Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Cải thiện môi trường tại cộng đồng nghèo ven thành phố lạng sơn dựa vào quỹ phát triển cộng đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.06 MB, 74 trang )

MỤC LỤC

MỤC LỤC .............................................................................................................. 1
LỜI CẢM ƠN ......................................................................................................... 4
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT................................................................................ 5
DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH VẼ .............................................................. 6
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 8
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ................................................................ 10
1.1. Đặc điểm các khu dân cư nghèo ở Việt Nam ...............................................10
1.2. Hiện trạng môi trường tại các khu nghèo tại Việt Nam ................................ 11
1.2.1. Các điều kiện môi trường cơ bản .......................................................... 11
1.2.2. Nguồn sinh kế .......................................................................................16
1.3. Mối liên hệ giữa nghèo đói và môi trường trong bối cảnh Việt Nam............17
1.3.1. Nghèo đói vì môi trường .......................................................................17
1.3.2. Mối quan hệ giữa nghèo đói và môi trường trên thế giới ......................18
1.3.3. Mối quan hệ giữa nghèo đói và môi trường tại Việt Nam ......................19
1.4. Công tác và kết quả cải thiện môi trường tại Việt Nam................................22
1.4.1. Chiến lược tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo toàn diện ....................22
1.4.2. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001 - 2010...................23
1.4.3. Chương trình nghị sự 21.......................................................................24
1.4.4. Chiến lược quốc gia về bảo vệ môi trường đến năm 2010 và tầm nhìn
đến năm 2020 .................................................................................................25
1.4.5. Các chương trình quốc gia ...................................................................26
1.5. Quỹ phát triển cộng đồng Việt Nam nhằm mục đích xóa đói giảm nghèo và
cải thiện môi trường...........................................................................................27

1


1.5.1. Cơ cấu tổ chức......................................................................................28
1.5.2. Nguyên tắc của Quỹ phát triển cộng đồng ............................................31


1.5.3. Sự khác biệt về phương thức thực hiện của Quỹ phát triển cộng đồng với
các cách thức khác trong việc cải thiện môi trường tại cộng đồng nghèo .......31
1.5.4. Vai trò của Quỹ phát triển cộng đồng với việc cải thiện môi trường ở
cộng đồng nghèo ............................................................................................32
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ....................... 34
2.1. Đối tượng nghiên cứu..................................................................................34
2.2. Mục tiêu nghiên cứu....................................................................................34
2.3. Lựa chọn điểm nghiên cứu ..........................................................................34
2.4. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................36
2.4.1. Thu thập và xử lý thông tin ...................................................................36
2.4.2. Khảo sát vùng nghiên cứu.....................................................................36
2.4.3. Phỏng vấn không chính thức.................................................................37
2.4.4. Họp nhóm cộng đồng............................................................................38
2.4.5. Phương pháp đánh giá .........................................................................38
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN.......................................................... 39
3.1. Hiện trạng môi trường và thực trạng nghèo đói tại thành phố Lạng Sơn ......39
3.2. Thực trạng công tác cải thiện môi trường tại các cộng đồng nghèo ven thành
phố.....................................................................................................................41
3.3. Quỹ phát triển cộng đồng thành phố Lạng Sơn nhằm mục đích xóa đói giảm
nghèo và cải thiện môi trường............................................................................43
3.4. Kết quả cải thiện môi trường tại các cộng đồng nghèo ven thành phố Lạng
Sơn dựa vào Quỹ phát triển cộng đồng ..............................................................46
3.4.1. Công trình nước sinh hoạt ....................................................................46
3.4.2. Công trình nhà vệ sinh..........................................................................52
3.5. Những khó khăn trở ngại trong việc triển khai Quỹ phát triển cộng đồng tại

2


các cộng đồng nghèo ven thành phố Lạng Sơn...................................................57

3.6. Kế hoạch hỗ trợ cải thiện môi trường dựa vào Quỹ phát triển cộng đồng trong
thời gian tới .......................................................................................................58
3.7. Đánh giá hiệu quả của Quỹ phát triển cộng đồng trong việc cải thiện môi
trường tại các cộng đồng nghèo ven thành phố Lạng Sơn...................................58
3.8. Đề xuất một số giải pháp tăng cường công tác cải thiện môi trường dựa vào
Quỹ phát triển cộng đồng tại các cộng đồng nghèo ven thành phố Lạng Sơn trong
giai đoạn tới .......................................................................................................60
3.8.1. Vệ sinh chuồng trại...............................................................................60
3.8.2. Vấn đề quản lý rác thải.........................................................................61
3.8.3. Vấn đề sử dụng thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật ............................62
3.8.4. Vấn đề giảm thiểu nước thải .................................................................63
3.8.5. Vấn đề bếp đun .....................................................................................63
3.8.6. Bảo vệ rừng ..........................................................................................64
3.8.7. Hỗ trợ nâng cao năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu cho các cộng
đồng nghèo.....................................................................................................65
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ............................................................................... 67
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 70
PHỤ LỤC.............................................................................................................. 73

3


LỜI CẢM ƠN

Luận văn tốt nghiệp trong chương trình đào tạo Thạc sỹ Khoa học môi trường
của tôi được hoàn thành là kết quả của quá trình học tập, rèn luyện và tích lũy kiến
thức tại Khoa Môi trường, trường Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà
Nội, cùng với sự hướng dẫn, giúp đỡ và góp ý nhiệt tình của các thầy cô trường Đại
học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc Gia Hà Nội.
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trường Đại học Khoa học

Tự nhiên, Đại học Quốc Gia Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô trong Khoa Môi trường
đã tận tình dạy bảo tôi suốt thời gian học tập tại trường.
Tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đình Hòe
đã định hướng cho nghiên cứu của tôi và đã dành thời gian, tâm huyết hướng
dẫn nghiên cứu giúp tôi hoàn thành luận văn được tốt nhất.
Đồng thời, tôi cũng xin cảm ơn lãnh đạo UBND các cấp, cộng đồng thành
phố Lạng Sơn đã tạo điều kiện cho tôi điều tra khảo sát để có dữ liệu viết luận văn.
Mặc dù tôi đã có nhiều cố gắng hoàn thiện luận văn bằng tất cả sự nhiệt
tình và năng lực của mình, tuy nhiên không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất
mong nhận được những đóng góp quí báu của các thầy cô và các bạn.

Hà Nội, tháng 1
năm 2011
Học viên
Nguyễn Thị Thịnh

4


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

ACHR: Liên minh Châu Á về Quyền Nhà ở
ACVN: Hiệp hội Các Đô thị Việt Nam
CDF: Quỹ phát triển cộng đồng
GSO: Tổng cục Thống kê
KH&ĐT: Kế hoạch và Đầu tư
LĐ TB & XH: Lao động Thương binh và Xã hội
NN&PTNT: Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
PPA: Đánh giá nghèo đói có sự tham gia
SEDS: Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001 - 2010

UBND: Ủy ban Nhân dân
UNDP: Chương trình hỗ trợ phát triển của Liên Hiệp Quốc

5


DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH VẼ
DANH MỤC BẢNG

1. Tỉ lệ số dân sử dụng nước sạch và số gia đình có nhà vệ sinh các khu vực
trong nước năm 2001

12

2. Số hộ nông dân có hố xí hợp vệ sinh

15

3. Các vấn đề môi trường chung bức xúc nhất toàn thành phố Lạng Sơn, xác
định theo địa bàn từng phường, xã

39

4. Lợi ích về môi trường thôn Quảng Trung 2

47

5. Lợi ích về kinh tế thôn Quảng Trung 2

47


6. Lợi ích về mặt sức khỏe thôn Quảng Trung 2

47

7. Lợi ích về mặt xã hội thôn Quảng Trung 2

48

8. Lợi ích về môi trường thôn Lục Khoang

50

9. Lợi ích về kinh tế thôn Lục Khoang

50

10. Lợi ích về mặt sức khỏe thôn Lục Khoang

50

11. Lợi ích về mặt xã hội thôn Lục Khoang

50

12.

52

Bảng tính toán chi phí nhà vệ sinh do người dân tự tính


13. Lợi ích của nhà vệ sinh

54

6


DANH MỤC HÌNH

1. Bản đồ các thành viên tham gia Mạng lưới CDF Việt Nam

30

2. Cơ cấu tổ chức Quỹ phát triển cộng đồng thành phố Lạng Sơn

45

3. Họp thôn xác định vấn đề ưu tiên trên bản đồ thôn

46

4. Bản đồ hiện trạng môi trường thôn Quảng Trung 2, xã Quảng Lạc

47

5. Bà con thôn Quảng Trung 2 cùng xây dựng công trình nước

47


6. Trước khi có công trình nước

48

7. Sau khi có công trình nước

48

8. Đường ống nước sinh hoạt trước đây của bà con thôn Lục Khoang

50

9. Bà con thôn Lục Khoang cùng nhau mang vật liệu lên xây bể nước

51

10. Mô hình nhà vệ sinh được lựa chọn

54

11. Thăm mô hình nhà vệ sinh thí điểm

55

12. Hệ thống xử lý kết hợp sử dụng nước thải quy mô nhỏ (Hệ sinh thái

61

VAC)


7


MỞ ĐẦU
Tuy Việt Nam đã đạt tiến bộ trong việc cải thiện tình hình môi trường vào
những thập kỷ qua, song nhiều nơi ở Việt Nam, đặc biệt là những vùng có nhiều đồng
bào dân tộc thiểu số sinh sống, những cộng đồng dân cư nông thôn vùng sâu vùng xa
và những cộng đồng nghèo nhất, đã bị tụt hậu. Việc cung cấp các phương tiện vệ sinh
môi trường và các phương tiện vệ sinh khác trong thời gian qua tiến triển rất chậm.
Một cuộc điều tra của Ban Chỉ đạo quốc gia về Chương trình Nước sạch và vệ sinh
môi trường cho thấy 52% dân cư nông thôn có phương tiện vệ sinh môi trường nói
chung, song chỉ có 18% trong số họ được sử dụng nhà xí đạt tiêu chuẩn vệ sinh do Bộ
Y tế ban hành theo Quyết định số 08/2005/QD-BYT.
Các cộng đồng nghèo là những người chịu rủi ro nhiều nhất từ những tác
động ảnh hưởng đến sức khoẻ và sinh kế, một khi chất lượng môi trường và số
lượng tài nguyên thiên nhiên suy giảm. Theo đánh giá của Tổ chức Y tế Thế giới
(WHO) 80% các bệnh đường ruột trên thế giới đều bắt nguồn từ nguồn nước
không an toàn. Chính vì lý do đó, xoá đói giảm nghèo và bảo vệ môi trường cần
được tiến hành hài hoà để đạt được mục tiêu phát triển bền vững.
Trong thập kỷ qua, Nhà nước và các tổ chức trong nước cũng như quốc tế
đã có rất nhiều chương trình, hoạt động cải thiện môi trường tại các cộng đồng
nghèo, tuy nhiên kết quả còn rất khiêm tốn. Theo báo cáo tại Hội nghị tổng kết 10
năm thực hiện Chỉ thị 200/TTg của Thủ tướng Chính phủ về đảm bảo nước sạch và
vệ sinh môi trường nông thôn, sau 10 năm thực hiện Chỉ thị 200/TTg của Thủ tướng
Chính phủ, tỷ lệ người dân nông thôn có nước sạch trong cả nước là 54%, số hộ có
hố xí hợp vệ sinh đạt 41% (8). Hoặc như dự án phân loại rác tại nguồn 3r Hà Nội
triển khai trong một năm với tổng kinh phí lên tới 3 triệu USD. Tuy nhiên, dự án
vừa kết thúc thì mọi thứ lại vào nếp cũ. Rác thải vẫn được xả tùy tiện và thậm chí
tại các điểm đặt thùng phân loại rác, người dân cũng tiện đâu để đó, không phân
biệt rác vô cơ hay hữu cơ. Vấn đề đặt ra là làm thể nào để cải thiện môi trường hiệu

quả và tìm ra các giải pháp đối với các nguyên nhân của tình trạng suy thoái môi
trường.
Với lý do trên, tôi chọn đề tài luận văn là “Cải thiện môi trường tại cộng
đồng nghèo ven thành phố Lạng Sơn dựa vào Quỹ phát triển cộng đồng”.
Quỹ phát triển cộng đồng sử dụng phương pháp “lấy dân làm gốc”, trong đó

8


chuyển đổi vị trí của người nghèo từ chỗ là “đối tượng thụ hưởng” (thụ động) sang
vai trò chủ thể của phát triển, tức là họ tham gia ngay từ đầu và đóng vai trò chính
về ý tưởng giải quyết, tổ chức hoạt động và quản lý kết quả, nhà nước và các tổ
chức Xã hội sẽ đóng vai trò phụ trợ (chuyển từ “Nhà nước và nhân dân cùng làm”
sang “dân làm, nhà nước hỗ trợ”).
Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá hiệu quả của việc cải thiện môi
trường tại các cộng đồng nghèo dựa vào Quỹ phát triển cộng đồng, từ đó tìm kiếm
giải pháp giúp tăng tính hiệu quả của các chương trình quản lý cải thiện môi trường
tại các khu dân cư nghèo, nhằm kết hợp hài hòa giữa bài toán giảm nghèo và phát
triển bền vững thông qua các mô hình mang tính ứng dụng cao.
Địa bàn lựa chọn nghiên cứu là hai thôn thuộc hai xã Quảng Lạc và xã
Hoàng Đồng. Đây là hai xã miền núi nghèo nhất thành phố Lạng Sơn có dân cư đa
sắc tộc, với hy vọng những kinh nghiệm thành công (nếu có) ở địa bàn khó khăn
này sẽ dễ dàng nhân rộng ra các địa phương khác có điều kiện kinh tế xã hội tương
đồng hoặc thuận lợi hơn.

9


CHƯƠNG 1.
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Đặc điểm các khu dân cư nghèo ở Việt Nam
Theo Ngân hàng Thế giới thì khu dân cư nghèo gồm các khu chung cư
đông dân nghèo ở trong nội thị hoặc những nơi ở lấn chiếm, phát triển không
theo quy hoạch, không được luật pháp công nhận hoặc thiếu các dịch vụ đô thị cơ
bản về hạ tầng kỹ thuật: điện sinh hoạt, cấp/thoát nước, đường giao thông, dịch
vụ thu gom rác thải và hạ tầng xã hội như trường học, trạm xá, khu vực an toàn
cho trẻ em vui chơi, không gian giao tiếp của cộng đồng.
Đặc điểm chung của các khu dân cư nghèo là có tỉ lệ hộ thu nhập thấp khá
cao, cơ sở hạ tầng, nhà ở thấp kém, môi trường bị ô nhiễm, nhiều bệnh tật phát sinh
ảnh hưởng đến sức khoẻ của dân cư và sự phát triển bền vững của đô thị.
Trong hầu hết các khu dân cư nghèo, hệ thống hạ tầng kỹ thuật không đáp
ứng đủ cho nhu cầu của người dân, phần lớn là manh mún, nhỏ lẻ và xuống cấp
nghiêm trọng. Người dân phải chịu cảnh sống trong các ngõ xóm, đường ra vào ngõ
rất nhỏ và xấu, chịu thực trạng từ xưa để lại, xây dựng tự phát không theo bất kỳ
quy hoạch nào nên đi lại rất khó khăn. Hiện nay, nhiều đường làng, ngõ xóm đã
được bê tông hoá và có cải thiện đáng kể song vẫn chưa thoát khỏi khó khăn của
cảnh nghèo. Tình trạng lầy lội, úng ngập thường xuyên trong các khu nghèo khi có
mưa là rất phổ biến, do không có hệ thống thoát nước mưa. Rất ít hộ nghèo được
hưởng đầy đủ dịch vụ cung cấp nước sạch, mặc dù ở một số nơi đã được đấu nối,
nhưng không đủ nước hoặc không có nước do hệ thống cấp nước xuống cấp, và
chưa có kinh phí cải tạo, nâng cấp. Đa số các hộ trong khu nghèo tự khoan/đào
giếng để sử dụng, nên nước không đảm bảo chất lượng vệ sinh. Hệ thống thoát
nước chủ yếu là cống/rãnh hở, mất vệ sinh. Nước thải sinh hoạt, chăn nuôi xả
trực tiếp ra cống, đổ ra ao, hồ trong khu vực, gây ô nhiễm môi trường và nguồn
nước nghiêm trọng. Đây là nguyên nhân chính gây ra các bệnh truyền nhiễm và
bệnh hiểm nghèo trong dân. Rác thải thu gom không triệt để, phần lớn đổ xung
quanh nhà, đổ không đúng nơi quy định, gây mất vệ sinh trong khu vực dân cư
và ảnh hưởng đến môi trường sống của chính mình. Mạng lưới điện cũ, thiếu an
toàn, chất lượng dịch vụ cấp điện còn thấp, thường xuyên xảy ra nhiều sự cố...


10


người dân phải chi trả tiền điện với giá cao. Hệ thống điện chiếu sáng công cộng
thì hầu như không có. Dịch vụ bưu chính viễn thông tương đối ổn định hơn so
với các dịch vụ khác trong hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị ở các khu nghèo,
song mức độ chi trả tiền dịch vụ quá cao so với thu nhập của người nghèo. Nhà ở
với diện tích thấp, đủ loại mái lợp, tường bao khác nhau (kiên cố, bán kiên cố,
tạm bợ...), các công trình công cộng khác như: chợ, trường học, y tế, công viên,
vườn hoa... đều cách xa khu nghèo (3).
Trong các khu đô thị nghèo, hệ thống cơ sở hạ tầng yếu kém và thiếu thốn các
dịch vụ cơ bản. Tốc độ đô thị hoá hiện đang tăng cao dẫn đến hiện tượng di cư ra
thành thị ngày một lớn. Do đó, đói nghèo từ nông thôn đang dần chuyển sang thành
thị. Hạ tầng xuống cấp nghiêm trọng đang ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sống
của dân nghèo. Năm 2007 đã có hơn 20 triệu người dân nông thôn lên thành thị
(chiếm 27,1%) và dự kiến tới năm 2010 sẽ có khoảng 35% và 2020 là 45% (19).
Trong khi đó, động lực phát triển các đô thị Việt Nam còn yếu, tăng trưởng kinh tế
chưa cân xứng với tăng dân số và hạ tầng kỹ thuật đô thị; sự phân bổ dân cư không
cân đối và thêm nữa, còn sự cách biệt rất lớn giữa điều kiện sống ở đô thị và nông
thôn ngay cả các vùng miền trong cùng một đô thị.
Cả nước hiện nay còn 2,25 triệu hộ nghèo, trong đó có 30 vạn hộ thường
xuyên bị thiếu đói (19). Đa số người nghèo làm việc trong khu vực kinh tế phi
chính thức, công việc không ổn định, thu nhập thấp và bấp bênh. Người nghèo dễ
bị tổn thương do sống phụ thuộc chủ yếu vào nguồn thu nhập bằng tiền. Họ
thường không có hoặc có ít khả năng tiết kiệm và gặp nhiều khó khăn trong việc
vay vốn tạo việc làm, thiếu tài sản để đảm bảo tiêu dùng trong những lúc khó
khăn, dễ bị tổn thương trước những đột biến bất lợi, ít có khả năng truyền đạt
nhu cầu và những khó khăn tới những người có khả năng giải quyết, họ ít được
tham gia vào quá trình ra quyết định...
1.2. Hiện trạng môi trường tại các khu nghèo tại Việt Nam

1.2.1. Các điều kiện môi trường cơ bản:
Với các cộng đồng nghèo và đặc biệt các cộng đồng vùng sâu vùng xa thì
việc cung cấp các phương án cấp nước, vệ sinh và quản lý chất thải rắn một cách
bền vững và có thể chi trả được trở nên khó khăn hơn. Ví dụ như một phường xã
càng ở xa đường chính bao nhiêu thì chi phí đấu nối vào hệ thống nước máy hoặc

11


hệ thống nước thải hoặc các công trình cấp nước và nhà vệ sinh quy mô hộ gia đình
càng đắt hơn (chi phí xây dựng ở những vùng xa thường cao hơn vì phải vận
chuyển nguyên vật liệu đi xa). Ở các vùng miền núi, vấn đề này còn nghiêm trọng
hơn vì thiếu nước và giếng đào phải rất sâu. Đối với nhiều khu vực, vấn đề tiếp cận
được với hệ thống được xem là quan trọng hơn so với điều kiện chi trả đối với các
phường xã nghèo.
Nước và vệ sinh môi trường:
Bảng 1. Tỉ lệ số dân sử dụng nước sạch và số gia đình có nhà vệ sinh các
khu vực trong nước năm 2001
Tỉ lệ (%)

Khu vực

Số dân sử dụng nước
sạch

Số gia đình có nhà vệ
sinh

Miền núi phía Bắc


39

23

Đồng bằng sông Hồng

50

47

Miền Bắc Trung bộ

44

41

Duyên hải miền Trung

42

32

Vùng Tây Nguyên

36

24

Vùng Đông Nam Bộ


53

46

Vùng Đồng Bằng sông
Cửu Long

48

19

[Nguồn: Chương trình Mục tiêu Quốc Gia Nước sạch – Vệ sinh Môi trường
Nông thôn, 2003]
Một thực trạng nữa là cứ đi vào hẻm sâu chừng 20 mét là mặt trái của thành
phố. Đó là tình trạng nhà lụp xụp, kênh mương đầy nước đọng bốc mùi, nước thải
nhớp nhúa. Trong các khu này, 25% các loại bệnh xuất phát từ nguồn nước. Và hiện
nay, còn đến 12% hố xí vẫn thải trực tiếp ra sông, rạch (19).
Điều tra tại 1.800 hộ ở hai phường An Cư và An Hội (quận Ninh Kiều),
cho thấy 53% hộ dân có nhà trong hẻm rộng dưới hai mét, 25% số hộ không có
nhà vệ sinh. Nhiều hộ dân không có điều kiện tiếp cận các dịch vụ như thu gom
rác, nước máy... (19)
Nước sạch:

12


Nước sạch là một nhu cầu căn bản nhất của con người và là trọng tâm của
các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ, nó còn là yếu tố thiết yếu để xoá đói giảm
nghèo. Nước sạch góp phần nâng cao sức khoẻ, giảm thiểu bệnh tật, tăng sức lao
động, cải thiện điều kiện sống và mang lại một cuộc sống văn minh đang là đòi hỏi

bức bách của người dân sống trong các khu dân cư nghèo.
Tuy nhiên, cho đến nay, ở nhiều khu nghèo, người dân vẫn đang sử dụng
nước không hợp vệ sinh cho các nhu cầu sinh hoạt, dẫn tới các hậu quả là tỷ lệ
mắc các bệnh lây lan do nước rất cao. Theo đánh giá của Tổ chức Y tế Thế giới
(WHO): 80% các bệnh đường ruột trên thế giới đều bắt nguồn từ nguồn nước
không an toàn. (3)
Hiện nay, vẫn còn trên 60% dân số nông thôn chưa có nước sạch để dùng (8).
Nước mặt ở các sông, hồ, suối, ao đã nhiễm bẩn, nhiễm mặn. Tình hình khô hạn, thiếu
nước sản xuất đang diễn ra gay gắt. Theo tin của Ban Chỉ đạo quốc gia về Chương
trình Nước sạch và vệ sinh môi trường cho thấy cả nước có khoảng 43.729 hộ
(215.720 người) thiếu nước sinh hoạt. Trong đó Đắk Lắk 12.580 hộ (126.610 người),
Gia Lai 6.752 hộ (33.760 người), Ninh Thuận 11.720 hộ (58.600 người). Tại các vùng
núi, vùng thưa dân, tỷ lệ hộ sử dụng nước sạch chỉ đạt con số rất thấp. Bắc Kạn năm
1997 mới chỉ có 11% dân số được hưởng nước sạch, con số này mới chỉ tăng lên đến
24% vào năm 2002. Tại các tỉnh Đồng Tháp, Tây Ninh, con số này cũng chỉ dừng ở
mức 25% và 28% (8).
Một ví dụ nữa là tình hình ở xã Hộ Độ tỉnh Hà Tĩnh nơi nguồn nước duy
nhất là nước mưa và nước đóng can 20 lít với giá gấp 20 lần giá nước máy ở các
nơi khác. Nhiều hộ nghèo trong xã (30% dân số) không có tiền xây bể chứa
nước mưa lớn như những hộ khá giả (17). Do vậy, người nghèo phải mua nước
với giá cao và như nhiều người được phỏng vấn cho biết, họ buộc phải hạn chế
tối đa việc sử dụng nước ngọt và phải tái sử dụng nhiều nhất có thể. Số ca bệnh
tiêu chảy ở xã Hộ Độ cao hơn đáng kể so với các nơi khác mà nước sạch có
nhiều hơn và ở mức giá thấp hơn. Người nghèo ở xã Hộ Độ có khả năng bị tiêu
chảy nhiều lần và nặng hơn so với các hộ khác vì họ ít được tiếp cận với nước
sạch hơn.
Hầu hết ở các khu nghèo ở Việt Nam, người dân phải tự lo nguồn nước sinh
hoạt cho mình. Họ sử dụng đủ loại nguồn nước. Nước mặt bao gồm: sông, suối, ao,

13



hồ, kênh rạch và các giếng mạch nông như giếng làng. Nước mưa hứng trực tiếp
hoặc thu từ các mái nhà. Nước ngầm bao gồm: nước ngầm mạch nông, mạch nước
lộ thiên và nước ngầm sâu. Nước mưa không thiếu, nhưng tới 85 – 90% tổng lượng
mưa chỉ tập trung vào mùa mưa, khoảng 4 – 5 tháng. Một vấn đề đáng quan tâm là
chất lượng của các nguồn nước này bị ô nhiễm ở mức độ cao, đặc biệt là ở vùng
Đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long. Hàng ngày, người dân nghèo vẫn tắm
giặt, ăn uống bằng những nguồn nước này do không đảm bảo vệ sinh nên nguy cơ
mắc các bệnh đường ruột, bệnh ngoài da là rất cao (11).
Nhà vệ sinh:
Trong toàn quốc có trên 60% hộ gia đình chưa có hố xí hợp vệ sinh, phóng
uế tự do và dùng phân tươi bón cây, nuôi cá. (8)
Theo số liệu thống kê năm 2003, trên 75% dân số Việt Nam sống tập trung
ở các vùng nông thôn, miền núi và hải đảo. Nhiều khảo sát gần đây cho thấy, số gia
đình có nhà vệ sinh (hố xí) hợp vệ sinh còn rất thấp như các vùng miền núi phía Bắc
(21%), vùng duyên hải miền Trung (32%), miền Tây Nguyên (24%) và đặc biệt rất
thấp ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long (19%).
Một khảo sát tại một số điểm đại diện - được đăng trên tạp chí Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn (số 2/2003) - cho thấy từ 1988 cho đến nay, trung bình mỗi
năm số hộ nông dân có hố xí hợp vệ sinh tăng chừng 2 - 3 %. Báo cáo cho biết, năm
2002 vùng nông thôn của cả nước có khoảng 228.000 hố xí hợp vệ sinh, 6.000 hầm
biogas liên hoàn và 516.000 chuồng trại chăn nuôi hợp vệ sinh đã được xây dựng.
Bảng 2. Số hộ nông dân có hố xí hợp vệ sinh

% số hộ

1998

1999


2000

2001

2002

20

30

32

34

37

[Nguồn: Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2003]
Mặc dầu số nhà vệ sinh có gia tăng hằng năm nhưng con số trên cũng cho
thấy số lượng này cũng còn thấp, nhất là các vùng sâu, vùng nông thôn xa. Tỷ lệ hộ có
hố xí hợp vệ sinh phân bổ không đồng đều giữa các vùng. Có vùng đạt tỷ lệ trên 50%
là: Đồng bằng sông Hồng (65%), Đông Nam Bộ (62%), Bắc Trung Bộ (56%), Duyên

14


hải miền trung 50%. Trong khi đó có vùng đạt tỷ lệ thấp hơn như: Đồng bằng sông
Cửu Long (35%), miền núi phía Bắc (38%), Tây Nguyên (39%) (8).
Rác:
Hiện tại, khả năng tiếp cận đến dịch vụ thu gom rác tại các cộng đồng

nghèo rất khó khăn do thành phố chưa có kinh phí cho hoạt động này hoặc gặp
những khó khăn về cơ sở hạ tầng như đường hẻm nhỏ, xe rác không vào trong
thu gom được. Ở các vùng dân cư miền núi hoặc vùng nông thôn, dân cư vẫn có
thói quen vứt rác ra ao hồ, vườn hoặc bụi rậm ven đường. Rác thải chưa được thu
gom hết gây mất vệ sinh môi trường và trở thành những ổ bệnh, nguy hiểm tới sức
khỏe của người dân.
Ở Quảng Trị, người dân đang phải chịu ảnh hưởng của 170 khối rác sinh
hoạt, hàng chục tấn rác thải từ các công trình xây dựng, rác thải y tế, rác thải công
nghiệp vẫn chưa được thu gom. Công tác quản lý rác thải của tỉnh Quảng Trị còn
nhiều bất cập và hạn chế. Trong khi đó, thị xã Đông Hà có 9 phường nhưng chỉ có
một Công ty thu gom rác tại 5 phường nội thị, còn rác của 4 phường vùng ven còn xả
bừa bãi trên vỉa hè và các bãi đất trống trong khu dân cư. (19).
Nước thải:
Nguồn nước mặt các con sông và hệ thống kênh rạch đang bị ô nhiễm hữu
cơ, dầu và vi sinh ngày càng nhiều hơn; độ ô nhiễm vi sinh ở mức rất cao so với tiêu
chuẩn cho phép. Nguyên nhân gây ô nhiễm nguồn nước ngoài nguồn thải công
nghiệp ở các khu công nghiệp, khu chế xuất chưa qua xử lý, còn do chính từ lối
sống bừa bãi của một số người dân, đặc biệt tại các cộng đồng nghèo, nơi chưa tiếp
cận được các dịch vụ thu gom và xử lý nước thải, rác thải. Sức khỏe của người dân
bị đe dọa nghiêm trọng do nguồn nước ô nhiễm. Không chỉ là nguy cơ cao của bệnh
tả, nguồn nước ô nhiễm còn là mầm mống của nhiều loại bệnh tật vì nơi đây đã có
sẵn ổ vi trùng. So với các yếu tố lây lan khác thì nguồn nước làm mầm bệnh lây lan
nhanh nhất. Chưa kể kênh rạch còn là nơi sinh sống của các loại chuột, muỗi, lăng
quăng. Những sinh vật này cũng góp phần làm tăng nguy cơ lây lan các loại dịch
bệnh cho người dân.
Nội thành thành phố Hồ Chí Minh hiện có rất nhiều kênh rạch bị ô nhiễm
nặng. Dòng chảy ngày càng thu hẹp khiến nước bị tù đọng. Dọc kênh, hàng trăm
nhà sàn mọc chen chúc nhau với tường ván, mái tôn đầy vẻ tạm bợ. Phía sau các

15



căn nhà là dòng kênh và nhà nào cũng có một nhà vệ sinh, thải trực tiếp xuống
kênh. Người dân nơi đây còn xả đủ thứ rác thải, nước thải xuống lòng kênh và
không quan tâm rằng chính họ đang sinh sống cạnh kề nó. Trên mặt nước nổi lềnh
bềnh đủ thứ loại rác rưởi không trôi đi đâu được...
Còn tại quận Bình Thạnh, chạy dọc Quốc lộ 13 thuộc khu vực Bình Triệu,
nhiều dòng kênh bị ô nhiễm nặng không phải do nhà sàn mà do tình trạng nước thải
sinh hoạt được thải ra từ các ống cống và rác thải bị vứt xuống đây vô tội vạ.
1.2.2. Nguồn sinh kế:
Nhìn chung, các hoạt động sống của người dân được xác định bởi hàng loạt
các yếu tố bao gồm các mối quan hệ xã hội, quan hệ sản xuất, nguồn nhân lực cũng
như tài nguyên sẵn có tại địa phương. Xét trên một khía cạnh nào đó, những yếu tố
này có thể làm tăng tính an ninh của các hộ hoặc có thể làm cho các hộ mất cân
bằng và lâm vào tình trạng khó khăn. Nói một cách khác, sinh kế bền vững của
người dân được hình thành dựa trên các nguồn lực sẵn có, khả năng tiếp cận và sử
dụng các nguồn lực của họ nhằm tối ưu hóa và đảm bảo chắc chắn an ninh cuộc
sống. Nguồn vốn sinh kế càng phong phú, càng dồi dào thì người dân càng dễ tiếp
cập với những sinh kế tốt hơn, bền vững hơn, và vì vậy, dễ trở nên giàu có hơn.
Người nghèo thường ít có cơ hội tiếp cận với các loại nguồn lực hơn so với
các đối tượng khác trong cộng đồng và chịu ảnh hưởng từ nhiều phong tục tập quán
kém tiến bộ mang tính truyền thống ở các vùng nông thôn miền núi hoặc cơ chế
chính sách chưa hợp lý. Tập quán canh tác lạc hậu, sống nơi hẻo lánh và thiếu thốn
vật chất là những vấn đề khó khăn nhất trong đời sống hàng ngày của người dân.
Nhiều hoạt động sản xuất đang được tiến hành nhưng hiệu quả không cao và phụ
thuộc nhiều vào tự nhiên, sản phẩm từ các hoạt động nông nghiệp không đủ cung
cấp lương thực quanh năm cho nông hộ. Bên cạnh việc canh tác nông nghiệp, chăn
nuôi gia súc, gia cầm cũng đóng góp một phần đáng kể vào kinh tế hộ gia đình và
được coi là phương tiện hữu hiệu giúp cho nông hộ tồn tại vào thời điểm khó khăn,
lúc thiếu đói. Tuy nhiên, đây là hoạt động thường gặp rủi ro do gia súc dễ mắc bệnh

và phụ thuộc điều kiện thời tiết.
Sinh kế còn chịu tác động của một số yếu tố nằm ngoài sự kiểm soát của con
người. Đó là các biến động về tự nhiên, kinh tế như mực nước biển dâng do biến đổi
khí hậu gây ra, thay đổi thời tiết trong năm ảnh hưởng đến mùa vụ sản xuất, dịch

16


bệnh ở người, vật và các yếu tố liên quan đến kinh tế thị trường…
1.3. Mối liên hệ giữa nghèo đói và môi trường trong bối cảnh Việt Nam
1.3.1. Nghèo đói vì môi trường:
Có nhiều nguyên nhân gây ra nghèo đói, trong đó có nghèo vì môi trường.
Trong nghiên cứu về Môi trường và nghèo đói được thực hiện năm 2008, Ngân
hàng phát triển châu Á (ADB) đã làm sáng tỏ khái niệm nghèo do môi trường. ADB
chỉ rõ có 6 sinh cảnh (vùng) nghèo do môi trường và vấn đề nghèo do môi trường
phải mang tính địa lý, ADB gọi cái nghèo trong những sinh cảnh (vùng) mà nguyên
nhân chính là môi trường suy thoái là nghèo do môi trường và người nghèo sống
trong những sinh cảnh (vùng) đó được gọi là người nghèo do môi trường (17). 6
vùng sinh cảnh có thể tổng hợp thành 3 vùng như sau:
- Vùng khó khăn (cách ly về mặt địa lý, ngôn ngữ, văn hóa…điều kiện tự
nhiên không thuận lợi cho phát triển kinh tế, xã hội…)
- Vùng dễ bị thiên tai
- Vùng bị ô nhiễm
Theo nguồn Niên giám thống kê y tế, 2002 và nghiên cứu của Phạm Thị
Ngọc Thạch năm 2001, tỷ lệ bệnh ỉa chảy vùng núi Tây Bắc là 678,76/10000, ở mức
cao so với các khu vực khác (Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long là
740,62/10000 và 308,93/10000). Kết quả điều tra cho thấy tỷ lệ dân miền núi ốm
nặng không đến khám chữa tại các cơ sở y tế là 25%, số người ốm vừa không đến
khám chữa bệnh là 36,6%, ốm thường là 58%. Có 70,2% phụ nữ dân tộc vùng Tây
Bắc sinh đẻ tại nhà. Tỷ lệ phụ nữ nhiễm phụ khoa nặng năm 2001 là 15,23%, cao hơn

so với khu vực đồng bằng sông Hồng (10,67%) và sông Cửu Long (13,91%). Nghèo,
thiếu nước sạch khiến tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng nặng (Độ III) tại miền núi Tây Bắc là
1,2%, trong đó Lai Châu: 1.8%, Sơn La: 1,4%, Gia Lai: 1,1%, Đắk Lắk: 1,5%, vùng
Cao Bằng: 1,9%, Hà Giang: 1,3%, Lào Cai: 1,2%. Sốt xuất huyết, sốt vi rút gây tỷ lệ
người nhiễm và chết cao ở miền núi Đông Bắc (tỷ lệ 1,75/100.000)
Ảnh hưởng sức khỏe do thiếu điều kiện vệ sinh dẫn đến một loạt chi phí,
bao gồm chi phí y tế trực tiếp của người dân, giảm thu nhập cá nhân và những tốn
kém của nhà nước chi cho các dịch vụ y tế. Nhân ngày Nước thế giới (22/3/2010),
Cục Quản lý tài nguyên nước cho biết, tại Việt Nam, 80% trường hợp bệnh tật là

17


do nguồn nước bị ô nhiễm gây ra, chủ yếu ở các địa phương nghèo. Trong vòng 4
năm gần đây, đã có khoảng 6 triệu ca thuộc 6 loại bệnh liên quan đến
nước. Riêng chi phí trực tiếp cho việc khám chữa các bệnh tả, thương hàn, lỵ và
sốt rét đã lên tới 400 tỷ đồng.
1.3.2. Mối quan hệ giữa nghèo đói và môi trường trên thế giới:
Các quốc gia đang phát triển và các quốc gia nghèo người nghèo sống
dựa trực tiếp vào môi trường tài nguyên thiên nhiên, theo Ngân hàng thế giới thì
“các hộ gia đình nghèo phải kiếm sống từng bữa đã khai thác tài nguyên thiên
nhiên bằng cách chặt phá rừng bừa bãi làm chất đốt và không có biện pháp nào
bảo vệ đất”. Tuy nhiên, câu hỏi được đặt ra là liệu người nghèo sống dựa vào tài
nguyên thiên nhiên có sử dụng nguồn tài nguyên này một cách bền vững không?
Nói tóm lại có nhiều quan điểm đồng ý là nghèo đói hay người nghèo là nguyên
nhân chính dẫn đến suy thoái môi trường vì họ không được đặt trong vị thế là
phải sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững. Từ nguyên nhân
suy thoái này có thể dẫn đến tình trạng nghèo đói trầm trọng và từ đó hoàn tất cái
gọi là “vòng luẩn quẩn”. (14)
Về mặt bản chất, nghèo đói không hoàn toàn dẫn đến tình trạng suy thoái

môi trường. Dẫn chứng là mối liên hệ giữa nghèo đói và môi trường là rất phức tạp
và cần được phân tích sâu cho từng khu vực cụ thể, nó không đơn thuần là mối liên
hệ thông thường. Ở nhiều nơi, các công ty thương mại giàu có và các cơ quan nhà
nước lại là nguyên nhân chính gây ra suy thoái môi trường do chặt cây lấy mặt
bằng, sử dụng thuốc hoá học trong nông nghiệp, ô nhiễm nguồn nước. Đôi khi các
nhóm người có quyền trong xã hội đẩy người nghèo vào sinh sống trong các vùng
đất khó canh tác mà ở đó họ không thể làm gì được để bảo tồn và áp dụng các biện
pháp tái sinh, tập quán sử dụng đất và từ đó làm cho môi trường ở khu vực này đã
bị suy thoái lại càng lâm vào tình trạng trầm trọng hơn. Tuy nhiên, cũng có nhiều ví
dụ cho thấy người nghèo bảo vệ môi trường và đầu tư để cải thiện môi trường. Do
vậy, nghèo đói có thể đôi khi có liên quan đến vấn đề suy thoái môi trường nhưng
nó không hoàn toàn là nguyên nhân trực tiếp như chúng ta thường nghĩ (14).
Như vậy mối liên hệ giữa nghèo đói và môi trường tập trung vào hai luồng
tư tưởng. Ở quốc gia phát triển, dân số có thu nhập thấp tiếp xúc với các chất gây ô
nhiễm không khí, chất thải, thực phẩm ôi thiu và điều kiện làm việc bị ô nhiễm

18


nhiều hơn mức trung trình. Các đánh giá nghèo đói có sự tham gia của người dân
gần đây được tiến hành tại 14 quốc gia đang phát triển ở Châu Á, Châu Phi và Mỹ
Latin cho biết nhận xét chung của người nghèo là chất lượng môi trường là nhân tố
quan trọng ảnh hưởng đến sức khỏe của họ, khả năng kiếm sống, an ninh, cung cấp
năng lượng và chất lượng nhà ở. Môi trường có ảnh hưởng lớn đến người dân
nghèo. Người nghèo thường sống dựa vào tài nguyên thiên nhiên và các dịch vụ của
hệ sinh thái. Người nghèo thường chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ nguồn nước bị ô
nhiễm, ô nhiễm không khí và các chất hoá học có hàm lượng độc tố cao và đặc biệt
họ phải hứng chịu các thảm hoạ môi trường và vấn đề do môi trường suy thoái gây
ra. Mặt khác, nhiều quốc gia kém phát triển còn bị lâm vào tình cảnh tồi tệ hơn rất
nhiều mà ở đó người dân nghèo không còn cách nào khác phải sử dụng nguồn tài

nguyên thiên nhiên trên mức cho phép để sống qua ngày; và do cuộc sống bị bần
cùng hoá nên môi trường cũng bị bần cùng hoá theo và làm cho cuộc sống ngày
càng khó khăn hơn, không được đảm bảo. Tóm lại, nghèo đói vừa là tác nhân và
nạn nhân của suy thoái môi trường.
Ngoài ra, một bằng chứng là mối quan hệ giữa nghèo đói và môi trường ở
các nước khác nhau có đặc điểm khác nhau. Một nghiên cứu về “Mối liên hệ giữa
nghèo đói và môi trường tại Cam Pu Chia và Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào với
việc sử dụng năm vấn đề môi trường cơ bản: mất rừng, xói lở đất, ô nhiễm không
khí trong nhà và ngoài trời, nguồn nước và hệ thống vệ sinh không an toàn họ tìm ra
mối liên hệ giữa nghèo đói và môi trường trong trường hợp Cam Pu Chia cố hạn
chế vấn đề môi trường ở cấp độ hộ gia đình với ô nhiễm không khí trong nhà,
nguồn nước ô nhiễm và không được tiếp cận hệ thống vệ sinh an toàn. Tuy nhiên,
nạn phá rừng, xói lở đất và ô nhiễm không khí ngoài trời không có liên hệ nhiều đến
việc phân bổ dân cư nghèo. Trong khi đó, mối liên hệ giữa nghèo đói và môi trường
xét trên phạm vi rộng được tìm thấy đối với trường hợp của Lào vì tất cả năm vấn
đề môi trường được xét trong mối tương quan với nghèo đói về mặt không gian.
Trong cả hai trường hợp thì phúc lợi xã hội của người nghèo sẽ được tăng cường
thông qua việc lồng ghép giữa chiến lược xoá đói giảm nghèo và môi trường. (27)
1.3.3. Mối quan hệ giữa nghèo đói và môi trường tại Việt Nam:
Tại Việt Nam, mối liên hệ giữa nghèo đói và môi trường ở Việt Nam như
sau:

19


- Các cộng đồng nghèo thường tập trung tại các khu vực có điều kiện môi
trường chất lượng thấp, bị suy thoái và nguồn tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt, gồm:
khu vực miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long.
- Các cộng đồng nghèo phụ thuộc nhiều nhất vào môi trường và tài nguyên
thiên nhiên - khoảng 70% người dân Việt Nam sống dựa vào đất và do đó họ bị lệ

thuộc trực tiếp vào chất lượng và số lượng tài nguyên thiên nhiên. (14)
- Các cộng đồng nghèo chịu rủi ro nhiều nhất từ những tác động ảnh hưởng
đến sức khoẻ và sinh kế một khi chất lượng môi trường và số lượng tài nguyên thiên
nhiên suy giảm. Về vấn đề này, việc cải thiện chất lượng môi trường dưới mọi hình
thức đều có tác động tích cực đến xoá đói giảm nghèo.
Kể từ khi tiến hành đổi mới ở Việt Nam vào năm 1986 thì Việt Nam đã đạt
được những thành tựu đáng khích lệ về phát triển kinh tế xã hội, văn hoá, đối ngoại
và an ninh quốc gia. GDP tăng trên 2 lần trong khi đó lạm phát giảm xuống mức 1
con số. Tỷ lệ nghèo đói ở Việt Nam đã giảm từ 70% tỷ lệ nghèo đói trong tổng số
dân vào giữa những năm 1980 xuống còn 58% vào năm 1993; 37,4% năm 1998 và
29% trong năm 2002. Có được tỷ lệ này là do tăng trưởng kinh tế vào đầu những
năm 1990 (giảm từ 8 đến 9%/năm) và một phần là do thành công trong hoạt động
sản xuất nông nghiệp kể từ cuối những năm 1980. Cùng lúc đó Đảng và Chính phủ
cũng đã quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường. (3)
Trong khi Việt Nam chú trọng đến xoá nghèo đói thì những tác động tích
cực của tăng trưởng kinh tế chưa đến được với toàn bộ người dân. Vẫn còn đó một
loạt những trở ngại, thách thức cần phải vượt qua, đặc biệt là mức độ tăng trưởng
không đều giữa các vùng. Theo mức chuẩn nghèo của Việt Nam trong giai đoạn từ
cuối 2006 đến 2010 (dựa vào thu nhập đầu người) thì có khoảng 4,6 triệu hộ nghèo
trong cả nước (chiếm 26,3% tổng số dân). Tỷ lệ hộ nghèo ở khu vực thành thị là
10%, ở vùng đồng bằng là 42% và miền núi là 48%. Nghèo đói và các hoạt động
gây ảnh hưởng xấu đến môi trường sẽ còn tiếp tục gia tăng tại các vùng nông thôn,
miền núi. (3)
Hơn nữa, các đánh giá có sự tham gia của người nghèo (PPA) (17) cũng chỉ
ra rằng môi trường sống suy thoái là một trong những nguyên nhân dẫn đến đói
nghèo. Người nghèo bị ảnh hưởng nặng nề khi sống trong môi trường ô nhiễm.

20



Người nghèo trong tất các các báo cáo PPA đều nhận thức được ảnh hưởng của môi
trường lên khả năng thoát nghèo của họ.
Một trong nhiều lý do cơ bản đối với việc không có khả năng thoát khỏi đói
nghèo là phải lao động với môi trường tự nhiên thuộc các vùng nghèo do môi
trường. Ví dụ, ở các vùng khô hạn, nguyên nhân chính cho sự nghèo đói dai dẳng là
đất khô cằn và thiếu tiếp cận với nước. Ở những vùng dễ bị thiên tai, sạt lở đất, lũ
lụt, bão lũ có thể là một trong những nguyên nhân khiến cho các hộ gia đình vẫn
mãi nghèo đói, thậm chí trở nên nghèo đói hơn hoặc bị tái nghèo. Biến đổi khí hậu
hiện nay đang có xu hướng làm tăng những tác động này, gây những mối đe doạ lâu
dài lên sinh kế của người nghèo. Ở những vùng khác, ô nhiễm môi trường do quá
trình công nghiệp hoá, sự phát triển kinh tế gây tác động mạnh lên sinh kế của
người dân, làm cho người dân nghèo thêm. Ví dụ: Thôn Hà Tân, xã Tản Lĩnh,
Huyện Ba Vì, là một trong bảy xã miền núi của huyện Ba Vì với địa hình bán sơn
địa. Xã có hoạt động du lịch sinh thái, hiện tại có 2 khu du lịch đóng tại địa bàn
xã. 80% số hộ dân (trong tổng số 2542 hộ) sinh sống bằng nghề nông (trồng lúa
và chăn nuôi gia súc), tỷ lệ hộ nghèo 20,5% (17). Điều kiện sản xuất nông nghiệp
còn nhiều khó khăn, hệ thống kênh mương, thuỷ lợi yếu và thiếu, rất phụ thuộc
vào nguồn nước tự nhiên. Nước sinh hoạt của người dân chủ là nguồn nước giếng,
nguy cơ ô nhiễm cao. Hoặc thôn Triều Sơn Đông, xã Hương Vinh, huyện Hương
Trà là thôn nằm ven thành phố Huế, tọa lạc bên sông Ô Lâu ở vùng trũng nên
thường bị lũ lụt và ngập úng, bị ô nhiễm môi trường do rác thải củathành thị đưa
về. Tổng số hộ trong thôn là 440, trong đó có 98 hộ thuộc diện nghèo (17). Hoạt
động sản xuất chủ yếu là trồng lúa, một số cây trồng khác như rau, đậu, khoai,
sắn diện tích không đáng kể. Như vậy, việc cải thiện chất lượng môi trường dưới
mọi hình thức đều có tác động tích cực đến xoá đói giảm nghèo. Chính vì lý do
đó xoá đói giảm nghèo và bảo vệ môi trường cần được tiến hành hài hoà để đạt
được phát triển bền vững.
Nghèo đói và môi trường vẫn là vấn đề cần phải tranh luận nhiều. Một mặt,
có một số người cho rằng nghèo đói trước hết phải được xoá bỏ trước khi chúng ta
xem xét đến vấn đề môi trường. Mặc khác, một số cho rằng suy thoái môi trường là

nguyên nhân chính dẫn đến nghèo đói. Ngày nay mục tiêu chính của chúng ta trong
vấn đề phát triển cộng đồng là giảm nghèo. Hơn nữa, có một số quan điểm nhất trí
là môi trường là rất cần thiết để duy trì cuộc sống ổn định. Với quan điểm này, môi

21


trường thực chất là đất trồng cây nông nghiệp; nước để uống, phục vụ sinh hoạt
hàng ngày và cây trồng; không khí để thở và là một nơi cung cấp lương thực và
dược phẩm. Do đó, một điều rất dễ nhận thấy là bảo vệ môi trường thực chất là bảo
vệ hoạt động sản xuất lương thực, sinh kế bền vững và đảm bảo sức khoẻ. Kết quả
là, xoá đói giảm nghèo, tăng trưởng kinh tế và duy trì tài nguyên môi trường phục
vụ cuộc sống có mối liên hệ mật thiết lẫn nhau.
1.4. Công tác và kết quả cải thiện môi trường tại Việt Nam
Mặc dù mối liên hệ giữa nghèo đói và môi trường đã được đề cập nhiều
năm qua nhưng việc nhận ra những mối liên hệ này không dẫn đến việc cần phải
xem xét lại các chương trình môi trường và xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam, ở đó
các chương trình này chưa được gắn kết với nhau và thậm chí là có các xu hướng
trái ngược nhau. Có một số khái niệm về môi trường và nghèo đói đã được biết đến
trước đó.
Một số chính sách công và quan điểm của các bên liên quan tiếp tục cho
rằng nghèo đói và suy thoái môi trường là một vòng tuần hoàn khép kín (hết
nghèo đói lại dẫn đến môi trường suy thoái và ngược lại) do việc tăng dân số
quyết định. Ở Việt Nam, việc kế hoạch hoá gia đình đối với các dân tộc thiểu số
thường rơi vào tình trạng này (vòng luẩn quẩn). Tuy nhiên, phương thức này lại
đang được xem là cách hiểu phổ biến về sinh kế người nghèo và mối liên hệ phức
tạp với môi trường. (14)
1.4.1. Chiến lược tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo toàn diện
Chiến lược tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo toàn diện đã nhận thấy
tầm quan trọng của môi trường đối với người nghèo nhưng cụ thể những vấn đề

môi trường sẽ được lồng ghép với mục tiêu xoá đói giảm nghèo như thế nào thì
vẫn còn bỏ ngỏ và chưa chắc chắn. Chiến lược xoá đói giảm nghèo và các
chương trình quốc gia về xoá đói giảm nghèo gần như không đề cập đến vấn đề
môi trường trong hoạt động (đa ngành) xoá đói giảm nghèo. Với việc chỉ đưa ra
chỉ số về độ che phủ rừng không chỉ không đủ cho xoá đói giảm nghèo mà còn
không giải quyết được vấn đề đa dạng sinh học rừng và các vấn đề khác. Ngoài
ra, cũng cần hiểu cụ thể hơn về việc làm thế nào để các thành tựu kinh tế ở các
mức độ khác nhau gắn kết, liên hệ với các hình thức sử dụng rừng, sự phụ thuộc
vào rừng và chất lượng rừng khác nhau. (4)

22


1.4.2. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001 - 2010
Một mặt, chiến lược SEDS đề cập đến tính liên tục trong phát triển và
hoàn thiện hệ thống bảo vệ nguồn nước để bảo vệ khỏi bị kết tinh thành muối,
bảo vệ nguồn nước sạch và kiểm soát lũ lụt, đảm bảo an toàn cho hệ thống
mương máng tưới tiêu và hệ thống thoát nước phục vụ sản xuất nông nghiệp
(gồm: các cây công nghiệp và thuỷ sản) và sinh kế của người nông dân. Đối với
các khu vực luôn bị bão và lũ lụt, cùng với việc sử dụng các biện pháp giảm thiểu
thiệt hại do thiên tai gây ra thì cần khoanh vùng dân cư và vùng sản xuất để đối
phó với điều kiện tự nhiên. (5)
Chiến lược quốc gia về phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001- 2010
(SEDS), đặt ra nhiệm vụ “giảm thiểu mức độ ô nhiễm, tránh không bị suy thoái và
cải thiện chất lượng môi trường” đã chỉ rõ mối liên hệ đến sức khoẻ môi trường. (5)
Tuy nhiên, những nỗ lực trong các lĩnh vực này mới chỉ đang trong giai đoạn đầu.
Chiến lược dường như chưa đề cập đến tác động ô nhiễm từ các khu công nghiệp và
làng nghề. Chiến lược chỉ đề cập đến mục tiêu cần đạt được chứ không nói đến vấn
đề đào tạo hay định hướng do đó các mục tiêu về mối liên hệ giữa nghèo đói và môi
trường có thể được thực hiện tốt trên thực tế. Mối quan hệ và thoả hiệp giữa phát

triển kinh tế và chất lượng môi trường chưa được thể hiện rõ trong chiến lược này.
Việc thực thi các quy định về ô nhiễm nhìn chung không chặt chẽ và do đó không
đủ nguồn lực và vật lực để thực hiện, đặc biệt ở cấp tỉnh. Nhận thức được điều này
SEDS đưa ra chương trình phát triển thể chế với mục tiêu “tăng cường năng lực các
cơ quản quản lý nhà nước về môi trường ở các cấp, đào tạo cán bộ tham gia bảo vệ
môi trường ở các cấp, thiết lập các tổ chức quản lý môi trường tại các bộ, ngành”.
Mặc dù thành công bước đầu đạt được trong việc thiết lập khung hoạt động bảo vệ
môi trường cho Việt Nam nhưng Chiến lược bảo vệ môi trường đến năm 2010 và
tầm nhìn đến năm 2020 vẫn còn nhiều việc phải làm liên quan đến quản lý môi
trường. Khung pháp lý chưa hoàn chỉnh, các luật quan trọng như luật về không khí
sạch, an toàn hoá chất và đa dạng sinh học không có trong khi đó các hướng dẫn
thực hiện các luật khác chưa ban hành. Hệ thống các cơ quan quản lý môi trường
chưa tương xứng. Cán bộ quản lý môi trường chưa đủ về số lượng và yếu về năng
lực. Phân công nhiệm vụ và trách nhiệm chưa rõ ràng, còn chồng chéo và kẽ hở
trong quản lý nhà nước về môi trường. Các vấn đề khác như nhận thức của nhân

23


dân về bảo vệ môi trường còn kém; đầu tư cho bảo vệ môi trường còn chưa thích
đáng, chưa hiệu quả và còn dàn trải; việc áp dụng các công cụ kinh tế đang được
đưa vào hoạt động bảo vệ môi trường. Những điểm yếu này cùng với chất lượng
môi trường ngày một suy giảm đang là thách thức lớn đối với công tác bảo vệ môi
trường trong thời gian tới. Việc xây dựng các chính sách và công cụ kiểm soát và
ngăn chặn ô nhiễm công nghịêp cũng là một phần trong chiến lược của Chính phủ.
Luật bảo vệ môi trường sửa đổi là khung pháp lý cho cơ chế “tiền bồi thường do
gây ô nhiễm”, áp dụng hình phạt đối với các ngành công nghiệp gây ô nhiễm
nghiêm trọng và việc sử dụng khen thưởng để khuyến khích sử dụng kỹ thuật sản
xuất sạch. Trong thực tế, Chính phủ nhằm mục tiêu “duy trì hoạt động bảo vệ môi
trường vào các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội để đạt được mục tiêu phát triển

bền vững, cải tiến công tác lập kế hoạch về bảo vệ môi trường”. Để làm được việc
này không chỉ đơn thuần là tiến hành đánh giá tác động môi trường ở cấp dự án.
1.4.3. Chương trình nghị sự 21
Chương trình nghị sự 21, mục tiêu tổng thể của Chiến lược Việt Nam cho
phát triển bền vững là tạo ra một xã hội mà người dân được hưởng một cuộc sống
đầy đủ về văn hoá, vật chất và tinh thần, sống bình đẳng, đảm bảo hài hoà giữa con
người và thiên nhiên; vấn đề phát triển là sự kết hợp hài hoà, chặt chẽ của 3 yếu tố:
Phát triển kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Về mặt kinh tế, mục tiêu
phát triển bền vững là đạt được mức tăng trưởng kinh tế bền vững với một cơ cấu
kinh tế phù hợp, thoả mãn nhu cầu người dân để nâng cao chất lượng cuộc sống,
tránh suy thoái và đình trệ kinh tế trong tương lai, cố gắng tránh bị nợ nần để lại hậu
quả xấu cho thế hệ con cháu. Về mặt xã hội, mục tiêu của phát triển bền vững là đạt
được kết quả cao trong việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; đảm bảo người
dân Việt Nam có đủ chất dinh dưỡng trong bữa ăn hàng ngày và chất lượng dịch vụ
y tế được cải thiện; có cơ hội tiếp cận giáo dục và việc làm; giảm tỷ lệ hộ nghèo
đói; thu hẹp khoảng cách giữa các tầng lớp trong xã hội và nhóm người; xoá được tệ
nạn xã hội; nâng cao quyền và trách nhiệm của từng người dân và toàn xã hội; giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hoá đa dạng; nâng cao mức sống người dân cả về vật
chất lẫn tinh thần. Về môi trường, áp dụng các biện pháp phát triển bền vững: khai
thái hợp lý và hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên, sử dụng hiệu quả; ngăn chặn
và kiểm soát được ô nhiễm môi trường; bảo vệ môi trường sống; bảo vệ các khu

24


vườn quốc gia, khu bảo tồn và sinh quyển; bảo tồn đa dạng sinh học; tránh được
tình trạng suy thoái môi trường và cải thiện được điều kiện môi trường. Các chỉ số
này bao quát các vấn đề như nghèo đói, chênh lệnh trong thu nhập và thất nghiệp.
Nó đại diện cho các vấn đề ưu tiên của các nước và cộng đồng thế giới. Các chỉ số
này được sử dụng rộng rãi, được kiểm nghiệm và chứng tỏ là có hiệu quả trong việc

xây dựng các mục đích và mục tiêu phát triển. Hội nghị thượng đỉnh thế giới về
phát triển xã hội đã chấp nhận mục tiêu giảm tỷ lệ người nghèo ở các nước đang
phát triển xuống còn một nửa vào 2015. (7) Chương trình nghị sự 21 đưa ra các chỉ
số về nghèo đói và môi trường trong các chủ đề về xã hội và môi trường một cách
rõ ràng nhưng thiếu mối liên hệ mật thiết giữa các chỉ số nghèo đói và môi trường.
Tuy nhiên trong chương trình nghị sự 21, có một số chỉ số vẫn chỉ mang
tính hình thức và không khả thi, do đó ít nhiều cũng tác động đến quá trình xây
dựng và thực hiện. Ví dụ: làm thế nào để gắn kết tốt hơn người dân tộc thiểu số vào
quá trình xây dựng hay làm thế nào để tăng cường sự tham gia của người dân địa
phương vào các chương trình phát triển thôn, bản? Đối với các chỉ số xã hội, các chỉ
số này đã được đưa vào và có vai trò quan trọng. Tuy nhiên, tính chính xác của các
chỉ số này lại không cao vì mỗi người hiểu các khái niệm này theo một cách khác
nhau. Các chỉ số về môi trường ít về số lượng và khó tính toán chất lượng. Hệ thống
số liệu thống kê của Việt Nam không chú ý nhiều đến các chỉ số này. Số liệu về môi
trường thường được thu thập thông qua các cuộc khảo sát quy mô nhỏ, tài liệu
nghiên cứu, các biện pháp tính toán mức độ ô nhiễm tại các trung tâm đô thị, khu
công nghiệp. Kết quả là chỉ có rất ít chỉ số môi trường có số liệu cập nhật liên tục.
1.4.4. Chiến lược quốc gia về bảo vệ môi trường đến năm 2010 và tầm nhìn đến
năm 2020
Những hạn chế chính được xác định khi đánh giá các chương trình và chính
sách về môi trường là: (i) sự tham gia của người nghèo trong quá trình xây dựng
chính sách môi trường còn rất yếu; (ii) không có số liệu mang tính định lượng để
cho phép xác định chính xác và đầy đủ mối liên hệ giữa nghèo đói và môi trường có
thể được sử dụng để tác động đến quá trình xây dựng chính sách môi trường một
cách có hiệu quả; (iii) các chính sách về môi trường mới chỉ nhìn nhận vấn đề
nghèo đói trên góc độ lý thuyết và hàn lâm mà chưa có hoạt động cụ thể để lồng
ghép vấn đề nghèo đói vào các dự án và chương trình về môi trường, và (iv) khung

25



×