Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về sự phát triển của xã hội việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (923.76 KB, 111 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

..............................................................

NGUYỄN THỊ THÙY DUNG

TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ SỰ PHÁT TRIỂN
CỦA XÃ HỘI VIỆT NAM

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Triế t ho ̣c
Mã số: 60220301
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Lại Quốc Khánh

Hà nội - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Lại Quốc Khánh. Các nội dung nghiên
cứu, kết quả trong đề tài là hoàn toàn trung thực.
Học viên
Nguyễn Thị Thùy Dung


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ Triết học với đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về sự phát triển của xã hội Việt Nam”, ngoài sự cố gắng của bản thân.
Em xin chân thành cảm ơn quý thầy cô Khoa Triết học trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn đã đóng góp ý kiến xác đáng để em hoàn
thành luận văn này!


Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Lại Quốc
Khánh, là người trực tiếp hướng dẫn khoa học trong suốt quá trình thực
hiện đề tài.
Cảm ơn các bạn lớp cao học Triết K21, gia đình, đồng nghiệp, đã luôn
luôn ủng hộ và tạo mọi điều kiện tốt nhất để em có thể thực hiện đề tài theo
đúng chương trình học tập!
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 5 tháng 11 năm 2015
Học Viên

Nguyễn Thị Thùy Dung


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
NỘI DUNG....................................................................................................... 8
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VIỆT NAM ............................................................. 8
1.1. Một số khái niệm ...................................................................................... 8
1.1.1. Khái niệm xã hội .................................................................................... 8
1.1.2. Khái niệm phát triển và phát triển xã hội............................................. 9
1.1.3. Khái niệm mục tiêu và mục tiêu phát triển xã hội ............................. 11
1.1.4. Khái niệm động lực và động lực phát triển xã hội............................. 12
1.2. Cơ sở lý luận của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về phát triển xã hội
Việt Nam .......................................................................................... 14
1.2.1. Tư tưởng - văn hóa Việt Nam ............................................................. 14
1.2.1.1. Giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam ............................................... 14
1.2.1.2. Tư tưởng của Phan Châu Trinh ......................................................... 17
1.2.1.3. Tư tưởng của Phan Bội Châu ............................................................ 20
1.2.2. Tinh hoa văn hóa nhân loại ................................................................ 23

1.2.2.1. Giá trị văn hóa phương Đông ............................................................ 23
1.2.2.2. Giá trị văn hóa phương Tây ............................................................... 34
1.2.3. Chủ nghĩa Mác-Lênin ......................................................................... 38
1.3. Cơ sở thực tiễn của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về phát triển xã hội Việt
Nam

.. .......................................................................................................... 41

1.3.1. Tư duy đổi mới, sáng tạo Hồ Chí Minh .............................................. 41
1.3.2. Hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh ............................................... 45
Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 51
CHƢƠNG 2. NỘI DUNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT
TRIỂN XÃ HỘI VIỆT NAM ....................................................................... 52
2.1. Quan niệm Hồ Chí Minh về mục tiêu phát triển xã hội ..................... 52
2.1.1. Hồ Chí Minh phê phán xã hội thuộc địa, chỉ ra hạn chế của mô hình
xã hội tư bản ................................................................................................... 53


2.1.2. Hồ Chí Minh xây dựng mô hình xã hội tốt đẹp với tư cách là mục tiêu
phát triển của xã hội Việt Nam ...................................................................... 56
2.2. Những động lực thúc đẩy sự phát triển .............................................. 65
2.2.1. Động lực chính trị................................................................................ 66
2.2.2. Động lực về kinh tế .............................................................................. 69
2.2.3. Động lực văn hóa ................................................................................. 75
2.2.4. Động lực xã hội.................................................................................... 78
2.3. Các trở lực kìm hãm sự phát triển ....................................................... 80
2.3.1. Chủ nghĩa cá nhân .............................................................................. 81
2.3.2. Thói quen và truyền thống lạc hậu ..................................................... 83
2.4. Giá trị của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về phát triển xã hội ..................... 85
2.4.1. Là sự kết tinh của các giá trị văn hóa, được chắt lọc từ những suy tư

sâu sắc của Hồ Chí Minh, đồng thời là sự phản ánh chính xác xu thế phát
triển của xã hội Việt Nam và thế giới ............................................................ 85
2.4.2. Cung cấp cơ sở lý luận cho Đảng Cộng sản Việt Nam trong hoạch
định đường lối chính sách thời gian qua ...................................................... 87
2.4.3. Góp phần xây dựng chủ thuyết phát triển xã hội Việt Nam hiện nay ......... 92
Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 98
KẾT LUẬN ................................................................................................... 99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................. 100


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta,
kế thừa và phát triển truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam từ trước đến nay một phần
quan trọng chính là bắt nguồn từ giá trị của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh. Từ Đại hội VII (6/1991), Đảng Cộng sản Việt Nam đã
xác định: “Lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng”[24, tr. 21]. Quan điểm trên
được đại hội VIII, IX, X tiếp tục khẳng định. Xuất phát từ đòi hỏi của thực
tiễn gần 30 năm đổi mới, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước đã đạt được
những thành tựu quan trọng, nhưng cũng xuất hiện nhiều vấn đề cần giải
quyết. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng diễn ra trong những
điều kiện mới. Đại hội đã chỉ ra mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa
trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng

Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do
Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên
thế giới”[23, tr. 70]. Để thực hiện được mục tiêu đó cần xây dựng một lý
thuyết về phát triển xã hội ở Việt Nam, trong đó luận giải một cách khoa học
về mục tiêu, nội dung, điều kiện, lộ trình, phương thức phát triển là rất quan
trọng. Để xây dựng được lý thuyết phát triển như thế, một trong những việc
cần làm là đi sâu, nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về
phát triển xã hội.

1


Xuất phát từ giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển xã hội, hầu hết
các nhà nghiên cứu đều khẳng định hai bộ phận hợp thành quan trọng của tư
tưởng Hồ Chí Minh đó là giải phóng và phát triển, trong đó có tư tưởng về
phát triển xã hội. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, đồng thời
với việc tiến hành sự nghiệp kháng chiến, Hồ Chí Minh đã cùng với toàn Đảng
và toàn dân bắt tay vào sự nghiệp kiến quốc, xây dựng và phát triển đất nước.
Đây là cả một cuộc chiến đấu khổng lồ, và Hồ Chí Minh đã dành một sự quan
tâm đặc biệt cho nó. Cho đến khi Người qua đời, một hệ thống về tư tưởng phát
triển xã hội Việt Nam đã hình thành, và một phần trong đó đã đi vào thực tiễn,
trở thành hiện thực, qua đó chứng minh giá trị và sức sống của nó. Công việc
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển xã hội để vận dụng vào sự
nghiệp đổi mới đất nước hiện nay đã được tiến hành, song mới ở giai đoạn
bước đầu, còn nhiều vấn đề tiếp tục được đi sâu nghiên cứu.
Từ những lý do như trên, với mong muốn đóng góp một phần công sức
của mình vào giải quyết vấn đề khoa học có ý nghĩa về cả lý luận và thực tiễn
như trên, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự phát
triển của xã hội Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Khi đề cập đến những công trình liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về
sự phát triển của xã hội Việt Nam, trong lịch sử nghiên cứu vấn đề tôi xin đề
cập đến hai nhóm tài liệu có liên quan đến đề tài. Ở nhóm tài liệu thứ nhất là
các công trình đề cập trực tiếp vấn đề tư tưởng Hồ Chí minh về sự phát triển
của xã hội Việt Nam. Ở nhóm tài liệu thứ hai là các công trình liên quan gián
tiếp đến vấn đề tác giả đang nghiên cứu.
Nhóm tài liệu thứ nhất có rất nhiều công trình tiêu biểu, trong đó phải kể
đến công trình của tác giả Nguyễn Văn Huyên Triết lý phát triển của C.Mác,
PH.Ănghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh, Nxb Khoa học xã hội, 2000. Công trình
này nằm trong chương trình nghiên cứu khoa học triết lý về sự phát triển ở
Việt Nam, nó đã làm rõ triết lý phát triển từ C.Mác, PH.Ănghen. V.I.Lênin
cho đến tư tưởng và giải pháp Hồ Chí Minh về phát triển. Tác phẩm đi sâu

2


phân tích triết lý phát triển từ C.Mác đến Ph.Ăngghen đến Lênin từ các quan
niệm về sự phát triển trong xã hội loài người cho đến sự phát triển trên thực tế
ở một số nước châu Âu, châu Á và nước Nga, đặc biệt tác phẩm dành nhiều
thời lượng bàn về tư tưởng và giải pháp Hồ Chí Minh về phát triển, trong đó
đã chỉ ra các nhân tố cho sự phát triển của xã hội như: Độc lập dân tộc, nhân
tố con người, nhân tố văn hóa, khoa học, giáo dục….những nhân tố đó chính
là chìa khóa giúp tác giả khai thác vấn đề cụ thể hơn.
Tác giả Phạm Ngọc Anh trong Triết lý phát triển Hồ Chí Minh – giá trị lý
luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, 2009, tác giả đã làm rõ bản chất và
nội dung của triết lý phát triển Hồ Chí Minh thông qua tìm hiểu mô thức phát
triển đất nước trong triết lý phát triển Hồ Chí Minh. Đặc biệt tác giả còn làm
rõ sự vận dụng triết lý đó như thế nào trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam
hiện nay. Đây là những vấn đề luận văn muốn làm sáng rõ.

Tác giả Trần Nhâm trong công trình: Hồ Chí Minh – Nhà tư tưởng thiên
tài, Nxb Chính trị Quốc gia, 2011, đã tập trung phân tích một cách toàn diện
nhiều vấn đề lý luận cơ bản, trong đó điểm mới của cuốn sách này đã làm rõ
tư tưởng triết học Hồ Chí Minh là triết học thực tiễn và nhân sinh, triết học
giải phóng và phát triển. Cuốn sách còn làm nổi bật phép biện chứng Hồ Chí
Minh được Người tiếp thu từ nhiều nguồn, nhiều hướng, nhiều cơ sở khác
nhau. Tác phẩm còn cung cấp tư liệu phong phú về hệ thống luận điểm quan
trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tác giả Bùi Đình Phong trong công trình: Triết lý Hồ Chí Minh về phát
triển Việt Nam, Nxb Thanh niên, 2010. Bao gồm tất cả 22 bài viết với các
cách tiếp cận khác nhau, nhưng mục đích của công trình tập trung làm rõ triết
lý phát triển xã hội Việt Nam. Đó là những bài viết về Di chúc, về nhân dân,
về đạo đức cách mạng, về Đảng Cộng sản, … tuy nhiên, tư tưởng xuyên suốt
của công trình này vẫn là làm rõ và khẳng định triết lý Hồ Chí Minh về phát
triển xã hội Việt Nam là Độc lập – Tự do – Hạnh phúc. Những nội dung đó là
căn cứ quan trọng để tác giả luận văn tìm hiểu mô hình xã hội tương lai mà
Hồ Chí Minh xây dựng.

3


Nghiên cứu của tác giả Song Thành trong công trình: Hồ Chí Minh nhà tư
tưởng lỗi lạc, Nxb Chính trị - Hành chính, năm 2013. Công trình nghiên cứu
sâu về tư tưởng Hồ Chí Minh với ba phần rõ rệt. Phần thứ nhất tập trung làm
sáng rõ quan niệm, tiêu chí để xem xét một nhà tư tưởng, đồng thời chỉ ra các
tiền đề lý luận và thực tiễn góp phần hình thành nên nhà tư tưởng Hồ Chí
Minh. Phần thứ hai tác giả tập trung luận giải những nội dung lớn trong tư
tưởng Hồ Chí Minh như: Vấn đề văn hóa, đạo đức, con người …Phần thứ ba,
nhà nghiên cứu bàn về nội dung, biện pháp để đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào
cuộc sống. Có thể nói đây là căn cứ quan trọng để tác giả luận văn làm rõ mô

thức phát triển xã hội Việt Nam trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Công trình Biện chứng của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam của tác giả Lại Quốc Khánh. Công trình đã khẳng định giá trị tư
tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thông qua làm rõ tính
biện chứng của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội. Mặt khác công
trình là tài liệu quan trọng để giúp tác giả luận văn nhìn nhận những vấn đề
đặt ra trong sự nghiệp xây dựng và phát triển xã hội Việt Nam hiện nay.
Nhóm tài liệu thứ hai là các công trình liên quan gián tiếp đến vấn đề tác
giả đang nghiên cứu, trong đó có công trình Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội của tác giả Nguyễn Bá Linh, Nxb Chính trị quốc
gia, 2005. Công trình này tập trung đi vào trình bày 12 vấn đề cơ bản của tư
tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội như: Đạo đức cách
mạng, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, bồi
dưỡng nhân tài, mặt trận dân tộc thống nhất, chủ nghĩa xã hội. Công trình
nghiên cứu đã chỉ ra được các yếu tố cho việc xây dựng nền độc lập và chủ
nghĩa xã hội, là một trong những vấn đề luận văn muốn tìm hiểu.
Cũng tác giả Nguyễn Bá Linh trong tác phẩm Chủ tịch Hồ Chí Minh những cống hiến về lý luận và thực tiễn vào sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trong thế kỷ XX, Nxb Công an nhân
dân, 2005. Công trình tập trung phân tích những quan điểm và nỗ lực đấu
tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trong thế kỷ XX

4


của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Công trình đã đề cập đến những cống hiến về mặt
lý luận và thực tiễn của Hồ Chí Minh trong suốt thế kỷ XX, công trình đã
phản ánh được sức sống, giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh – đây là vấn đề luận
văn còn phải tiếp tục nghiên cứu, không chỉ giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh nói
chung mà còn là giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển xã hội Việt Nam.
Công trình Văn hóa và triết lý phát triển trong tư tưởng Hồ Chí Minh của

tác giả Đinh Xuân Lâm và tác giả Bùi Đình Phong do Nxb Chính trị Quốc gia
ấn hành năm 2007. Công trình nghiên cứu trên đã tập trung làm sáng rõ giá trị
văn hóa trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt mối quan hệ của văn hóa với
những vấn đề hiện nay như: Hội nhập quốc tế, phát triển bền vững… Đây là
một vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Với nội dung này
một phần giúp tác giả luận văn có góc nhìn rộng hơn về tầm vóc, trí tuệ, bản
lĩnh văn hóa của Người. Mặt khác giúp tác giả luận văn nhận diện giá trị cốt
lõi của văn hóa trong quan niệm của Hồ Chí Minh, đây là vấn đề mà luận văn
đang nghiên cứu, làm rõ.
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh công bố công trình: Chủ tịch Hồ
Chí Minh với sự nghiệp giải phóng dân tộc và chấn hưng đất nước, Nxb Lý
luận chính trị, 2006. Đây là sự đóng góp của hơn 40 bài tham luận của đông
đảo các nhà nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh. Tác phẩm đưa lại cho độc
giả nói chung và tác giả luận văn nói riêng cách nhìn bao quát những vấn đề
rộng lớn mà Hồ Chí Minh đã dành nhiều công sức nghiên cứu. Những vấn đề
đó chính là phản ánh tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội,
đặc biệt giải phóng dân tộc gắn với công cuộc chấn hưng đất nước.
Các kết quả nghiên cứu trên đạt được có giá trị tham khảo rất lớn cho đề
tài, các công trình đã góp phần chứng minh triết lý phát triển Hồ Chí Minh,
đồng thời chỉ ra giá trị, ý nghĩa, sức sống của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy
nhiên vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, trong đó có hai vấn đề
lớn liên quan đến đề tài. Thứ nhất: Những cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về sự phát triển của xã hội Việt Nam. Thứ hai: Những nội dung cơ bản
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về sự phát triển xã hội Việt Nam, bao gồm quan

5


điểm về một xã hội phát triển, con đường đi tới xã hội phát triển, động lực,
điều kiện thúc đẩy phát triển xã hội, đặc biệt giá trị của những quan điểm trên

trong bối cảnh hiện nay. Đây là những vấn đề luận văn sẽ tập trung nghiên
cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích:
Làm rõ nội dung và giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về sự phát triển của
xã hội Việt Nam
3.2. Nhiệm vụ của luận văn:
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh
về sự phát triển của xã hội Việt Nam.
- Làm rõ nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển của xã
hội Việt Nam và giá trị của tư tưởng đó.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng: Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự phát triển của xã hội Việt Nam
4.2. Phạm vi: Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về sự phát triển của xã hội
Việt Nam được thể hiện trong các tác phẩm của Người và quá trình Người
lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Về tư liệu: Tư liệu trực tiếp phục vụ nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh và
hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh là bộ Hồ Chí Minh toàn tập xuất bản lần
thứ ba năm 2011 và bộ Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử xuất bản năm 2005 –
2006.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về phát triển xã
hội nói chung, phát triển xã hội ở Việt Nam nói riêng.
Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng tổng hợp phương pháp nghiên cứu của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó tập trung
vào phương pháp phân tích, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, hệ thống – cấu trúc,
kết hợp lịch sử - logic, so sánh, phân tích văn bản học.

6



6. Đóng góp của luận văn
Trên cơ sở phân tích, tổng hợp những tài liệu thu thập được, luận văn trình
bày một cách có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về sự phát triển của xã hội
Việt Nam. Được thể hiện thông qua nhiều luận điểm quan trọng của Người về
mục tiêu phát triển của xã hội Việt Nam, các động lực thúc đẩy sự phát triển
của xã hội Việt Nam, điều kiện đảm bảo sự phát triển xã hội Việt Nam. Từ đó
chỉ ra được giá trị và ý nghĩa sâu sắc của hệ thống tư tưởng đó đối với cách
mạng Việt Nam, trong quá khứ và hiện tại.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Thông qua nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về sự phát
triển của xã hội Việt Nam, luận văn góp phần làm rõ một số khía cạnh triết học
trong lý luận và thực tiễn cách mạng của Hồ Chí Minh.
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn góp phần cung cấp cơ sở khoa học phục vụ
nghiên cứu và hoạch định chính sách phát triển xã hội ở Việt Nam. Kết quả nghiên
cứu của luận văn cũng có thể được sử dụng phục vụ nghiên cứu và giảng dạy
những vấn đề về triết học Hồ Chí Minh.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn có 2 chương, 7 tiết.

7


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VIỆT NAM
1.1. Một số khái niệm

1.1.1. Khái niệm xã hội
Xã hội là một phạm trù có nội hàm rất rộng. Vì thế, hiện nay đang tồn tại
nhiều quan niệm, định nghĩa khác nhau về phạm trù này. Theo quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin, xã hội là một trong những hình thái vận động bên
cạnh vận động cơ học, vật lý, hóa học, sinh học. Trong đó xã hội được hiểu là
hình thái vận động cao nhất của vật chất. Hình thái vận động này lấy mối quan
hệ con người và sự tác động lẫn nhau giữa người với người làm nền tảng.
Ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, có một dạng cơ cấu xã hội cơ bản đặc thù
(hình thái kinh tế xã hội, được coi là những nấc thang của sự phát triển xã
hội). Nền tảng chung của cơ cấu xã hội cụ thể này là những mối quan hệ sản
xuất vật chất, những mối quan hệ kinh tế giữa người với người, trên đó sẽ
hình thành một kiến thượng tầng kiến trúc phù hợp. Mác viết: “Tính chất xã
hội là cái vốn có của toàn bộ sự vận động, bản thân xã hội sản xuất ra con
người với tính cách là con người như thế nào thì nó cũng sản xuất ra xã hội
như thế. Hoạt động và sự hưởng dụng những thành quả của hoạt động, xét
theo nội dung của nó cũng như phương thức tồn tại đều mang tính xã hội,
hoạt động xã hội và hưởng dụng xã hội”[13, tr. 169]
Định nghĩa về xã hội trong Từ điển Xã hội học do Nguyễn Khắc Viện
chủ biên cho rằng xã hội: “Là một “đơn vị xã hội độc lập” với tư cách là một
hệ thống tương đối chặt chẽ, bao gồm những quan hệ kinh tế (từ sản xuất đến
phân phối tiêu dùng), những quan hệ chính trị và pháp luật, những quan hệ
văn hóa và ứng xử … tác động qua lại mật thiết trong một không gian và thời
gian nhất định”[102, tr. 324].
Tác giả Hoàng Chí Bảo trong công trình “Luận cứ và giải pháp phát
triển xã hội, quản lý phát triển xã hội ở nước ta thời kỳ đổi mới” đã phân tích

8


xã hội theo hai nghĩa, nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Trước hết, theo nghĩa rộng: Xã

hội là khái niệm dùng để chỉ một chế độ xã hội với tất cả các yếu tố cấu thành
chỉnh thể của nó. Trong hệ thống chỉnh thể ấy các mặt kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội có mối quan hệ mật thiết và không tách rời nhau. Theo nghĩa hẹp,
xã hội là phương diện xã hội của đời sống xã hội, của hoạt động sống của con
người trong một nước, một chế độ xã hội nhất định, nó là mặt xã hội của đời
sống, có tầm quan trọng và vị trí ngang bằng với các mặt, các lĩnh vực khác
như kinh tế, chính trị, văn hóa.
Như vậy, xoay quanh khái niệm “xã hội” đã có rất nhiều cách tiếp cận,
luận giải và quan niệm khác nhau, từ những quan điểm của C.Mác đến những
quan điểm nổi bật của các tác giả ở Việt Nam. Trong khuôn khổ luận văn này
tôi lựa chọn cách hiểu xã hội theo nghĩa rộng, tức là xã hội là một hệ thống
cấu trúc, chỉnh thể với tất cả yếu tố cấu thành của nó.
1.1.2. Khái niệm phát triển và phát triển xã hội
Khi xem xét vấn đề phát triển đã xuất hiện sự đối lập về thế giới quan và
phương pháp luận giữa quan điểm duy vật với quan điểm duy tâm, quan điểm
biện chứng với quan điểm siêu hình. Theo quan điểm duy vật biện chứng phát
triển là một phạm trù triết học dùng để khái quát quá trình vận động tiến lên từ
thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Từ điển triết học do M.M. Rô – den – tan và P.I.U – Din (chủ biên) do
nhà xuất bản Sự thật xuất bản năm 1976 cho rằng: “Phát triển không phải là sự
lặp lại đơn thuần quá khứ, mà là mọt sự vận động tiến dần từ trình độ thấp lên
trình độ cao, không phải là một sự vận động vòng tròn, mà là một sự vận động đi
lên”[106, tr. 843] và “Sự phát triển không chỉ là sự biến đổi bằng những bước
nhảy vọt, cách mạng, gián đoạn, như là một sự chuyển hóa từ số lượng thành
chất lượng”[106, tr. 748].
Theo quan điểm chủ nghĩa Mác- Lênin, phát triển xã hội có nội dung cơ
bản là sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội. Khi nghiên cứu nguồn
gốc tác động của sự phát triển xã hội loài người, Các Mác bắt đầu từ việc
nghiên cứu những quan hệ kinh tế xã hội: “Những thời đại kinh tế khác nhau


9


không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà ở chỗ chúng sản xuất ra bằng
cách nào với những tư liệu lao động nào”[12, tr. 269]. Từ đó C.Mác nhận
định “Do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương
thức sản xuất của mình … cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh
chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản”[10, tr.
187].
Ph.Ăngghen khẳng định: “Sản xuất và tiếp theo sau sản xuất là trao đổi
sản phẩm của sản xuất, là cơ sở của mọi chế độ xã hội …, do đó phải tìm ra
nguyên nhân cuối cùng của tất cả những biến đổi xã hội và những đảo lộn
chính trị không phải trong đầu óc người ta … mà trong những biến đổi của
phương thức sản xuất và phương thức trao đổi …”[11, tr. 371]. Chính sự phát
triển không ngừng của lực lượng sản xuất, theo quan điểm của Mác tới một
trình độ nào đó sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có và đòi hỏi phải có
một quan hệ sản xuất tương ứng với nó. Việc giải quyết mâu thuẫn này là
động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội.
Như vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen thừa nhận vai trò nền tảng, quyết định
của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại, phát triển của xã hội, nhưng C.Mác và
Ph.Ăngghen không tuyệt đối hóa, coi nó là nhân tố quyết định duy nhất. Theo
quan điểm của các ông, nhân tố vật chất đóng vai trò quyết định – chỉ trong
trường hợp xét đến cùng cái nguyên nhân tạo nên sự vận động và phát triển
của xã hội. Ngoài trường hợp xét đến cùng, các nhân tố khác như văn hóa,
chính trị, tư tưởng đều có vai trò với sự phát triển xã hội.
Tiếp nhận những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về phát triển xã
hội, các nhà nghiên cứu ở Việt Nam cũng đã đưa ra các nhận định của riêng
mình về phát triển xã hội. Tác giả Hoàng Chí Bảo đã nhìn nhận phát triển xã
hội từ các góc độ khác nhau. Trước hết, phát triển xã hội theo ông là phát triển
của cá nhân và cộng đồng về mặt xã hội, về mức sống và chất lượng cuộc

sống. Mặt khác, phát triển xã hội là sự giải quyết kịp thời, đúng đắn các vấn
đề xã hội nảy sinh trong đời sống cộng đồng dân cư. Bên cạnh đó tác giả

10


Hoàng Chí Bảo còn chỉ rõ phát triển xã hội là phát triển về số lượng và chất
lượng các nguồn lực, các điều kiện nhằm giải quyết các vấn đề xã hội
Trong Báo cáo của Chính phủ Việt Nam về phát triển xã hội tại Hội nghị
thượng đỉnh các quốc gia bàn về phát triển xã hội tại Côpenhaghen 1995 đã đề
cập đến những vấn đề phát triển xã hội đáng quan tâm, đó là: Vấn đề giải
quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, hòa nhập xã hội, bảo trợ xã hội, môi
trường, hạn chế và ngăn ngừa hành vi tội phạm …
Trong khuôn khổ nghiên cứu này, luận văn tiếp cận và tìm hiểu phát
triển xã hội với nghĩa là sự phát triển trên bốn phương diện cơ bản cấu thành
xã hội theo nghĩa chỉnh thể là: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đảm bảo cho
con người có cuộc sống ổn định, không ngừng được nâng cao, từ đó thúc đẩy
toàn bộ xã hội ngày càng phát triển hơn.
1.1.3. Khái niệm mục tiêu và mục tiêu phát triển xã hội
Có thể hiểu một cách ngắn gọn: mục tiêu là đích đặt ra, cần phải đạt tới.
Đối với cá nhân khi đã định hướng được mục tiêu cần đạt được thì đó sẽ là một
cơ sở quan trọng đưa cá nhân đó đến thành công. Còn với cộng đồng, xã hội, xác
định mục tiêu là bước quan trọng thúc đẩy sự phát triển cộng đồng, xã hội. Các tổ
chức thông thường không phải chỉ hướng tới một mục tiêu, mà thường là một hệ
thống các mục tiêu phụ thuộc và ràng buộc lẫn nhau. Trong đó có mục tiêu về
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội là những mục tiêu quan trọng mà các quốc gia
cần phải xây dựng nhằm thúc đẩy sự phát triển của chỉnh thể xã hội.
Vậy mục tiêu phát triển xã hội là gì? Hiện nay, các quốc gia đều dành sự
quan tâm rất lớn đối với vấn đề phát triển bền vững. Khái niệm phát triển xã hội
và phát triển bền vững có mối quan hệ đặc biệt. Nếu như phát triển xã hội là sự

phát triển của chỉnh thể đời sống xã hội, thể hiện ở sự phát triển các mặt của đời
sống xã hội trong đó các phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa … được quan
tâm, thì phát triển bền vững chính là tạo điều kiện cho các yếu tố đó không
những phát huy trong giai đoạn hiện tại mà còn phát huy trong giai đoạn mới.
Bởi hiện nay trên bình diện toàn thế giới hay tại mỗi khu vực và ở mỗi quốc gia
xuất hiện rất nhiều vấn đề phức tạp, lại mang tính phổ biến. Kinh tế càng tăng

11


trưởng thì tình trạng khan hiếm các loại nguyên liệu, năng lượng do sự cạn kiệt
các nguồn tài nguyên không tái tạo được ngày càng tăng thêm, môi trường thiên
nhiên càng bị hủy hoại, cân bằng sinh thái bị phá vỡ, dẫn tới sự trả thù của thiên
nhiên gây ra những thiên tai vô cùng thảm khốc.
Vậy nên, quá trình phát triển có sự điều tiết hài hòa giữa tăng trưởng
kinh tế với bảo đảm bình ổn xã hội và bảo vệ môi trường đang trở thành yêu
cầu bức thiết đối với toàn thế giới. Chính vì thế, năm 1992, Hội nghị thượng
đỉnh về Môi trường và Phát triển của Liên hợp quốc được tổ chức ở Ri-ô đơ
Gia-nê-rô đã đề ra Chương trình nghị sự toàn cầu cho thế kỷ XXI. Theo đó, ba
trụ cột phát triển bền vững được xác định là: Thứ nhất, bền vững về mặt kinh
tế, hay phát triển kinh tế bền vững là phát triển nhanh và an toàn, chất
lượng; Thứ hai, bền vững về mặt xã hội là công bằng xã hội và phát triển con
người, chỉ số phát triển con người (HDI) là tiêu chí cao nhất về phát triển xã
hội, bao gồm: thu nhập bình quân đầu người; trình độ dân trí, giáo dục, sức
khỏe, tuổi thọ, mức hưởng thụ về văn hóa, văn minh; Thứ ba, bền vững về
sinh thái môi trường là khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên,
bảo vệ môi trường và cải thiện chất lượng môi trường sống. Chính vì vậy mục
tiêu phát triển xã hội chính là sự phát triển hài hòa, đảm bảo mục tiêu phát
triển về các phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa … đồng thời gắn với việc
bảo vệ môi trường sinh thái, giải quyết tốt vấn đề công bằng xã hội, lợi ích,

nhu cầu.
Mục tiêu cao nhất của phát triển xã hội hiện nay ở Việt Nam cũng hướng
tới các mục tiêu chung mà thế giới hướng tới đó là giải phóng con người, giải
phóng xã hội, đem lại hạnh phúc cho con người. Hiện nay, nghiên cứu và
nhận thức đầy đủ, đúng đắn, sâu sắc quan niệm của Hồ Chí Minh về xác định
mục tiêu phát triển xã hội Việt Nam nói riêng và phát triển xã hội nói chung là
một vấn đề quan trọng, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
1.1.4. Khái niệm động lực và động lực phát triển xã hội
Động lực không chỉ là một khái niệm, mà còn là một ngành khoa học. Dựa
vào kết quả của ngành “Động lực học” các nhà cơ học khái quát: Động lực là

12


nguồn năng lượng làm cho máy móc chuyển động. Thành quả nghiên cứu trên
những lĩnh vực hoạt động xã hội giúp cho các nhà khoa học khái quát: Cái gì
đóng vai trò thúc đẩy, làm cho lĩnh vực đó phát triển gọi là động lực. Theo phép
biện chứng duy vật thì: mâu thuẫn là động lực của vận động và phát triển. Từ đó,
chúng ta có thể hiểu: Động lực là nhân tố tạo nên sự tác động, thắng lực cản, thúc
đẩy sự vận động và phát triển hay nói cách khác, tất cả những cái đóng vai trò là
nguyên nhân thúc đẩy sự phát triển của môt sự vật nào đó đều là động lực của sự
phát triển của sự vật ấy.
Lịch sử xã hội loài người đã diễn ra năm hình thái kinh tế xã hội, đó là
những nấc thang trên con đường tiến bộ xã hội. Tuy nhiên sự phát triển bất kỳ
của một hình thái kinh tế xã hội nào đều được tác động bởi những động lực
của nó, nếu không có động lực thì xã hội khó có thể phát triển được, một số
nhà nghiên cứu xã hội cho rằng xã hội phát triển nhanh hay chậm là do động
lực. Vậy động lực phát triển nói chung và động lực của sự phát triển xã hội là
gì? Chủ nghĩa Mác khẳng định: Nguồn gốc và động lực của sự phát triển là
nằm bên trong của sự vật. Từ khái niệm động lực của sự phát triển chúng ta đi

tới vấn đề động lực phát triển xã hội. Cái quan trọng chính là tìm ra động lực
phát triển xã hội, tức là tìm ra những yếu tố gây nên, kích thích, thúc đẩy hoạt
động của con người.
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã tạo ra giai cấp vô sản làm cho chủ
nghĩa Mác ra đời và khẳng định: quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra
lịch sử, tức nhấn mạnh vai trò của con người đối với phát triển xã hội, là động
lực quan trọng nhất. Ngày nay ở các nước phát triển, người ta cho rằng: khoa
học, kỹ thuật và công nghệ là động lực chủ yếu thúc đẩy sự phát triển xã hội.
Như vậy, trong lịch sử đã tồn tại nhiều quan điểm khác nhau và đã chỉ ra một
số nhân tố được coi là động lực phát triển xã hội. Trong nghiên cứu này, tôi
quan niệm rằng, động lực phát triển xã hội là sự thống nhất biện chứng giữa
các nhân tố trong những điều kiện cụ thể, kích thích lực lượng chủ yếu của xã
hội hoạt động có hiệu quả để qua đó tác động tích cực, thúc đẩy sự tiến bộ xã
hội. Trong đó động lực phát triển xã hội được phân chia theo nhiều loại khác

13


nhau: Có động lực chủ yếu, động lực thường xuyên, động lực cơ bản, động
lực không cơ bản, động lực bên trong, động lực bên ngoài, động lực vật chất,
động lực tinh thần, động lực kinh tế, động lực chính trị, động lực văn hóa …
xét xã hội cấu thành từ các yếu tố, thì hệ thống động lực sẽ bao gồm: động lực
kinh tế, động lực chính trị, động lực văn hóa, các động lực này trong hệ thống
động lực phát triển xã hội là một thể thống nhất. Nói cách khác, chúng tôi tiếp
cận động lực phát triển xã hội từ các phương diện cấu thành xã hội chỉnh thể
như kinh tế, chính trị, văn hóa…
1.2. Cơ sở lý luận của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về phát triển xã hội Việt Nam
Trên con đường tìm kiếm và mưu cầu hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam,
Hồ Chí Minh đã kế thừa những quan điểm tích cực của các bậc tiền bối về xây
dựng một xã hội tiến bộ và vận dụng vào việc kiến thiết một xã hội Việt Nam

độc lập - phát triển. Trong đó phải kể đến việc tiếp nhận các giá trị văn hóa
phương Đông, văn hóa phương Tây, chủ nghĩa Mác – Lênin. Tuy nhiên, sẽ là
thiếu sót nếu không nói đến tư tưởng văn hóa Việt Nam.
1.2.1. Tư tưởng - văn hóa Việt Nam
1.2.1.1.

Giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam

Việt Nam là một dân tộc có bề dày hàng ngàn năm lịch sử, và trong suốt
chiều dài của lịch sử dân tộc Việt Nam, ở đâu cũng thấy nổi bật lên lòng yêu
nước tuyệt vời, tinh thần đại đoàn kết, tinh thần chịu đựng gian khổ của các
tầng lớp nhân dân. Những giá trị đó tác động rất lớn đến sự hình thành quan
điểm Hồ Chí Minh về phát triển xã hội Việt Nam.
Quan niệm về một xã hội phát triển trong lịch sử dân tộc Việt Nam được
thể hiện qua mục tiêu về kinh tế, về văn hóa, về con người, quan hệ con người
trong xã hội, về sự bình đẳng … Cha ông ta quan niệm đó phải là một xã hội
mà giá trị con người là yếu tố quan trọng: “người sống đống vàng”, “người ta
là hoa của đất” “người như hoa ở đâu thơm đó” … Tư tưởng quý trọng con
người đã trở thành nét đẹp trong truyền thống dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh
đã chắt lọc yếu tố đó để đưa con người trở thành mục tiêu của sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giải phóng xã hội, vừa là động lực của chính sự nghiệp đó.

14


Không những thế, trong giá trị truyền thống dân tộc đặc biệt coi trọng
mối quan hệ xã hội :
“Phải trái phân minh, nghĩa tình trọn vẹn”
“Khó mà biết lẽ biết trời”
“Biết ăn, biết ở hơn người giàu sang”

Từ xưa cha ông ta đã trọng nghĩa, trọng tình, coi đó là cách ửng xử tốt
trong cuộc sống và cũng là xã hội lý tưởng mà con người hướng tới: “Sinh ra
trong cõi hồng trần, là người phải lấy chữ nhân làm đầu”, “đức nhân thắng
số”, “ở cho có nghĩa có nhân”, “cây đức lắm chồi”, “người đức lắm con”, “ba
vuông sánh với bảy tròn, đời cha ân đức, đời con sang giàu” như vậy, xã hội
đó là xã hội trọng con người, trọng đức, trọng nhân nghĩa.
Đến Hồ Chí Minh những giá trị truyền thống tốt đẹp đó được Người
khéo léo vận dụng và đưa các giá trị đó trở thành yếu tố quan trọng trong sự
phát triển xã hội. Một xã hội tốt đẹp không thể là xã hội còn sự áp bức, bóc
lột. Ngay trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Nguyễn Ái
Quốc đã chỉ ra chính sách phản động mà thực dân Pháp thực hiện đối với
nhân dân An Nam, đó là chính sách ngu dân :“… Bọn cá mập của nền văn
minh không những đầu độc nhân dân An Nam bằng rượu và thuốc phiện, mà
còn thi hành một chính sách ngu dân triệt để ”[59, tr. 106]. Hồ Chí Minh phê
phán tội ác của chế độ thực dân khi đề cập đến nỗi khổ nhục của người phụ nữ
bản xứ : “Người ta thường nói: Chế độ thực dân là ăn cướp. Chúng tôi xin
thêm đó là hiếp dâm và giết người”[59, tr. 115].
Bên cạnh đó sức mạnh của yếu tố đoàn kết dân tộc đã góp phần không
nhỏ tới sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Chính vì vậy đoàn kết dân
tộc là một trong những động lực của sự phát triển xã hội. Từ xưa cha ông ta đã
nhận thức được “đoàn kết là sống, chia rẽ là chết”, “đồng tâm hiệp lực”, “một
cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, “Nhiễu điều phủ
lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng” …
Hồ Chí Minh đã tiếp nhận tư tưởng về đoàn kết dân tộc trong lịch sử
dựng nước và giữ nước để biến nó thành động lực phát triển xã hội:

15


“ … Càng dài lại càng mỏng manh,

Thế gian ai sợ chi anh chỉ xoàng!
Nhờ tôi có nhiều đồng bang,
Họp nhau sợi dọc, sợi ngang rất nhiều
…………………..
Đố ai bứt xé cho ra,
Đó là lực lượng, đó là vẻ vang”[60, tr. 268]
Một khi toàn dân đồng tâm, hiệp lực đoàn kết trong một trận tuyến
chung thì kẻ thù phải chịu khuất phục.
“ … Bây giờ ta thử so bì,
Ong còn đoàn kết, huống chi là người!
Nhật, Tây áp bức giống nòi,
Ta nên đoàn kết để đòi tự do”[60, tr. 274]
Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải
điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với
những đối tượng khác nhau, nhưng đại đoàn kết dân tộc luôn luôn được Người
coi là vấn đề sống còn của cách mạng . Tại sao Đế quố c Pháp có ưu thế về vật
chất, về phương tiện chiến tranh hiện đại lại phải thua một Việt Nam nghèo
nàn, lạc hậu trong cuộc chiến xâm lược ? Đó là vì đồng bào Việt Nam đã đoàn
kết như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳ ng đinh
̣ : “Toàn dân Việt Nam chỉ có một
lòng: Quyết không làm nô lệ. Chỉ có một chí: Quyết không chịu mất nước. Chỉ
có một mục đích: Quyết kháng chiến để tranh thủ thống nhất và độc lập cho
Tổ quốc. Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng vững
chắc xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng
đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại”[62, tr. 178]. Chính sức
mạnh của lực lượng toàn dân đoàn kết làm nên thắng lợi của Cách Mạng
Tháng Tám. Từ thực tiễn đó, Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận: Sử dạy cho ta
bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập,
tự do. Trái lại, lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn. Và
Người khuyên dân ta rằng:


16


“Khuyên ai xin nhớ chữ đồng:
Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”[60, tr. 243]
Như vậy tinh thần đoàn kết dân tộc và cố kết cộng đồng là đặc điểm nổi
bật trong giá trị truyền thống xã hội Việt Nam, Hồ Chí Minh đã chắt lọc và kế
thừa giá trị đó để vận dụng trong xây dựng và phát triển xã hội Việt Nam.
Ngay từ những ngày đầu cách mạng trong tác phẩm Đường cách mệnh người
đã khẳng định: “Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không
chống lại”, đến nội dung trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt với
nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đặt lên hàng đầu, Người đã đề ra đường lối
đoàn kết dân tộc bao gồm mọi dân tộc, mọi tầng lớp và cá nhân yêu nước.
Cho đến Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Hễ
là người Việt Nam thì đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu tổ quốc”[61, tr.
534]. Hiện nay, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc vẫn là nguồn lực
quan trọng nhất, mạnh mẽ nhất để Đảng ta, nhân dân ta vượt qua mọi khó
khăn, thử thách, thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, hội nhập quốc tế, xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam là tiền đề quan trọng
để Hồ Chí Minh xây dựng mô hình phát triển xã hội, trong đó yếu tố đoàn kết
dân tộc được Hồ Chí Minh tiếp nhận và biến giá trị này trở thành một động
lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội Việt Nam.
1.2.1.2. Tư tưởng của Phan Châu Trinh
Phan Châu Trinh (1872 - 1926) không chỉ là nhà văn hóa lớn mà còn là một
trong những nhà dân chủ đầu tiên của nước ta giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX. Ông cũng là người có những ảnh hưởng nhất định đến Hồ Chí Minh, góp
phần hình thành tư duy của Người về phát triển xã hội Việt Nam, trong đó vấn đề

coi trọng sức mạnh dân tộc, xây dựng xã hội dân chủ, đặc biệt tư tưởng ”Khai
dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, mở mang dân quyền” là những vấn đề đáng
được bàn luận.

17


Trước hết chúng ta có thể thấy Cụ Phan Chu Trinh là người sớm thấy rõ
sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc được hình thành, tôi rèn qua lịch sử hàng
nghìn năm dựng nước và giữ nước của cha ông ta. Coi đó là động lực giải
phóng và phát triển đất nước. Đây là một tư tưởng lớn, ngang tầm thời đại, mà
sau này, Hồ Chí Minh chính là người đã kế tục và hiện thực hoá. Hồ Chí Minh
đã chỉ rõ: Chủ nghĩa yêu nước chân chính là một động lực lớn của đất nước.
Theo Hồ Chí Minh, “Chính do tinh thần yêu nước mà quân đội và nhân dân ta
đã mấy năm trường chịu đựng trăm đắng nghìn cay, kiên quyết đánh cho tan
bọn thực dân cướp nước và bọn Việt gian phản quốc, kiên quyết xây dựng một
nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, tự do, phú cường, một nước Việt
Nam dân chủ mới”[64, tr. 39].
Tuy nhiên nội dung quan trọng nhất và đã tác động rất lớn đến Hồ Chí
Minh mà phải kể đến đó là tư tưởng dân chủ Phan Châu Trinh đó là “khai dân
trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, mở mang dân quyền”. Khai dân trí chính là
việc cần thiết nhấn truyền bá quốc ngữ, mở trường dạy học những kiến thức
khoa học thực dụng, bài trừ hủ tục xa hoa và qua văn thơ báo chí, tuyên truyền
… Cùng với khai dân trí, Phan Châu Trinh còn chủ trương chấn dân khí tức là
làm cho mọi người thức tỉnh tinh thần tự lực, tự cường, giác ngộ được quyền
lợi của mình giải thoát khỏi sự kìm kẹp của chế độ quân chủ chuyên chế.
Trong vấn đề này dễ dàng bắt gặp sự tương đồng giữa Phan Châu Trinh với
Hồ Chí Minh, chấn dân khí trong quan niệm của Phan Châu Trinh chính là
kích thích tinh thần tự tôn dân tộc, chấn chỉnh về tâm lý, chấn chỉnh về lối
sống và nếp sống. Hồ Chí Minh cũng vậy, Người rất quan tâm tới việc xây

dựng tâm lý và luân lý cho quốc dân, từ năm 1943 trong nhà tù Quảng Tây
(Trung Quốc), Hồ Chí Minh đã phác thảo các điểm lớn về xây dựng nền văn
hóa mới: Xây dựng luân lý, xây dựng tâm lý, xây dựng chính trị. Chế độ thực
dân đã đã dùng mọi thủ đoạn hủ hóa dân tộc chúng ta bằng những thói xấu,
lười biếng, gian xảo, tham ô ... vì vậy Hồ Chí Minh rất quan tâm việc cần giáo
dục lại nhân dân ta bằng đức tính “cần, kiệm, liêm chính”. Một xã hội mới,
một xã hội bình đẳng, tự do là xã hội phải tẩy sạch những thói hư tật xấu

18


Quan niệm về một xã hội mới cần phải thay đổi dưới cách nhìn của nhà
yêu nước Phan Châu Trinh đã toát lên bắt đầu từ việc cần phải mở mang trình
độ dân trí, nâng cao sự hiểu biết cho người dân là yêu cầu rất quan trọng để
thức tỉnh đồng bào ta lúc đó. Sau này trong quan điểm về xây dựng một nước
Việt Nam sau ngày độc lập, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Một dân tộc dốt là một
dân tộc yếu”[61, tr. 7]. Vì vậy, nhiệm vụ cấp bách của nước Việt Nam còn
non trẻ sau ngày độc lập được Hồ Chí Minh đưa ra và phải thực hiện triệt để
đó là thực hiện phong trào diệt giặc dốt bằng việc mở các lớp bình dân học vụ.
Như vậy, giáo dục là một trong những biện pháp hữu hiệu mà Hồ Chí Minh
đưa ra để nâng cao dân trí, tìm người hiền tài phục vụ đất nước. Trước đây,
trong quan niệm của mình Phan Châu Trinh đã chọn giải pháp tốt nhất để khai
thông dân trí là đổi mới nền giáo dục, giáo dục tiến bộ mới là chìa khóa “mở
trí khôn” cho dân.
Không chỉ dừng lại ở đó, Hồ Chí Minh còn tiếp nhận quan niệm về dân
quyền trong tư tưởng của Phan Châu Trinh. Dưới ách thống trị của chế độ
thực dân phong kiến với chế độ hoàn toàn khóa miệng dân và bưng bít sự thật.
Đấu tranh để nhân dân có quyền làm chủ được Phan Châu Trinh từng đề cập
và coi đó là yêu cầu khẩn thiết để xác nhận quyền và vị trí của người dân.
Nhưng chỉ đến Cách mạng tháng Tám thành công năm 1945 do Đảng Cộng

sản lãnh đạo thắng lợi thì mơ ước đó của Phan Châu Trinh mới được thực
hiện. Hồ Chí Minh tuyên bố: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều
vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân ... chính quyền từ xã đến chính phủ
Trung ương do dân cử ra ... tóm lại quyền hành và lực lượng đều ở nơi
dân”[63, tr. 232]. Tuy nhiên muốn có dân chủ thực sự, trước hết phải có cơ
chế để dân làm chủ và phải chăm lo dân sinh bằng cách “ra sức thực hiện
những cải cách xã hội, để nâng cao đời sống của nhân dân”[66, tr. 3]. Như
vậy trong quan niệm về dân chủ của Phan Châu Trinh mà nòng cốt là tư tưởng
“Khai dân trí,chấn dân khí, hậu dân sinh, mở mang dân quyền” đã được Hồ
Chí Minh thâu hóa, tuy nhiên sự khác nhau cơ bản mà chúng ta dễ dàng nhận
thấy đó là; Phan Châu Trinh với xu hướng xây dựng nó trong xã hội dân chủ

19


tư sản, còn Hồ Chí Minh xác định xã hội chủ nghĩa là mục tiêu cao đẹp nhất
mà dân tộc Việt Nam tranh đấu. Phan Châu Trinh chủ trương dựa vào sự thức
tỉnh nhân dân để thực hiện những chương trình đổi mới đất nước theo hướng
dân chủ tư sản, chứ không ỷ lại ở một thế lực bên ngoài nào. Ông chủ trương
“bất vọng ngoại”, nhưng ông chưa nhận thức được toàn diện với điều kiện
nước ta lúc đó phải tranh thủ mọi sự đồng tình giúp đỡ bên ngoài để hỗ trợ cho
phong trào cách mạng trong nước tiến lên. Hạn chế lớn nhất trong tư tưởng của
Phan Châu Trinh chính là vẫn bế tắc về con đường cách mạng, chưa nhận thức
đầy đủ bản chất của chủ nghĩa đế quốc, chưa phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân, mặc dù các ông đã ít nhiều đề cập đến vai trò cách mạng của
giai cấp công nhân. Chính vì vậy Hồ Chí Minh đã nhận định con đường cứu
nước của Phan Châu Trinh chẳng khác nào “cầu xin Pháp rủ lòng thương”.
1.2.1.3. Tư tưởng của Phan Bội Châu
Phan Bội Châu hiệu là Sào Nam, sinh năm 1867 tại quê ngoại làng Sa
Nam, xã Đông Liệt (nay là xã Nam Diên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An).

Ông xuất thân trong một gia đình có truyền thống nho học – đời đời theo
nghiệp đọc sách. Trong toàn bộ tư tưởng của Phan Bội Châu, một trong những
hệ thống quan điểm khá tiến bộ so với các nhà Nho đương thời đó là quan
niệm về vị trí, vai trò của nhân dân, quyền lực của nhân dân, đoàn kết nhân
dân, bồi dưỡng sức dân trong cách mạng dân tộc. Đặc biệt Phan Bội Châu đã
thể hiện sâu sắc cách nhìn nhận về sức mạnh của nội lực để phát triển xã hội.
Trước hết nói về vị trí và vai trò của nhân dân, Phan Bội Châu là người có
tư tưởng khá tiến bộ, nhân dân có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng. Một nước có
ba điều quan trọng là nhân dân, đất đai, chủ quyền, trong đó vị trí nhân dân đứng
thứ nhất. Theo Phan Bội Châu muốn giành lại được độc lập dân tộc, phát triển
đất nước phải dựa vào dân, thắng lợi của cuộc cách mạng phải do nhân dân thực
hiện. ông viết: “Nước ta đã hẳn là gia tài của tổ nghiệp dân ta rồi, bỏ mất nó là
do dân ta, thì thu phục nó tất cũng phải do dân ta làm”[5, tr. 133] và nước cường
thịnh là nhờ có nhân dân. Tư tưởng sự nghiệp cách mạng là của dân, do dân, vì
dân được Phan Bội Châu nâng lên thành một hệ thống lý luận khá sâu sắc. Từ

20


×