Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Kinh tế hộ gia đình và vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ gia đình ở huyện hương sơn, tỉnh hả tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 107 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------

LÊ THỊ THU HẰNG

KINH TẾ HỘ GIA ĐÌNH VÀ VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ TRONG PHÁT
TRIỂN KINH TẾ HỘ GIA ĐÌNH Ở HUYỆN HƢƠNG SƠN, TỈNH HÀ
TĨNH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học

Hà Nội, 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------

LÊ THỊ THU HẰNG

KINH TẾ HỘ GIA ĐÌNH VÀ VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ TRONG PHÁT
TRIỂN KINH TẾ HỘ GIA ĐÌNH Ở HUYỆN HƢƠNG SƠN, TỈNH HÀ
TĨNH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60.22.03.08


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGÔ THỊ PHƢỢNG

Hà Nội, 2015


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 1.1. Quy mô diện tích các trang trại điều tra ở huyện Hương Sơn năm
2014
Bảng 1.2. Doanh thu bình quân/năm của các trang trại ở Hương Sơn năm 2014
Bảng 1.3. Tình hình dân số huyện Hương Sơn giai đoạn 2011 - 2014
Bảng 2.1. Tỷ lệ phụ nữ làm chủ hộ (ĐVT: %)
Bảng 2.2. Người ra quyết định các khâu trong trồng trọt (ĐVT:%)
Bảng 2.3. Người ra quyết định các khâu trong chăn nuôi (ĐVT: %)
Bảng 2.4. Kết quả điều tra về người đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất trong gia đình
Bảng 2.5. Tỷ lệ (%) vợ, chồng tham gia kiểm soát nguồn lực tài chính gia đình
Bảng 2.6. Thực trạng nhân khẩu và lao động của các trang trại
Bảng 2.7. Chi phí sản xuất bình quân của các trang trại điều tra ở huyện Hương
sơn năm 2014
Bảng 2.8. Thực trạng về vốn của các trang trại điều tra ở huyện Hương Sơn
Bảng 2.9. Trình độ văn hóa và trình độ chuyên môn của những người phụ nữ
trong các trang trại ở huyện Hương Sơn, năm 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện
dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Ngô Thị Phượng. Các trích dẫn, số liệu trong
luận văn là trung thực, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.

Hà Nội, ngày 08 tháng 03 năm
2016.
Học viên thực hiện

Lê Thị Thu Hằng


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp của mình, tôi xin gửi lời cảm ơn chân
thành đến Ban chủ nhiệm khoa Triết học, Bộ phận quản lý học viên sau Đại học
trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội đã tận tình dạy dỗ tôi
trong quá trình học tập và hướng dẫn quy trình thực hiện luận văn. Đặc biệt, tôi
xin gửi lời tri ân sâu sắc đến PGS.TS Ngô Thị Phượng - người trực tiếp hướng
dẫn, giúp đỡ, động viên tôi trong quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến Ủy ban nhân dân huyện Hương Sơn, gia
đình, bạn bè đã đồng hành, hỗ trợ tôi trong suốt quá trình vừa qua. Mặc dù đã cố
gắng hết sức song khóa luận tốt nghiệp không thể tránh khỏi những thiếu sót,
kính mong nhận được sự góp ý của quý thầy, cô giáo để đề tài được hoàn thiện
hơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn.
Hà Nội, ngày 08 tháng 03 năm
2016
Học viên: Lê Thị Thu Hằng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1. Lí do lựa chọn đề tài ...................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài .................................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 6

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 7
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................... 7
6. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 8
7. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn ........................................ 8
8. Kết cấu của luận văn ..................................................................................... 8
NỘI DUNG........................................................................................................... 9
Chƣơng 1. KINH TẾ HỘ GIA ĐÌNH VÀ KINH TẾ HỘ GIA ĐÌNH Ở
HUYỆN HƢƠNG SƠN, TỈNH HÀ TĨNH HIỆN NAY ................................... 9
1.1 Một số vấn đề lý luận về kinh tế hộ gia đình .......................................... 9
1.1.1 Khái niệm và các hình thức cơ bản của kinh tế hộ gia đình ................ 9
1.1.2. Đặc trưng cơ bản của kinh tế hộ gia đình ........................................ 15
1.1.3. Vai trò của kinh tế hộ gia đình .......................................................... 19
1.2 Kinh tế hộ gia đình ở huyện Hƣơng Sơn , tỉnh Hà Tĩnh hiện nay ..... 23
1.2.1. Khái quát về huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh .................................. 23
1.2.2. Sự phát triển kinh tế hộ gia đình ở huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh
hiện nay ....................................................................................................... 28
1.2.3. Những yếu tố tác động đến sự phát triển kinh tế hộ gia đình ở Hương
Sơn, tỉnh Hà Tĩnh ........................................................................................ 35
Chƣơng 2. VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ
GIA ĐÌNH Ở HUYỆN HƢƠNG SƠN, TỈNH HÀ TĨNH HIỆN NAY:
THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP .................................. 45
2.1. Thực trạng vai trò của phụ nữ với sự phát triển kinh tế hộ gia đình ở
huyện Hƣơng Sơn, tỉnh Hà Tĩnh hiện nay .................................................. 47


2.1.1. Vai trò của phụ nữ trong phát triển lực lượng lao động của kinh tế
hộ gia đình ................................................................................................... 47
2.1.2. Vai trò của phụ nữ trong tổ chức, lao động sản xuất ................ Error!
Bookmark not defined.
2.1.3. Vai trò của phụ nữ trong quản lý kinh tế hộ gia đình ....................... 54

2.1.4. Vai trò của phụ nữ trong phân phối .................................................. 62
2.1.5. Vai trò của phụ nữ trong huy động vốn, sử dụng nguồn lực để phát
triển kinh tế.................................................................................................. 65
2.2. Những vấn đề đặt ra liên quan đến vai trò ngƣời phụ nữ trong phát
triển kinh tế hộ gia đình................................................................................ 69
2.2.1. Trình độ chuyên môn của phụ nữ chưa đáp ứng với yêu cầu của sự
phát triển kinh tế - xã hội ............................................................................ 69
2.2.2. Sự bất bình đẳng giới trong việc tiếp cận nguồn lực và ra quyết định
..................................................................................................................... 71
2.2.3. Phong tục tập quán lạc hậu và định kiến xã hội đối với phụ nữ ...... 75
2.2.4. Tâm lý an phận, tự ti của người phụ nữ ............................................ 77
2.3. Giải pháp tiếp tục phát huy vai trò của phụ nữ với phát triển kinh tế
hộ gia đình ở huyện Hƣơng Sơn, tỉnh Hà Tĩnh hiện nay .......................... 79
2.3.1. Nhóm giải pháp về nâng cao nhận thức của người phụ nữ .............. 79
2.3.2. Nhóm giải pháp về nâng cao năng lực tổ chức quản lý và phát triển
phát triển kinh tế cho phụ nữ ...................................................................... 82
2.3.3. Nhóm giải pháp về xây dựng cơ chế, chính sách, pháp luật lồng ghép
nội dung bình đẳng giới .............................................................................. 83
2.3.4. Xây dựng và phát huy vai trò của Hội liên hiệp phụ nữ cấp huyện, xã
..................................................................................................................... 87
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 94


MỞ ĐẦU
1. Lí do lựa chọn đề tài
Ở Việt Nam hiện nay, kinh tế tư nhân là một thành phần quan trọng trong
cơ cấu kinh tế của xã hội. Kinh tế tư nhân đang có mặt ở nhiều ngành, nghề cả
nông thôn và thành thị. Đây cũng là thành phần kinh tế có điều kiện phát huy
nhanh, hiệu quả tiềm năng về vốn, sức lao động, tay nghề của từng gia đình và

cá nhân từng người lao động. Kinh tế tư nhân phần lớn hoạt động dưới hình thức
kinh tế hộ gia đình. Đây cũng là một thành phần quan trọng trong phát triển
nông nghiệp và đổi mới nông thôn. Cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội nói
chung và ngành nông nghiệp nói riêng, kinh tế hộ gia đình ở nông thôn không
ngừng phát triển cả về quy mô và hình thức. Một bộ phận hộ nông dân chuyển
từ quy mô nhỏ thành quy mô lớn, từ sản xuất tự cung tự cấp sang quy mô sản
xuất hàng hóa lớn, hình thành các mô hình trang trại sản xuất có hiệu quả cao.
Từ sau khi thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị khóa VI (1988), hộ
nông dân đã thực sự được trao quyền tự chủ trong sản xuất, do đó đã khơi dậy
nhiều nguồn lực và tiềm năng để phát triển kinh tế hộ gia đình.Chiến lược kinh
tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2010 của Đảng đã xác định kinh tế hộ gia đình là
một đơn vị sản xuất cơ sở, cần thiết cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế vĩ mô, nhằm
huy động mọi nguồn lực tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Từ đó đến nay, kinh tế hộ gia đình luôn là loại hình tổ chức sản xuất có
hiệu quả về kinh tế - xã hội, sẽ tồn tại và phát triển lâu dài, có vị trí quan trọng
trong quá trình phát triển kinh tế, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và đặc biệt là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Đối
với quá trình phát triển kinh tế hộ gia đình hiện nay, các thành viên trong gia
đình đóng vai trò rất quan trọng với tư cách là lực lượng lao động trực tiếp, đặc
biệt là người phụ nữ.

1


Trong lịch sử đấu tranh chông giặc ngoại xâm, phụ nữ Việt Nam đã đi vào
lịch sử của Dân tộc với tám chữ vàng “anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm
đang”. Ngày nay, quá trình xây dựng và phát triển đất nước, người phụ nữ Việt
Nam không chỉ giữ thiên chức là người vợ, người mẹ mà còn là lực lượng lao
động chính, góp phần tích cực và quan trọng vào sự phát triển xã hội.
Hương Sơn là một huyện trung du miền núi nằm ở phía tây bắc tỉnh Hà

Tĩnh. Tuy là một huyện miền núi với điều kiện tự nhiên khó khăn nhưng người
dân nơi đây không cam chịu phận nghèo. Với gần 70% dân cư hoạt động trong
lĩnh vực nông nghiệp, trong thời gian gần đây, đặc biệt là khi cả nước thực hiện
chương trình xây dựng “nông thôn mới”, người dân Hương Sơn đã khai thác
hiệu quả thế mạnh của tự nhiên để xây dựng, phát triển kinh tế hộ gia đình. Nhờ
vậy, đời sống xã hội toàn huyện đã có nhiều chuyển biến theo hướng tích cực.
Theo “Đánh giá kết quả tiêu chí thu nhập năm 2014, kế hoạch thực hiện năm
2015” của Ủy ban Nhân dân huyện Hương Sơn, tính đến ngày 31/12/2014,
huyện Hương Sơn có tổng 1341 mô hình kinh tế trong lĩnh vực trồng trọt, chăn
nuôi, lâm nghiệp, thủy sản, tổng hợp. Trong đó,có 52 mô hình kinh tế cho doanh
thu trên 1 tỷ đồng/năm;77 mô hình đưa lại doanh thu 500 triệu - 1 tỷ đồng/năm;
543 mô hình cho doanh thu gần 500 triệu/năm. Đặc biệt, huyện có 83 mô hình
trang trại đã được công nhận và hoạt động có hiệu quả, đưa lại nguồn thu nhập
cao cho người dân.
Trong quá trình phát triển đó, có sự đóng góp không nhỏ của đông đảo
phụ nữ trong các hộ gia đình. Tuy nhiên, do một số trở ngại mà vai trò của họ
chưa được đánh giá một cách khách quan, và họ chưa có điều kiện để phát huy
hết khả năng và vai trò của mình. Việc phát huy một cách có hiệu quả vai trò của
phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ gia đình không chỉ là cách giúp các gia đình
thoát nghèo, cải thiện cuộc sống, phát triển kinh tế, vươn lên làm giàu mà còn
góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, đồng thời là con đường để giải
phóng phụ nữ. Chính vì vậy, tôi chọn vấn đề “Kinh tế hộ gia đình và vai trò của
2


phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ gia đình ở huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh
hiện nay” làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan đến đề tài luận văn, đã có nhiều công trình công bố. Luận văn
phân chia các công trình đó theo các nhóm vấn đề sau:

Thứ nhất, nhóm công trình nghiên cứu về vai trò của người phụ nữ, có
một số công trình tiêu biểu:
Nguyễn Thị Kim Thoa (2000), Vị thế và vai trò xã hội của người phụ nữ
trong gia đình nông thôn đồng bằng Bắc Bộ hiện nay (Qua nghiên cứu tại tỉnh
Nam Định), Luận án Tiến sĩ Triết học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà
Nội. Luận án đã góp tiếng nói về vị thế và vai trò xã hội của người phụ nữ trên
các phương diện đối với gia đình và sự phát triển chung của xã hội, đưa ra các
biện pháp nhằm nâng cao vai trò và vị thế của người phụ nữ nông thôn ở đồng
bằng Bắc Bộ hiện nay.
Hoàng Bá Thịnh (2001), Vai trò của người phụ nữ trong công nghiệp hóa
nông thôn (Nghiên cứu khu vực đồng bằng sông Hồng), Luận án Tiến sĩ Khoa
học Xã hội, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội. Công trình này đã
nghiên cứu một số vấn đề lý luận về công nghiệp hóa nông thôn, thực trạng vai
trò của người phụ nữ ở khu vực đồng bằng sông Hồng trong quá trình công
nghiệp hóa nông thôn, trình bày một số quan điểm chỉ đạo và một số giải pháp
nhằm phát huy vai trò đó.
Nguyễn Thị Thúy (2011), Sự tham gia và quyền quyết định của phụ nữ
nông thôn trong gia đình và xã hội (Nghiên cứu trường hợp phụ nữ đang tham
gia trong hệ thống chính trị cơ sở tại 4 xã của tỉnh Thanh Hóa), Luận án Tiến sĩ
Xã hội học, Học viện Khoa học xã hội. Luận án đã cho thấy biến đổi kinh tế, xã
hội ở Việt Nam trong thời gian qua đã và đang làm ảnh hưởng mạnh mẽ đến các
quan hệ xã hội ở nông thôn, trong đó có quan hệ sắp xếp về phân công lao động

3


giữa nam và nữ trong gia đình và ngoài xã hội. Tác giả đã phân tích thực trạng
việc tham gia đóng góp ý kiến và quyền quyết định công việc của người phụ nữ
trong gia đình và xã hội, những yếu tố tác động, một số rào cản và những giải
pháp nhằm nâng cao quyền quyết định cho người phu nữ nông thôn trong công

việc của gia đình và xã hội.
Lê Thị Thúy (2013), Phát triển nguồn nhân lực nữ nhằm tăng trưởng kinh
tế và thực hiện công bằng xã hội ở miền núi phía Bắc Việt Nam, Luận án Tiến sĩ
Kinh tế, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương. Luận án đã phân tích một
số cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của nguồn nhân lực nữ đối với tăng
trưởng kinh tế và công bằng xã hội; thực trạng phát triển nguồn nhân lực và ảnh
hưởng của nó đến tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở miền núi phía Bắc
Việt Nam; giải pháp để phát triển nguồn nhân lực nữ để thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế và thực hiện công bằng xã hội ở miền núi phía Bắc Việt Nam đến năm
2020…
Thứ hai, nhóm công trình nghiên cứu về kinh tế tư nhân (kinh tế hộ gia
đình) có một số công trình:
Sa Trọng Đoàn (2000), “Phát triển kinh tế hộ gia đình miền núi trong quá
trình chuyển sang cơ chế thị trường”, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Trong công trình này, tác giả đã trình bày diện mạo
mô hình kinh tế hộ gia đình, nhất là kinh tế hộ gia đình ở miền núi, đặc điểm, sự
phát triển và vai trò của mô hình kinh tế này trong sự phát kinh tế của đất nước
thời kỳ chuyển đổi từ kinh tế tập trung, bao cấp sang kinh tế thị trường ở nước
ta.
Nguyễn Đức Truyến (2003), Kinh tế hộ gia đình và các quan hệ xã hội ở
nông thôn đồng bằng sông Hồng trong thời kỳ đổi mới, nhà xuất bản Khoa học
xã hội. Trong công trình này, tác giả đã trình bày về sự phát triển kinh tế hộ gia
đình trong thời kỳ đổi mới và phân tích hiện trạng những quan hệ xã hội ở nông
thôn đồng bằng sông Hồng, khi mà kinh tế hộ gia đình ngày càng phát triển. Qua
4


đó, cho thấy sự phát triển kinh tế hộ gia đình như là một yếu tố tác động đến
những biến đổi của các quan hệ xã hội, và ngược lại.
Trịnh Thị Hoa Mai (2005), Kinh tế tư nhân ở Việt Nam trong tiến trình

hội nhập, Nxb Thế giới. Trong công trình này, kinh tế tư nhân được hiểu là tất
cả các cơ sở sản xuất kinh doanh không dựa trên sở hữu nhà nước về các yếu tố
của quá trình sản xuất, trong đó có hộ gia đình. Từ quan niệm đó, tác giả đã
nhận diện sự phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử.
Những thách thức mới đối với sự phát triển kinh tế tư nhân trong điều kiện hội
nhập quốc tế hiện nay.
Vũ Quốc Tuấn (2006), Phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Trong công trình này, kinh tế hộ gia đình được
xem là một bộ phận của kinh tế tư nhân ở Việt Nam. Tác giả đã phân tích cơ sở
lý luận và thực tiễn, trình bày quá trình tìm tòi, thử nghiệm, đột phá, đấu tranh tư
tưởng và tổng kết sự phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Việt Nam,
trong đó có kinh tế tư nhân là bộ phận quan trọng. Đồng thời, tác giả cũng phân
tích, nhận dạng, dự báo xu hướng phát triển kinh tế tư nhân, đề xuất một số giải
pháp để tiếp tục phát triển kinh tế tư nhân.

Thứ ba, nhóm các công trình nghiên cứu về vai trò của phụ nữ trong phát
triển kinh tế hộ gia đình và kinh tế hộ huyện Hương Sơn Hà Tĩnh.
Về vai trò của phụ nữ trong kinh tế hộ gia đình, gần đây, mới chủ yếu là
một số luận văn thạc sĩ Kinh tế học và một số ngành về khoa học nông nghiệp
chứ chưa có công trình dưới dạng sách, bài viết hoặc là luận án Triết học, như:
Trần Cẩm Tú (1999), Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và tăng trưởng rừng
tự nhiên, phục hồi sau khai thác làm cơ sở đề xuất một số biện pháp xử lý lâm
sinh trong điều chế rừng ở Hương Sơn, Hà Tĩnh, Luận án Tiến sĩ Nông nghiệp,
Đại học Nông nghiệp Hà Nội.

5


Vương Thị Vân (2009), Vai trò của phụ nữ nông thôn trong phát triển
kinh tế hộ gia đình trên địa bàn huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên, Luận văn

Thạc sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh, Đại học Thái
Nguyên. Luận văn đã trình bày thực trạng vai trò của phụ nữ nông thôn trong
phát triển kinh tế huyện Phú Lương; quan điểm, phương hướng và những giải
pháp nhằm nâng cao vai trò của phụ nữ nông thôn trong phát triển kinh tế hộ ở
huyện Phú Lương.
Phan Đức Tùng (2014), Nghiên cứu vai trò của phụ nữ nông thôn trong
phát triển kinh tế hộ trên địa bàn huyện Đông Hỷ, tỉnh Thái Nguyên, Luận văn
Thạc sĩ Phát triển nông thôn, Đại học Nông Lâm.
Uông Thị Kim Yến (2011), Nghiên cứu đặc tính nông sinh học và một số
biện pháp kỹ thuật nâng cao năng suất, chất lượng cam bù ở Hương Sơn, Hà
Tĩnh, Luận văn thạc sĩ Khoa học Nông nghiệp, Đại học Nông nghiệp Hà Nội.
….
Như vậy, có thể thấy, vấn đề phát huy vai trò phụ nữ là một vấn đề quan
trọng và được nhiều tác giả đề cập đến. Song cho đến nay, chưa có một công
trình độc lập nào nghiên cứu về kinh tế hộ gia đình mà vai trò của phụ nữ trong
phát triển kinh tế hộ gia đình ở huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích
Luận văn làm rõ vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ gia đình ở
huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh; từ đó đề xuất các giải pháp tiếp tục phát huy
vai trò của họ trong phát triển kinh tế hộ gia đình ở huyện Hương Sơn, tỉnh Hà
Tĩnh hiện nay.
- Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ sau:

6


+ Trình bày một số vấn đề lý luận về kinh tế hộ gia đình, vai trò của người
phụ nữ.

+ Trình bày thực trạng phát triển kinh tế hộ gia đình và những yếu tố tác
động đến phát triển kinh tế hộ gia đình ở huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh hiện
nay.
+ Phân tích vai trò của phụ nữ với sự phát triển kinh tế hộ gia đình ở
huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh hiện nay và nêu một số vấn đề đặt ra liên quan
đến vai trò của người phụ nữ.
+ Đề xuất những giải pháp tiếp tục phát huy vai trò của phụ nữ với phát
triển kinh tế hộ gia đình ở huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ gia đình.
- Phạm vi nghiên cứu
Kinh tế hộ gia đình có những hình thức khác nhau về ngành nghề cũng
như về quy mô. Luận văn này chỉ tập trung nghiên cứu kinh tế hộ gia đình với
quy mô trang trại ở huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, trong khoảng thời gian từ năm
2010 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận
+ Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về gia
đình và vai trò của phụ nữ.
+ Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần ở nước ta hiện nay.
- Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp chung của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử.

7


+ Ngoài ra, luận văn sử dụng một số phương pháp cụ thể như: điều tra xã

hội học, phỏng vấn, phân tích, tổng hợp.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ vai trò của người phụ nữ trong phát triển
kinh tế hộ gia đình ở huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh và đề xuất một số biện
pháp giúp phụ nữ Hương Sơn tiếp tục phát huy vai trò đó trong thời gian tới.
7. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm rõ thêm vai trò của người phụ nữ trong phát triển
kinh tế hộ gia đình ở huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh hiện nay.
- Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể làm tài liệu cho việc nghiên cứu những vấn đề liên quan
đến phụ nữ và vai trò của người phụ nữ trong xã hội.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn bao gồm 2 chương, 4 tiết.

8


NỘI DUNG
Chƣơng 1. KINH TẾ HỘ GIA ĐÌNH VÀ KINH TẾ HỘ GIA ĐÌNH Ở
HUYỆN HƢƠNG SƠN, TỈNH HÀ TĨNH HIỆN NAY
1.1 Một số vấn đề lý luận về kinh tế hộ gia đình
1.1.1 Khái niệm và các hình thức cơ bản của kinh tế hộ gia đình
Khái niệm kinh tế hộ gia đình
Kể từ khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 10/NQ-TW ngày
05/4/1988 về “Đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp”, với mục đích giải phóng
sức sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn, chuyển giao đất đai và các tư liệu
sản xuất khác cho hộ nông dân quản lý và sử dụng lâu dài, thì các hộ nông dân
đã trở thành những đơn vị tự chủ trong sản xuất nông nghiệp. Điều đó có nghĩa

là hộ gia đình trở thành đơn vị kinh tế cơ sở, gọi là kinh tế hộ gia đình, là một
thành phần trong cơ cấu kinh tế. Từ đây, các hộ gia đình được tự chủ trong sản
xuất kinh doanh, được toàn quyền trong điều hành sản xuất, sử dụng lao động,
mua sắm vật tư kỹ thuật, hợp tác sản xuất và tiêu thụ sản phẩm do họ làm ra.
Nói cách khác, kinh tế hộ gia đình hoạt động theo nguyên tắc tự bỏ vốn, tự tổ
chức, tự chủ trong sản xuất kinh doanh và tự bù lỗ.
Kinh tế hộ gia đình là một tổ chức kinh doanh thuộc sở hữu của hộ gia
đình, các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động
kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản
xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định. Sự tồn tại của kinh tế hộ chủ yếu
dựa vào lao động gia đình để khai thác đất đai và tài nguyên khác nhằm phát
triển sản xuất, thoát nghèo bền vững và vươn lên làm giàu chính đáng.
Kinh tế hộ gia đình là một hình thức tổ chức kinh tế, lao động thuộc kinh
tế tư nhân. Do vậy, các công trình nghiên cứu ở Việt Nam bàn về kinh tế tư nhân
cũng chính là đề cập đến kinh tế hộ gia đình.

9


Hiện nay, có những ý kiến khác nhau về kinh tế hộ gia đình. Tác giả Sa
Trọng Đoàn, dưới góc độ kinh tế học, cho rằng: “kinh tế hộ gia đình” là một
hình thức kinh tế trong phát triển của nền kinh tế quốc dân; trong môi trường
kinh tế hàng hóa hiện nay, đó là hình thức tổ chức sản xuất rất cơ bản, là đơn vị
kinh tế tự chủ trong nền kinh tế hàng hóa, là đơn vị sản xuất quy mô nhỏ nhưng
có hiệu quả trong việc đẩy mạnh trong việc sản xuất nông nghiệp và phát triển
kinh tế nông thôn”. [18,tr.7]
Tác giả Nguyễn Đức Truyến dưới góc độ Xã hội học cho rằng, “Kinh tế
hộ gia đình là thành phần kinh tế mà ở đó những người cùng chung sống, cùng
sở hữu chung về tài sản và các tư liệu sản xuất, cùng tham gia hoạt động kinh tế
chung và và cùng hưởng thụ những thành quả chung đó”.[51, tr.23]. Ở đây, tác

giả nhấn mạnh đến tính cộng đồng trong quan hệ kinh tế của hộ gia đình
Còn tác giả Trần Hoàng Phong, dưới góc độ Quản lý Nhà nước về kinh tế
thì lại nhấn mạnh “Kinh tế hộ gia đình là một loại hình tổ chức sản xuất gắn
nông dân với đất đai, khai thác tốt tiềm năng của từng gia đình nông dân, là một
đơn vị kinh tế tự chủ, là chủ thể phát triển kinh tế trong cơ chế thị trường. [36,
tr.41]… Nhìn chung, các ý kiến trên căn cứ vào góc độ và mục đích của từ
ngành khoa học để có những quan niệm không hoàn toàn giống nhau về kinh tế
hộ gia đình.
Kế thừa những ý kiến trên, luận văn quan niệm, kinh tế hộ gia đình là mô
hình kinh tế độc lập, tự chủ, lấy gia đình làm đơn vị, thuộc sở hữu của hộ gia
đình, trong đó các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt
động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực
sản xuất, kinh doanh khác.
Như vậy, kinh tế hộ gia đình cùng với kinh tế cá thể, tiểu chủ là một khu
vực, bộ phận của kinh tế tư nhân, được bình đẳng với các thành phần kinh tế
khác trong nền kinh tế ở Việt Nam hiện nay, như tinh thần của Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nêu “Thực hiện nhất quán chính sách phát
10


triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp
luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; trong
đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập
thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân… kinh tế
cá thể, tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài…”1
Các hình thức cơ bản của kinh tế hộ gia đình
Kinh tế hộ gia đình có những hình thức khác nhau, tùy theo tiêu chí xác
định.
Xét theo tính chất và trình độ sản xuất, kinh tế hộ gia đình bao gồm kinh

tế hộ sinh tồn, kinh tế hộ tự cung tự cấp và kinh tế hộ sản xuất hàng hóa nhỏ,
kinh tế hộ sản xuất hàng hóa lớn.
Kinh tế hộ sinh tồn và kinh tế hộ tự cung tự cấp đều có đặc điểm như sản
xuất để tự cung cấp cho tiêu dùng gia đình, không có hoặc ít tiếp xúc với thị
trường. Kinh tế hộ sinh tồn ở dạng phát triển thấp hơn, phụ thuộc vào tự nhiên
nhiều hơn, họ chỉ sản xuất một số sản phẩm để phục vụ cho việc tồn tại và sinh
hoạt của gia đình mình; hình thức này vẫn còn tồn tại ở một số dân tộc ít người
thuộc các vùng xa xôi hẻo lánh.
Hộ sản xuất hàng hóa là hộ phát triển ở trình độ cao hơn, sản xuất của họ
chủ yếu phục vụ cho nhu cầu của thị trường và tùy theo trình độ phát triển, tùy
theo mức độ sản xuất hàng hóa người ta có thể chia thành hộ sản xuất hàng hóa
nhỏ và hộ sản xuất hàng hóa lớn (hay các trang trại).
Hình thức trang trại có các đặc trưng như mục đích sản xuất của trang trại
là sản xuất nông, lâm, thuỷ sản hàng hoá với quy mô lớn; mức độ tập trung hoá
và chuyên môn hoá các điều kiện và yếu tố sản xuất cao hơn hẳn (vượt trội) so
với sản xuất của nông hộ, thể hiện ở quy mô sản xuất như đất đai, đầu con gia
1

Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, tr.95, 96,

11


súc, lao động, giá trị nông lâm thuỷ sản hàng hoá; chủ trang trại có kiến thức và
kinh nghiệm trực tiếp điều hành sản xuất, biết áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ
thuật, tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới vào sản xất; sử dụng lao động gia
đình và thuê lao động bên ngoài sản xuất hiệu quả cao, có thu nhập vượt trội so
với kinh tế hộ.
Xét theo lĩnh vực sản xuất, hình thức trang trại, kinh tế hộ gia đình bao

gồm trang trại trồng trọt, trang trại chăn nuôi, trang trại lâm nghiệp, trang trại
nuôi trồng thủy sản, trang trại tổng hợp.
Như vậy, trang trại là hình thức của kinh tế hộ gia đình, có quy mô sản
xuất lớn và tính chất sản xuất hoàn toàn khác. Tính chất sản xuất của trang trại
chủ yếu là sản xuất hàng hóa, tức là sản xuất nhằm mục đích để đáp ứng nhu cầu
của thị trường. Đây là hình thức tổ chức sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp,
nông thôn trong các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, trồng
rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông, lâm, thủy sản
Cá nhân, hộ gia đình sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy
sản đạt tiêu chuẩn kinh tế trang trại phải thỏa mãn một số điều kiện. Đối với cơ
sở trồng trọt, nuôi trồng thủy sản, sản xuất tổng hợp phải có diện tích trên mức
hạn điền, tối thiểu 3,1 ha đối với vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu
Long; 2,1 ha đối với các tỉnh còn lại. Giá trị sản lượng hàng hóa đạt trên 700
triệu đồng/năm. Đối với cơ sở chăn nuôi phải đạt giá trị sản lượng hàng hóa từ
1.000 triệu đồng/năm trở lên. Đối với cơ sở sản xuất lâm nghiệp phải có diện
tích tối thiểu 31 ha và giá trị sản lượng hàng hóa bình quân đạt 500 triệu
đồng/năm trở lên.[5]
Xét theo cơ cấu ngành nghề, kinh tế hộ được phân chia thành các loại: hộ
thuần nông, hộ kiêm nghề, hộ chuyên nghề và hộ kinh doanh tổng hợp.
Hộ thuần nông lấy nông nghiệp là ngành sản xuất chính, không có kinh
doanh và phát triển thêm các ngành nghề khác. Trong hộ thuần nông lại chia hai
loại hộ là hộ sản xuất nông nghiệp ở mức tái sản xuất giản đơn và hộ đạt mức tái
12


sản xuất mở rộng. Hộ sản xuất nông nghiệp ở mức tái sản xuất giản đơn là hộ có
mức đầu tư về tư liệu sản xuất và sức lao độn như cũ, khối lượng sản phẩm nông
nghiệp sản xuất ra như năm trước, không có sự tăng thêm. Hộ sản xuất nông
nghiệp đạt mức tái sản xuất mở rộng là hộ có sự đầu tư thêm về tư liệu sản xuất
và sức lao động để tăng thêm lượng nông sản tạo ra.

Hiện nay, ở nước ta hộ thuần nông còn chiếm tỷ lệ khá cao, mặc dù dưới
tác động của kinh tế thị trường và sau quá trình đổi mới quản lý nông nghiệp. Từ
Nghị quyết 10 của Bộ chính trị thừa nhận kinh tế hộ là đơn vị kinh tế tự chủ, sự
biến động của cơ cấu ngành nghề diễn biến phức tạp theo nhiều hướng nhưng
nhìn chung cơ cấu hộ thuần nông vẫn chiếm một tỷ lệ cao. Đối với các hộ thuần
nông, nông nghiệp là lĩnh vực hoạt động cơ bản nhất, thu hút 85 - 90% nguồn
nhân lực và tạo ra từ 55 - 60% thu nhập hàng năm. Trong cơ cấu ngành nghề của
hộ thuần nông bao gồm trồng trọt, chăn nuôi và phát triển các loại cây công
nghiệp, cây làm thực phẩm, trong đó, sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao nhất.
Ở nông thôn hiện nay, trong cơ cấu sản xuất nông nghiệp chiếm trên 90% nguồn
nhân lực dành cho trồng trọt, chăn nuôi chỉ là hoạt động hỗ trợ thu hút lao động
thừa.
Hộ kiêm nghề là đó là những hộ sản xuất nông nghiệp kiêm các ngành
nghề khác. Trong kinh tế hộ ở nông thôn hiện nay, thâm canh, chuyên canh, giỏi
nghề nông và đa dạng hóa ngành nghề, dịch vụ đã trở thành xu hướng khá nổi
bật. Trong bước chuyển sang kinh tế hộ tự chủ theo hướng sản xuất hàng hóa đã
xuất hiện nhiều hộ gia đình kinh doanh tổng hợp là: trồng cây lương thực, hoa
màu, cây ăn quả trên đất khoán, đất phần trăm kết hợp với ao vườn hoặc là kết
hợp với các ngành nghề thủ công, mỹ nghệ, các hoạt động buôn bán dịch vụ...
Hiện nay loại hộ này chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng số hộ, riêng những hộ nông
nghiệp kiêm các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn có trên 1,3 triệu
hộ, về cơ cấu hộ nông nghiệp kiêm ngành nghề có tỷ lệ cao thứ 2 sau hộ thuần
nông. Mô hình kinh tế hộ này thường hoạt động thành làng, gần đây có nơi đã
13


phát triển thành quy mô nhiều làng, xã. Dù hoạt động tiểu thủ công nghiệp có
phát triển, nhưng đa phần các hộ gia đình đều không quên giữ đất để sản xuất và
chăn nuôi nhằm tự túc lương thực, thực phẩm.
Hộ chuyên ngành nghề là những hộ hoạt động sản xuất trong các ngành

nghề phi nông nghiệp là chính. Một bộ phận nông dân bên cạnh sản xuất nông
nghiệp tiếp tục theo đuổi các ngành nghề truyền thống do cha ông để lại và một
bộ phận khác phát triển các ngành nghề mới. Những hộ có kinh nghiệm với
nghề truyền thống, có kỹ thuật tinh xảo sẽ chuyển sang làm nghề như đồ gốm
sứ, chế biến nông sản, thủ công, mỹ nghệ… phục vụ cho thị trường trong nước
và xuất khẩu. Đây chính là loại hộ đại diện cho sức sản xuất mới đang xuất hiện
và phát triển ở nông thôn, là nhân tố cơ bản kích thích quá trình chuyển nền
nông nghiệp tự cung, tự cấp sang nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa. Đối với
nhóm hộ này, xu hướng vận động phát triển là tiến tới hình thành các trang trại
và doanh nghiệp ngành nghề theo hướng tiểu chủ. Khi đó thị trường thuận lợi,
các ngành nghề được phát triển nhanh chóng và trở thành các hoạt động sản xuất
chính. Như vậy, hộ chuyên nghề là những hộ gia đình hoạt động kinh tế trong
các lĩnh vực ngành nghề và dịch vụ.
Hộ kinh doanh tổng hợp là những hộ gia đình hoạt động trong cả lĩnh vực
nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Mô hình này thường hình thành ở các thị
tứ hoặc các trung tâm cụm xã theo đầu mối giao thông. Sản xuất nông lâm
nghiệp - kinh doanh tổng hợp là mô hình kinh tế hộ ngày càng có hiệu quả ở
nhiều địa phương, nhất là ở các tỉnh trung du, miền núi. Xu hướng phát triển các
hộ gia đình này sẽ thành các trang trại gia đình hoặc doanh nghiệp tư nhân.
Đồng thời với quy mô và có vốn lớn, các hộ này còn kinh doanh phân bón,
thuốc bảo vệ thực vật, vật liệu xây dựng hoặc thu gom, chế biến sản phẩm.
Như vậy, kinh tế hộ gia đình là một trong các thành phần kinh tế ở nước
ta, tồn tại độc lập, thuộc sở hữu của hộ gia đình. Kinh tế hộ gia đình được phân

14


chia thành nhiều hình thức khác nhau tùy theo tính chất, trình độ sản xuất, cơ
cấu ngành nghề.
1.1.2. Đặc trưng cơ bản của kinh tế hộ gia đình

Sự thống nhất chặt chẽ giữa sở hữu với quá trình quản lý và sử dụng các
yếu tố của sản xuất.
Xét về mặt sở hữu, kinh tế hộ dựa trên cơ sở quyền sở hữu tư nhân về
những tư liệu sản xuất của hộ, tự mua sắm và quyền sử dụng lâu dài những tư
liệu sản xuất chủ yếu. Sở hữu trong kinh tế hộ là sở hữu chung, tất cả mọi thành
viên trong hộ đều có quyền sở hữu đối với những tư liệu sản xuất vốn có cũng
như những tài sản khác của hộ. Trên cơ sở quyền sở hữu chung đó, mọi thành
viên trong hộ đều có quyền bình đẳng trong việc quản lý, sử dụng những tư liệu
sản xuất và tài sản khác của hộ. Xét trong nội bộ từng hộ thì sở hữu những tư
liệu sản xuất và tài sản chung là việc chung của các thành viên, nhưng trong mối
quan hệ với các đơn vị kinh tế khác nhau thì kinh tế hộ là một đơn vị kinh tế độc
lập, tự chủ. Chính tính độc lập, tự chủ trong sản xuất kinh doanh của kinh tế hộ
đã tạo ra những chủ thể độc lập trong nền sản xuất xã hội. Mặt khác do dựa trên
cơ sở kinh tế chung và có chung một ngân quỹ nên các thành viên của hộ đều có
ý thức trách nhiệm cao. Trong việc bảo tồn và phát triển kinh tế của hộ, họ đều
có tính tự giác đóng góp sức lực, trí tuệ của mình để làm tăng quỹ thu nhập
nhằm tạo cho kinh tế hộ không ngừng phát triển. Dựa trên cơ sở những tư liệu
sản xuất và tài sản của chung, hơn nữa kinh tế hộ có quy mô nhỏ hơn các xí
nghiệp nông nghiệp và nông trang tập thể nên việc sử dụng nguồn lao động để
tiến hành sản xuất chủ yếu là nguồn nhân lực của hộ, nếu có thuê mướn nhân
công thì chỉ trong lúc thời vụ khẩn trương mà nguồn lao động của hộ không đáp
ứng nổi. Kinh tế hộ không sử dụng lao động làm thuê để tiến hành kinh doanh
theo lối tư bản chủ nghĩa. Do sự thống nhất giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng
các tư liệu sản xuất nên việc tổ chức bố trí lao động sản xuất theo thời gian, gọn
nhẹ và hợp lý hơn. Tùy theo từng đối tượng để có thể sắp xếp, bố trí công việc
15


nhằm sử dụng tối ưu khả năng lao động của mỗi cá nhân, những lúc thời vụ căng
thẳng có thể tập trung toàn bộ nguồn lực của cả hộ để giải quyết công việc,

nhưng khi qua thời điểm đó việc phân công lao động lại có thể dựa trên ưu thế
từng cá nhân. Như vậy ngay trong một hộ có thể kết hợp nhiều hình thức tổ chức
lao động và tùy theo tính chất công việc có thể hợp tác hay phân công lao động.
Việc tổ chức lao động trong hộ rất linh hoạt vì nó hoàn toàn dựa trên cơ sở tự
nguyện của mỗi thành viên. Hơn nữa, lao động trong kinh tế hộ phần nhiều là
lao động giản đơn nên một cá nhân có thể đảm nhận nhiều công đoạn của quá
trình sản xuất. Chính vì vậy hiệu quả của việc sử dụng lao động trong kinh tế hộ
rất cao.
Lao động quản lý và lao động sản xuất có mối quan hệ gần gũi.
Ở các xí nghiệp lớn sử dụng nhiều lao động, nhất là trong các xí nghiệp
nông nghiệp tư bản chủ nghĩa đòi hỏi cần phải có người điều hành, quản lý sản
xuất, người quản lý ở đây có thể là nhà tư bản, nhưng cũng có thể tư bản thuê
lao động quản lý để điều hành, ở đây chủ thể quản lý và đối tượng quản lý được
phân định rõ ràng. Nếu một sự điều hành không tốt, không có sự thống nhất chặt
chẽ giữa chủ thể và đối tượng quản lý rất dễ gây ra những bất ổn định trong sản
xuất. Ngược lại, trong kinh tế hộ, do tổ chức sản xuất với quy mô nhỏ, chủ yếu
là nguồn lao động của hộ, người chủ hộ thường là người đứng ra điều khiển mọi
hoạt động sản xuất trong đơn vị của mình. Mọi thành viên trong hộ thường có sự
gắn bó với nhau theo quan hệ huyết thống, hơn nữa kinh tế hộ có quy mô nhỏ
hơn so với các xí nghiệp nông nghiệp, các nông trang tập thể nên việc điều hành
quản lý đơn giản, gọn nhẹ và hiệu quả hơn.
Kinh tế hộ gia đình có quy mô nhỏ, dễ thích nghi với những biến động của
thị trường và có khả năng tổ chức sản xuất hiệu quả
Kinh tế hộ thường dựa trên quy mô gia đình làm cơ sở để tiến hành sản
xuất kinh doanh chủ yếu trên quy mô gia đình nên có quy mô nhỏ. Sản xuất với
quy mô nhỏ trong công nghiệp hay trong nông nghiệp bao giờ cũng có sự thích
16


ứng dễ dàng hơn so với xí nghiệp có quy mô lớn. Đặc trưng này có khả năng

cho phép các hộ có thể chuyển đổi phương hướng sản xuất, ít gây ra những xáo
trộn khi có những biến động phức tạp của thị trường về cầu hàng hóa hay nguồn
nguyên liệu của sản xuất.
Mặt khác, quy mô nhỏ lại sử dụng các nguồn lực trong nội bộ nên kinh tế
hộ có sức đàn hồi rất lớn. Nếu gặp điều kiện thuận lợi, hộ có thể tập trung vốn,
thậm chí lấy ở cả phần sản phẩm tất yếu để mở rộng sản xuất và tiến tới sản xuất
quy mô lớn. Ngược lại, nếu gặp khi sản xuất không thuận lợi, việc chuyển đổi
phương hướng sản xuất gặp khó khăn thì vẫn có khả năng tự duy trì bằng cách
thu hẹp quy mô sản xuất, có khi quay về sản xuất tự cấp, tự túc để chờ thời cơ
nên trong kinh tế hộ kinh doanh nhỏ ít bị phá sản.
Quan niệm trước đây đã đồng nhất sản xuất nhỏ với sản xuất có quy mô
nhỏ, cho rằng sản xuất nhỏ là lạc hậu, thấp kém, năng suất lao động thấp, vì vậy,
cần phải phân biệt sản xuất nhỏ với sản xuất quy mô nhỏ. Sản xuất có quy mô
nhỏ chưa hẳn đã là sản xuất nhỏ, đồng nghĩa với trình độ lạc hậu, thấp kém.
Kinh tế hộ gia đình với quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ, nhưng quá trình sản
xuất kinh doanh thường diễn ra mọt cách tối ưu, những lãng phí về lao động
cũng như về vốn đều có thể được giảm tối đa, có thể cho năng suất lao động cao.
Vì vậy, hiệu quả đầu tư sản xuất kinh doanh có thể lớn hơn so với các xí nghiệp
sản xuất quy mô lớn. Kinh tế hộ gia đình vẫn có khả năng ứng dụng những
thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến. Đặc biệt, trong nông nghiệp, kinh tế hộ
gia đình là hình thức phù hợp, do đặc thù của ngành nông nghiệp, đối tượng của
sản xuất là vật nuôi, cây trồng, quá trình sinh trưởng, phát triển phụ thuộc rất lớn
vào điều kiện tự nhiên và môi trường, nó đòi hỏi phải luôn luôn có bàn tay chăm
sóc khéo léo của người nông dân. Đơn vị kinh tế hộ do các thành viên trong hộ
chủ động trông nom, chăm sóc là hình thức phù hợp với đối tượng là vật nuôi,
cây trồng.
Quá trình sản xuất với lợi ích của người lao động thống nhất với nhau.
17



Trong sản xuất, động lực lớn nhất thúc đẩy cá nhân hoạt động chính là lợi
ích kinh tế. Khi mục đích sản xuất và lợi ích người lao động tách rời nhau thì
không thể tạo ra động lực mạnh mẽ thôi thúc người lao động quan tâm đến kết
quả sản xuất. Sự thống nhất đó đem lại lợi ích chính đáng của các thành viên
trong hộ, vậy lợi ích kinh tế đã thật sự trở thành một động lực thúc đẩy hoạt
động cá nhân, là nhân tố làm tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả sản
xuất của kinh tế hộ, làm cho nó có ưu thế hơn hẳn so với các xí nghiệp nông
nghiệp quy mô lớn.
Trên đây là một số đặc trưng cho thấy ưu việt của kinh tế hộ gia đình. Tuy
nhiên, trong quá trình phát triển, kinh tế hộ gia đình cũng gặp những khó khăn
nhất định. Đó là khó khăn về khả năng huy động vốn lớn để đáp ứng nhu cầu mở
rộng quy mô sản xuất, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ mới. Nguồn vốn cho
hoạt động của hộ gia đình chủ yếu là vốn vay. Nhưng hộ gia đình thường chưa
đủ mạnh, đủ niềm tin để có thể dễ dàng vay vốn từ các ngân hàng thương mại.
Khả năng huy động vốn hạn chế, thì cơ hội cho việc đầu tư tiến bộ khoa học
công nghệ hiện đại cũng không nhiều. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến khả
năng cạnh tranh của hộ gia đình trong phát triển kinh tế là rất thấp, nguy cơ rủi
ro cao.
Kinh tế hộ gia đình thường tránh những lĩnh vực sản xuất kinh doanh
không đem lại nhuận cao, lĩnh vực sản xuất hàng hóa công cộng, hay là lĩnh vực
hoạt động công ích. Hàng hóa công cộng là loại hàng hóa mà việc tiêu dùng của
người này không loại trừ sự tiêu dùng của người khác, như khu vui chơi công
cộng, hạ tầng cơ sở… Kinh doanh những lĩnh vực này thường đem lại lợi nhuận
thấp và đôi khi, quy mô vốn lại rất lớn, ngoài khả năng của hộ gia đình. Do vậy,
hộ gia đình thường để trống loại hàng hóa này trên thị trường. Có quan điểm lại
cho rằng, đây là hạn chế của kinh tế hộ gia đình. Tuy nhiên, bản thân tôi không
đồng tình với quan điểm đó mà chỉ cho rằng, đó là một đặc điểm khách quan của
kinh tế hộ gia đình mà thôi.
18



×