đại hội các Liên đoàn công nhân Đức,
ông được bầu vào Ủy ban Trung ương của tổ chức này.
Tháng giêng năm 1849, ông trở vể Đức và tiếp tục hoạt động cách
mạng. Khi cuộc đấu tranh bùng nổ ở Tây và Nam nước Đức (5/1849), Ph.
Ăngghen đã vạch ra một kế hoạch hoạt động quân sự, thành lập quân đội cách
mạng tiến hành cuộc khởi nghĩa. Ngày 10 tháng 05 năm 1849, Ph. Ăngghen
đến Elberfeld và được bổ sung vào Ban quân sự. Trong thời kỳ này ông đã
tham gia trực tiếp 4 trận đánh lớn, trong đó có trận Rastatt. Sau này Ph.
Ăngghen đã viết trước tác Luận văn quân sự nổi tiếng.

7



Tháng 11 năm 1850, Ph. Ăngghen buộc phải chuyển đến Manchester
và lại bắt đầu làm việc ở văn phòng thương mại. Tháng 09 năm 1870, Ph.
Ăngghen đến London và được đưa vào Tổng Hội đồng của Quốc tế Cộng sản
I. Năm 1871, Ph. Ăngghen tham gia vào việc tổ chức chiến dịch bảo vệ Công
xã Pari. Trong thời gian này, Ph. Ăngghen đã viết một số tác phẩm có giá trị
lý luận, đặc biệt là cuốn Chống Duyrinh (1878) góp phần to lớn cho việc hoàn
thiện chủ nghĩa Mác.
Sau khi C. Mác qua đời (1883), Ph. Ăngghen là người lãnh đạo Tổ
chức những người theo chủ nghĩa xã hội ở Châu Âu, chuẩn bị cho tập 2 và 3
của Bộ Tư bản mà C. Mác chưa kịp hoàn thành.
Ngày 14/7/1889 ở Pari Quốc tế cộng sản II ra đời là liên minh quốc tế
các đảng công nhân. Dưới sự lãnh đạo của Ph. Ăngghen, Quốc tế cộng sản II
có nhiều đóng góp quan trọng vào việc phát triển phong trào công nhân thế
giới. Năm 1895 khi Ph. Ăngghen mất những người theo chủ thuyết chống lại
học thuyết Marx như K.Kautsky, E.Bernstein dần chiếm ưu thế trong Quốc tế
II. Do không thống nhất về chiến lược, chia rẽ về tổ chức nên Quốc tế cộng
sản II tan rã khi chiến tranh thế giới I bùng nổ.
Ph. Ăngghen còn viết nhiều tác phẩm nổi tiếng vào những năm cuối
đời : Nguồn gốc gia đình, Chế độ tư hữu và Nhà nước ( 1884); Biện chứng
của tự nhiên (1884); Lútvít Phoiơbăc và sự cáo chung của triết học cổ điển
Đức ( 1886 – 1888); Sự phát triển của xã hội từ không tưởng đến khoa học
( 1892); Vấn đề nông dân ở Pháp và Đức (1894)

8


9



III. Thực chất và ý nghĩa cuộc cách mạng triết học do C. Mác và
Ph. Anghen thực hiện.
1.C.Mác và Ph. Anghen đã sáng tạo ra hình thức cao của chủ nghĩa
duy vật.
Triết học Mác ra đời là một tất yếu của lịch sử, một hiện tượng hợp
quy luật. Nó là kết tinh của tất cả những giá trị cao quý nhất của khoa học của
nhân loại. Đồng thời, cũng dựa trên hoàn về mặt kinh tế, xã hội thời đó. Có
thể nói, triết học Mác ra đời là bước ngoặt cách mạng, là đỉnh cao trong sự
phát triển lý luận triết học, vừa là sự tiếp thu, kế thừa biện chứng những di sản
triết học và khoa học của nhân loại.
Những năm 30 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản bắt đầu đi vào những
giai đoạn phát triển mới. Đặc biệt là những năm 40 của thế kỷ XIX, phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã phát triển mạnh trở thành lực lượng kinh tế
thống trị của Anh, Pháp và một phần ở Đức. Sự phát triển của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa đã làm bộc lộ những mâu thuẫn bên trong vốn có
của nó và biểu hiện xã hội là cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân chống
các nhà tư bản. Nhiều phong trào đấu tranh của công nhân đã trở thành khởi
nghĩa vũ trang. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân trong các nước tư bản
phát triển đã đặt ra một nhu cầu khách quan là phải có một vũ khí lý luận sắc
bén phản ánh được một cách khoa học quá trình vận động của cách mạng của
giai cấp công nhân.
Tiền đề kinh tế xã hội là hết sức quan trọng cho sự ra đời của triết học
Mác nhưng đó chỉ là những tiền đề khách quan đặt ra các nhu cầu lịch sử và
tạo khả năng cho việc giải quyết các nhu cầu đó. Triết học Mác nói riêng và
chủ nghĩa Mác nói chung không phải là một trào lưu biệt phái, nó không tách
rời khỏi văn minh nhân loại. Nền văn minh đó, trực tiếp là những trào lưu tư
tưởng và lý luận ở châu Âu thế kỷ XIX: triết học cổ điển Đức, kinh tế chính

10



trị học Anh, chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp. Triết học cổ điển Đức có vai
trò quan trọng về mặt lý luận đến sự hình thành thế giới quan duy vật biện
chứng của C.Mác và Ăngghen. C.Mác đã sử dụng những tư tưởng cách mạng
phép biện chứng của Heghen để luận giải những khát vọng dân chủ - cách
mạng của mình. Nhưng hai ông cũng phê phán quyết liệt chủ nghĩa duy tâm
của Hêghen trong học thuyết về “ý niệm tuyệt đối”. Trên cơ sở đấu tranh, phê
phán chủ nghĩa duy tâm, giải phóng phép biện chứng của Hêghen khỏi tính
chất thần bí, C.Mác và Ăngghen đã xây dựng nên phép biện chứng duy vật –
hình thức cao nhất của phép biện chứng.
Một đại biểu khác của trong triết học cổ điển Đức có ảnh hưởng lớn
đến sự hình thành quan điểm triết học của C.Mác và Ăngghen là Phoiơcbách.
Những tư tưởng triết học duy vật và vô thần của Phoiơcbách tạo tiền đề lý
luận quan trọng trong bước chuyển từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy
vật, từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường cộng sản của C.Mác và
Ăngghen. Tuy C.Mác và Ăngghen chịu ảnh hưởng của triết học Phoiơcbách
nhưng C.Mác và Ăngghen đã tiếp thu ở đó một cách có phê phán. Như vậy,
sự ra đời của triết học Mác dựa trên nền tảng là phép biện chứng của Hêghen
và chủnghĩa duy vật của Phoiơcbách. Ngoài ra, nó còn là sự tiếp thu những
tinh hoa tư tưởng của nhân loại.
Cuối XVIII đầu XIX, sự phát triển của khoa học tự nhiên chuyển
sang giai đoạn mới – giai đoạn khoa học tự nhiên lý luận. Khoa học này đòi
hỏi phải chuyển phương pháp siêu hình, máy móc sang phương pháp biện
chứng, nghĩa là trình bày sự phát triển của tự nhiên như một quá trình vận
động, liên hệ, thống nhất. Và ba phát minh lớn đã có ý nghĩa đối với sự hình
thành chủ nghĩa duy vật biện chứng: định luật bảo toàn và chuyển hóa năng
lượng, học thuyết tế bào, học thuyết tiến hóa. Phát minh thứ nhất cho phép
vạch ra được mối liên hệ thống nhất giữa các hình thức vận động khác nhau
của thế giới vật chất. Phát minh thứ hai chứng minh cho sự thống nhất, sự


11


phát triển từ thấp tới cao, từ đơn giản đến phức tạp. Phát minh thứ ba giải
thích tính chất biện chứng của sự phát triển phong phú, đa dạng của các giống
loài trong tự nhiên. Chính Anghen cũng đã nhận xét rằng, nếu truớc kia khoa
học tự nhiên là môn khoa học về những sự vật hoàn chỉnh thì đến thế kỷ XIX
khoa học tự nhiên trở thành khoa học về những quá trình , về phát sinh và
phát triển của các sự vật đó và về sợi dây liên lạc nối liền tất cả những quá
trình của giới tự nhiên thành một chỉnh thể vĩ đại.
Nhờ có những thành tựu ấy mà chủ nghĩa duy vật đã gắn bó với phép
duy vật biện chứng, trở thành một thế giới quan mới, thế giới quan duy vật
biện chứng.
Mác và Anghen kiên quyết bảo vệ chủ nghĩa duy vật triết học và đã
nhiều lần vạch rõ rằng mọi khuynh hướng ly khai là hết sức sai lầm. Quan
điểm của hai ông được trình bày rõ rệt nhất và tỉ mỉ nhất trong những tác
phẩm: "Lút-vích Phơ-bách" và "Chống Đuy-rinh", những sách này cũng như
"Tuyên ngôn của Đảng cộng sản", đều là những sách gối đầu giường của mọi
công nhân giác ngộ.
Trong tác phẩm "Lút-vích Phơ-bách", Mác đã tập trung phê phán
CNDV nói chung và CNDV Phoi bách nói riêng trên 3 vấn đề chính: vai trò
của thực tiễn; vấn đề con nguời; vấn đề tôn giáo. CNDV cũ cũng như Phoi
bách đã không thấy đuợc vai trò của thực tiễn trong mối quan hệ giữa vật chất
và tinh thần, không hiểu đuợc ý nghĩa nhận thức luận hoạt động nhận thức
của con nguời. Để rồi đi đến khẳng định vai trò của thực tiễn đối với nhận
thức, nhận thức là cơ sở của đời sống con nguời.CNDV cũ cũng như Phoi
bách chỉ nhìn nhận con nguời ở phuơng diện sinh học và phi xã hội. Mác
khẳng định con nguời vừa mang tính sinh học, vừa mang tính xã hội; con
người vừa là chủ thể vừa là sản phẩm của xã hội và thong qua hoạt động thực
tiễn, con nguời cải biến thế giới và cải tạo chính mình. CNDV Phoi bách đả

kích tôn giáo rồi lại cổ xuý nó như là một thứ tình yêu đặc biệt của con nguời.
12


Mác chỉ ra những mâu thuẩn trong quan điểm tôn giáo của Phoi bách và
khẳng định tình cảm tôn giáo là một sản phẩm của một xã hội nhất định. Cơ
sở của tôn giáo cũng là từ những mâu thuẩn trong đời sống hiện thực và phải
bằng thực tiễn để xoá bỏ nó chứ không phải bằng lý luận thuần tuý.
Trong "Chống Đuy-rinh", Anghen đã phê phán thứ triết học duy tâm,
siêu hình, phản động của Đuy rinh để rồi đưa ra những quan điểm của mình
về vấn đề cơ bản của triết học, về phạm trù vật chất; định nghĩa về phép biện
chứng và nêu lên một số phép biện chứng cơ bản. Với Mác và Anghen, xây
dựng phép biện chứng duy vật có nghía là giải quyết theo lối mới tất cả những
vấn đề mà chủ nghĩa duy vật truớc đây đã đề ra và giải quyết.
Không dừng lại ở chủ nghĩa duy vật của thế kỷ XVIII, Mác và Anghen
đã đẩy triết học tiến lên nữa làm cho triết học trở nên phong phú bằng những
thành quả của triết học cổ điển Đức và nhất là của hệ thống triết học Hê-ghen.
Trong số những thành quả đó thì thành quả chủ yếu là phép biện chứng, tức là
học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và
không phiến diện, tức là học thuyết về tính tương đối của nhận thức của con
người, nhận thức này phản ánh vật chất luôn luôn phát triển không ngừng.
Trong lời nói đầu của tác phẩm “Tư bản”, Mác viết : “ Phép biện
chứng của tôi không những khác về căn bản với phép biện chứng Hêghen mà
đối lập trực tiếp với phuơng pháp đó.”. Phép biện chứng của Hêghen mang
tính ưu việt nhưng ông ta đã trình bày nó trong cái vỏ duy tâm, thần bí, khiên
cuỡng.
Mác và Anghen đã tiếp thu những tinh hoa trong hệ thống biện chứng
của Hêghen, biến chủ thể của nó_ý niệm tuyệt đối thành không gì khác ngoài
vật chất được chuyển vào trong đàu óc con nguời và đuợc cải tạo trong đó. Để
rồi đến năm 1925, Anghen đã cho ra đời tác phẩm “ Biện chứng tự nhiên”

như là một bản báo cáo đầy đủ nhất về CNDV Mác.

13


Trong tác phẩm “ Biện chứng tự nhiên”, xuất phát từ các hình thái vận
động của vật chất, Enghen xác định đối tượng của các khoa học, lấy sự phụ
thuộc lẫn nhau của các khoa học làm nguyên tắc chung để phân loại chúng.
Theo Enghen, vật chất vận động từ thấp lên cao, từ vận động cơ học đến vận
động hoá học, sinh học và cao hơn cả là sự vận động của xã hội loài người.
Tương ứng với các hình thức vận động đó của vật chất – trong quá trình lịch
sử – là các khoa học: cơ học, vật lí học, hoá học, sinh học, khoa học xã hội.
Nhận thức phải đi từ các hình thái vận động thấp đến các hình thái vận động
cao hơn. Sự chuyển hoá từ một hình thái vận động này sang một hình thái vận
động khác cao hơn bao giờ cũng là một bước nhảy vọt, một quá trình biện
chứng. Vì vậy các khoa học nghiên cứu về chúng cũng phải phản ánh được
phép biện chứng đó. Enghen chỉ rõ rằng quan điểm máy móc, siêu hình về giới
tự nhiên đang sụp đổ do sự phát triển của khoa học tự nhiên và buộc phải
nhường chỗ cho quan điểm biện chứng. Điều đó đặt ra yêu cầu đối với các nhà
khoa học tự nhiên là cần chuyển từ tư duy siêu hình sang tư duy biện chứng,
phải tự giác nắm lấy phép biện chứng. Enghen còn đề cập đến hàng loạt các
vấn đề triết học khác như các quy luật cơ bản và các phạm trù của phép biện
chứng được rút ra từ trong tự nhiên; vấn đề lí thuyết tiến hoá Đacuyn (C.
Darwin); vấn đề vai trò của lao động trong sự hình thành con người.
Như vậy, Mác và Anghen đã giải phóng chủ nghĩa duy vật khỏi
phuơng pháp siêu hình, giải phóng phép biện chứng khỏi thế giới quan duy
tâm thần bí, cải tạo một cách biện chứng chủ nghĩa duy vật cũ mà đại diện là
chủ nghĩa duy vật Phoi bách, cải tạo một cách duy vật phuơng pháp biện
chứng của Hêghen. Thế giới quan duy vật biện chứng của Mác và Anghen là
sự kết hợp biện chứng giữa lý luận và phuơng pháp khoa học. Đến giai đoạn

triết học Mác và Anghen, chủ nghĩa duy vật lẫn phép biện chứng đã đuợc
nâng lên một trình độ cao hơn.

14


2.C.Mác và Ph. Anghen đã vận dụng Chủ nghĩa duy vật biện chứng
để sáng tạo nên Chủ nghĩa duy vật lịch sử
C.Mác và Ph. Anghen không chỉ sáng tạo ra hình thức cao của chủ
nghĩa duy vật mà còn vận dụng lý luận đó vào đời sống xã hội.
Các nhà triết học trước C.Mác, kể cả các nhà triết học có quan điểm
duy vật, khi nghiên cứu tự nhiên, đều rơi vào quan điểm duy tâm khi nghiên
cứu xã hội. Theo quan điểm duy tâm này, sự vận động và phát triển của xã
hội phụ thuộc vào ý thức, tư tưởng của con người, thậm chí phụ thuộc vào ý
thức, tư tưởng của một số cá nhân.
Đánh giá về ý nghĩa của việc phát hiện ra chủ nghĩa duy vật lịch sử của
C.Mác, Ph.Ăngghen viết: “Giống như Đácuyn đã tìm ra quy luật phát triển
của thế giới hữu cơ, Mác đã tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người:
cái sự thật giản đơn đã bị những tầng tầng lớp lớp những tư tưởng phủ kín cho
đến ngày nay là: con người trước hết cần phải ăn, uống, chỗ ở và mặc đã rồi
mới có thể làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo và v.v. được”.
Trong phần Lời tựa của tác phẩm “Góp phần phê phán khoa kinh tế
chính trị” , Mác đã trình bày vắn tắt lịch sử của các công trình nghiên cứu của
mình và nêu lên một cách kinh điển quan niệm duy vật về lịch sử. ở đó, ông
đã rút ra những kết luận hết sức quan trọng, có tính chất cách mạng đối với lý
luận cũng như thực tiễn. Lần đầu tiên, Mác đã trình bày những nguyên lý của
chủ nghĩa duy vật lịch sử mà trước đó không tìm thấy trong một tác phẩm nào
khác.
Tiếp tục tư tưởng xuất phát trong “Hệ tư tưởng Đức”: “tiền đề đầu tiên
của mọi sự tồn tại của con người, và do đó là tiền đề của mọi lịch sử đó là:

người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể “làm ra lịch sử”,Mác đi đến
kết luận: con người muốn sống và sáng tạo ra lịch sử thì trước hết phải sản xuất
vật chất. “Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế là con người

15


đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình”. Để sản xuất vật
chất, con người không thể không quan hệ với nhau và quan hệ với tự nhiên.
Đó là quan hệ “kép”, hay theo Mác, là “quan hệ song trùng” mang tính khách
quan, phổ biến trong lịch sử sản xuất vật chất của nhân loại nhằm mục đích cải
biến tự nhiên và xã hội. Trình độ của lực lượng sản xuất nói lên trình độ của
người lao động và của công cụ lao động.
Như vậy, biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
được biểu hiện là biện chứng của “phù hợp” quan hệ sản xuất). Bởi vì, “phù
hợp” hay “không phù hợp” thì quan hệ sản xuất vẫn quy định khuynh hướng
phát triển của các quan hệ lợi ích và từ đó quy định hệ thống các yếu tố thúc
đẩy hoặc kìm hãm lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, tác động thúc đẩy hay kìm
hãm chỉ có tính chất tương đối, bởi xét cho cùng, quy luật tất yếu sẽ vạch
đường đi cho mình. ở đây, Mác đã vạch ra tính đúng đắn, khoa học của quan
điểm duy vật về lịch sử thể hiện ở chỗ coi nhân tố chủ quan của con người
có vai trò động lực trong việc phát hiện và giải quyết mâu thuẫn thúc đẩy
tiến trình phát triển lịch sử xã hội.
Lần đầu tiên trong Lời tựa, Mác đưa ra khái niệm về cơ sở hạ tầng (cơ
cấu kinh tế) và kiến trúc thượng tầng một cách tương đối hoàn chỉnh. Ông cho
rằng, mỗi xã hội có một kết cấu kinh tế đặc trưng riêng, tức là cơ sở hiện thực
của xã hội, trên đó nảy sinh một kiến trúc thượng tầng tương ứng: “Toàn bộ
những quan hệ sản xuất ấy họp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ
sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị
và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó”.

Mác đã vạch rõ sự thống nhất của những hiện tượng kinh tế, xã hội, chính trị,
tư tưởng của đời sống xã hội và chỉ ra rằng, xét đến cùng, những hiện tượng
ấy đều do sự phát triển của sản xuất vật chất quyết định. Bởi vậy, với khái
niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, Mác đã cung cấp chìa khoá để
nhận thức một cách duy vật mọi hiện tượng xã hội.

16


Trên cơ sở nêu rõ về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, Mác đã xây
dựng một phạm trù khoa học có ý nghĩa như là phạm trù nền tảng của chủ
nghĩa Mác nói chung và của chủ nghĩa duy vật lịch sử nói riêng, đó là phạm
trù “hình thái kinh tế - xã hội”. Hình thái kinh tế - xã hội là một kiểu xã hội ở
một trình độ phát triển nhất định, có một kiểu quan hệ sản xuất riêng biệt, với
một cơ cấu kinh tế nhất định, trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng nhất
định tương ứng với nó. Ông viết: “Về đại thể, có thể coi các phương thức sản
xuất châu á, cổ đại, phong kiến và tư sản hiện đại là những thời đại tiến triển
dần dần của hình thái kinh tế - xã hội.
Điểm mấu chốt, trung tâm của “Lời tựa” của Mác là tư tưởng về hình
thái kinh tế - xã hội. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp
đến cao trong lịch sử phụ thuộc vào các quy luật tất yếu khách quan của xã
hội, đó là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực
lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, và
nhiều quy luật xã hội khác. Từ đó, Mác tiến tới luận chứng cho sự phát triển
dẫn đến diệt vong của hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa và sự ra đời,
phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Chính từ đây,
Mác đã có thể tiến tới tuyên bố: “Giờ tận số của chế độ tư hữu tư bản chủ
nghĩa đã điểm” và sự thắng lợi của giai cấp vô sản đang tiến gần,.
Tóm lại, những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử mà Mác đã

trình bày trong Lời tựa của tác phẩm “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính
trị”: biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng, lý luận về hình thái kinh tế - xã hội, … là
những công thức kinh điển của chủ nghĩa Mác áp dụng vào những quan hệ xã
hội, đã làm cho Lời tựa trở thành một văn kiện có giá trị khoa học độc lập,
đánh dấu sự phát triển và hoàn thiện của chủ nghĩa Mác.

17


Như vậy, Mác và Anghen, những nhà tư tuởng đại diện cho lợi ích
chân chính của giai cấp vô sản đã sang tạo ra một lý luận triết học tiên tiến,
cách mạng. Trở thành ngọn cờ tư tuởng cho hang triệu quần chúng, huớng
dẫn họ trong cuộc đấu tranh giải phóng xã hội, giải phóng con nguời.

18


IV. Ý nghĩa cuộc cách mạng triết học do C. Mác và Ph. Anghen
thực hiện.
Thực chất của cuộc cách mạng trong lịch sử triết học do C.Mác thực
hiện là ở chỗ, khắc phục sự tách rời giữa thế giới quan duy vật và phương
pháp biện chứng để tạo nên sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật và
phương pháp biện chứng; sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử; đưa triết học
trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới; thiết lập mối liên minh giữa
triết học và các khoa học cụ thể.
Trước khi triết học Mác ra đời, triết học hoặc là hòa tan, ẩn giấu đằng
sau các khoa học khác, hoặc đối lập với chúng. Sự xuất hiện của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử đã làm thay đổi hẳn đối
tuợng của Triết học.Quan hệ giữa triết học Mác với các khoa học cụ thể là

quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Các khoa học cụ thể cung cấp
cho triết học Mác các tư liệu, dữ kiện, thông số khoa học để triết học Mác
khái quát. Triết học Mác đã trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của
nhân loại tiến bộ.
Sự ra đời của triết học Mác đã chấm dứt mâu thuẫn giữa triết học với
các khoa học cụ thể. Những thành tựu của khoa học tự nhiên nửa đầu thế kỷ
XIX đã làm bộc lộ những hạn chế, sự bất lực của phương pháp siêu hình
trong nhận thức thế giới. Chủ nghĩa duy vật biện chứng ra đời không những
không đi nguợc lại với những thành tụư khoa học ấy mà dựa trên chính những
thành tựu khoa học tiến bộ làm tiền đề ra đời. Trong quan hệ với các khoa học
cụ thể, triết học Mác đóng vai trò thế giới quan, phương pháp luận chung
nhất. Thực tiễn phát triển mạnh mẽ của các khoa học cụ thể càng làm tăng vai
trò thế giới quan, phương pháp luận của triết học Mác.
Triết học Mác ra đời đã khắc phục sự tách rời giữa thế giới quan duy
vật và phương pháp biện chứng trong lịch sử triết học trước đó. Trong triết

19


học Hy Lạp cổ đại, có thể nói, đã có sự thống nhất nhất định giữa chủ nghĩa
duy vật và phương pháp biện chứng còn ở trình độ thấp ở một số nhà triết học
duy vật. Ở thời kỳ Phục hưng và Cận đại chủ nghĩa duy vật vẫn tách rời
phương pháp biện chứng. Sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật và
phương pháp biện chứng trong triết học Mác hơn hẳn về chất so với sự thống
nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng trong triết học Hy
Lạp cổ đại. Chủ nghĩa duy vật được C.Mác đã tạo nên sự thống nhất hữu cơ
không thể tách rời giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng - đó là
chủ nghĩa duy vật biện chứng. Chủ nghĩa duy vật được C.Mác làm giàu bằng
phương pháp biện chứng, còn phương pháp biện chứng được ông đặt trên nền
chủ nghĩa duy vật Vì vậy, đây chính là bước phát triển cách mạng trong triết

học do C.Mác thực hiện.
Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử là biểu hiện vĩ đại nhất của cuộc
cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện. Chủ nghĩa duy vật trước C.Mác
đã đóng một vai trò to lớn đối với sự phát triển của xã hội, của khoa học và
triết học. Tuy nhiên, đó là chủ nghĩa duy vật không triệt để. Chủ nghĩa duy
vật của C.Mác đã giải thích một cách duy vật, khoa học không chỉ thế giới tự
nhiên, mà cả lĩnh vực xã hội, lịch sử, tinh thần. Do vậy, chủ nghĩa duy vật của
C.Mác là chủ nghĩa duy vật triệt để nhất, hoàn bị nhất. Với quan niệm duy vật
về lịch sử, C.Mác đã kết thúc thời kỳ nghiên cứu xã hội, lịch sử một cách tùy
tiện, lộn xộn, mở ra một thời kỳ mới trong nghiên cứu xã hội, lịch sử bằng
việc chỉ ra quy luật hình thành, vận động và phát triển của xã hội, của lịch sử.

20


Tài liệu tham khảo

Tạp chí Triết học_Viện triết học.
Giáo trình Lịch sử Triết học Mác Lênin_Khoa Triết học_Học viện báo
chí và tuyên truyền.

21



×