Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tiểu luận liên minh công nông trí ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.75 KB, 20 trang )

Tiểu luận: Liên minh công-nông-trí ở Việt Nam
A/ LỜI MỞ ĐẦU
Sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, xây dựng
CNXH và công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã trải qua rất nhiều khó khăn, gian khổ nhưng đã đạt được những
thành tựu to lớn, rất quan trọng và vẻ vang. Một trong những nhân tố quyết
định thắng lợi của Cách mạng là liên minh công – nông – trí thức tạo nên
sức mạnh vô địch, là bản lĩnh, trí tuệ và sự dũng cảm phi thường của con
người Việt Nam.
Với một quá khứ hào hùng, oanh liệt của liên minh các tầng lớp giai
cấp công – nông – trí với những con người anh hùng đã góp mình vào công
cuộc xây dựng và đổi mới đất nước. Vậy giờ đây một con người thuộc cái
tầng lớp, giai cấp này họ đang phài sống trong thực trạng như thế nào trong
xã hội của nước ta hiện nay?
Tôi xin nói rõ vấn đề này và phương hướng cơ bản để xây dựng một
liên minh công – nông – trí vững mạnh để xây dựng đưa nước ta phát triển
thành một nước công nghiệp hóa – hiện đại hóa trên con đường quá độ lên
CNXH ở nước ta.
B/ LIÊN MINH GIAI CẤP CÔNG NÔNG TRI THỨC TRONG XÃ
HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
І. Thực trạng giai cấp công- nông- tri thức trong xã hội nước ta hiện
nay
1. Giai cấp công nhân:
Giai cấp công nhân nước ta hiện nay có khoảng 4,53 triệu người,
chiếm 6% dân số. Về cơ cấu thành phần kinh tế, công nhân trong các doanh
nghiệp nhà nước từ chỗ là đại diện cho toàn bộ giai cấp công nhân
trongthời kỳ trước đổi mới nay chỉ giữ một số lượng và tỷ lệ thấp hơn (1,83
triệu, chiếm 40,8%) so với công nhân của khu vực ngoài nhà nước (2,68
triệu chiếm 59,2%). Tỷ lệ công nhân nhà nước tỷ lệ nghịch với tốc độ và
quy mô đổi mới doanh nghiệp nhà nước đang diễn ra mạnh mẽ trong mấy
năm gần đây dưới sức ép của nhu cầu nâng cao hiệu quả kinh doanh và


năng lực cạnh tranh của kinh tế quốc tế. Hậu quả tất yếu nhưng không
mong muốn của tiến trình này là hiện có hơn 150000 người vốn là công
nhân nhà nước, nay thuộc diện dư dôi, thất nghiệp. Cơ cấu thành phần cuả
công nhân hiện nay rất phức tạp, có những người vừa làm cho Nhà nước
vừa làm cho tư nhân hoặc mang danh là công nhân nhưng lại sống bằng
nghề phụ, kinh tế hộ cá thể.

1


Về cơ cấu ngành nghề, giai cấp công nhân nước ta thường làm việc
trong những ngành công nghiệp truyền thống: luyện kim, cơ khí, điện.
Trong thời kỳ đổi mới, công nhân làm trong các ngành dịch vụ (giao thông
vận tải, bưu điện, viễn thông, ngân hàng...) đã tăng lên nhanh cùng với tốc
độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đáng chú ý là đã xuất hiện một
bộ phận mới dù chiếm tỷ lệ nhỏ đó là công nhân tri thức, những người có
tri thức vàkỹ năng cao, tạo ra những sản phẩm dịch vụ có hàm lượng giá
trịtăng cao như tư vấn, thiết kế, quản lý chất lượng đồng bộ. Số công nhân
có trình độ cao đẳng, đại học ở nước ta chiếm trên 150000 người (khoảng
3,3%).
Xu hướng phát triển của bộ phận công nhân tri thức sẽ tăng nhanh
cùng với mức độ phát triển của kinh tế tri thức ở nước ta. Chính sự đa
dạng, phức tạp về nguồn gốc, cơ cấu, sự không đồng nhất về chất lượng và
sự phân hoá, phân tầng trong nội bộ giai cấp, giữa các bộ phận công nhân
trong các ngành nghề và thành phần kinh tế, đã làm suy yếu tính thống
nhất, sức mạnh đoàn kết và địa vị xã hội của giai cấp công nhân hiện nay
so với thời kỳ trước đổi mới. Tuy vậy, sự xuất hiện và ngày càng lớn mạnh
về số lượng và chất lượng của bộ phận công nhân tri thức ở nước ta hiện
nay là một trong những yếu tố cơ bản tiếp tục đảm bảo cho sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân Việt Nam trong giai đoạn phát triển hiện nay.

Về kinh tế, ngoài bộ phận nhỏ công nhân trí thức có thu nhập cao, bộ phận
công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước ở một số lĩnh vực có tính độc
quyền, có mức thu nhập khá, còn lại phần lớn công nhân nước ta có mức
thu nhập rất thấp.
Về chính trị và uy tín xã hội, công nhân chưa có địa vị bằng tầng lớp
tri thức, tầng lớp công chức, viên chức. Ngay trong các doanh nghiệp nhà
nước, quyền lực và vai trò của công nhân còn bị hạn chế. Trong các doanh
nghiệp tư nhân và doanh nghệp có vốn đầu tư nước ngoài, tổ chức Đảng và
các tổ chức quần chúng thiếu hụt hoặc bị hạn chế hoạt động , công nhân
thường bị giới chủ chèn ép, quản lý chặt chẽ; họ có rất ít khả năng đấu
tranh với các ông chủ dù chỉ nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.
Trình độ học vấn và văn hoá của công nhân tuy cao hơn nông dân nhưng
lại bị thiệt thòi hơn so với nhiều tầng lớp khác trong xã hội. Do bộ phận
công nhân nhà nước thường phải làm thêm nghề phụ để tăng thu nhập nên
tác phong công nghệp chưa cao. Công nhân trong khu vực kinh tế tư nhân,
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có kỷ luật cao hơn song thường phải
tăng ca, làm thêm giờ để kiếm sống nên ít có thời gian và điều kiện để học
tập, phát triển bản thân. Ý thức giai cấp, ý thức Đảng trong bộ phận công
nhân này nói chung thấp. Công nhân tri thức cũng có xu hướng chịu làm
thuê đến khi đủ mạnh để tách ra lập tổ chức kinh doanh của mình để trở
thành ông chủ, thầy hay chuyên gia độc lập. Trong khi nhiều trí thức, tiểu
tư sản trải qua sự rèn luyện và công tác mà có bản chất giai cấp công nhân
thì nhiều người xuất thân từ công nhân khi được đề bạt lên lãnh đạo, quản
lý lại để mai một bảnchất giai cấp của mình. Làm công nhân không phải là
mơ ước và sự tự lựa chọn không chỉ đối với những thanh niên trẻ mà còn
2


đối với những người đang trong nghề. Tỷ lệ giai cấp công nhân trong các
cấp uỷ, nhất là cấp cao, cấp Trung ương thường không đạt như mong muốn

và kế hoạch phấn đấu chủ yếu là do chưa đáp ứng được các yêu cầu, tiêu
chuẩn của cán bộ lãnh đạo thời kỳđổi mới của Đảng.
Nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ gây nên sự biến
động thường xuyên, ngày càng đa dạng, phức tạp, không thuần nhấtvề số
lượng, chất lượng của giai cấp công nhân Việt Nam. Điều đó được thể hiện
tập trung trên các phương diện sau:
-Sự giảm sút nhanh chóng về số lượng công nhân trong khu vực kinh
tế nhà nước, kinh tế tập thể; sự tăng lên nhanh của đội ngũ công nhân khu
vực kinh tế tư nhân, tư bản nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
-Sự đa dạng, phức tạp, không thuần nhất và phân hoá, phân tầng trong nội
bộ giai cấp, giữa các bộ phận công nhân, đội ngũ trí thức trong các ngành
nghề, các tổ chức xã hội nghề nghiệp và thành phần kinh tế.
-Phản ánh sự đa dạng, đan xen, hỗn hợp của các thành phần kinh tế
nhất định nào đó, mà họ có thể hiện diện ở hai hoặc vài thành phần kinh tế:
họ vừa là công nhân trong khu vực kinh tế nhà nước, vừa làm việc ở khu
vực kinh tế tập thể, cá thể, tư nhân, hộ gia đình, vv.. Có thể họ vừa là công
nhân, vừa không phải là công nhân khi họ sống bằng nghề phụ (tăng gia,
chăn nuôi, thủ công, buôn bán...), hoặc bằng thu nhập khác là chủ yếu, họ
có vốn cổ phần ở một mức độ nào đó trong xí nghiệp, nhà máy, công ty,...
-Sự mất cân đối về cơ cấu đội ngũ công nhân giữa các thành phần,
ngành kinh tế, trên các địa bàn dân cư, giữa số lượng và chất lượng. Nhìn
chung, cơ cấu giai cấp công nhân chưa cân đối và đồng bộ. Các ngành công
nghiệp nặng còn chiếm tỷ lệ thấp, trong khi đó các ngành công nghiệp nhẹ,
chế biến thực phẩm chiếm tới 40%. Bộ phận công nhân nông nghiệp còn
quá ít.
-Sự già hoá, đứt đoạn và giảm đi của đội ngũ công nhân lâu năm,
nhiều đời, công nhân lành nghề, thợ bậc cao, thợ giỏi trong những năm gần
đây, nhất là ở bộ phận công nhân trong khu vực kinh tế nhà nước; sự trẻ
hoá của đội ngũ công nhân ở khu vực kinh tế tư nhân, có vốn đầu tư nước
ngoài.

Tình hình phát triển về số lượng, cơ cấu đa dạng, phức tạp, không
thuần nhất, thường xuyên biến động như trên, đã và đang dẫn đến một thực
trạng về chất lượng giai cấp công nhân: đang có sự yếu kém về nhiều mặt
và sự phân hoá, không thuần nhất giữa các bộ phận của đội ngũ công nhân
Việt Nam hiện nay. Thực trạng này được phản ánh trên các bình diện sau:
-Trình độ văn hoá, tay nghề thấp và không đồng dều, mất cân đối
giữa các bộ phận công nhân. Trình độ kỹ thuật, kiến thức quản lý kinh tế,
khả năng nghề nghiệp của công nhân còn thấp so với yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
-Bộ phận công nhân xuất thân từ nông thôn chiếm đại đa số trong
giai cấp công nhân. Họ mang theo lối suy nghĩ, tầm nhìn của người nông
dân, quan hệ xã hội và cả lối sống nông thôn vào trong giai cấp công nhân.
Những nhược điểm đó kéo dài cả thập kỷ, thậm chí có phần phát triển dưới
3


chế độ bao cấp và cơ chế kinh tế kế hoạch tập trung. Người công nhân Việt
Nam chưa được rèn luyện nhiều trong nền kinh tế công nghiệp và quan hệ
cạnh tranh, phát huy tính sáng tạo cá nhân và tập thể trong môi trường công
nghiệp và thị trường còn hạn chế. Điều đó ảnh hưởng rất nhiều đến tư duy
kinh tế, phong cách làm việc, phong cách quản lý của người công nhân.
-Vấn đề lớn nhất nổi lên trong các năm qua là, giai cấp công nhân
chưa thể đóng vai trò chủ đạo trong đời sống xã hội, nhất là trong sản xuất,
kinh doanh, phân phối. Một phần, vì người công nhân chưa có thói quen và
năng lực làm chủ, nhiều cơ quan lãnh đạo, quản lý trong các nhà máy, xí
nghiệp và ngoài xã hội chưa tôn trọng quyền làm chủ của giai cấp công
nhân. Thậm chí, có nơi quyền dân chủ của công nhân còn bị vi phạm
nghiêm trọng. Đây là mặt yếu rất đặc trưng của giai cấp công nhân ở những
nước chưa có công nghiệp hiện đại. Tình hình làm việc ngày một căng
thẳng, lương không đủ sống, người công nhân phải vật lộn với cuộc sống

hàng ngày, phải xoay xở bằng mọi cách để tồn tại; khi ngườicông nhân
chưa làm chủ được bản thân mình thì khó có thể làm chủ được nhà máy, xí
nghiệp và xã hội. Công nhân nước ta chưa được tôi luyện bao nhiêu trong
môi trường kinh tế, khoa học công nghệ và cạnh tranh. Vai trò của giai cấp
công nhân trong phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội còn chưa đạt được mức
độ cần có của nó.
-Một bộ phận trong giai cấp chưa có trình độ chính trị, phẩm chất
giai cấp giảm, kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp kém.
-Một bộ phận công nhân bị thoái hoá và tha hoá nghiêm trọng về lao
động, phẩm chất giai cấp và lối sống.
Trong những năm tới, sự biến động cơ cấu giai cấp của công nhân
Việt Nam sẽ diễn ra theo những xu hướng: ngày càng đa dạng hoá, phức
tạp về cơ cấu và không thuần nhất. Trong những năm đầu, xu hướng trên
diễn ra mạnh mẽ với tốc độ nhanh. Công nhân có mặt trong tất cả các thành
phần kinh tế. Xu hướng tăng lên nhanh của bộ phận công nhân trong khu
vực kinh tế tư nhân, tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài;
bộ phận công nhân trong khu vực kinh tế nhà nước giảm đi một cách tương
đối. Sự phân hoá về thu nhập, phân hoá giàu nghèo, phân hoá về mức sống,
lối sống, ý thức giai cấp, trình độ chính trị, tư tưởng sẽ diễn ra mạnh mẽ và
sâu sắc. Trình độ văn hoá, học vấn, tay nghề, trẻ hoá về tuổi đời, tuổi nghề
có xu hướng ngày càng tăng, ngày càng được trí thức hoá. Xu hướng phi
tập trung hoá công nhân trong các nhà máy, xí nghiệp có quy mô lớn, số
lượng công nhân đông; đội ngũ công nhân - trí thức hoá ngày càng tăng và
điều này đã chứng minh hùng hồn và đang hiện thực hoá cho luận điểm rất
đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: trí thức hoá công nhân. Xu hướng
luân chuyển nghề nghiệp nhiều lần và một bộ phận công nhân lao động ra
khỏi dây chuyền sản xuất sẽ diễn ra thường xuyên với tốc độ nhanh. Xu
hướng phát triển đa dạng hoá ngành nghề đi đôi với chuyên môn hoá cao
trong công nhân. Sự phân tầng xã hội, tình trạng thất nghiệp, thiếu việc
làm, mâu thuẫn về lợi ích ngay trong nội bộ giai cấp công nhân sẽ tăng lên.

Quan hệ chủ - thợ trong các cơ sở sản xuất phức tạp hơn; đình công, bãi
4


công sẽ còn diễn ra với mức độ gay gắt, quyết liệt hơn. Vì vậy, cần có nhận
thức đầy đủ, toàn diện những xu hướng đó để có những giải pháp trước mắt
và lâu dài nhằm xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam từng bước trưởng
thành, phát triển, thể hiện rõ và phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế
nhiều thành phần.
Giai cấp công nhân Việt Nam lãnh đạo cách mạng thông qua Đảng
tiên phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Khi nói giai cấp công nhân
lãnh đạo là nói đến toàn bộ giai cấp như một chỉnh thể chứ không phải từng
nhóm, từng người cá biệt. Xét về thành phần xuất thân, ở nước ta có nhiều
Đảng viên không phải là công nhân. Nhưng bất cứ đảng viên nào cũng phải
đứng trên lập trường giai cấp công nhân thể hiện ở lý tưởng, ở lý luận Mác
- Lênin và đường lối cách mạng, ở tinh thần kiên quyết cách mạng trong
cuộc đấu tranh để thực hiện sứ mệnh của giai cấp công nhân vì lợi ích của
giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và cả dân tộc.
Trong giai đoạn xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đội
ngũ công nhân hình thành một giai cấp công nhân thống nhất đại diện cho
sản xuất tiên tiến, thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam được trang bị bằng
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Họ là lực lượng đi đầu
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là cơ sở xã hội chủ yếu nhất
của Đảng và Nhà nước, là hạt nhân vững chắc trong liên minh công nhân nông dân - trí thức, nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc.
Chúng ta không phủ nhận những nhược điểm của giai cấp công nhân
Việt Nam (như số lượng còn ít, chưa được rèn luyện nhiều trong công
nghiệp hiện đại, trình độ văn hoá và tay nghề còn thấp...) mà nguồn gốc sâu
xa là ở trình độ phát triển kinh tế chưa cao ở nước ta trong thời kỳ quá độ.
Nhưng điều đó không thể là lý do để phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhânViệt Nam. Để khắc phục những nhược điểm ấy, Nghị quyết hội

nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá VII của Đảng, gắn trực
tiếp vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá với vấn đề xây dựng, phát triển
giai cấp công nhân đã chỉ rõ phương hướng xây dựng giai cấp công nhân
nước ta trong giai đoạn hiện nay là: “ Cùng với quá trình phát triển công
nghiệp và công nghệ theo xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, cần xây dựng giai cấp công nhân phát triển về số lượng, giác ngộ về
giai cấp, vững vàng về chính trị, tư tưởng, có trình độ học vấn và tay nghề
cao, có năng lực tiếp thu và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng
suất, chất lượng, hiệu quả cao, vươn lên làm tròn sứ mệnh lịch sử của
mình”.
Công cuộc đổi mới đem lại những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan
trọng. Giai cấp công nhân đang đi đầu trong việc xây dựng xã hội mới, nhất
là trong việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội nhằm
thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Hơn
lúc nào hết, giai cấp công nhân Việt Nam cần phải vươn lên để xứng đáng
là lực lượng trụ cột của liên minh công - nông - trí, của khối đại đoàn kết
dân tộc. Phương hướng củng cố, phát triển công nhân Việt Nam trong sư
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá mộtlần nữa đã được Đại hội đại biểu
5


toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt chú trọng. Đại
hội chỉ rõ: “Đối với giai cấp công nhân, coi trọng phát triển về số lượng và
chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và
nghề nghiệp, thực hiện “trí thức hoá công nhân”, nâng cao năng lực ứng
dụng và sáng tạo công nghệ mới, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao,
xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước...”
2. Giai cấp nông dân:
Tiến trình công nhiệp hoá, hiện đại hoá đất nước chủ yếu làm giảm

tỷ lệ giai cấp nông dân trong xã hội, số lượng nông dân giảm đi, số hộ và
lao động thuần nông giảm, tỷ lệ nông dân tập thể giảm đi rất nhiều. Kết cấu
giai cấp nông dân trở nên phức tạp, gồm nhiều bộ phận, nhiều tầng lớp,
nhiều nhóm. Sự phân tầng, phân hoá giàu nghèo phát triển nhanh trong nội
bộ giai cấp nông dân, giữa các địa phương, vùng, miền khác nhau, phụ
thuộc vào mức độ tri thức và kỹ năng, khả năng tiếp cận các nguồn lực,
mức độ phát triển của thị trường và sự giúp đỡ của chính quyền đối với
người nông dân. Nói cách khác, sự giàu có phát triển của nông dân phụ
thuộc vào sự liên kết giữa Nhà nước, nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh
nghiệp. Cái mới trong nông dân so với thời kỳ trước đổi mới là sự xuất
hiện của các chủ trang trại.
Tình trạng một bộ phận nông dân rời khỏi đất canh tác, bỏ nghề
truyền thống trong khi có ít cơ hội để chuyển sang những nghề phi nông
nghiệp, và trở thành giai cấp khác. Nhiều nông dân giàu xổi nhờ bán đất ở
khu vực đô thị hoá nhưng sau đó lại rơi vào tình trạng nghèo đói. Đặc biệt
cần lưu ý là những bấtổn về xã hội và an ninh nước ta mấy năm gần đây
đều xảy ra ở khu vực nông thôn. Nguyên nhân cơ bản của tình trạng này là
sự yếu kém, xa dân của đội ngũ cán bộ và hệ thống chính trị cơ sở. Tình
trạng này sẽ giảm đi sức mạnhcủa giai cấp nông dân, của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Thực trạng diễn ra là, cơ cấu giai cấp nông dân sẽ đa dạng, phức tạp
và hình thành một bộ phận công nhân nông nghiệp, phong cách lao động
của người sản xuất nhỏ giảm dần. Đội ngũ những người lao động thủ công
nghiệp, dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ sinh hoạt và lưu thông tăng lên. Đặc biệt
là, một bộ phận nông dân lao động mang tính chất trí thức xuất hiện ngày
càng nhiều, do đó, tính chất nông dân thuần tuý ngày càng giảm đi. Tính
chất nông dân - công nhân, nông dân - trí thức, nông dân - tiểu thương,
nông dân - thợ thủ công,... Sự phân tầng, phân hoá giàu nghèo phát triển
nhanh. Đội ngũ những người nông dân chuyên đi làm thuê, bán sức lao
động xuất hiện và phát triển. Bộ phận nông dân tập thể dưới những hình

thức hợp tác mới sẽ từng bước được hình thành và phát triển. “Trung nông”
sẽ là nhân vật trung tâm trong giai cấp nông dân, trong nông thôn. Các bộ
phận trong giai cấp nông dân gồm: chủ trang trại, nông dân sản xuất cá thể,
nông dân làm thuê, xã viên của các hợp tác xã kiểu mới. Đồng thời cũng có
sự xuất hiện vai trò kép của nhiều người là công chức nhưng mua ruộng
6


làm chủ trang trại nên họ vừa làm công chức, trí thức vừa làm chủ trang
trại.
3. Tầng lớp trí thức:
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đòi hỏi ngày càng nhiều về tri thức khoa học, công nghệ
và năng lực sáng tạo, kinh doanh. Trí thức là tầng lớp - lực lượng có ưu thế
về các ngồn năng lực trên.
Với khoảng 3 triệu người có trình độ đại học, cao đẳng và 30 ngàn
thạc sĩ, tiến sĩ, nước ta có nguồn nhân lực trí thức chiếm tỷ lệ khá cao so
với các nước đang phát triển. Địa vị xã hội của tầng lớp tri thức được tăng
cường và tăng tiến ổn định trong suốt thời kỳ đổi mới.
Tuy nhiên, đội ngũ trí thức hiện nay cũng có sự phân hoá. Về chính
trị, trí thức chiếm một tỷ lệ lớn trong đội ngũ lãnh đạo, quản lý của hệ
thống chính trị, nhất là ở cấp tỉnh - thành và Trung ương. Về văn hoá, trình
độ học vấn, chất lượng của đội ngũ trí thức chưa tương xứng với số lượng,
có hiện tượng mua bằng cấp để “chạy chức, chạy quyền” ; các gia đình khá
giả thì chạy đua cho con em du học nước ngoài, xuất hiện nguy cơ một bộ
phận trí thức mất gốc, trọng ngoại, giảm sút ý thức dân tộc.
Nhìn chung, đội ngũ trí thức nước ta có truyền thống yêu nước,có
tinh thần đoàn kết dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Truyền thống đó sẽ
được tiếp tục phát huy trong thời kỳ mới nếu chúng ta giải quyết được
những vấn đề nổi cộm phát sinh.

Trong tầng lớp trí thức đang diễn ra quá trình biến đổi nhanh chóng
về cơ cấu, lượng và chất; phong phú về cơ cấu nghề; đa dạng về nguồn đào
tạo, về thành phần xã hội - giai cấp xuất thân; sự phân hoá về thu nhập,
phân hoá giàu nghèo, phân tầng, phân hoá về lối sống, về quan điểm tư
tưởng,... Đi liền với vấn đề đó là sự nảy sinh và tất yếu nảy sinh tính chất
phức tạp trong tầng lớp trí thức về cơ cấu xã hội, về ý thức, quan điểm
chính trị. Một số trí thức đồng thời là những doanh nghiệp năng động,
những chủ trang trại, đa phần trí thức là người trung lưu . Số đông trí thức
yêu nước, tán thành lý tưởng chủ nghĩa xã hội.
Công chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước, đoàn thể, quân
nhân chuyên nghiệp trong các lực lượng vũ trang. Công chức là những
người làm trong các cơ quan hành chính nhà nước , trong các tổ chức chính
trị, chính trị - xã hội; còn viên chức là những người có cả trong các cơ quan
nhà nước và trong các cơ quan sự nghiệp, quân nhân chuyên nghiệp trong
quân đội và cơ quan. Theo sự phát triển của nền kinh tế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và theo sự vận hành của cơ chế thị trường thì
các đơn vị sự nghiệp ngày càng tăng lên, do vậy lực lượng viên chức ngày
càng phát triển đông đảo. Càng ngày, lực lượng công chức, viên chức, quân
nhân chuyên nghiệp càng được bảo đảm một cuộc sống ở mức trung lưu.
Tuy có hoặc không tham gia (cả trực tiếp và gián tiếp) vào các hoạt động
kinh doanh, song với mức sống trung lưu và chiếm một tỷ lệ không nhỏ
trong dân cư (1 đến 2 triệu người) và hoạt động ở những khâu quan trọng
7


của các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội... của đất nước nên nhóm
xã hội này đóng một vai trò đáng kể vào các quá trình phát triển của đất
nước.
Bản thân nhóm xã hội này cũng có sự phân hoá nhanh chóng và mạnh mẽ
khác nhau. Cần lưu ý rằng tuy không có địa vị và quyền lực xã hội cao

nhưng họ thường trực tiếp phụ trách những khâu quan trọng, nên nếu bị lợi
dụng, họ sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra những hậu quả khôn lường. Dó
đó, bên cạnh việc tăng cường giáo dục ý thức trách nhiệm còn phải quan
tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của họ.
II. Liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và tri thức trong
quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam
1.Đặc điểm của giai cấp công - nông - trí thức ở Việt Nam:
-Giai cấp công nhân Việt Nam có đầy đủ những yếu tố của giai cấp
công nhân hiện đại và còn có những đặc điểm riêng của mình. Đó là do ra
đời trước giai cấp tư sản Việt Nam nên giai cấp công nhân Việt Nam có
điều kiện sớm giữ vai trò lãnh đạo và giành ưu thế ngay từ khi có Đảng của
mình. Hơn nữa, sự gắn bó giữa công nhân và nông dân đã hình thành một
cách tự nhiên, phần lớn xuất thân từ nông dân nên giai cấp công nhân Việt
Nam đã mang sẵn trong mình mối liên minh với nông dân và luôn giữ được
vai trò lãnh đạo trong quá trình cách mạng Việt Nam. Ngày nay, trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn, sẽ có nhiều người nông dân
vào làm việc ở các cơ sở công nghiệp và trở thành công nhân ở ngay chính
quê hương mình. Điều này càng tạo cho sự gắn bó của giai cấp công nhân
với nông dân, nông thôn một cách tự nhiên trên nhiều mặt của đời sống xã
hội.
-Giai cấp nông nhân là giai cấp của những người lao động sản xuất vật chất
trong nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp... trực tiếp sử dụng một tư liệu
sản xuất cơ bản và đặc thù, gắn với thiên nhiên là đất, rừng, biển để sản
xuất ra nông sản. Nông dân có phương thức sản xuất phân tán, năng suất
thấp. Theo V.I. Lênin, nông dân có “bản chất hai mặt” một mặt họ là những
người lao động (đây là mặt cơ bản nhất); mặt khác, họ là những người tư
hữu nhỏ (đây là mặt hạn chế sẽ được khắc phục trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá). Tuy nhiên, nông dân không dựa trên tư hữu nhỏ
này để bóc lột các giai cấp, tầng lớp khác.
Giai cấp nông dân không có hệ tư tưởng riêng mà tư tưởng của họ

phụ thuộc vào hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội. Họ vốn có cơ cấu
không thuần nhất, không có sự liên kết chặt chẽ cả về kinh tế và tư tưởng,
tổ chức. Trong một nước nông nghiệp thì họ là lực lượng chính trị - xã hội
đông đảo nhất và khi được giác ngộ họ trở thành lực lượng cách mạng to
lớn nhất trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Giai cấp nông dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã thực sự
giải phóng khỏi chế độ áp bức bóc lột và trở thành người làm chủ xã hội và
đóng góp to lớn vào sự nghiệp giải phóng đất nước và xây dựng CNXH.
8


-Trí thức bao gồm những người lao động trí óc phức tạp và sáng tạo,
có trình độ học vấn đủ để am hiểu và hoạt động trong lĩnh vực lao động của
mình. Họ hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực nghiên cức, giảng dạy, ứng
dụng khoa học, văn học, nghệ thuất, lãnh đạo và quản lý... Sản phẩm lao
động của trí thức tác động quyết định đến năng suất lao động, đến sự phát
triển xã hội về cả mặt đời sống vật chất và cả về đời sông tinh thần.
Trí thức không có hệ tư tưởng riêng vì không có phương thức sản
xuất riêng và địa vị kinh tế - xã hội độc lập. Vai trò và tư tưởng của họ phụ
thuộc vào giai cấp thống trị xã hội. Mặc dù vậy, trí thức luôn giúp giai cấp
thống trị khái quát về lý luận để hình thành hệ tư tưởng của giai cấp thống
trị xã hội.
Trong các chế độ tư hữu đa số trí thức là những người lao động bị áp
bức, bóc lột. Khi được sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, tri thức trở
thành người làm chủ xã hội và đóng góp to lớn trong sự nghiệp xây dựng
CNXH. Ở Việt Nam, trí thức đã có nhiều đóng góp trong quá trình xây
dựng CNXH, đại bộ phận được bộ phận được đào tạo trong chế độ mới. Họ
xuất thân chủ yếu từ nông dân, công nhân và các tầng lớp lao động khác.
Do vậy họ có mối liên hệ gần gũi với công nhân, nông dân và luôn là lực
lượng cơ bản của cách mạng XHCN. Ngày nay, cách mạng khoa học công

nghệ ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và trí thức ngày càng
có vai trò, vị trí quan trọng, nhất là trong quá trình xây dựng kinh tế tri thức
và quá trình hội nhập khu vực và quốc tế.
2.Nội dung cơ bản của liên minh giữa công nhân với nông dân và trí
thức trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam
Nguyên tắc cơ bản nhất của liên minh là kết hợp đúng đắn các lợi ích
về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Lợi ích của giai cấp công nhân phù
hợp với lợi ích dân tộc và đại đa số nhân dân lao động nên quan hệ giữa các
giai tầng trong thời kỳ quá độ lên CNXH là quan hệ hợp tác, đấu tranh
trong nội bộ nhân dân vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
a/ Nội dung chính trị của liên minh:
-Nhu cầu lợi ích chính trị cơ bản của công nhân, nông dân, trí thức
và của cả dân tộc là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Mỗi giai cấp, tầng
lớp ở mỗi giai đoạn đều có lập trường chính trị - tư tưởng của mình. Khi
liên minh không phải là thực hiện sự dung hòa lập trường tư tưởng – chính
trị của ba giai cấp, tầng lớp này. Khi chưa giác ngộ cách mạng vô sản thì tư
tưởng chính trị của nông dân, trí thức cơ bản còn phụ thuộc vào hệ tư tưởng
của giai cấp thống trị xã hội phong kiến hoặc tư bản. Mặc dù có nguyện
vọng nhưng nông dân và trí thức không thể tự giải phóng khỏi chế độ tư
bản, áp bức bóc lột. Trong cách mạng XHCN liên minh giữa ba giai tầng
này phải trên lập trường chính trị - tư tưởng của giai cấp công nhân thì mới
thực hiện đồng thời cả nhu cầu, lợi ích của ba giai tầng.
-Nguyên tắc về chính trị của liên minh là do Đảng của giai cấp công
nhân lãnh đạo. Trong thời kỳ quá độ, liên minh công, nông, trí thức là nền
9


tảng chính trị - xã hội và kinh tế của Nhà nước XHCN, là nòng cốt của Mặt
trận Tổ quốc đẩ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Dựa trên lập trường tư tưởng – chính trị của giai cấp công nhân, để

thực hiện liên minh cần phải xây dựng từng bước nền dân chủ XHCN chính
do yêu cầu của nền dân chủ này mà nội dung chính trị của liên minh không
tách rời nội dung, phương thức đổi mới hệ thống chính trị trên phạm vi cả
nước. Trong điều kiện hội nhập, với nền kinh tế đa thành phần thì việc cụ
thể hóa của đổi mới nội dung và tổ chức hoạt động của các tổ chức chính trị
của công nhân trong các loại hình xí nghiệp công nghiệp, nông dân ở các
cơ sở lao động sản xuất nông thôn và trí thức ở các cơ sở khoa học, công
nghệ là rất cần thiết. Nội dung hoạt động chính trị phải thông qua các hoạt
động sản xuất, kinh tế, khoa học công nghệ, văn hóa, xã hội,… Các hoạt
động này luôn vận động đổi mới với tốc độ ngày càng nhanh chóng do đó
các hình thức cụ thể của hệ thống chính trị phải được đổi mới cho phù hợp
và phát triển tốt.
b/ Nội dung kinh tế của liên minh:
Đây là nội dung cơ bản, quyết định nhất, là cơ sở vật chất – kỹ thuật
vững chắc của liên minh trong thời kỳ quá độ. Thời kỳ này nhiệm vụ cách
mạng chuyển trọng tâm sang lĩnh vực kinh tế. Việc thực hiện kết hợp các
lợi ích kinh tế được xác định bởi các nhu cấu kinh tế của các chủ thể lợi ích
và các điều kiện thực hiện nó. Nội dung kinh tế của liên minh ở nước ta
được cụ thể hóa ở các điểm sau đây:
-Xuất phát từ thực trạng, tiềm năng kinh tế của nước ta để xác định
cơ cấu kinh tế hợp lý trong đó phải tính đến những nhu cầu về kinh tế của
nông dân, công nhân, trí thức và của toàn xã hội trong điều kiện, thời gian
cụ thể. Đảng ta xác định cơ cấu chung của cả nước là “công – nông nghiệp
– dịch vụ”. Điều này thể hiện rõ nội dung kinh tế của liên minh là điều
kiện, môi trường để các giai tầng hoạt động và phát triển sự liên minh.
Trong điều kiện hiện nay, Đảng ta xác định “từng bước phát triển kinh tế tri
thức” trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế đã tạo điều kiện cho trí
thức ngày càng gắn bó với sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và các lĩnh
vực kinh tế khác.
-Trên cơ sở kinh tế, các nhu cầu kinh tế phát triển dưới nhiều hình

thức hợp tác, liên kết, giao lưu,… trong cả sản xuất, lưu thông phân phối
giữa công nhân, nông dân, trí thức ; giữa các lĩnh vực công nghiệp, nông
nghiệp, khoa học, giữa các địa bàn, vùng miền dân cư trong cả nước.
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta xác định:
“Đặc biệt coi trong coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và
nông thôn; phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp
chế biến nông, lâm, thủy sản; phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu. Nâng cấp, cải tạo, mở rộng và xây dựng mới có
trọng điểm kết cấu hạ tầng kinh tế”. Nông dân chiếm đại đa số bộ phận về
số lượng và khu vực nông thôn còn nhiều tiềm năng chưa được khơi dậy và
10


còn nhiều nơi khó khăn, thiệt thòi. Do đó, một mặt khuyến khích, tạo điều
kiện cho người nông dân ngày càng chủ động trong hợp tác, liên kết với
công nhân, trí thức và các thành phần kinh tế khác để họ phát huy tiềm
năng của mình. Mặt khác, Nhà nước, giai cấp công nhân, trí thức phải thực
sự đến với nông dân, hướng dẫn, giúp đỡ, cải thiện đời sống kinh tế.
Từng bước hình thành quan hệ sản xuất XHCN trong quá trình thực hiện
liên minh. Theo V.I. Lênin, chế độ hợp tác xã là con đường dễ tiếp thu nhất
đối với nông dân, khi thấy có lợi cho họ, họ sẽ mau chóng tham gia hợp tác
xã nhưng phải do chế độ hợp tác xã hưởng một số đặc quyền kinh tế, tài
chính, ngân hàng. Trong quá trình hình thành quan hệ sản xuất phải trên cơ
sở công hữu hóa những tư liệu sản xuất chủ yếu, kinh tế nhà nước vươn lên
giữ vai trò chủ đạo, cùng kinh tế tập thể làm nên tảng cho nền kinh tế cả
nước, theo định hướng XHCN.
-Từng bước hình thành quan hệ sản xuất còn thể hiện vai trò của nhà
nước. Ở nông nghiệp vai trò Nhà nước có vị trí đặc biệt quan trọng trong
việc thực hiện liên minh. Thể hiện qua chính sách khuyến nông, qua bộ
máy nhà nước, các tổ chức khuyến nông, các cơ sở kinh tế. Nông nghiệp

không chỉ là ngành kinh tế, một khu vực kinh tế mà còn là khu vực mang ý
nghĩa sinh thái xã hội.
Đối với trí thức, Nhà nước cần phải đổi mới, hoàn chỉnh các luật,
chính sách có liên quan trực tiếp đến sở hữu trí tuệ như chính sách phát
triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn học nghệ thuật,…
Hướng các hoạt động trí thức vào việc phục vụ công, nông, gắn với cơ sở
sản xuất và đời sống của toàn xã hội. Xây dựng hệ thống các cơ quan hoạt
động khoa học – công nghệ, phát huy tiềm năng đội ngũ cán bộ khoa học,
tăng cường hợp tác khoa học trong nước và quốc tế.
c/ Nội dung văn hóa, xã hội của liên minh:
-“Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái”. Đó
chính là ưu việt của CNXH, tất cả cho con người, vì con người và do con
người, trong đó lực lượng đông đảo nhất, nòng cốt là công nhân, nông dân,
trí thức.
-Vấn đề xóa đói, giảm nghèo cho công, nông, trí thức chủ yếu bằng
tạo việc làm đồng thời kết hợp các giải pháp hỗ trợ, cứu trợ. Giải quyết
được vấn đề này sẽ khắc phục được hạn chế của các chế độ tư hữu trước
đây; con người là vốn quý của xã hội, nhưng người lao động nếu thất
nghiệp thì họ trở thành gánh nặng cho xã hội, một trong các nguyên nhân
dẫn đến khủng hoảng, đổ vỡ của chế độ xã hội.
-Đổi mới và thực hiện tốt các chính sách xã hội trong điều kiện đại
đa số gia đình thương binh, liệt sĩ, có công với nước, chịu hậu quả chiến
tranh là một trong những nội dung cơ bản của liên minh. Các chính sách
này để hỗ trợ nông dân, công nhân, trí thức và tạo điều kiện cho họ khắc
phục khó khăn sau chiến tranh, đồng thời nội dung này còn mang ý nghĩa
11


giáo dục truyền thống, đạo lý, lối sống,… cho toàn xã hội và các thế hệ sau.

-Nâng cao dân trí là nội dung cơ bản lâu dài tạo cho liên minh phát
triển vững chắc. Trước mắt tập trung vào việc củng cố thành tựu xóa mù
chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, trung học phổ thông, nâng cao kiến thức
khoa học công nghệ, kinh tế, văn hóa, xã hội. Khắc phục các tệ nạn xã hội,
các hủ tục lạc hậu, biểu hiện tiêu cực như tham nhũng, quan liêu. Dân tộc
Việt Nam vốn có truyền thống tôn sư, trọng đạo, hiếu học và chăm chỉ cần
cù nên việc đầu tư cho giáo dục cả về vật chất lẫn tinh thần là được đặc biệt
chú trọng. Đây vừa là thuận lợi, là yếu tố thúc đẩy tiến bộ xã hội, đồng thời
vừa là yêu cầu nâng cao chất lượng đối với sự nghiệp giáo dục. Vấn đề gắn
bó với tri thức cách mạng, với tầm cao của tri thức công nhân, nông dân và
các tầng lớp nhân dân lao động là cơ sở vững chắc, có tính truyền thống
được kế thừa trong nhiều đời nay của dân tộc ta.
-Gắn quy hoạch phát triển công nghiệp, khoa học, công nghệ với quy
hoạch phát triển nông thôn, đô thị hóa, công nghiệp hóa những trọng điểm
ở nông thôn với kết cấu hạ tầng ngày càng thuận lợi và hiện đại. Xây dựng
các cơ sở giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, các công trình phúc lợi công
cộng một cách tương xứng, hợp lý ở các vùng nông thôn, đặc biệt là ở vùng
núi, vùng sâu vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số. Tiến hành công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đô thị hóa nông thôn, khai thác tiềm năng của nông lâm,
ngư nghiệp.
Đối với những nước nông nghiệp đi lên CNXH như nước ta thì liên
minh công – nông – tri thức vừa là vấn đề có tính quy luật tất yếu trong
thời kỳ quá độ lên CNXH và vừa là lực lượng sản xuất, lực lượng chính trị
cơ bản và đông đảo nhất của quá trình xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc.
3.Phương hướng chủ yếu nhằm củng cố tăng cường liên minh công – nông
– trí thức Việt Nam hiện nay
Muốn giữ vững và củng cố được vai trò lãnh đạo của mình, ngoài
việc định ra đường lối chính trị đúng đắn, giai cấp công nhân còn phải lôi
cuốn được nông dân lao động và đội ngũ trí thức đi theo mình, trên cơ sở
ấy mới tạo ra được hậu thuẫn mạnh mẽ để mở rộng quyền lãnh đạo của

mình đến các tầng lớp nhân dân lao động khác trong toàn xã hội. Trong
thời kỳ cây dựng CNXH, quyền lãnh đạo chính trị thuộc về giai cấp công
nhân và chỉ thuộc về giai cấp công nhân mà thôi, nhưng thực lực của Nhà
nước thì không thể bắt nguồn từ giai cấp công nhân mà là bắt nguồn từ sự
liên minh của tất cả các tầng lớp, giai cấp. Chỉ có trên cơ sở ấy Nhà nước
XHCN mới có một nền tảng xã hội vững chắc, mới thực hiện được các
chức năng, nhiệm vụ lịch sử trọng đại của mình một cách thuận lợi.
Liên minh công – nông – trí họp thành đội quân chủ lực hung mạnh
làm hạt nhân của khối đại đoàn kết toàn dân, không những đảm bảo vai trò
lãnh đạo của các giai cấp công nhân và giữ vững chính quyền cách mạng
mà xét đến cùng còn là yếu tố có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của
12


CNXH. Trong khối liên minh ấy, giai cấp nông dân là người bạn đồng hành
chiến lược của giai cấp công nhân trên con đường đi lên CNXH và CNCS.
Thực tế lịch sử chứng minh rõ mọi khuynh hướng coi thường hoặc phủ
nhận vai trò của lực lượng xã hội to lớn này, không quan tâm đầy đủ đến
việc xây dựng, củng cố khối liên minh công – nông trong các giai đoạn và
các thời kỳ cách mạng, có nghĩa là đặt giai cấp công nhân vào một hoàn
cảnh phải chiến đấu đơn độc và đó là một sai lầm chính trị nghiêm trọng.
Khi tổng kết kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam, một nước có
90% dân số là nông dân, chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Nền tảng của
vấn đề dân tộc là nông dân, vì nông dân là tối đa trong dân tộc”, vì thế phải
“thực hiện cho được liên minh công nông vì đó là sự bảo đảm chắc chắn
nhất cho những thắng lợi của cách mạng. Chỉ có khối liên minh công nông
do giai cấp công nhân lãnh đạo mới có thể kiên quyết và triệt để đánh đổ
các thế lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền của nhân dân lao động,
hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của cách mạng dân tộc dân chủ và tiến lên
CNXH” (Hồ Chí Minh: vì độc lập, tự do, Vì chủ nghĩa xã hội, NXB ST Hà

Nội, 1970, trang 302).
Chủ nghĩa Mac- Lenin cũng như tư tưởng Hồ Chí Minh đánh giá rất
cao vai trò của giai cấp nông dân, đồng thời cũng chỉ rõ nông dân tuy là
một lực lượng xã hội đông đảo, nhưng trong các cuộc đấu tranh giai cấp, họ
không tự tổ chức lại thành một lực lượng chính trị độc lập để đánh đổ các
giai cấp bóc lột thống trị, trong lịch sử các cuộc khởi nghĩa của nông dân
thường mang tính chất tự phát, diễn ra dưới hình thức lẻ tẻ ở địa phương, ít
khi trở thành phong trào rộng lớn trong cả nước. Vì gắn liền với một nền
sản xuất nhỏ, lạc hậu, tàn dư của một phương thức sản xuất đã lỗi thời,
nông dân không thể tự làm lấy một cuộc cách mạng giải phóng, cũng
không thể tự mình xây dựng được một xã hội mới do mình là đại biểu.
Trước kia giai cấp nông dân phải đứng trước ngọn cờ của giai cấp tư sản
trong cuộc đấu tranh đánh đổ chế độ phong kiến giành thắng lợi cho cuộc
cách mạng dân chủ tư sản. Ngày nay giai cấp tư sản đã tỏ ra lỗi thời và
phản động, giữa giai cấp nông dân và tư sản có những mâu thuẫn đối địch
về lợi ích kinh tế và chính trị. Muốn thoát khỏi ách áp bức bóc lột, nông
dân không có con đường nào khác là đi theo đường lối cách mạng của giai
cấp công nhân là giai cấp duy nhất có thể cùng với toàn thể nhân dân đánh
đổ giai cấp tư sản – giai cấp bóc lột cuối cùng trong lịch sử, có thể giữ
vững chính quyền lâu dài, có thể xây dựng một xã hội mới trong đó nhân
dân lao động thật sự trở thành người làm chủ.
Do đó khi đánh giá vai trò của giai cấp nông dân nhận rõ tính tất yếu
của sự liên minh công – nông cần khẳng định sự liên minh này là một sự
liên minh “đặc biệt”, trong đó giai cấp công nhân phải giữ vai trò lãnh đạo,
sự liên minh có ý nghĩa chiến lược, chẳng những chỉ nhằm đánh đổ giai cấp
bóc lột mà còn tạo ra những điều kiện cần thiết để xây dựng một chế độ xã
hội mới văn minh hơn, tốt đẹp hơn.

13



Cùng với giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức vốn xuất than từ nhiều
giai cấp, nhiều tầng lớp xã hội khác nhau, tuy họ không đại diện cho một
phương thức sản xuất nào , không phải là lực lượng chính trị độc lập trước
các giai cấp và tầng lớp xã hội khác, do đó họ không có hệ tư tưởng riêng.
Song đội ngũ trí thức dưới bất kỳ chế độ nào cũng có vai trò và vị trí rất
quan trọng trong quá trình xây dựng CNXH và CNCS, vì họ là một lực
lượng xã hội có trình độ học vấn cao, hiểu biết rộng, có tri thức khoa học
công nghệ. Chính vì thế chủ nghĩa Mac – Le6nin và tư tưởng Hồ Chí Minh
luôn đánh giá cao vai trò của tri thức trong tiến trình vận động của lịch sử
nhân loại. Coi liên minh giữa giai cấp công – nông – trí là hạt nhân nòng
cốt của khối đại đoàn kết dân tộc trong mặt trận dân tộc thống nhất – Nền
tảng xã hội của Nhà nước của chế độ XHCN.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam trong 70 năm qua cho thấy, nhờ nắm
vững quan điểm của Mac – Ăngghen – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
Đảng Cộng sản Việt Nam – Đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt
Nam luôn luôn quan tâm xây dựng, vun đắp cho khối đại đoàn kết toàn dân
trong mặt trân dân tộc thống nhất, trong đó lấy liên minh giai cấp công –
nông – trí làm nòng cốt. Sự liên minh chặt chẽ đó được gắn kết bởi đường
lối chính trị đúng đắn do Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra là tiến hành cách
mạng dân tộc, dân chủ tiến lên làm cách mạng XHCN. Như chủ tịch Hồ
Chí Minh đã viết: “Căn bản là giải phóng nông dân, nội dung cách mạng
dân tộc cũng là giải phóng nông dân. Bao giữ nông thôn, nông dân thật sự
nắm được chính quyền, nông dân được giải phóng mới là dân chủ thật sự”.
Bằng đường lối chính trị đúng đắn đó và hang loạt các chính sách đối với
nông nghiệp, nông thôn, nông dân, trí thức và các tầng lớp nhân dân yêu
nước khác, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tập họp xung quanh mình một lực
lượng hung hậu của cả dân tộc mà trong đó giai cấp công nhân, nông dân là
đội ngũ chủ lực để tiến hành cuộc Cách mạng tháng 8/1945 thành công, lật
đổ chế độ thực dân phong kiến lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

– Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Tiếp đến tiến
hành hai cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ đánh thắng đế quốc Pháp –
Mỹ để dành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên
CNXH.
Ngày nay sự nghiệp cách mạng của nước ta đã và đang chuyển qua
một thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
nhằm: “xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp, cơ sở vật chất
kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần
cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng
văn minh” (Văn kiện Đại hoi65VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB
CTQG Hà Nội).
Để thực hiện mục tiêu nhiệm vụ cách mạng to lớn, hơn lúc nào hết
chúng ta phải giương cao ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc, coi đó là đường lối
chiến lược cơ bản, lâu dài, là nguồn sức mạnh và động lực to lớn để xây

14


dựng và bảo vệ Tổ quốc (Dự thảo Văn kiện trình Đại hội IX). Chăm lo xây
dựng lực lượng liên minh công – nông – trí vững chắc.
Cần nhận thức được rằng sự liên minh giữa giai cấp công – nông –
trí trong thời ký cách mạng mới đã có một bước phát triển cao hơn so với
trước cả về nội dung và hình thức. Sự liên minh không chỉ về chính trị mà
còn là liên minh về kinh tế, một nội dung liên minh ngày càng có ý nghĩa
quan trọng hang đầu tạo ra những điều kiện vật chất để đảm bảo cho giai
cấp công – nông – trí và cả dân tộc ngày càng gắn bó chặt chẽ với nhau.
Trong thời kỳ phát triển mới của đất nước, đương nhiên sự liên minh giữa
các giai cấp về chính trị cũng rất cần thiết, nhằm củng cố và xây dựng
chính quyền cách mạng – chính quyền của dân, do dân và vì dân; chống

mọi âm mưu thủ đoạn phá hoại của các lực lượng thù địch, bảo vệ nền độc
lập và toàn vẹn lãnh thổ. Nhưng sự liên minh về kinh tế mới là chủ yếu,
ngay liên minh chính trị cũng cần được củng cố trên cơ sở kinh tế, bởi vì
như Lê- nin đã nói :”lúc này chính trị ngay trong kinh tế”.
Lê- nin còn chỉ ra cách mạng CNXH ở một nước mà số đông nhân
dân là nông dân thì chỉ có thể giành thắng lợi với điều kiện có sự thỏa
thuận về kinh tế giữa giai cấp công nhân và nông dân lao động. Theo Lênin, liên minh công – nông – trí cần được bảo đảm vững chắc về kinh tế,
không phải chỉ trên cơ sở tôn trọng quyền sử dụng ruộng đất của nông dân,
mà phải trên cơ sở mới. Đó là tạo điều kiện cho sản xuất công nghiệp và
nông nghiệp phát triển, thực hiện giao lưu sản phẩm hang hóa giữa thành
thị và nông thôn, đảm bảo đời sống của quần chúng công – nông – trí thức.
Do đó vai trò của thị trường, thương nghiệp, quan hệ hang hóa – tiền tệ,
giao thông vận tải trở nên cực kỳ quan trọng.
Liên hệ vào thực tiễn nước ta hiện nay, sự liên minh công – nông –
trí về kinh tế có nội dung và hình thức biểu hiện rất phong phú. Trước hết
giai cấp công nhân, nông dân, đội ngũ trí thức và toàn thể dân tộc phải tập
trung đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo
định hướng XHCN, đưa đất nước thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu. Tập trung
giải quyết tốt mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp là hai ngành
kinh tế cơ bản nhất của nến kinh tế quốc dân gắn liền với hai giai cấp cơ
bản của xã hội ta, đó là công nhân và nông dân. TRong mối quan hệ đó bản
than tái sản xuất xã hội đòi hỏi nông nghiệp phải phát triển theo yêu cầu
của công nghiệp, phục vụ công nghiệp và công nghiệp hóa, hiện đại hóa
XHCN. Nông dân làm nông nghiệp không phải chỉ vì nông nghiệp mà còn
vì công nghiệp hóa XHCN, không phải vì đời sống của riêng mình mà còn
vì đời sống của công nhân và toàn xã hội. Chính trên cơ sở ý thức được
điều đó mà trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa của nông dân dần dần được
nâng cao. Đồng thời trong mối quan hệ với nông nghiệp, bản thân tái sản
xuất xã hội cũng đòi hỏi công nghiệp phải tác động ngay từ đầu vào nông
nghiệp, phục vụ nông nghiệp, tự thể hiện từng bước nông nghiệp, có tác

dụng cải tạo nông nghiệp cả về tổ chức sản xuất, điều kiện sản xuất lẫn con
người sản xuất và qua đó thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Cũng chính trên
15


cơ sở ấy mà giai cấp công nhân thấy rõ được vai trò chủ đạo và trách nhiệm
lớn lao của mình trong mối quan hệ công nông. Đó là xu hướng phát triển
tất yếu của lực lượng sản xuất xã hội, trên cơ sở đó thể hiện xu hướng vận
động tất yếu của cơ cấu giai cấp – xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, một sự vận động theo chiều hướng đi dần đến sự
xích lại gần nhau giữa lao động công nghiệp với lao động nông nghiệp, lao
động chân tay với trí tuệ, giữa thành thị với nông thôn.
Song song với sự phát triển công nghiệp và nông nghiệp, Đảng và
Nhà nước ta còn phải xử lý hàng loạt vấn đề về mối quan hệ lợi ích giữa
Nhà nước và nông dân, giữa công nhân – nông dân, trí thức và các tầng lớp
khác, trong đó nổi lên một số vấn đề lớn như: giao quyền sử dụng ruộng đất
ổn định lâu dài cho nông dân để họ yên tâm đầu tư sản xuất; có chính sách
đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn; giải quyết vấn đề thu mua, chế biến
tiêu thụ sản phẩm cho nông dân, về giá cả nông sản; chính sách về thuế, tín
dụng, văn hóa, xã hội cho nông nghiệp, nông thôn…
Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề nông nghiệp, nông thôn,
nông dân, liên minh các cấp, trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã
có nhiều nỗ lực tập trung đầu tư cho nông nghiệp, coi công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ
đầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhờ vậy kinh tế nông nghiệp,
nông thôn nước ta trong 5 năm qua đã có một bước phát triển đáng kể: giá
trị sản lượng bình quân hàng năm tăng 5%, sản lượng lương thực đạt gần
34 triệu tấn, tăng bình quân hàng năm 1,3 triệu tấn, bình quân lương thực
đầu người đạt 435kg (năm 2000). Nhiều vùng sản xuất nông sản hàng hóa
tập trung gắn với công nghiệp chế biến bước đầu được hình thành, chăn

nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản phát triển, kim ngạch xuất khẩu hàng nông
– lâm – thủy sản đạt 4 tỷ USD, tăng 30%/năm, trong đó có 3 mặt hàng xuất
khẩu chiến lược là gạo (thứ 2 thế giới), cà phê (thứ 3 thế giới). Các mặt
hàng thủy sản đạt trên 1 tỷ USD; cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho nông
nghiệp, nông thôn như: thủy lợi, giao thông, điện, trường học, trạm y tế
được xây dựng thêm. Cuộc vận động xóa đói giảm nghèo đạt được những
thành tựu đáng kể, đời sống nông dân ngày càng được cải thiện.
Có thể nói rằng; mỗi một thành tựu nông nghiệp, nông thôn đạt được
trên đây là kết quả của đường lối chính trị đúng đắn của Đảng Cộng sản
Việt Nam và sự quản lý của Nhà nước; là công sức đóng góp của toàn dân
trong đó phải kể đến công sức của giai cấp công nhân ngày đêm sản xuất ra
nhiều máy móc, phân bón, thuốc trừ sâu, làm ra nhiều công trình thủy lợi,
đường giao thông,… phục vụ cho nông nghiệp, nông thôn, và cuối cùng đó
là sự phấn đấu bền bỉ của giai cấp nông dân trong cả nước.
Những thắng lợi to lớn đó đã động viên, cổ vũ giai cấp nông dân
phấn khởi tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sức mạnh của khối đại
đoàn kết dân tộc mà trong đó liên minh giữa giai cấp công nhân với nông
dân và đội ngũ trí thức nòng cốt.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta cần nhìn nhận một
cách thẳng thắn rằng: sự liên minh giữa giai cấp công nhân và nông dân, trí
16


thức trên lĩnh vực kinh tế hiện nay còn nhiều vấn đề tiếp tục nghiên cứu
giải quyết như: việc tiêu thụ nông sản, hàng hóa sản xuất ra không bán
được hoặc phải bán quá rẻ; giá cả hàng hóa lên xuống thất thường làm cho
sản xuất của nông dân thiếu sự ổn định, chênh lệch giữa giá cả hàng hóa
công nghiệp, dịch vụ với giá cả nông sản ngày càng tăng, đưa đến cho nông
dân nhiều bất lợi trong sản xuất kinh doanh. Việc xử lý quan hệ lợi ích giữa
nông dân sản xuất ở các vùng nguyên liệu tập trung với các xí nghiệp chế

biến nông sản như: mía đường, chè, gỗ, giấy và một số chính sách đối với
nông nghiệp, nông thôn, nông dân như đền bù đất đai, thuế, tín dụng, đầu
tư… cũng còn một số mặt chưa hợp lý. Việc cung ứng các loại vật tư như
giống cây trồng, vật nuôi, phân bón, thuốc trừ sâu, xăng dầu, máy móc cho
nông nghiệp cũng có lúc, có nơi chưa đảm bảo chất lượng, thời vụ, giá
cả… Về phía giai cấp công nhân cũng có một bộ phận chưa nhận thức rõ
được trách nhiệm của mình với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, có lúc, có nơi còn gây khó khăn trong việc giải phóng mặt bằng
để xây dựng các công trình giao thông, thủy lợi, điện hoặc các khu công
nghiệp. Chất lượng hàng hóa nông sản làm ra cũng chưa đảm bảo yêu cầu
của công nghiệp chế biến và xuất khẩu… Tất cả những tồn tại đó ảnh
hưởng đến sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ảnh hưởng đến khối
liên minh công – nông – trí thức trong thời kỳ phát triển mới của đất nước.
Vậy, có thể tóm gọn lại bốn phương hướng chính sau:
a.Tiếp tục củng cố, phát triển giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí
thức.
b.Từng bước phát triển, cụ thể hóa cơ chế dân chủ để giai cấp công nhân,
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức thể hiện được quyền dân chủ và làm
chủ trực tiếp của mình về mọi mặt trong đời sống xã hội.
c.Tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trước hết hướng vào
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn.
d.Đổi mới quan hệ giữa nhà nước và nông dân.
C/ THAY LỜI KẾT:

Cả về mặt lý luận và thực tiễn đều khẳng định rằng: liên minh giữa giai cấp
công nhân với nông dân và đội ngũ trí thức luôn luôn là vấn đề có tính
chiến lược của cách mạng, kể cả trong cách mạng dân tộc, dân chủ cũng
như cách mạng XHCN. Đó là lực lượng nòng cốt của khối đại đoàn kết
toàn dân trong mặt trận dân tộc thống nhất, nguồn sức mạnh và động lực to
lớn của sự nghiệp xây dựng Tổ quốc.

Nếu như trong cách mạng dân tộc, dân chủ nội dung liên minh công
– nông – trí thức về chính trị nhằm tập họp lực lượng đấu tranh giành chính
quyền, giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước thì trong cách mạng XHCN
với công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm thì nội dung kiên

17


minh về chính trị vẫn là đương nhiên, nhưng sự liên minh về kinh tế ngày
càng có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Tăng cường củng cố và xây dựng khối liên minh giữa GCCN với
GCND và đội ngũ trí thức vững chắc làm hạt nhân cho khối đại đoàn kết
dân tộc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đó là trách
nhiệm của Đảng và Nhà nước, của giai cấp, tầng lớp xã hội. Trong đó
GCCN và tổ chức công đoàn có vai trò và vị trí rất quan trọng.
Trước hết đòi hỏi giai cấp công nhân phải có sự giác ngộ đầy đủ về
vai trò và sứ mạng lịch sử của giai cấp trong sự nghiệp cách mạng của dân
tộc do Đảng lãnh đạo. Phải là lực lượng đi tiên phong trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đồng thời mà xây dựng, phát triển giai
cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng.
Giai cấp công nhân phải ra sức học tập, khoa học kỹ thuật, chuyên
môn nghiệp vụ, rèn luyện tay nghề và tác phong làm việc công nghiệp,
vươn lên làm chủ khoa học công nghệ hiện đại.
Phát huy vai trò làm chủ của giai cấp công nhân trên mọi lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng, làm chủ trong các
loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau: trong
doanh nghiệp Nhà nước, công nhân phải là người làm chủ doanh nghiệp, vì
thế phải làm việc tự giác, bảo đảm ngày công, giờ công với năng suất, chất
lượng, hiệu quả cao. Phấn đấu xây dựng doanh nghiệp không ngừng lớn
mạnh, phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Hàng năm

hoàn thành kế hoạch sản xuất kinh doanh, hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà
nước; bảo toàn và phát huy hiệu quả tiền vốn được Nhà nước giao cho
doanh nghiệp. Công nhân phải tích cực tham gia đấu tranh với các biểu
hiện tiêu cực như: tham ô, lãng phí, làm dối, làm ẩu, bảo vệ sản xuất, bảo
vệ tài sản của doanh nghiệp, bảo vệ trật tự trị an trong nhà máy, xí
nghiệp.Công nhân làm việc trong các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp
có vốn nước ngoài tuy vẫn còn là người làm thuê, nhưng là làm thuê trong
điều kiện lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, của dân, do dân và
vì dân. Do đó, trước hết về nhận thức người công nhân phải thấy rằng:
doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng là một
bộ phận hợp thành của nền kinh tế quốc dân. Các doanh nghiệp này hoạt
động có hiệu quả không những chủ doanh nghiệp có lợi mà Nhà nước và
công nhân cũng có lợi. Vì thế, công nhân làm việc ở đây phải thực hiện tốt
chính sách mặt trận, chính sách đại đoàn kết của Đảng và Nhà nước. Chấp
hành nghiêm chỉnh luật lao động và thỏa ước lao động đã ký kết. Đấu tranh
có tổ chức trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nước quy định nhằm yêu cầu
chủ doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh theo đúng pháp luật, bảo
vệ lợi ích chính đáng của người lao động, đồng thời tôm trọng lợi ích hợp
pháp của chủ doanh nghiệp.

18


GCCN có nhiệm vụ giúp đỡ, hỗ trợ GCND thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn bằng các việc làm cụ thể như: sản
xuất máy móc, thiết bị, phụ tùng để trang bị cho nông nghiệp. Cung cấp
điện, phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, vật nuôi cho nông dân đầu
tư, thâm canh sản xuất hàng hóa công nghiệp đạt chất lượng cao, giá rẻ,
bền cung cấp cho nông dân; tổ chức thu mua, chế biến, tiêu thụ sản phẩm
cho nông dân…

Phát huy vai trò nòng cốt của giai cấp công nhân trong khối liên
minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và trí thức, cũng như khối đại
đoàn kết dân tộc nhằm phát huy sức mạnh cả nước thực hiện thắng lợi
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước.
Đối với tổ chức công đoàn, phải chăm lo công tác giáo dục chính trị
tư tưởng trong công nhân, làm cho giai cấp công nhân hiểu rõ được vai trò
và địa vị lịch sử của giai cấp; hiểu được đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng và pháp luật Nhà nước.
Xây dựng tổ chức công đoàn ngày càng vững mạnh để công đoàn
thực sự là một tổ chức quần chúng rộng rãi, là trường học của chủ nghĩa
Cộng sản, tổ chức, tập họp, giáo dục, rèn luyện GCCN, bảo vệ quyền lợi
chính đáng cho người lao động.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công đoàn,trong các cơ quan và doanh
nghiệp Nhà nước phải phát huy tốt vai trò làm chủ của CB-CNVC trong
việc tham gia quản lý cơ quan,doanh nghiệp tham gia vào việc phân phối
sử dụng có hiệu quả quỹ phát triển sản xuất,quỹ phúc lợi,quỹ khen
thưởng.Công đoàn trong các doanh nghiệp tư nhân,doanh nghiệp có vôn
đầu tư nước ngoài có nhiệm vụ lãnh đạo công nhân và chủ doanh nghiệp
thực hiện tốt luật lao động và thỏa ước lao động đã ký kết,bảo vệ lợi ích
chính đáng của người lao động.
Công đoàn cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền,vận đông giai cấp
công nhân tham gia đấu tranh với các biểu hiện tiêu cực trong doanh
nghiệp cũng như ngoài xã hội:tham ô,lãng phí,buôn lậu,làm hàng giả,quan
liêu,cửa quyền.Tham gia xây dựng Đảng cả về chính trị,tư tưởng và tổ chức
để góp phần xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh.
Công đoàn lãnh đạo giai cấp công nhân làm tốt những vấn đề trên là
thiết thực góp phần xây dựng lực lượng liên minh công-nông-trí thức làm
nồng cốt cho khối đại đoàn kết dân tộc,là nhân tố quyế định thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.


19


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
-Gíao trình Lịch sử Dảng Cộng Sản Việt Nam – NXB Chính trị Quốc gia –
2004.
-20 năm đổi mới thực hiện tiến bộ công bằng xã hội và phát triển văn hóa –
NXB Chính trị Quốc gia – Nguyễn Khoa Điềm.
-Sức mạnh Nhân dân – NXB Chính trị Quốc gia – Hồng Hà.
-Quy luật Xã Hội với sự nghiệp xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội ở nước ta
hiện nay – NXB Chính trị Quốc gia.

20



×