Tiểu luận: Liên minh công-nông-trí ở Việt Nam
A/ LỜI MỞ ĐẦU
Sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, xây dựng CNXH và công cuộc đổi
mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã trải qua rất nhiều khó khăn, gian
khổ nhưng đã đạt được những thành tựu to lớn, rất quan trọng và vẻ vang. Một trong
những nhân tố quyết định thắng lợi của Cách mạng là liên minh công – nông – trí thức tạo
nên sức mạnh vô địch, là bản lĩnh, trí tuệ và sự dũng cảm phi thường của con người Việt
Nam.
Với một quá khứ hào hùng, oanh liệt của liên minh các tầng lớp giai cấp công – nông – trí
với những con người anh hùng đã góp mình vào công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước.
Vậy giờ đây một con người thuộc cái tầng lớp, giai cấp này họ đang phài sống trong thực
trạng như thế nào trong xã hội của nước ta hiện nay?
Tôi xin nói rõ vấn đề này và phương hướng cơ bản để xây dựng một liên minh công –
nông – trí vững mạnh để xây dựng đưa nước ta phát triển thành một nước công nghiệp hóa
– hiện đại hóa trên con đường quá độ lên CNXH ở nước ta.
B/ LIÊN MINH GIAI CẤP CÔNG NÔNG TRI THỨC TRONG XÃ HỘI Ở NƯỚC
TA HIỆN NAY
І. Thực trạng giai cấp công- nông- tri thức trong xã hội nước ta hiện nay
1. Giai cấp công nhân:
Giai cấp công nhân nước ta hiện nay có khoảng 4,53 triệu người, chiếm 6% dân số. Về cơ
cấu thành phần kinh tế, công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước từ chỗ là đại diện cho
toàn bộ giai cấp công nhân trongthời kỳ trước đổi mới nay chỉ giữ một số lượng và tỷ lệ
thấp hơn (1,83 triệu, chiếm 40,8%) so với công nhân của khu vực ngoài nhà nước (2,68
triệu chiếm 59,2%). Tỷ lệ công nhân nhà nước tỷ lệ nghịch với tốc độ và quy mô đổi mới
doanh nghiệp nhà nước đang diễn ra mạnh mẽ trong mấy năm gần đây dưới sức ép của nhu
cầu nâng cao hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh của kinh tế quốc tế. Hậu quả tất
yếu nhưng không mong muốn của tiến trình này là hiện có hơn 150000 người vốn là công
nhân nhà nước, nay thuộc diện dư dôi, thất nghiệp. Cơ cấu thành phần cuả công nhân hiện
nay rất phức tạp, có những người vừa làm cho Nhà nước vừa làm cho tư nhân hoặc mang
danh là công nhân nhưng lại sống bằng nghề phụ, kinh tế hộ cá thể.
Về cơ cấu ngành nghề, giai cấp công nhân nước ta thường làm việc trong những ngành
công nghiệp truyền thống: luyện kim, cơ khí, điện. Trong thời kỳ đổi mới, công nhân làm
trong các ngành dịch vụ (giao thông vận tải, bưu điện, viễn thông, ngân hàng...) đã tăng lên
nhanh cùng với tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đáng chú ý là đã xuất hiện
một bộ phận mới dù chiếm tỷ lệ nhỏ đó là công nhân tri thức, những người có tri thức vàkỹ
năng cao, tạo ra những sản phẩm dịch vụ có hàm lượng giá trịtăng cao như tư vấn, thiết kế,
quản lý chất lượng đồng bộ. Số công nhân có trình độ cao đẳng, đại học ở nước ta chiếm
trên 150000 người (khoảng 3,3%).
Xu hướng phát triển của bộ phận công nhân tri thức sẽ tăng nhanh cùng với mức độ phát
triển của kinh tế tri thức ở nước ta. Chính sự đa dạng, phức tạp về nguồn gốc, cơ cấu, sự
không đồng nhất về chất lượng và sự phân hoá, phân tầng trong nội bộ giai cấp, giữa các
bộ phận công nhân trong các ngành nghề và thành phần kinh tế, đã làm suy yếu tính thống
nhất, sức mạnh đoàn kết và địa vị xã hội của giai cấp công nhân hiện nay so với thời kỳ
trước đổi mới. Tuy vậy, sự xuất hiện và ngày càng lớn mạnh về số lượng và chất lượng của
bộ phận công nhân tri thức ở nước ta hiện nay là một trong những yếu tố cơ bản tiếp tục
đảm bảo cho sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam trong giai đoạn phát triển
hiện nay.
Về kinh tế, ngoài bộ phận nhỏ công nhân trí thức có thu nhập cao, bộ phận công nhân trong
các doanh nghiệp nhà nước ở một số lĩnh vực có tính độc quyền, có mức thu nhập khá, còn
lại phần lớn công nhân nước ta có mức thu nhập rất thấp.
Về chính trị và uy tín xã hội, công nhân chưa có địa vị bằng tầng lớp tri thức, tầng lớp công
chức, viên chức. Ngay trong các doanh nghiệp nhà nước, quyền lực và vai trò của công
nhân còn bị hạn chế. Trong các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghệp có vốn đầu tư nước
ngoài, tổ chức Đảng và các tổ chức quần chúng thiếu hụt hoặc bị hạn chế hoạt động , công
nhân thường bị giới chủ chèn ép, quản lý chặt chẽ; họ có rất ít khả năng đấu tranh với các
ông chủ dù chỉ nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.
Trình độ học vấn và văn hoá của công nhân tuy cao hơn nông dân nhưng lại bị thiệt thòi
hơn so với nhiều tầng lớp khác trong xã hội. Do bộ phận công nhân nhà nước thường phải
làm thêm nghề phụ để tăng thu nhập nên tác phong công nghệp chưa cao. Công nhân trong
khu vực kinh tế tư nhân, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có kỷ luật cao hơn song thường
phải tăng ca, làm thêm giờ để kiếm sống nên ít có thời gian và điều kiện để học tập, phát
triển bản thân. Ý thức giai cấp, ý thức Đảng trong bộ phận công nhân này nói chung thấp.
Công nhân tri thức cũng có xu hướng chịu làm thuê đến khi đủ mạnh để tách ra lập tổ chức
kinh doanh của mình để trở thành ông chủ, thầy hay chuyên gia độc lập. Trong khi nhiều
trí thức, tiểu tư sản trải qua sự rèn luyện và công tác mà có bản chất giai cấp công nhân thì
nhiều người xuất thân từ công nhân khi được đề bạt lên lãnh đạo, quản lý lại để mai một
bảnchất giai cấp của mình. Làm công nhân không phải là mơ ước và sự tự lựa chọn không
chỉ đối với những thanh niên trẻ mà còn đối với những người đang trong nghề. Tỷ lệ giai
cấp công nhân trong các cấp uỷ, nhất là cấp cao, cấp Trung ương thường không đạt như
mong muốn và kế hoạch phấn đấu chủ yếu là do chưa đáp ứng được các yêu cầu, tiêu
chuẩn của cán bộ lãnh đạo thời kỳđổi mới của Đảng.
Nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ gây nên sự biến động thường xuyên,
ngày càng đa dạng, phức tạp, không thuần nhấtvề số lượng, chất lượng của giai cấp công
nhân Việt Nam. Điều đó được thể hiện tập trung trên các phương diện sau:
-Sự giảm sút nhanh chóng về số lượng công nhân trong khu vực kinh tế nhà nước, kinh tế
tập thể; sự tăng lên nhanh của đội ngũ công nhân khu vực kinh tế tư nhân, tư bản nhà nước
và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
-Sự đa dạng, phức tạp, không thuần nhất và phân hoá, phân tầng trong nội bộ giai cấp, giữa
các bộ phận công nhân, đội ngũ trí thức trong các ngành nghề, các tổ chức xã hội nghề
nghiệp và thành phần kinh tế.
-Phản ánh sự đa dạng, đan xen, hỗn hợp của các thành phần kinh tế nhất định nào đó, mà
họ có thể hiện diện ở hai hoặc vài thành phần kinh tế: họ vừa là công nhân trong khu vực
kinh tế nhà nước, vừa làm việc ở khu vực kinh tế tập thể, cá thể, tư nhân, hộ gia đình, vv..
Có thể họ vừa là công nhân, vừa không phải là công nhân khi họ sống bằng nghề phụ (tăng
gia, chăn nuôi, thủ công, buôn bán...), hoặc bằng thu nhập khác là chủ yếu, họ có vốn cổ
phần ở một mức độ nào đó trong xí nghiệp, nhà máy, công ty,...
-Sự mất cân đối về cơ cấu đội ngũ công nhân giữa các thành phần, ngành kinh tế, trên các
địa bàn dân cư, giữa số lượng và chất lượng. Nhìn chung, cơ cấu giai cấp công nhân chưa
cân đối và đồng bộ. Các ngành công nghiệp nặng còn chiếm tỷ lệ thấp, trong khi đó các
ngành công nghiệp nhẹ, chế biến thực phẩm chiếm tới 40%. Bộ phận công nhân nông
nghiệp còn quá ít.
-Sự già hoá, đứt đoạn và giảm đi của đội ngũ công nhân lâu năm, nhiều đời, công nhân
lành nghề, thợ bậc cao, thợ giỏi trong những năm gần đây, nhất là ở bộ phận công nhân
trong khu vực kinh tế nhà nước; sự trẻ hoá của đội ngũ công nhân ở khu vực kinh tế tư
nhân, có vốn đầu tư nước ngoài.
Tình hình phát triển về số lượng, cơ cấu đa dạng, phức tạp, không thuần nhất, thường
xuyên biến động như trên, đã và đang dẫn đến một thực trạng về chất lượng giai cấp công
nhân: đang có sự yếu kém về nhiều mặt và sự phân hoá, không thuần nhất giữa các bộ phận
của đội ngũ công nhân Việt Nam hiện nay. Thực trạng này được phản ánh trên các bình
diện sau:
-Trình độ văn hoá, tay nghề thấp và không đồng dều, mất cân đối giữa các bộ phận công
nhân. Trình độ kỹ thuật, kiến thức quản lý kinh tế, khả năng nghề nghiệp của công nhân
còn thấp so với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
-Bộ phận công nhân xuất thân từ nông thôn chiếm đại đa số trong giai cấp công nhân. Họ
mang theo lối suy nghĩ, tầm nhìn của người nông dân, quan hệ xã hội và cả lối sống nông
thôn vào trong giai cấp công nhân. Những nhược điểm đó kéo dài cả thập kỷ, thậm chí có
phần phát triển dưới chế độ bao cấp và cơ chế kinh tế kế hoạch tập trung. Người công nhân
Việt Nam chưa được rèn luyện nhiều trong nền kinh tế công nghiệp và quan hệ cạnh tranh,
phát huy tính sáng tạo cá nhân và tập thể trong môi trường công nghiệp và thị trường còn
hạn chế. Điều đó ảnh hưởng rất nhiều đến tư duy kinh tế, phong cách làm việc, phong cách
quản lý của người công nhân.
-Vấn đề lớn nhất nổi lên trong các năm qua là, giai cấp công nhân chưa thể đóng vai trò
chủ đạo trong đời sống xã hội, nhất là trong sản xuất, kinh doanh, phân phối. Một phần, vì
người công nhân chưa có thói quen và năng lực làm chủ, nhiều cơ quan lãnh đạo, quản lý
trong các nhà máy, xí nghiệp và ngoài xã hội chưa tôn trọng quyền làm chủ của giai cấp
công nhân. Thậm chí, có nơi quyền dân chủ của công nhân còn bị vi phạm nghiêm trọng.
Đây là mặt yếu rất đặc trưng của giai cấp công nhân ở những nước chưa có công nghiệp
hiện đại. Tình hình làm việc ngày một căng thẳng, lương không đủ sống, người công nhân
phải vật lộn với cuộc sống hàng ngày, phải xoay xở bằng mọi cách để tồn tại; khi
ngườicông nhân chưa làm chủ được bản thân mình thì khó có thể làm chủ được nhà máy,
xí nghiệp và xã hội. Công nhân nước ta chưa được tôi luyện bao nhiêu trong môi trường
kinh tế, khoa học công nghệ và cạnh tranh. Vai trò của giai cấp công nhân trong phát triển
kinh tế, văn hoá, xã hội còn chưa đạt được mức độ cần có của nó.
-Một bộ phận trong giai cấp chưa có trình độ chính trị, phẩm chất giai cấp giảm, kỷ luật lao
động, tác phong công nghiệp kém.
-Một bộ phận công nhân bị thoái hoá và tha hoá nghiêm trọng về lao động, phẩm chất giai
cấp và lối sống.
Trong những năm tới, sự biến động cơ cấu giai cấp của công nhân Việt Nam sẽ diễn ra
theo những xu hướng: ngày càng đa dạng hoá, phức tạp về cơ cấu và không thuần nhất.
Trong những năm đầu, xu hướng trên diễn ra mạnh mẽ với tốc độ nhanh. Công nhân có
mặt trong tất cả các thành phần kinh tế. Xu hướng tăng lên nhanh của bộ phận công nhân
trong khu vực kinh tế tư nhân, tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài; bộ
phận công nhân trong khu vực kinh tế nhà nước giảm đi một cách tương đối. Sự phân hoá
về thu nhập, phân hoá giàu nghèo, phân hoá về mức sống, lối sống, ý thức giai cấp, trình
độ chính trị, tư tưởng sẽ diễn ra mạnh mẽ và sâu sắc. Trình độ văn hoá, học vấn, tay nghề,
trẻ hoá về tuổi đời, tuổi nghề có xu hướng ngày càng tăng, ngày càng được trí thức hoá. Xu
hướng phi tập trung hoá công nhân trong các nhà máy, xí nghiệp có quy mô lớn, số lượng
công nhân đông; đội ngũ công nhân - trí thức hoá ngày càng tăng và điều này đã chứng
minh hùng hồn và đang hiện thực hoá cho luận điểm rất đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: trí thức hoá công nhân. Xu hướng luân chuyển nghề nghiệp nhiều lần và một bộ
phận công nhân lao động ra khỏi dây chuyền sản xuất sẽ diễn ra thường xuyên với tốc độ
nhanh. Xu hướng phát triển đa dạng hoá ngành nghề đi đôi với chuyên môn hoá cao trong
công nhân. Sự phân tầng xã hội, tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm, mâu thuẫn về lợi ích
ngay trong nội bộ giai cấp công nhân sẽ tăng lên. Quan hệ chủ - thợ trong các cơ sở sản
xuất phức tạp hơn; đình công, bãi công sẽ còn diễn ra với mức độ gay gắt, quyết liệt hơn.
Vì vậy, cần có nhận thức đầy đủ, toàn diện những xu hướng đó để có những giải pháp
trước mắt và lâu dài nhằm xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam từng bước trưởng thành,
phát triển, thể hiện rõ và phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần.
Giai cấp công nhân Việt Nam lãnh đạo cách mạng thông qua Đảng tiên phong của nó là
Đảng Cộng sản Việt Nam. Khi nói giai cấp công nhân lãnh đạo là nói đến toàn bộ giai cấp
như một chỉnh thể chứ không phải từng nhóm, từng người cá biệt. Xét về thành phần xuất
thân, ở nước ta có nhiều Đảng viên không phải là công nhân. Nhưng bất cứ đảng viên nào
cũng phải đứng trên lập trường giai cấp công nhân thể hiện ở lý tưởng, ở lý luận Mác -
Lênin và đường lối cách mạng, ở tinh thần kiên quyết cách mạng trong cuộc đấu tranh để
thực hiện sứ mệnh của giai cấp công nhân vì lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân
lao động và cả dân tộc.
Trong giai đoạn xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đội ngũ công nhân hình
thành một giai cấp công nhân thống nhất đại diện cho sản xuất tiên tiến, thông qua Đảng
Cộng sản Việt Nam được trang bị bằng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Họ là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là cơ sở xã hội chủ
yếu nhất của Đảng và Nhà nước, là hạt nhân vững chắc trong liên minh công nhân - nông
dân - trí thức, nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc.
Chúng ta không phủ nhận những nhược điểm của giai cấp công nhân Việt Nam (như số
lượng còn ít, chưa được rèn luyện nhiều trong công nghiệp hiện đại, trình độ văn hoá và
tay nghề còn thấp...) mà nguồn gốc sâu xa là ở trình độ phát triển kinh tế chưa cao ở nước
ta trong thời kỳ quá độ. Nhưng điều đó không thể là lý do để phủ nhận sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhânViệt Nam. Để khắc phục những nhược điểm ấy, Nghị quyết hội nghị lần
thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá VII của Đảng, gắn trực tiếp vấn đề công nghiệp
hoá, hiện đại hoá với vấn đề xây dựng, phát triển giai cấp công nhân đã chỉ rõ phương
hướng xây dựng giai cấp công nhân nước ta trong giai đoạn hiện nay là: “ Cùng với quá
trình phát triển công nghiệp và công nghệ theo xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, cần xây dựng giai cấp công nhân phát triển về số lượng, giác ngộ về giai cấp, vững
vàng về chính trị, tư tưởng, có trình độ học vấn và tay nghề cao, có năng lực tiếp thu và
sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, vươn lên làm
tròn sứ mệnh lịch sử của mình”.
Công cuộc đổi mới đem lại những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng. Giai cấp công
nhân đang đi đầu trong việc xây dựng xã hội mới, nhất là trong việc xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội nhằm thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ văn minh. Hơn lúc nào hết, giai cấp công nhân Việt Nam cần phải vươn lên
để xứng đáng là lực lượng trụ cột của liên minh công - nông - trí, của khối đại đoàn kết dân
tộc. Phương hướng củng cố, phát triển công nhân Việt Nam trong sư nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá mộtlần nữa đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
Cộng sản Việt Nam đặc biệt chú trọng. Đại hội chỉ rõ: “Đối với giai cấp công nhân, coi
trọng phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ
học vấn và nghề nghiệp, thực hiện “trí thức hoá công nhân”, nâng cao năng lực ứng dụng
và sáng tạo công nghệ mới, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao, xứng đáng là lực lượng
đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước...”
2. Giai cấp nông dân:
Tiến trình công nhiệp hoá, hiện đại hoá đất nước chủ yếu làm giảm tỷ lệ giai cấp nông dân
trong xã hội, số lượng nông dân giảm đi, số hộ và lao động thuần nông giảm, tỷ lệ nông
dân tập thể giảm đi rất nhiều. Kết cấu giai cấp nông dân trở nên phức tạp, gồm nhiều bộ
phận, nhiều tầng lớp, nhiều nhóm. Sự phân tầng, phân hoá giàu nghèo phát triển nhanh
trong nội bộ giai cấp nông dân, giữa các địa phương, vùng, miền khác nhau, phụ thuộc vào
mức độ tri thức và kỹ năng, khả năng tiếp cận các nguồn lực, mức độ phát triển của thị
trường và sự giúp đỡ của chính quyền đối với người nông dân. Nói cách khác, sự giàu có
phát triển của nông dân phụ thuộc vào sự liên kết giữa Nhà nước, nhà nông, nhà khoa học,
nhà doanh nghiệp. Cái mới trong nông dân so với thời kỳ trước đổi mới là sự xuất hiện của
các chủ trang trại.
Tình trạng một bộ phận nông dân rời khỏi đất canh tác, bỏ nghề truyền thống trong khi có
ít cơ hội để chuyển sang những nghề phi nông nghiệp, và trở thành giai cấp khác. Nhiều
nông dân giàu xổi nhờ bán đất ở khu vực đô thị hoá nhưng sau đó lại rơi vào tình trạng
nghèo đói. Đặc biệt cần lưu ý là những bấtổn về xã hội và an ninh nước ta mấy năm gần
đây đều xảy ra ở khu vực nông thôn. Nguyên nhân cơ bản của tình trạng này là sự yếu
kém, xa dân của đội ngũ cán bộ và hệ thống chính trị cơ sở. Tình trạng này sẽ giảm đi sức
mạnhcủa giai cấp nông dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Thực trạng diễn ra là, cơ cấu giai cấp nông dân sẽ đa dạng, phức tạp và hình thành một bộ
phận công nhân nông nghiệp, phong cách lao động của người sản xuất nhỏ giảm dần. Đội
ngũ những người lao động thủ công nghiệp, dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ sinh hoạt và lưu
thông tăng lên. Đặc biệt là, một bộ phận nông dân lao động mang tính chất trí thức xuất
hiện ngày càng nhiều, do đó, tính chất nông dân thuần tuý ngày càng giảm đi. Tính chất
nông dân - công nhân, nông dân - trí thức, nông dân - tiểu thương, nông dân - thợ thủ
công,... Sự phân tầng, phân hoá giàu nghèo phát triển nhanh. Đội ngũ những người nông
dân chuyên đi làm thuê, bán sức lao động xuất hiện và phát triển. Bộ phận nông dân tập thể
dưới những hình thức hợp tác mới sẽ từng bước được hình thành và phát triển. “Trung
nông” sẽ là nhân vật trung tâm trong giai cấp nông dân, trong nông thôn. Các bộ phận
trong giai cấp nông dân gồm: chủ trang trại, nông dân sản xuất cá thể, nông dân làm thuê,
xã viên của các hợp tác xã kiểu mới. Đồng thời cũng có sự xuất hiện vai trò kép của nhiều
người là công chức nhưng mua ruộng làm chủ trang trại nên họ vừa làm công chức, trí thức
vừa làm chủ trang trại.
3. Tầng lớp trí thức:
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi
hỏi ngày càng nhiều về tri thức khoa học, công nghệ và năng lực sáng tạo, kinh doanh. Trí
thức là tầng lớp - lực lượng có ưu thế về các ngồn năng lực trên.
Với khoảng 3 triệu người có trình độ đại học, cao đẳng và 30 ngàn thạc sĩ, tiến sĩ, nước ta
có nguồn nhân lực trí thức chiếm tỷ lệ khá cao so với các nước đang phát triển. Địa vị xã
hội của tầng lớp tri thức được tăng cường và tăng tiến ổn định trong suốt thời kỳ đổi mới.
Tuy nhiên, đội ngũ trí thức hiện nay cũng có sự phân hoá. Về chính trị, trí thức chiếm một
tỷ lệ lớn trong đội ngũ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị, nhất là ở cấp tỉnh - thành
và Trung ương. Về văn hoá, trình độ học vấn, chất lượng của đội ngũ trí thức chưa tương
xứng với số lượng, có hiện tượng mua bằng cấp để “chạy chức, chạy quyền” ; các gia đình
khá giả thì chạy đua cho con em du học nước ngoài, xuất hiện nguy cơ một bộ phận trí
thức mất gốc, trọng ngoại, giảm sút ý thức dân tộc.
Nhìn chung, đội ngũ trí thức nước ta có truyền thống yêu nước,có tinh thần đoàn kết dân
tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Truyền thống đó sẽ được tiếp tục phát huy trong thời kỳ
mới nếu chúng ta giải quyết được những vấn đề nổi cộm phát sinh.
Trong tầng lớp trí thức đang diễn ra quá trình biến đổi nhanh chóng về cơ cấu, lượng và
chất; phong phú về cơ cấu nghề; đa dạng về nguồn đào tạo, về thành phần xã hội - giai cấp
xuất thân; sự phân hoá về thu nhập, phân hoá giàu nghèo, phân tầng, phân hoá về lối sống,
về quan điểm tư tưởng,... Đi liền với vấn đề đó là sự nảy sinh và tất yếu nảy sinh tính chất
phức tạp trong tầng lớp trí thức về cơ cấu xã hội, về ý thức, quan điểm chính trị. Một số trí
thức đồng thời là những doanh nghiệp năng động, những chủ trang trại, đa phần trí thức là
người trung lưu . Số đông trí thức yêu nước, tán thành lý tưởng chủ nghĩa xã hội.
Công chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước, đoàn thể, quân nhân chuyên nghiệp
trong các lực lượng vũ trang. Công chức là những người làm trong các cơ quan hành chính
nhà nước , trong các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội; còn viên chức là những người có
cả trong các cơ quan nhà nước và trong các cơ quan sự nghiệp, quân nhân chuyên nghiệp
trong quân đội và cơ quan. Theo sự phát triển của nền kinh tế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và theo sự vận hành của cơ chế thị trường thì các đơn vị sự nghiệp
ngày càng tăng lên, do vậy lực lượng viên chức ngày càng phát triển đông đảo. Càng ngày,
lực lượng công chức, viên chức, quân nhân chuyên nghiệp càng được bảo đảm một cuộc
sống ở mức trung lưu. Tuy có hoặc không tham gia (cả trực tiếp và gián tiếp) vào các hoạt
động kinh doanh, song với mức sống trung lưu và chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong dân cư
(1 đến 2 triệu người) và hoạt động ở những khâu quan trọng của các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, văn hoá, xã hội... của đất nước nên nhóm xã hội này đóng một vai trò đáng kể vào các
quá trình phát triển của đất nước.
Bản thân nhóm xã hội này cũng có sự phân hoá nhanh chóng và mạnh mẽ khác nhau. Cần
lưu ý rằng tuy không có địa vị và quyền lực xã hội cao nhưng họ thường trực tiếp phụ trách
những khâu quan trọng, nên nếu bị lợi dụng, họ sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra những
hậu quả khôn lường. Dó đó, bên cạnh việc tăng cường giáo dục ý thức trách nhiệm còn
phải quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của họ.
II. Liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và tri thức trong quá trình xây
dựng CNXH ở Việt Nam
1.Đặc điểm của giai cấp công - nông - trí thức ở Việt Nam:
-Giai cấp công nhân Việt Nam có đầy đủ những yếu tố của giai cấp công nhân hiện đại và
còn có những đặc điểm riêng của mình. Đó là do ra đời trước giai cấp tư sản Việt Nam nên
giai cấp công nhân Việt Nam có điều kiện sớm giữ vai trò lãnh đạo và giành ưu thế ngay từ
khi có Đảng của mình. Hơn nữa, sự gắn bó giữa công nhân và nông dân đã hình thành một
cách tự nhiên, phần lớn xuất thân từ nông dân nên giai cấp công nhân Việt Nam đã mang
sẵn trong mình mối liên minh với nông dân và luôn giữ được vai trò lãnh đạo trong quá
trình cách mạng Việt Nam. Ngày nay, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
thôn, sẽ có nhiều người nông dân vào làm việc ở các cơ sở công nghiệp và trở thành công
nhân ở ngay chính quê hương mình. Điều này càng tạo cho sự gắn bó của giai cấp công
nhân với nông dân, nông thôn một cách tự nhiên trên nhiều mặt của đời sống xã hội.
-Giai cấp nông nhân là giai cấp của những người lao động sản xuất vật chất trong nông
nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp... trực tiếp sử dụng một tư liệu sản xuất cơ bản và đặc thù,
gắn với thiên nhiên là đất, rừng, biển để sản xuất ra nông sản. Nông dân có phương thức