Tải bản đầy đủ (.doc) (124 trang)

Tài liệu full về kiểm toán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (725.78 KB, 124 trang )

Chương 1. TỔNG QUAN VỀ KIỂM TOÁN
1.1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA KIỂM TOÁN
1.1.1 Trên thế giới
Trước
Thế kỷ 18
Thế kỷ 20
Công nguyên
Nghe và chấp nhận
Ra đời
Khủng hoảng kinh tế
Kiểm toán cổ điển Kiểm toán đôc lập Kiểm toán nội bộ

Năm 1991

VACO thành lập

Mỹ
:
Phá 45.00
Tru p: 24 c 0 hãng
Việ ng Qu ông ty kiểm

cấp t Nam c: có kiểm toán
kho
toá
dịch : có
vụ khoả ản> 6 n với h
kiểm ng
00
ơn
toán 139 c công 10.0


00
ông
ty
KT
ty đ

ủđ
L
iều
kiện
cun
g

Theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu lịch sử, kiểm toán ra đời vào khoảng
thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, gắn liền với nền văn minh Ai Cập và La mã Cổ
đại. Ở giai đoạn này, kiểm toán chỉ mới ở mức độ sơ khai, đơn giản, thường được
gọi là kiểm toán cổ điển.
Willard Stone đã viết trong cuốn sách Kiểm tra kế toán (Accounting Review)
về những hoạt động trong Bộ phận tài chính trung tâm Triều đại của những nhà vua
Pharaoh ở thời kỳ Ai cập cổ như sau: “một người ghi chép thuê (Scribe) mô tả trên
giấy cói về số lượng bạc, ngô và những nhu yếu phẩm khác đã mua trong nhà kho,
trong khi một người khác đã kiểm tra sự trống rỗng của các thùng đựng hàng khi
mà nguyên liệu đã được chuyển vào nhà kho”. Sau đó, người thứ ba sẽ thực hiện so
sánh giữa hai ghi chép ở trên – đây chính là hoạt động kiểm toán. Ngoài ra, những
ghi chép về các hóa đơn, chứng từ thanh toán và số dư hàng tồn kho do một người
ghi chép thuê chịu trách nhiệm bảo quản. Sau đó những tài liệu này sẽ được một
người cấp cao hơn anh ta tiến hành kiểm tra lại (định kỳ) hoặc do một người khác
thực hiện.
Trong nền văn minh Ba Tư (Persian Civilization) những quan chức ghi chép
của Nhà nước thường được coi là “tai mắt của nhà vua” đã thực hiện các cuộc kiểm

toán bất thường đối với Sở thương mại các tỉnh. Những kiểm toán viên nhà nước
này được trang bị đủ quyền lực để kiểm tra tất cả các ghi chép, thẩm vấn các Tỉnh
trưởng (quản lý dân sự và thu thuế) và Thư ký hoàng gia trong trường hợp cần thiết.
Khi phát hiện sai sót, kiểm toán viên có thể thực hiện sửa chữa.
1


Ở thời kỳ Đế chế Roman, hoạt động kiểm tra tương tự đã được thực hiện
định kỳ. Biểu hiện của hoạt động này là kiểm tra các báo cáo (số liệu kế toán) về
công quỹ do các cá nhân quản lý công quỹ lập. Báo cáo này sau khi được kiểm tra
sẽ được công bố cho nhà vua và các quan chức trong một buổi họp. Thuật ngữ
“Audit” – “nghe” xuất phát từ đó.
Sau khi Đế chế Romam sụp đổ, những thương gia nước Ý đã sử dụng các
kiểm toán viên để giúp họ kiểm tra tài liệu ghi chép của thuyển trưởng sau mỗi
chuyến buôn kết thúc. Ở giai đoạn này, lần đầu tiên kiểm toán được thiết kế để kiểm
tra tính trung thực của những cá nhân và trách nhiệm của họ.
Vào thế kỷ 18, thời kỳ cách mạng công nghiệp bùng nổ ở Châu Âu, xuất hiện
nhiều thành phần kinh tế, kéo theo sự ra đời nhiều loại hình doanh nghiệp khác
nhau. Cùng với sự phát triển của thị trường, sự tích tụ, tập trung tư bản đã làm cho
sự phát triển của các doanh nghiệp và các tập đoàn ngày càng mở rộng. Sự tách rời
giữa quyền sở hữu của ông chủ và người quản lý, người làm công ngày càng xa, đã
đặt ra cho các ông chủ một cách thức kiểm soát mới. Phải dựa vào sự kiểm tra của
những người chuyên nghiệp hay những kiểm toán viên bên ngoài.
Cùng với sự tách biệt quyền sở hữu với quyền sử dụng tài sản, trên bình diện
xã hội, giữa các chủ thể kinh tế hình thành và phát triển sự liên hệ, rằng buộc, chi
phối lẫn nhau. Tình hình và kết quả hoạt động của một chủ thể có ảnh hưởng đến
nhiều chủ thể và các bên khác có liên quan. Khi đó, báo cáo tài chính hàng năm do
đơn vị lập ra trở thành đối tượng quan tâm của các bên có liên quan. Các nhà đầu tư
quan tâm đến sự sinh lợi của đồng vốn đã bỏ ra; các cổ đông quan tâm đếm mức cổ
tức đạt được; nhà cung cấp quan tâm đến khả năng thu hồi tiền hàng; nhà nước quan

tâm đến sự phát triển của đơn vị và nghĩa vụ thuế…mỗi bên liên quan quan tâm ở
một góc độ khác nhau nhưng đều cần nhận được báo cáo tài chính có độ tin cậy –
tức là đòi hỏi báo cáo tài chính phải được sự thẩm định của một bên thứ ba độc lập,
có trình độ chuyên môn, có uy tín nghề nghiệp và có trách nhiệm pháp lý. Kiểm
toán độc lập ra đời đáp ứng nhu cầu đó.
Vào những năm 30 của thế kỷ 20, từ việc phá sản của hàng loạt các tổ chức
tài chính và sự khủng hoảng kinh tế trên thế giới đã bộc lộ rõ những hạn chế của
kiểm tra kế toán - sự kiểm tra trên cùng một hệ thống. Chính từ đây, việc kiểm tra
kế toán buộc phải được chuyển sang một giai đoạn mới, yêu cầu kiểm tra kế toán
một cách độc lập đã được đặt ra. Trong các tổ chức kinh doanh, các doanh nghiệp
đã bắt đầu xuất hiện và phát triển chức năng kiểm tra một cách độc lập trong nội bộ
với tên gọi là kiểm toán nội bộ, cụ thể:
Tại Mỹ, năm 1941 viện kiểm toán nội bộ Hoa kỳ (IIA) được thành lập và đi
vào hoạt động. Đây là cơ sở cho sự phát triển của các khái niệm và hoạt động thực
2


hành của kiểm toán viên nội bộ. Đến năm 1970, IIA bắt đầu việc đào tạo và cấp
chứng chỉ kiểm toán viên nội bộ (CIA). Và đến năm 1978, IIA ban hành chuẩn mực
thực hành cho kiểm toán nội bộ đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong
kiểm toán nội bộ. Cho đến nay, IIA có trên 150000 hội viên tại 165 quốc gia, trong
đó có khoảng 65000 hội viên có chứng chỉ kiểm toán viên nội bộ.
Tại Pháp, kiểm toán nội bộ Pháp cũng đã được hình thành chính thức vào
những năm 60 thế kỷ 20 ở những công ty con thuộc tập đoàn ngoại quốc. Tiếp đó các
công ty khác (đặc biệt là trong ngân hàng với Vụ Tổng Thanh tra) cũng định ra những
chức năng tương tự. Đồng thời việc du nhập kiểm toán nội bộ vẫn tiếp tục phát triển
cùng với sự phát triển tầm cỡ của các công ty và do mong muốn duy trì sự ổn định và
tăng hiệu quả của các công ty, đến năm 1965 đã thành lập Hội Kiểm toán viên nội bộ
của Pháp sau đó trở thành Viện nghiên cứu của kiểm toán viên nội bộ của Pháp
(IFACI) vào năm 1973.

Năm 1990, Luật kiểm toán đầu tiên ra đời. Sau đó kiểm toán phát triển nhanh
chóng, nhiều công ty kiểm toán xuyên quốc gia xuất hiện. Mỹ 45.000 hãng kiểm
toán, Pháp 24 công ty kiểm toán với khoảng hơn10.000 kiểm toán viên. Trung
Quốc, công ty đầu tiên ra đời năm 1983, đến nay có khoảng hơn 600 công ty, mức
phí bình quân 50USD/giờ.
Tóm lại, trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau, kiểm toán có sự thay
đổi trong các mục tiêu và thủ tục kiểm toán. Tuy nhiên, sự thay đổi này không hề
mâu thuẫn nhau mà chúng thể hiện sự phát triển trong cả nhận thức, lý luận và thực
tiễn kiểm toán. Thật vậy, có thể minh chứng cho nhận xét này bởi những điểm sau:
- Về quy trình và phương pháp kỹ thuật kiểm toán cũng có nhiều sự thay đổi
và phát triển: từ việc kiểm toán cổ điển theo chủ quan sang xây dựng thành quy
trình kiểm toán chặt chẽ; từ việc kiểm toán toàn diện chuyển sang kiểm toán chọn
mẫu và bây giờ là kiểm toán dựa trên rủi ro, từ việc kiểm toán toàn bộ số liệu đã
biết dựa vào hệ thống kiểm soát nội bộ để thực hiện kiểm toán và đánh giá ảnh
hưởng của nó đến khối lượng công việc kiểm toán và áp dụng phương pháp kiểm
toán cụ thể; từ sự xét đoán cảm tính chủ quan sang xét đoán nghề nghiệp, khách
quan; từ việc sử dụng bằng chứng có giá trị pháp lý sang sử dụng bằng chứng có sự
thuyết phục; từ việc kiếm toán trong chứng từ đến kiểm toán ngoài chứng từ; từ sổ
kế toán đến thực tế hoạt động của đơn vị; từ kiểm toán trong nội bộ đơn vị đến kiểm
toán ngoài đơn vị có liên quan; từ việc kiểm toán thủ công đến kiểm toán trong điều
kiện áp dụng máy vi tính khi kế toán đã thực hiện trong môi trường tin học.
- Về phạm vi kiểm toán cũng được mở rộng từ việc lấy trọng tâm của kiểm
toán là các báo cáo tài chính chuyển dần sang lấy trọng tâm là kiểm toán hoạt động
nhằm đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả hoạt động; chức năng kiểm toán cũng chuyền

3


dần từ tập trung kiểm tra xác nhận chuyển dần sang tập trung vào tư vấn trình bày ý
kiến trong tương lai.

1.1.2. Ở Việt Nam
Trước 1975, ở miền Nam nước ta đã có hoạt động kiểm toán của các công ty
kiểm toán độc lập dưới chế độ Việt Nam cộng hòa thời Mỹ Diệm.
Sau khi nước ta chuyển đổi cơ chế quản lý (năm 1986) từ kế hoạch hóa tập
trung sang cơ chế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, chủ chương đa
dạng hóa các loại hình sở hữu và đa phương hóa đầu tư đã đặt ra những đòi hỏi cấp
thiết về kiểm toán độc lập. Trước đòi hỏi đó, ngày 31/05/1991, theo giấy phép số
957/PPLT của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính đã ký 2 quyết định thành lập 2
công ty: Công ty kiểm toán Việt Nam với tên giao dịch là VACO (Quyết định số
165-TC/QĐ/TCCB) và Công ty Dịch vụ kế toán Việt Nam với tên giao dịch là
AASC (Quyết định số 164-TC/QĐ/TCCB). Với cương vị là các công ty kiểm toán
đầu tiên, VACO và AASC đã đóng góp nhiều công sức không chỉ trong việc phát
triển công ty, mở rộng địa bàn kiểm toán mà cả trong việc cộng tác với các công ty
và tổ chức nước ngoài phát triển sự nghiệp kiểm toán Việt Nam. Cũng trong năm
1991, cùng với 2 công ty trong nước, Công ty Ernst and Yong là công ty kiểm toán
nước ngoài đầu tiên được nhà nước Việt Nam chấp nhận lập văn phòng và hoạt
động tại Việt Nam.
Cho tới nay, số lượng các công ty kiểm toán đã tăng lên đáng kể và loại hình
công ty cũng đa dạng hơn bao gồm các công ty hợp danh, công ty liên doanh, công
ty 100% vốn nước ngoài, công ty trách nhiệm hữu hạn… Theo thống kê của Hội
Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA), tính đến ngày 20/10/2012, cả nước
đã có trên 170 doanh nghiệp kiểm toán với trên 10.000 người làm việc tại 226 Văn
phòng, chi nhánh. Trong 170 doanh nghiệp kiểm toán có 161 công ty trách nhiệm
hữu hạn, 5 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, 4 công ty hợp danh, 34 công ty là
thành viên Hãng kiểm toán quốc tế, 2.800 người được Bộ Tài chính cấp chứng chỉ
kiểm toán viên, trên 700 kiểm toán viên đạt trình độ quốc tế.
Việt Nam cũng đã từng bước thể chế hóa hoạt động kiểm toán. Tháng
1/1994, chính phủ ban hành qui chế kiểm toán độc lập theo Nghị định 07/CP ngày
19/01/1994. Tháng 7/1994, thành lập cơ quan kiểm toán nhà nước trực thuộc Chính
phủ , hoạt động theo điều lệ tổ chức và hoạt động của kiểm toán nhà nước. Tháng

10/1997, Bộ tài chính chính thức ban hành Qui chế kiểm toán nội bộ áp dụng tại các
doanh nghiệp nhà nước theo QĐ 832 TC/QĐ/CĐKT. Tháng 9/1999, Bộ tài chính
chính thức ban hành 4 Chuẩn mực Kiểm toán đầu tiên. Tháng 12/2000, Bộ tài chính
ban hành thêm 6 Chuẩn mực Kiểm toán. Cho đến nay, Bộ tài chính đã ban hành
được 38 Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam.
4


Ngoài ra, để tạo cho sự phát triển của ngành nghề, Hội kiểm toán (VAA) đã
được thành lập vào năm 1994. Đến tháng 5/1998, VAA đã được kết nạp chính thức
là thành viên thứ 7 của AFA (liên đoàn kế toán ASEAN), là thành viên thứ 130 của
IFAC (liên đoàn kế toán quốc tế), đồng thời VAA cũng là thành viên của IASC (ủy
ban chuẩn mực quốc tế về kế toán). Ngoài ra, cơ quan kiểm toán nhà nước Việt
Nam cũng là thành viên của INTOSAI (Tổ chức quốc tế của cơ quan kiểm toán tối
cao). Đặc biệt Luật Kiểm toán độc lập số 67/2011/QH12 được Quốc hội thông qua
ngày 29/03/2011 có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2012 và Nghị định hướng dẫn
thực hiện một số điều của Luật được ban hành, có hiệu lực từ 1/5/2012 đã tạo hành
lang pháp lý hoàn chỉnh cho phát triển thị trường kiểm toán độc lập, góp phần nâng
cao tính minh bạch thông tin trong nền kinh tế.
Tóm lại, trong những năm vừa qua, hệ thống kiểm toán Việt Nam đã hình
thành và phát triển cả về lượng và chất, từng bước khẳng định vị thế trong nền kinh
tế quốc gia. Quá trình phát triển đó đã đặt nền tảng ban đầu cho những bước phát
triển trong tương lai của ngành nghề này ở Việt Nam.
1.2 KHÁI NIỆM VÀ CHỨC NĂNG CỦA KIỂM TOÁN
1.2.1 Sự cần thiết khách quan phải kiểm toán
Trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu cho nhận thông tin đặc biệt các thông tin
tài chính luôn giữ vai trò tối quan trọng không chỉ đối với bản thân doanh nghiệp
trong việc hoạch định và triển khai các chiến lược kinh doanh mà cả những người
có lợi ích trực tiếp hay gián tiếp đối với hoạt động của doanh nghiệp. Và kế toán
chính là đầu mối cung cấp các thông tin kinh tế, tài chính đó. Tuy nhiên, vai trò, ý

nghĩa của thông tin kế toán chỉ có thể thực hiện được nếu các thông tin này có chất
lượng và đáng tin cậy.
Trên thực tế, các thông tin trên báo cáo tài chính thường có rủi ro, sai lệch lớn.
Khi xã hội càng phức tạp, khả năng thông tin kém tin cậy được cung cấp cho các
nhà ra quyết định tăng lên. Các nguyên nhân rủi ro thông tin có thể là:
Sự cách trở của thông tin: Người ra quyết định khó có thể hiểu biết cụ thể,
tường tận về đối tác mà họ quan hệ. Xã hội càng phát triển sẽ kéo theo hoạt động
kinh tế ngày càng phát triển, mở rộng và đa dạng. Sự tách biệt giữa quyền sở hữu và
quyền sử dụng tài sản ngày càng tăng, các thông tin được cung cấp có nguy cơ ngày
càng bị hợp pháp hóa và thành tích hóa có lợi cho người cung cấp thông tin.
Thành kiến và động cơ của người cung cấp thông tin: Nếu lợi ích của người
cung cấp thông tin trái ngược với người sử dụng thông tin thì thông tin có thể được
điều chỉnh phù hợp với lợi ích của người cung cấp thông tin.

5


Khối lượng thông tin quá nhiều: Xã hội ngày càng phát triển, thông tin càng
phong phú, đa dạng với khối lượng càng nhiều, khả năng chứa đựng những thông
tin sai lệch trong những thông tin đúng đắn ngày càng tăng.
Tính phức tạp của thông tin và nghiệp vụ kinh tế ngày càng tăng: Xã hội càng
phát triển, hoạt động càng đa dạng, các nghiệp vụ và thông tin càng phức tạp. Nguy
cơ chứa đựng những thông tin sai lệch là không thể tránh khỏi.
Khả năng thông đồng trong xử lý thông tin có lợi cho người cung cấp thông
tin ngày càng lớn. Thời gian gần đây, trên thế giới đã xảy ra khá nhiều vụ gian lận
tài chính lớn gây chấn động dư luận. Người ta không chỉ bất ngờ về những tổn thất
kinh tế do gian lận gây ra mà còn cả các phương pháp thực hiện gian lận, khả năng
câu kết thông đồng đem lại lợi ích cho người cung cấp thông tin ngày càng lớn.
Người thực hiện gian lận, ngoài nhân viên và tầng lớp lãnh đạo cao cấp của công ty,
còn có sự tiếp tay của kiểm toán viên độc lập mà vụ gian lận Enron có thể được

xem là ví dụ điển hình.
Để giảm thiểu rủi ro thông tin có 3 cách chủ yếu:
Cách 1: Người sử dụng thông tin tự kiểm tra các thông tin mà mình sử dụng.
Việc này không hiệu quả, tốn kém, không phù hợp với xu thế phát triển và chuyên
môn hóa của thời đại. Mặt khác, có thể có những hạn chế về năng lực của người sử
dụng thông tin đặc biệt với những thông tin phức tạp.
Cách 2: Người cung cấp thông tin bị rằng buộc trách nhiệm pháp lý hoặc
người sử dụng thông tin chia sẻ rủi ro thông tin cùng nhà quản trị doanh nghiệp hay
người cung cấp thông tin theo sự thỏa thuận giữa hai bên. Nhưng cách này lại
không thể đáp ứng được mục tiêu đặt ra khi người cung cấp thông tin bị giải thể,
phá sản. Khi đó, hiệu quả của thông tin luôn luôn phụ thuộc vào người sử dụng
thông tin.
Cách 3: Nhờ đến người thứ ba, độc lập xác nhận. Cách này rất hiệu lực, phát
huy được tính chuyên môn hóa sâu sắc, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại,
tiết kiệm nhiều chi phí, đảm bảo hiệu lực, tin cậy của thông tin và đảm bảo lợi ích
vật chất và tránh được hậu quả cho người sử dụng thông tin. Đồng thời gắn chặt
pháp lý và trách nhiệm vật chất của kiểm toán viên với những ý kiến nhận xét kết
luận mà họ cung cấp.
Như vậy, kiểm toán ra đời và phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu của người sử
dụng thông tin là một sự cần thiết tất yếu khách quan.
1.2.2 Khái niệm
Thuật ngữ “kiểm toán” thực sự mới xuất hiện và được sử dụng ở nước ta từ
cuối thế kỳ XX. Trong quá trình đó, cách hiểu và cách dùng khái niệm này chưa
được thống nhất. Có thể khái quát các cách hiểu về kiểm toán theo 2 quan điểm như sau:
6


Quan điểm thứ nhất – quan điểm mang tính cổ điển, kiểm toán được hiểu là
kiểm tra kế toán, một chức năng của bản thân kế toán, một thuộc tính cố hữu của kế
toán. Nội dung của hoạt động này là rà soát các thông tin từ chứng từ kế toán đến

tổng hợp cân đối kế toán. Hay nói đúng hơn, hoạt động chủ yếu của kiểm toán chỉ
bó hẹp và giới hạn trong việc kiểm tra, đánh giá về tính trung thực hợp lý của các
bảng khai tài chính.
Theo quan điểm này có rất nhiều khái niệm khác nhau về kiểm toán, như:
Trong lời mở đầu “Giải thích các chuẩn mực kiểm toán” của Vương Quốc
Anh: “Kiểm toán là sự kiểm tra độc lập và là sự bày tỏ ý kiến về những bản khai tài
chính của một xí nghiệp do một kiểm toán viên được bổ nhiệm để thực hiện những
công việc đó theo đúng với bất cứ nghĩa vụ pháp định có liên quan”.
Tương tự như vậy, theo định nghĩa của Liên đoàn Quốc tế (International
Federation of Accountants – IFAC): “Kiểm toán là việc kiểm toán viên độc lập kiểm
tra và trình bày ý kiến của mình về các bản báo cáo tài chính”.
Hoặc cụ thể hơn, theo Hiệp hội kế toán Mỹ (American Acconting Association)
thì kiểm toán được hiểu là “một quá trình mang tính hệ thống thu thập và đánh giá
bằng chứng theo các cơ sở dẫn liệu về hoạt động kinh tế và những sự kiện để xác
nhận chắc chắn về sự phù hợp giữa các cơ sở dẫn liệu, những đặc tính (đã được
xác định) và cung cấp kết quả cho người sử dụng”.
Ở nước ta, quy chế về kiểm toán độc lập trong nền Kinh tế quốc dân ban hành
theo nghị định số 07/CP ngày 29 tháng 01 năm 1994 của Chính Phủ đã ghi rõ “
Kiểm toán độc lập là việc kiểm tra và xác nhận của kiểm toán viên chuyên nhiệp
thuộc các tổ chức kiểm toán độc lập về tính đúng đắn hợp lý của các tài liệu, số liệu
kế toán và báo cáo quyết toán của các doanh nghiệp, các cơ quan, các tổ chức
đoàn thể, tổ chức xã hội (gọi tắt là đơn vị kiểm toán) khi có yêu cầu của các đơn vị
này”.
Các định nghĩa nêu trên tuy khác nhau về từ ngữ với ý nghĩa cụ thể xác định
song chung quy đều bao hàm vào khái niệm kiểm toán với 7 yếu tố cơ bản:
Mục đích của kiểm toán: Xác nhận mức độ tin cậy của các thông tin trình bày
trong báo cáo tài chính.
Phạm vi kiểm toán: là những công việc và thủ tục kiểm toán cần thiết mà kiểm
toán viên phải xác định và thực hiện trong quá trình kiểm toán để đạt được mục tiêu
kiểm toán. Thủ tục kiểm toán phải được xác định trên cơ sở chuẩn mực kiểm toán

Việt Nam (hoặc chuẩn mực kiểm toán quốc tế được chấp nhận), phù hợp yêu cầu
của tổ chức nghề nghiệp, phù hợp quy định của pháp luật và các thoả thuận trong
hợp đồng kiểm toán.
Chủ thể kiểm toán: là những kiểm toán viên độc lập và có năng lực thực hiện
cuộc kiểm toán.
Độc lập: Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 200 “ Mục tiêu và
nguyên
7


tắc cơ bản chi phối kiểm toán Báo cáo tài chính” thì độc lập là nguyên tắc hành
nghề cơ bản của kiểm toán viên. Trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên phải
thực sự không bị chi phối hoặc tác động bởi bất kỳ lợi ích vật chất hoặc tinh thần
nào làm ảnh hưởng đến sự trung thực, khách quan và độc lập nghề nghiệp của mình.
Kết quả kiểm toán sẽ không có giá trị khi những người sử dụng kết quả kiểm toán
tin rằng cuộc kiểm toán thiếu tính độc lập cho dù cuộc kiểm toán được thực hiện bởi
người có trình độ cao đến đâu.
Tùy theo nội dung và tính chất của mỗi loại kiểm toán cụ thể khác nhau mà
độc lập có thể đòi hỏi khác nhau. Tuy nhiên yêu cầu về độc lập là đòi hỏi thiết yếu
đối với mọi kiểm toán viên và tổ chức kiểm toán. Trong quá trình kiểm toán nếu có
sự hạn chế về tính độc lập thì kiểm toán viên phải tìm cách loại bỏ sự hạn chế này.
Nếu không loại bỏ được thì kiểm toán viên phải nêu rõ điều này trong báo cáo kiểm
toán.
- Năng lực: Năng lực kiểm toán gồm những yếu tố như kỹ năng, phẩm chất
về chuyên môn nghiệp vụ mà người kiểm toán viên cần phải có để tổ chức và thực
hiện được cuộc kiểm toán có hiệu quả.
+ Kỹ năng của kiểm toán viên chính là trình độ chuyên môn và sự am hiểu
sâu rộng không chỉ trong lĩnh vực kiểm toán mà còn trong một số ngành nghề khác
như luật, ngân hàng, thuế.... Để đáp ứng yêu cầu công việc, kiểm toán viên cần phải
thường xuyên duy trì, cập nhật và nâng cao kiến thức trong hoạt động thực tiễn,

trong môi trường pháp lý và các tiến bộ kỹ thuật.
+ Phẩm chất: kiểm toán là một công việc phức tạp, phải xử lý rất nhiều những
mối quan hệ liên quan đến lợi ích Nhà nước, lợi ích đơn vị được kiểm toán, uy tín
của cơ quan kiểm toán nói chung và danh dự của người kiểm toán viên nói riêng.
Xử lý được một cách thấu tình đạt lý, minh bạch không những đòi hỏi người kiểm
toán viên phải có đủ năng lực về chuyên môn mà còn phải có đạo đức nghề nghiệp
trong sáng. Vấn đề này sẽ được đề cập cụ thể hơn ở phần tiếp theo (mục )
Khách thể kiểm toán: là các tổ chức, đơn vị, cá nhân nơi có những thông tin
cần được kiểm toán. Tùy từng loại kiểm toán mà khách thể kiểm toán có sự khác
nhau:
- Đối với kiểm toán nội bộ: khách thể kiểm toán là các bộ phận cấu thành
trong đơn vị. Các bộ phận này có thể là từng bộ phận, phòng ban, phân xưởng, tổ
đội của đơn vị. Trong trường hợp khi nhiều bộ phận, phòng ban, phân xưởng, tổ đội
hoặc nhiều đơn vị cùng tham gia thực hiện một chương trình, dự án nào đó thì
khách thể kiểm toán nội bộ có thể là những chương trình, dự án.
- Đối với kiểm toán nhà nước: khách thể kiểm toán thường bao gồm tất cả các

8


đơn vị, các tổ chức và cá nhân có sử dụng ngân sách Nhà nước, tiền và tài sản Nhà
nước, các dự án, công trình do ngân sách đầu tư, các doanh nghiệp nhà nước có
100% vốn ngân sách nhà nước, các xí nghiệp công cộng thuộc sở hữu nhà
nước( 100% vốn NSNN), các cơ quan kinh tế, quản lý của nhà nước và các đoàn thể
xã hội, các cá nhân (tài khoản cá nhân) có nguồn từ NSNN…Tuy nhiên, trong thực
tiễn, khách thể của kiểm toán nhà nước có thể còn tùy thuộc vào sự quy định của
từng quốc gia và yêu cầu quản lý trong từng thời kỳ nhất định.
- Đối với kiểm toán độc lập: khách thể của kiểm toán độc lập có thể là tất cả
các đơn vị, doanh nghiệp, các tổ chức trong mọi lĩnh vực (thậm chí cả cá nhân) có
nhu cầu được kiểm toán. Cụ thể là các cơ quan nhà nước, các tổ chức đoàn thể, tổ

chức xã hội, các doanh nghiệp….đều có thể trở thành khách thể của kiểm toán độc lập.
Các thông tin được kiểm toán: Đó là những thông tin đã có sẵn nguồn bằng
chứng cho kiểm toán và có căn cứ làm cơ sở cho việc đánh giá thông tin. Thông tin
được kiểm toán có thể là những thông tin được lượng hóa hoặc những thông tin có
thể so sánh, đối chiếu hay kiểm tra lại được; có thể là những thông tin tài chính
hoặc thông tin phi tài chính.
Cơ sở thực hiện kiểm toán: là những luật định, tiêu chuẩn hay chuẩn mực
chung được sử dụng như “thước đo”, cơ sở để đánh giá các thông tin trong quá trình
kiểm toán. Các chuẩn mực này rất phong phú và đa dạng tùy thuộc vào từng loại
kiểm toán như quy định trong các văn bản pháp quy, các tiêu chuẩn định mức cho
các lĩnh vực khác nhau, các chuẩn mực kế toán, kiểm toán của mỗi quốc gia…tùy
từng loại kiểm toán và mục đích kiểm toán mà sử dụng các chuẩn mực này cho phù hợp.
Chức năng của kiểm toán: là xác minh và bày tỏ ý kiến. Để xác minh, kiểm
toán viên phải sử dụng các phương pháp và kỹ thuật kiểm toán để thu thập bằng
chứng và đánh giá bằng chứng, trên cơ sở đó đưa ra ý kiến nhận xét về mức độ
tương quan, phù hợp giữa các thông tin của đơn vị được kiểm toán với chuẩn mực
đã được xây dựng, thiết lập. (Vấn đề này sẽ được trình bày chi tiết hơn ở mục 1.1.3).
Quan điểm thứ hai – quan điểm hiện đại, kiểm toán không chỉ giới hạn ở
kiểm toán bảng khai tài chính hay tài liệu kế toán mà thâm nhập vào nhiều lĩnh vực
khác nhau như hiệu quả của hoạt động kinh tế, hiệu năng của quản lý xã hội, hiệu
lực của hệ thống pháp lý trong từng loại hoạt động…Hay nói cách khác, kiểm toán
đã quan tâm một cách đầy đủ, toàn diện mọi khía cạnh hoạt động của con người.
Theo quan điểm này, phạm vi kiểm toán rất rộng, bao gồm những lĩnh vực chủ
yếu sau:
Kiểm toán thông tin (Information audit): hướng vào việc đánh giá tính trung
thực và hợp pháp của các tài liệu (thông tin) làm cơ sở pháp lý cho việc giải quyết
các mối quan hệ kinh tế và tạo niềm tin cho những người quan tâm đến tài liệu kế toán.
9



Kiểm toán tính quy tắc (Regularity audit): hướng vào việc đánh giá tình hình
thực hiện các chế độ, thể lệ, luật pháp của đơn vị kiểm tra trong quá trình hoạt động
(trước hết là với hoạt động tài chính).
Kiểm toán hiệu quả (Efficiency audit): xem xét kết quả đầu ra trong tương
quan với đầu vào (cố định). Đối tượng trực tiếp của kiểm toán hiệu quả là các yếu
tố, các nguồn lực trong từng loại nghiệp vụ kinh doanh: mua bán, sản xuất hay dịch
vụ…Kiểm toán loại này giúp ích trực tiếp cho việc hoạch định chính sách và
phương hướng, giải pháp cho việc hoàn thiện hoặc cải tổ hoạt động kinh doanh của
đơn vị được kiểm toán.
Kiểm toán hiệu năng (Effectiveness audit): xem xét kết quả đầu ra có đat được
như dự kiến hay không và nếu đạt được thì các yếu tố đầu vào như thế nào. Kiểm
toán loại này được đặt biệt quan tâm ở khu vực Nhà nước chủ yếu ở các khu vực
công ích và chương trình đầu tư từ Ngân sách Nhà nước nơi mà lợi ích và hiệu quả
không còn giữa nguyên vẹn ý nghĩa của nó như trong doanh nghiệp.
 Các quan niệm khác nhau kể trên không hoàn toàn đối lập nhau mà phản ánh
quá trình phát triển của cả thực tiễn và lý luận kiểm toán và đi đến kết luận “ Kiểm
toán là quá trình các kiểm toán viên độc lập và có năng lực tiến hành thu thập và
đánh giá các bằng chứng về các thông tin được kiểm toán nhằm xác nhận và báo
cáo về mức độ phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã được thiết lập”.
1.2.3 Chức năng của kiểm toán
Thông qua định nghĩa nói chung về kiểm toán, ta có thể rút ra hai chức năng
cơ bản của kiểm toán như sau:
Thứ nhất, chức năng kiểm tra và xác nhận (hay còn gọi là chức năng xác
minh). Chức năng này nhằm khẳng định mức độ trung thực của tài liệu, tính pháp lý
của việc thực hiện các nghiệp vụ hay việc lập các bảng khai tài chính. Đây là chức
năng được hình thành đầu tiên gắn liền với sự ra đời và phát triển của kiểm toán.
Bản thân chức năng này không ngừng phát triển mạnh mẽ cùng với sự phát triển
của xã hội loài người nói chung và kiểm toán nói riêng, đồng thời chức năng này
luôn thể hiện ở mức độ khác nhau trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Ở thời kỳ
đầu, khi kiểm toán ra đời, chức năng xác minh được thể hiện dưới dạng chứng thực

bảng khai tài chính, về sau chức năng này phát triển mạnh mẽ và được thể hiện cao
hơn dưới dạng báo cáo kiểm toán.
Thứ hai, chức năng bày tỏ ý kiến (hay chức năng tư vấn). Chức năng trình
bày ý kiến có thể được hiểu rộng với ý nghĩa cả kết luận về chất lượng thông tin và
cả pháp lý, tư vấn qua xác minh. Đây là chức năng phát sinh và hình thành sau chức
năng xác minh. Chức năng này cũng có quá trình phát sinh và phát triển riêng. Khi
xã hội ngày càng phát triển người ta quan tâm nhiều hơn sang các lĩnh vực phi tài
10


chính, lĩnh vực hiệu quả, hiệu lực và hiệu năng của hoạt động. Do đó, chỉ một chức
năng xác minh, kiểm toán không thể đáp ứng được yêu cầu của nhà quản lý. Chính
từ yêu cầu sử dụng kết quả kiểm toán của nhiều đối tượng, đã xuất hiện chức năng
tư vấn. Ở thời kỳ đầu khi mới hình thành, chức năng này biểu hiện dưới dạng thư
quản lý. Trong quá trình phát triển, sự biểu hiện của tư vấn cũng rất khác nhau theo
từng giai đoạn lich sử nhất định. Thực tế chức năng này chỉ phát triển mạnh mẽ vào
thế kỷ XX, nhưng lại giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong một nền kinh tế thị
trường phát triển cao như hiện nay.
Qua hai chức năng của kiểm toán ta thấy kiểm toán nhìn nhận đánh giá một
cách toàn diện cả về quá khứ và tương lai. Về quá khứ, đối với các sự kiện đã nảy
sinh, kiểm toán với tư cách là người kiểm tra, xác minh sự việc đã hoàn thành nhằm
đáp ứng yêu cầu của người sử dụng thông tin. Như vậy, chức năng xác nhận hay
hay xác minh là chức năng hướng về quá khứ. Mặt khác, để đáp ứng yêu cầu của
người sử dụng thông tin trong tương lai, kiểm toán lại có thêm chức năng thứ hai đó
là chức năng tư vấn hay chức năng trình bày ý kiến, chức năng này hướng về tương
lai. Hai chức năng của kiểm toán hình thành và phát triển hoàn toàn khác nhau tùy
theo từng giai đoạn lịch sử nhất định. Ở thời kỳ đầu, người ta thường chỉ tập trung
quan tâm đến chức năng kiểm tra xác nhận. Nhưng khi xã hội càng phát triển, người
ta quan tâm nhiều hơn đến chức năng tư vấn của kiểm toán, đó là việc nhìn nhận,
định hướng cho một tương lai đúng đắn để có những quyết định tối ưu và giành

được thắng lợi trong cạnh tranh. Chính vì vậy, ở giai đoạn hiện nay, nhằm đáp ứng
yêu cầu thông tin trong tương lai không phải chỉ riêng có chức năng của kiểm toán
mà còn có hàng loạt các tổ chức khác nhau cùng thực hiện chức năng này như: các
tổ chức tư vấn về thuế, tư vấn về pháp luật, kinh doanh…
1.3 PHÂN LOẠI KIỂM TOÁN
Trong nền kinh tế, những người sử dụng thông tin khác nhau có các yêu cầu
khác nhau đối với thông tin được kiểm toán. Vì vậy để đáp ứng những yêu cầu khác
nhau đó, các loại hình kiểm toán khác nhau đã hình thành và các chủ thể kiểm toán
khác nhau cũng được ra đời. Dưới đây trình bày hai cách phân loại kiểm toán chủ yếu:
1.3.1 Phân loại kiểm toán theo mục đích của kiểm toán
Căn cứ vào mục đích cụ thể, người ta chia kiểm toán thành 3 loại: Kiểm toán
báo cáo tài chính, kiểm toán hoạt động và kiểm toán tuân thủ.
a) Kiểm toán báo cáo tài chính
 Khái niệm
Kiểm toán báo cáo tài chính là loại kiểm toán nhằm kiểm tra và xác nhận về
tính trung thực và hợp lý của các báo cáo tài chính được kiểm toán.
- Trung thực: Là thông tin tài chính và tài liệu kế toán phản ánh đúng sự thật
nội dung, bản chất và giá trị của nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
11


- Hợp lý: là thông tin tài chính và tài liệu kế toán phản ánh trung thực, cần
thiết và phù hợp về không gian, thời gian và sự kiện được nhiều người thừa nhận.
- Báo cáo tài chính: Là hệ thống báo cáo được lập theo chuẩn mực và chế độ
kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận) phản ánh các thông tin kinh tế, tài chính
chủ yếu của đơn vị.
 Đặc điểm
- Đối tượng thông tin của kiểm toán báo cáo tài chính là bảng cân đối kế
toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, bản thuyết
minh báo cáo tài chính của các đơn vị tổ chức kinh doanh, báo cáo quyết toán vốn,

ngân sách của các đơn vị hành chính sự nghiệp, của các dự án đầu tư…Điều này
cho thấy kiểm toán viên phải xem xét và đánh giá một cách toàn diện về sổ kế toán,
chứng từ, quy trình xử lý, luân chuyển chứng từ kế toán, tài sản và thực trạng hoạt
động kinh tế tài chính mới có thể đưa ra ý kiến nhận xét đúng đắn về báo cáo tài
chính.
- Các tiêu chuẩn, chuẩn mực được sử dụng cũng khách quan và mang tính
pháp lý cao. Do báo cáo tài chính bắt buộc được lập theo chuẩn mực kế toán và chế
độ kế toán hiện hành nên chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán, các quy định pháp lý
về kế toán và những quy định khác có liên quan được sử dụng làm thước đo trong
kiểm toán báo cáo tài chính.
- Chức năng chủ yếu của kiểm toán báo cáo tài chính là xác minh và bày tỏ ý
kiến về các thông tin được trình bày trên báo cáo tài chính. Do đó, thu thập bằng
chứng kiểm toán là mục đích trực tiếp của kiểm toán báo cáo tài chính. Trên góc độ
đó có thể nói, thực chất của quá trình kiểm toán báo cáo tài chính là quá trình thu
thập bằng chứng cho những kết luận kiểm toán.
- Báo cáo tài chính của các doanh nghiệp được nhiều người quan tâm và nó
cũng có thể được kiểm toán bởi nhiều tổ chức kiểm toán khác nhau, đặc biệt là các
tổ chức kiểm toán chuyên nghiệp. Do đó, kiểm toán báo cáo tài chính là hình thức
chủ yếu, phổ cập và quan trọng nhất, thường chiếm 70-80% công việc của công ty
kiểm toán.
- Kết thúc của cuộc kiểm toán là một báo cáo kiểm toán. Báo cáo kiểm toán
là báo cáo bằng văn bản do kiểm toán viên phát hành. Trong đó, có trình bày các ý
kiến của kiểm toán viên về báo cáo tài chính được kiểm toán.
b) Kiểm toán hoạt động
 Khái niệm
Kiểm toán hoạt động là loại kiểm toán nhằm để xem xét và đánh giá về tình
kinh tế, tính hiệu lực và hiệu quả của các hoạt động được kiểm toán.
- Tính kinh tế: là sự tiết kiệm các nguồn lực. Hay đây còn gọi là nguyên tắc
tối thiểu nghĩa là tối thiểu hóa chi phí cho các nguồn lực sẽ được sử dụng nhưng
vẫn đảm bảo đạt được kết quả đầu ra có chất lượng phù hợp.

- Tính hiệu quả: là việc sử dụng tối thiểu các nguồn lực nhưng vẫn đảm bảo
đạt được các mục tiêu của đơn vị. Có nghĩa là kết quả được tạo ra đúng như mục
tiêu, mục đích hoặc kế hoạch nhưng nguồn lực sử dụng lại ít đi.
12


- Tính hiệu lực: là khả năng về mức độ hoàn thành các nhiệm vụ và mục tiêu
đã xác định của đơn vị trên hai phương diện: một là, mức đảm bảo nguồn lực cả
trong hiện tại và trong tương lai so với các mục tiêu đã đặt ra. Hai là, mức phù hợp
giữa các kết quả cả trong hiện tại và trong tương lai so với các mục tiêu đã đặt ra.
 Đặc điểm
- Phạm vi của cuộc kiểm toán hoạt động rất rộng thuộc mọi lĩnh vực. Nó
không chỉ giới hạn trong lĩnh vực tài chính mà còn có thể bao gồm nhiều lĩnh vực
và hoạt động khác như việc đánh giá cơ cấu tổ chức, một phương án kinh doanh,
một quy trình công nghệ, một hệ thống máy tính hay một tài sản một thiết bị mới
đưa vào hoạt động, các phương pháp sản xuất, marketing…và mọi lĩnh vực quản lý
nếu cần và có thể thực hiện. Để thực hiện cuộc kiểm toán hoạt động đòi hỏi người
kiểm toán viên phải am hiểu nhiều lĩnh vực khác nhau như: kế toán, tài chính, kinh
tế, khoa học, kỹ thuật…kết thúc cuộc kiểm toán hoạt động, nhà quản lý thường mong
đợi những ý kiến đề xuất để cải thiện hoạt động được kiểm toán.
- Các chuẩn mực được sử dụng trong kiểm toán này rất chủ quan, đa dạng và
tùy thuộc vào từng kiểm toán cụ thể nên người ta đưa ra các chuẩn mực riêng mà
không xây dựng chuẩn mực chung. Do tính đa dạng của kiểm toán hoạt động, nên
người ta không thể đưa ra chuẩn mực chung để đánh giá, mà chuẩn mực sẽ được
thiết lập tùy theo từng đối tượng cụ thể của cuộc kiểm toán. Vì vậy, nếu các chuẩn
mực không được xác định một cách rõ ràng và chặt chẽ, việc kiểm tra và đưa ra ý
kiến có thể phụ thuộc vào ý kiến chủ quan của kiểm toán viên.
- Chú trọng đến những hệ thống quản lý và hoạt động kiểm soát đang có vấn
đề khúc mắc mà chúng có liên quan đến nhân lực, vật lực và tài năng của đơn vị.
- Tập trung vào việc đánh giá tính kinh tế, tính hiệu quả và sự hữu hiệu của

các hoạt động trong đơn vị. Điều này có nghĩa là công việc chủ yếu của kiểm toán
là phải thu thập và đánh giá những bằng chứng để chứng minh các hoạt động được
kiểm toán có đảm bảo được tính kinh tế, tính hiệu quả, sự hiện hữu hay không?
- Tạo ra cơ hội để cải tiến các hệ thống quản lý và hoạt động của đơn vị. Như
trên đã trình bày, mục đích chính của kiểm toán hoạt động là giúp các nhà lãnh đạo
của đơn vị được kiểm toán cải tiến tính kinh tế, tính hiệu quả và sự hiện hữu của các
hệ thống quản lý và hoạt động thông qua những kiến nghị được nêu ra trong báo
cáo kiểm toán. Như vậy, kiểm toán hoạt động chú trọng đến tương lai của đối tượng
được kiểm toán.
- Kết quả của cuộc kiểm toán là một bản báo cáo cho người quản lý về kết
quả kiểm toán và ý kiến đề xuất cải tiến hoạt động.
c) Kiểm toán tuân thủ
 Khái niệm
Kiểm toán tuân thủ là loại kiểm toán nhằm để xem xét đơn vị được kiểm
toán có tuân thủ các quy định mà các cơ quan có thẩm quyền cấp trên hoặc cơ quan
chức năng của nhà nước hoặc cơ quan chuyên môn đề ra hay không.
 Đặc điểm
13


- Đối tượng kiểm toán tuân thủ khá linh hoạt. Nó có thể là việc tuân thủ các
quy tắc do cơ quan Nhà nước cấp trên đề ra như kiểm tra, đánh giá việc tuân thủ các
quy định về thuế giá trị gia tăng, các quy định về bảo vệ môi trường, bảo vệ người
lao động…hoặc việc tuân thủ những quy định do người quản lý cấp trên trong đơn
vị đề ra hoặc còn là việc tuân thủ những quy định của cơ quan chuyên môn đề ra
như việc tuân thủ các quy trình và thủ tục giải ngân của kho bạc nhà nước, các điều
kiện và thủ tục vay vốn của ngân hàng…
- Các tiêu chuẩn, chuẩn mực được sử dụng rất cụ thể, chặt chẽ, chính xác, có
tính pháp lý cao. Các tiêu chuẩn, chuẩn mực để đánh giá thông tin ở loại kiểm toán
này không phức tạp như kiểm toán hoạt động, chúng thường được xác định một

cách dễ dàng gắn liền với các thủ tục, qui tắc được kiểm toán.
- Kiểm toán tuân thủ có cưỡng chế cao của chủ thể với khách thể, của cấp
trên đối với cấp dưới của đơn vị thuộc quyền mà không có quan hệ ngược lại.
- Kết quả của kiểm toán tuân thủ được báo cáo cho người có trách nhiệm
trong đơn vị được kiểm toán hoặc là cơ quan quản lý cấp trên hơn là cho một phạm
vi rộng người sử dụng.
1.3.2 Phân loại theo chủ thể kiểm toán
Căn cứ vào chủ thể kiểm toán, người ta chia kiểm toán thành 3 loại: Kiểm
toán nhà nước, kiểm toán độc lập và kiểm toán nội bộ
a) Kiểm toán nhà nước
 Khái niệm
Điều 13, 14 Luật kiểm toán Nhà nước (Luật số 37/2005/QH11 do Quốc hội
thông qua ngày 14/06/2005) quy định “ Kiểm toán nhà nước là cơ quan chuyên
môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật”. “Kiểm toán nhà nước có chức năng BCTC, kiểm
toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động đối với cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng ngân
sách và tài sản nhà nước”
Như vậy, kiểm toán nhà nước là công việc kiểm toán được thực hiện bởi các
kiểm toán viên làm việc trong cơ quan kiểm toán nhà nước, là tổ chức kiểm toán
chuyên nghiệp thuộc bộ máy hành chính nhà nước, là kiểm toán theo luật định và
kiểm toán tính tuân thủ, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản của Nhà nước.
 Đặc điểm
- Mang tính chất cưỡng chế theo luật định, theo yêu cầu quản lý Nhà nước
nên không thu phí kiểm toán, không kinh doanh…
- Kết quả kiểm toán gắn với các giải pháp cải tiến hoạt động và ý kiến đề
xuất sử lý sai phạm ở đơn vị.
- Có tính pháp lý cao, thường được thể hiện trong Hiến pháp.
b) Kiểm toán độc lập
 Khái niệm
Điều 2 nghị định số 105/2004/NĐ-CP ngày 30/03/2004 của Chính phủ quy

định: “ Kiểm toán độc lập là việc kiểm tra và xác nhận của kiểm toán viên và
doanh nghiệp kiểm toán về tính trung thực và hợp lý của các tài liệu, số liệu kế toán
14


và báo cáo tài chính các doanh nghiệp, tổ chức (gọi chung là đơn vị được kiểm
toán) khi có yêu cầu của các đơn vị này”.
Như vậy, kiểm toán độc lập là công việc kiểm toán do các kiểm toán viên
độc lập thuộc các tổ chức kiểm toán độc lập chuyên nghiệp thực hiện. Họ thường
thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính, và tùy theo yêu cầu của khách hành họ cung
cấp các dịch vụ khác như kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ, tư vấn về kế
toán, thuế, tài chính…kiểm toán độc lập là loại hình dịch vụ nên chỉ được thực hiện
khi khách hàng có yêu cầu và đồng ý trả phí thông qua việc ký kết hợp đồng kinh
tế.
 Đặc điểm
- Kiểm toán độc lập là hoạt động đặc trưng của kinh tế thị trường vì mục tiêu
lợi nhuận lên có thu phí kiểm toán.
- Thực hiện trên cơ sở tự nguyện theo yêu cầu của khách hàng. Việc kiểm tra
không gắn với xử lý gian lận.
- Người sử dụng kết quả kiểm toán phải được đảm bảo rằng những thông tin
họ được cung cấp là trung thực, khách quan, có độ tin cậy cao để làm căn cứ cho
các quyết định kinh tế hoặc thực thi trách nhiệm quản lý, giám sát của mình do đó
mang tính pháp lý cao.
c) Kiểm toán nội bộ
 Khái niệm
Theo Hiệp hội kiểm toán viên nội bộ Quốc tế (Institute of Internal Auditors)
thì “kiểm toán nội bộ là một chức năng đánh giá độc lập bên trong tổ chức, để kiểm
tra và đánh giá các hoạt động của tổ chức, như là một hoạt động phục vụ tổ chức”
Như vậy, kiểm toán nội bộ là công việc kiểm toán do các Kiểm toán viên của
đơn vị tiến hành. Kiểm toán nội bộ chủ yếu để đánh giá về việc thực hiện pháp luật

và quy chế nội bộ, kiểm tra tính hữu hiệu của hệ thống kiểm soát nội bộ và việc
thực thi công tác kế toán, tài chính của đơn vị…
 Đặc điểm
- Thực hiện trên cơ sở yêu cầu quản lý của chủ doanh nghiệp.
- Có tính chất bắt buộc đối với các hoạt động, đơn vị trong nội bộ.
- Kết quả kiểm toán gắn với các giải pháp cải tiến hoạt động và ý kiến đề
xuất xử lý sai phạm.
- Ít có giá trị pháp lý với bên ngoài vì kiểm toán viên nội bộ chỉ chịu trách
nhiệm trước chủ doanh nghiệp.

1.3.3. Phân loại kiểm toán theo những tiêu thức khác
- Phân loại kiểm toán theo mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể kiểm
toán. Theo tiêu thức này, kiểm toán được chia thành kiểm toán bên trong (nội kiểm)
và kiểm toán bên ngoài (ngoại kiểm). Kiểm toán bên trong là những hoạt động kiểm
15


toán được thực hiện bởi chính những người trong đơn vị (kiểm toán nội bộ). Kiểm
toán bên ngoài (ngoại kiểm): là những hoạt động kiểm toán được thực hiện bởi
những người bên ngoài đơn vị (kiểm toán độc lập hoặc có thể là kiểm toán nhà
nước)
- Phân loại kiểm toán theo quan hệ pháp lý đối với khách thể kiểm toán.
Theo quan hệ này, kiểm toán được chia thành kiểm toán bắt buộc và kiểm toán tự
nguyện. Kiểm toán bắt buộc là các đơn vị được kiểm toán (khách thể kiểm toán)
phải chịu sự kiểm toán bắt buộc theo luật định. Kiểm toán tự nguyện là loại kiểm
toán không bắt buộc đối với đơn vị được kiểm toán nhưng đơn vị này có nhu cầu và
tự nguyện thực hiện việc kiểm toán.
- Phân loại kiểm toán theo tính chu kỳ của kiểm toán. Theo các phân loại
này, kiểm toán được chia thành kiểm toán thường kỳ, kiểm toán định kỳ và kiểm
toán bất thường.

Ngoài ra, còn có nhiều cách để phân loại kiểm toán như: theo thời điểm kiểm
toán và thời điểm phát sinh của các nghiệp vụ, sự kiện có kiểm toán trước (tiền
kiểm), kiểm toán trong (kiểm toán hiện hành) và kiểm toán sau (hậu kiểm); theo
tính chất và phạm vi tiến hành kiểm toán có kiểm toán toàn diện và kiểm toán
chuyên đề v.v…
1.4. KIỂM TOÁN VIÊN, TỔ CHỨC KIỂM TOÁN VÀ HIỆP HỘI NGHỀ
NGHIỆP
1.4.1. Kiểm toán viên
Hiều một cách đơn giản thì kiểm toán viên là những người làm công tác
kiểm toán, có trình độ nghiệp vụ tương xứng với công việc đó.
Trong ý nghĩa hẹp, từ kiểm toán viên (Auditor) thường gắn với chức danh kế
toán viên công chứng (Certified Public Accountant – CPA). Tuy nhiên, trong cả lý
luận và thực tế, khái niệm kiểm toán viên cũng bao hàm cả kiểm toán viên nhà nước
(Government Auditor), cả kiểm toán viên độc lập () và kiểm toán viên nội bộ
(Internal Auditor)
a) Kiểm toán viên nhà nước
Kiểm toán viên trong bộ máy kiểm toán nhà nước thực hiện các chức năng
kiểm toán tài sản công được gọi là kiểm toán viên nhà nước. Ở thời kỳ trung đại,
kiểm toán nhà nước đã xuất hiện để đối soát tài sản của vua chúa. Qua quá trình
phát triển cho đến nay kiểm toán nhà nước ở các nước phát triển đều thực hiện chức
năng kiểm toán các đơn vị ở khu vực công cộng.
Kiểm toán viên nhà nước thuộc hệ thống công chức của nhà nước, phải đảm
bảo những tiêu chuẩn về chuyên môn cũng như các tiêu chuẩn khác ở một mức độ
nhất định. Tùy theo luật pháp của từng quốc gia, kiểm toán viên nhà nước có thể
được tuyển dụng hay bổ nhiệm.

16


Hoạt động chuyên môn của kiểm toán nhà nước phù hợp với luật pháp và với

quy định chuyên môn, không nhất thiết phải có chứng chỉ kiểm toán.
b) Kiểm toán viên độc lập
Kiểm toán viên hành nghề thuộc doanh nghiệp kiểm toán được gọi là kiểm
toán viên độc lập. Danh xưng của kiểm toán viên độc lập ở từng quốc gia có thể
không giống nhau. Ví dụ, ở các nước như Mỹ, Canada, Trung Quốc kiểm toán viên
được gọi là “kiểm toán viên công chứng” (Certified Public Accountant – CPA), ở
Anh, Scotland gọi là “giám định viên kế toán” (Chartered Accountant – CA), ở
Pháp gọi là chuyên viên kế toán (Expert Comptable), ở Việt Nam kiểm toán viên
độc lập được quy định theo Luật kiểm toán độc lập số 67/2011/QH12 của Quốc hội
ban hành ngày 29/03/2011 “Kiểm toán viên là người được cấp chứng chỉ kiểm toán
viên theo quy định của pháp luật hoặc người có chứng chỉ của nước ngoài được Bộ
Tài chính công nhận và đạt kỳ thi sát hạch về pháp luật Việt Nam”. “Kiểm toán
viên hành nghề là kiểm toán viên đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký hành nghề
kiểm toán”.
Để có chứng chỉ kiểm toán viên thì người dự tuyển sẽ phải tham gia và đạt yêu
cầu của kỳ thi do Bộ Tài chính tổ chức. Điều điện dự tuyển, nội dung thi và kết
quả đạt yêu cầu được quy định trong Quyết định số 94/2007/QĐ-BTC ngày
16/11/2007 của Bộ tài chính về việc ban hành quy chế thi và cấp chứng chỉ
kiểm toán viên và chứng chỉ hành nghề kế toán, sửa đổi bổ sung theo Thông tư
129/2012/TT-BTC. Theo đó người dự thi phải có:
Hiện nay ở Việt Nam thì chứng chỉ hành nghề kiểm toán viên có 3 loại: CPA
chứng chỉ hành nghề kiểm toán viên Việt Nam, ACCA chứng chỉ hành nghề kiểm
toán viên Anh có giá trị quốc tế và CPA Úc chứng chỉ hành nghề kiểm toán viên
ÚC. Tuy nhiên, chỉ có bằng CPA Việt Nam mới được ký trên báo cáo kiểm toán.
c) Kiểm toán viên nội bộ
Các kiểm toán viên nội bộ là những thành viên trong bộ máy kiểm toán nội
bộ của đơn vị thực hiện chức năng kiểm tra, đánh giá và đề xuất những cải tiến đối
với những hoạt động của đơn vị nhằm đặt được những mục tiêu của đơn vị. Họ có
thể là những kế toán viên giỏi, những nhà quản lý có kinh nghiệm, những kỹ thuật
viên có hiểu biết về những lĩnh vực có liên quan đến kiểm toán đặc biệt là các loại

hình công nghệ, các quy trình kỹ thuật. Trong nhiều trường hợp, kiểm toán viên nội
bộ cũng có thể là kiểm toán viên chuyên nghiệp như những giám định viên trong hệ
thống kiểm toán ở Tây Âu, các kiểm soát viên chuyên nghiệp trong các doanh
nghiệp nhà nước và các đơn vị công cộng (có quy mô lớn) hoặc các chuyên gia
được các hội đồng quản trị sử dụng trong ủy ban kiểm toán.
Trên bình diện quốc tế, tuy chưa có một quy định thống nhất chính thức và rõ
ràng về tiêu chuẩn, song kiểm toán viên nội bộ cũng phải đảm bảo được những yêu
17


cầu chung của kiểm toán viên như trình độ chuyên môn, năng lực, đạo đức nghề
nghiệp và tính độc lập cần thiết.
1.4.2 Tổ chức kiểm toán
1.4.2.1. Tổ chức kiểm toán Nhà nước
a) Quá trình hình thành và phát triển
Kiểm toán nhà nước là loại hình kiểm toán có từ lâu đời, sự ra đời và phát
triển gắn liền với việc hình thành và phát triển của nền tài chính công, xuất phát từ
yêu cầu của mọi Nhà nước là cần phải kiểm soát việc chi tiêu ngân sách quốc gia.
Ở nhiều quốc gia, hoạt động kiểm toán nhà nước đã có bề dày lịch sử vài
tram năm. Chẳng hạn, ở Đức đã có trên 280 năm, ở Pháp là 190 năm, ở Mỹ trên 150
năm, ở Ấn Độ trên 100 năm…sự phát triển của kiểm toán nhà nước đến mức cơ
quan kiểm toán tối cao (SAI) của nhiều quốc gia đã thống nhất thành lập Tổ chức
quốc tế các Cơ quan Kiểm toán Tối cao INTOSAI (18/10/1992) nhằm mục đích tạo
điều kiện cho việc trao đổi các quan điểm và kinh nghiệm giữa các cơ quan kiểm
toán tối cao về công tác kiểm toán Nhà nước.
Ở Việt Nam, kiểm toán nhà nước ra đời và hoạt động trên cơ sở Nghị định số
70/CP ngày 11/07/1994, Luật ngân sách nhà nước được Quốc hội thông qua ngày
20/03/1996 và Luật kiểm toán nhà nước số 37/2005/QH11 được Quốc hội thông
qua ngày 24/06/2005.
b) Vai trò, nhiệm vụ và thẩm quyền kiểm toán của cơ quan kiểm toán nhà nước

Lịch sử phát triển cho thấy kiểm toán nhà nước là một bộ phận không thể
thiếu được trong hệ thống kiểm soát của Nhà nước. Nó được xem là một chức năng,
một công cụ quan trọng trong hệ thống quyền lực của nhà nước, đặc biệt là trong
kiểm tra việc chấp hành luật Ngân sách, phát hiện và ngăn chặn các hành vi tham
nhũng, sử dụng lãng phí tài sản công, giúp sử dụng ngân sách một cách hiệu quả.
Trên thế giới, vai trò, nhiệm vụ và thẩm quyền của kiểm toán nhà nước được
thống nhất tại Hội nghị lần thứ IX của INTOSAI tại Lima và được trình bày trong
Lời nói đầu của Tuyên bố Lima về các chỉ dẫn kiểm toán.
Tại Việt Nam, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm toán nhà nước được
quy định rõ trong Điều 14, Điều 15 và Điều 16 của Luật kiểm toán nhà nước.
c) Tổ chức và hoạt động của kiểm toán nhà nước
- Mô hình tổ chức: Tổ chức kiểm toán nhà nước là một tổ chức chuyên môn
thuộc hệ thống cơ quan quản lý của Nhà nước, được thành lập để thực hiện công
việc kiểm toán đối với các đơn vị, tổ chức thuộc sở hữu Nhà nước (thường gọi là
khu vực công). Tuy nhiên, sự quản lý, chỉ đạo và điều hành hoạt động đối với tổ
chức kiểm toán nhà nước ở từng quốc gia lại tùy thuộc luật pháp cụ thể của từng
nước và do đó mô hình tổ chức bộ máy kiểm toán ở mỗi quốc gia cũng có sự khác
nhau. Thuộc Chính phủ (cơ quan hành pháp) như Trung Quốc, Nhật Bản…; thuộc
18


Quốc hội (cơ quan lập pháp) như Anh, Thụy Điển, Nga, Mỹ, Việt nam…; thuộc
Tòa án (cơ quan tư pháp): Pháp…
- Hoạt động: tổ chức kiểm toán nhà nước cũng có thể thực hiện các loại kiểm
toán: kiểm toán tài chính, kiểm toán hoạt động và kiểm toán tuân thủ. Tuy nhiên,
tập trung chủ yếu vào kiểm toán tuân thủ để xem xét, đánh giá các đơn vị trong quá
trình chấp hành luật pháp và các chính sách, chế độ của Nhà nước đã ban hành.
1.4.2.2 Tổ chức kiểm toán độc lập
a) Quá trình hình thành và phát triển
Trong lịch sử kinh tế - xã hội, khi nền kinh tế phát triển mạnh tạo nên sự tách

biệt rõ rệt giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản, nhu cầu về thẩm định thông
tin do người sử dụng tài sản trở nên cấp thiết.
Cùng với sự tách biệt quyền sở hữu với quyền sử dụng tài sản, giữa các chủ
thể kinh tế hình thành và phát triển sự liên hệ, rằng buộc, chi phối lẫn nhau. Khi đó,
báo cáo tài chính hằng năm của đơn vị lập ra trở thành đối tượng quan tâm của các
bên có liên quan và đòi hỏi phải có sự thẩm định bởi bên thứ ba. Điều đó có nghĩa
là đòi hỏi ra đời và hoạt động của tổ chức kiểm toán độc lập.
Nền kinh tế thị trường là mảnh đất mầu mỡ cho sự phát triển của hoạt động
kiểm toán độc lập. Ở các nước sớm phát triển theo cơ chế thị trường, kiểm toán độc
lập đã hành nghề trước khi có những chuẩn mực chung và chuẩn mực chuyên
ngành. Cho đến nay trên thế giới đã có hàng trăm ngàn tổ chức kiểm toán độc lập
hoạt động trong lĩnh vực kiểm toán và tư vấn tài chính (riêng ở Mỹ có hơm 30.000
tổ chức).
Ở Việt Nam, trước năm 1975 có công ty kiểm toán độc lập ở nước ngoài và
các giám định viên kế toán hành nghề độc lập ở các tỉnh và thành phố phía Nam.
Tuy nhiên sự hiện diện chính thức của kiểm toán độc lập Việt Nam được đánh dấu
bằng sự ra đời của công ty kiểm toán Việt Nam (VACO) và công ty dịch vụ kế toán,
kiểm toán và tư vấn tài chính (AASC) ngày 13/5/1991. Cho đến ngày 21/7/2015,
theo thống kê của VACPA cả nước có khoảng 139 doanh nghiệp đủ điều kiện cung
cấp dịch vụ kiểm toán.
b) Vai trò, quyền và nghĩa vụ của kiểm toán độc lập
Kiểm toán độc lập là một phương thức đảm bảo ở mức độ hợp lý nhất định
của thông tin, để bảo vệ quyền lợi chung của xã hội và các bên liên quan trong nền
kinh tế thị trường, mà thông tin là cơ sở cho việc ra quyết định kinh tế.
Tại Việt Nam quyền và nghĩa vụ của kiểm toán độc lập được quy định rõ
trong Điều 17, Điều 18 của Luật kiểm toán độc lập.
c) Tổ chức và hoạt động của kiểm toán độc lập
- Mô hình tổ chức: có hai mô hình cơ bản là văn phòng kiểm toán tư và công
ty kiểm toán. Văn phòng kiểm toán tư được hình thành bởi một hoặc vài kiểm toán
viên độc lập để kinh doanh dịch vụ kiểm toán và dịch vụ khác liên quan. Mô hình

này được phát triển phổ biến ở Cộng hòa Pháp (2500 văn phòng) và ở các nước Tây
19


Âu. Các văn phòng tư được tổ chức theo phương thức trực tuyến và loại hình tập
trung. Công ty kiểm toán là bộ máy tổ chức kiểm toán độc lập với số lượng lớn các
kiểm toán viên độc lập. Đây là các công ty quốc gia hoặc xuyên quốc tế. Các công
ty này thực hiện nhiều loại dịch vụ trên địa bàn lớn. Do đó, chúng được tổ chức
theo loại hình phân tán và điều hành theo phương thức chức năng hoặc kết hợp. Ở
Việt Nam, hiện nay có khá nhiều công ty kiểm toán được thành lập: 161 công ty
trách nhiệm hữu hạn, 5 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, 4 công ty hợp danh, 34
công ty là thành viên Hãng kiểm toán quốc tế với khoảng 226 trụ sở văn phòng hoạt
động trên cả nước. Những con số này đang tăng trưởng nhanh cùng sự phát triển
của nền kinh tế Việt Nam trong tiến trình phát triển và hội nhập với kinh tế khu vực và
thế giới.
- Hoạt động: nhìn chung, hoạt động chính của công ty kiểm toán là cung cấp
dịch vụ kiểm toán (dịch vụ xác nhận) mức độ tin cậy của các thông tin tài chính của
đơn vị được kiểm toán. Các thông tin tài chính này có thể được đơn vị trình bày
trong báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản hay trên
báo cáo chi tiêu kinh phí, báo cáo về chi phí phát sinh của các chương trình, các dự
án. Ngoài ra, tùy theo yêu cầu của khách hàng cũng có thể thực hiện một số dịch vụ
khác như dịch vụ tư vấn (tư vấn tài chính, tư vấn thuế, tư vấn nguồn nhân lực, tư
vấn về quản lý); dịch vụ kế toán; dịch vụ kiểm tra thông tin tài chính trên cơ sở các
thủ tục đã thỏa thuận; dịch vụ định giá tài sản (đánh giá, xác định trị giá tài sản cho
khách hàng); dịch vụ bồi dưỡng, cập nhật kiến thức về tài chính, kế toán kiểm toán
và các dịch vụ khác.
1.4.2.3 Tổ chức kiểm toán nội bộ
a) Quá trình hình thành và phát triển
Một số công trình nghiên cứu cho rằng, đầu tiên kiểm toán nội bộ hình thành
do các nhà quản lý trong những công ty cổ phần khi họ nhận thấy cuộc kiểm toán

báo cáo tài chính năm do kiểm toán viên độc lập thực hiện chưa đáp ứng được đầy
đủ các mong muốn của mình, đó là việc kiểm tra sự ghi chép kịp thời, chính xác
nghiệp vụ, cũng như ngăn chặn những gian lận có thể phát sinh.
Sau đó, với sự phát triển của thị trường chứng khoán buộc các công ty cổ
phần có yết giá phải có trách nhiệm cao hơn về độ tin cậy của các báo cáo tài chính
được công bố, dẫn đến sự mở rộng vai trò và trách nhiệm của kiểm toán viên nội bộ
trong việc phân tích và đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ cũng như kiểm tra các
thông tin tài chính, kế toán.
Tại Việt Nam, các doanh nghiệp đều có thể xây dựng bộ phận kiểm toán nội
bộ nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý trong đơn vị mình. Khung pháp lý cho hoạt động
của kiểm toán nội bộ là Luật doanh nghiệp, còn đối với các công ty cổ phẩn khái
niệm đầu tiên liên quan đến kiểm toán nội bộ quy định trong luật là Ban kiểm soát
do Đại hội cổ đông bầu ra.
20


Để tăng cường quản lý các các doanh nghiệp nhà nước, Bộ tài chính đã ban
hành Quy chế kiểm toán nội bộ áp dụng từ ngày 01/01/1998 theo Quyết định số
832-TC/QĐ/CĐKT ngày 28/10/1997. Tiếp đến ngày 16/04/1998, Bộ tài chính ban
hành Thông tư số 52/1998 hướng dẫn tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ ở các doanh
nghiệp nhà nước. Sau đó, Thông tư này được thay thế bằng Thông tư 171/1998TT/BTC ngày 22/12/1998 của Bộ tàichính. Những văn bản này đưa ra những quy
định có tính nguyên tắc và hướng dẫn triển khai công tác kiểm toán nội bộ. Điều
này đã đánh dấu chính thức về mặt pháp lý cho sự ra đời của hoạt động kiểm toán
nội bộ trong các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam.
b) Vai trò, quyền và nghĩa vụ của kiểm toán nội bộ
Kiểm toán nội bộ là một bộ phận độc lập trong đơn vị có chức năng kiểm tra,
đánh giá và đề xuất những cải tiến đối với những hoạt động của mình nhằm đạt
được những mục tiêu của đơn vị.
Tại Việt Nam, vai trò, trách nhiệm và quyền hạn của kiểm toán viên nội bộ
được quy định rõ trong Điều 6, Điều 14 và Điều 15 của Quy chế kiểm toán nội bộ.

c) Tổ chức và hoạt động của kiểm toán nội bộ
- Mô hình tổ chức: Trong các đơn vị, tổ chức kiểm toán nội bộ được thiết lập
dưới hình thức là một bộ phận chuyên môn (phòng ban…) trực thuộc bộ máy lãnh
đạo cao cấp của đơn vị và độc lập với các bộ phận khác của đơn vị. Bộ phận chuyên
môn này chuyên trách đảm nhận công tác kiểm toán trong nội bộ đơn vị và chịu
trách nhiệm về kết quả hoạt động của mình trước các nhà lãnh đạo đơn vị. Thành
viên của tổ chức kiểm toán nội bộ thường bao gồm những người có trình độ chuyên
môn liên quan đến tài chính – kế toán và các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của đơn vị.
Đôi khi, thành viên tham gia hoạt động kiểm toán nội bộ còn có thể mời các chuyên
gia tư vấn ở lĩnh vực chuyên sâu cụ thể. Hình thức tổ chức của kiểm toán nội bộ chỉ
là một bộ phận của một đơn vị, do đó không có tư cách pháp nhân và phạm vi hoạt
động cũng chỉ giới hạn trong đơn vị đó.
- Hoạt động: về nguyên tắc, hoạt động kiểm toán nội bộ thường không được
quy định bởi pháp luật (trừ trường hợp đặc thù như Việt Nam, quy định cho doanh
nghiệp nhà nước). Phạm vi nội dung và mục đích từng cuộc kiểm toán tùy thuộc
vào yêu cầu của nhà quản lý, nhưng nhìn chung tổ chức kiểm toán nội bộ có thể
thực hiện kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán tài chính. Trước
đây, kiểm toán nội bộ rất coi trọng xem xét, đánh giá các thông tin kế toán, già soát
lại hoạt động của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ. Nhưng trong xu
thế phát triển ngày nay, lĩnh vực chủ yếu được coi trọng lại là kiểm toán hoạt động
– tức là kiểm tra, đánh giá về tính kinh tế, tính hiệu lực và tính hiệu quả của hoạt
động trong đơn vị.
1.4.3 Hiệp hội nghề nghiệp
21


Để tăng cường quan hệ hợp tác, hướng dẫn và bồi dưỡng nghiệp vụ kể cả
nhận thức cũng như kinh nghiệm thực tế, những người làm công tác kế toán đã tự
nguyện tập hợp vào các hiệp hội kiểm toán viên khác nhau: hiệp hội kiểm toán viên
công chức, hiệp hội kiểm toán viên nội bộ…Dưới đây liệt kê một số hiệp hội nghề

nghiệp đã có những đóng góp to lớn cho sự phát triển của ngành kế toán, kiểm toán
trong từng quốc gia và trên thế giới.
1.4.3.1 Trên phạm vi quốc tế
Trên phạm vi quốc tế, hiệp hội nghề nghiệp được hình thành từ năm 1963,
đó là tổ chức quốc tế các cơ quan kiểm toán tối cao (INTOSAI), hiện nay đã có hơn
170 nước tham gia. Mục tiêu của INTOSAI là tạo điều kiện cho việc trao đổi các
quan điểm và kinh nghiệm giữa các cơ quan kiểm toán tối cao về công tác kiểm
toán Nhà nước. Đến năm 1996, kiểm toán Nhà nước Việt nam chính thức trở thành
thành viên của INTOSAI.
Liên đoàn quốc tế (IFAC) là tổ chức phi chính phủ bao gồm các tổ chức
nghề nghiệp của nhiều quốc gia trên thế giới. Ra đời vào ngày 7/10/1977, tính đến
nay IFAC có 155 thành viên ở 118 nước, đại diện cho hơn 2.500.000 ngàn kế toán
viên trên toàn cầu. Mục tiêu của IFAC là củng cố nghề nghiệp kế toán trên phạm vi
toàn cầu và đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế thế giới thông qua việc ban
hành và thúc đẩy sự tuân thủ của các chuẩn mực nghề nghiệp có chất lượng cao,
thúc đẩy sự hòa hợp quốc tế và trình bày quan điểm đối với những vấn đề thuộc về
lợi ích của công chúng không thích hợp.
Với sự mở rộng và phát triển không ngừng của kiểm toán nội bộ, vào năm
1941, Hiệp hội kiểm toán nội bộ (IIA) đã được thành lập tại NewYork (Hoa Kỳ).
Đến nay hội đã có hơn 145.000 thành viên trên toàn thế giới. Hoạt động chính của
hội là xây dựng và ban hành các chuẩn mực chuyên môn, gắn kết các kiểm toán
viên nội bộ giữa các quốc gia và thực hiện việc tuyên truyền phổ biến những kinh
nghiệm hoạt động nghiệp vụ.
Trên bình diện khu vực, ví dục ở khu vực Châu Á, tổ chức các cơ quan kiểm
toán tối cao Asian đã thành lập từ năm 1979, hiện đã có hơn 40 thành viên, trong đó
có kiểm toán nhà nước Việt Nam.
Hiệp hội quốc tế và hiệp hội khu vực hoạt động chủ yếu là cầu nối giữa các
kiểm toán viên và là diễn đàn chung cho các nước tham gia cung cấp thông tin về
hoạt động, trao đổi chuyên môn và kinh nghiệm.
1.4.3.2 Trên phạm vi quốc gia

Trên bình diện quốc gia, hiệp hội nghề nghiệp của các kiểm toán viên và kế
toán viên được thành lập ở nhiều quốc gia như Hiệp hội kế toán viên công chứng
Hoa Kỳ (AICPA), hiệp hội kiểm toán viên Công chứng Nhật (JICPA), Hiệp hội
giám định viên kế toán Anh Quốc (ICAEW), đoàn kiểm toán viên Đức (WPK)…
22


Tại Việt nam, Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam (viết tắt VAA) là tổ chức
nghề nghiệp về kế toán và kiểm toán tại Việt Nam được thành lập năm 1994, là
thành viên IFAC từ năm 1998. Website: . VAA là tổ chức duy
nhất được Bộ tài chính ủy nhiệm tổ chức đào tạo và cấp chứng chỉ hành nghề kế
toán. Hoạt động với mục địch: Tập hợp, đoàn kết các tổ chức và cá nhân hoạt động
trong lĩnh vực kế toán và kiểm toán ở Việt Nam vì sự nghiệp duy trì và phát triển
nghề nghiệp; Nâng cao chất lượng nghiệp vụ chuyên môn; Giữ gìn phẩm chất, đạo
đức nghê gnhiệp nhằm phục vụ ngày càng tốt hơn yêu cầu quản lý kinh tế, tài chính
của đất nước; Hội nhập với tổ chức nghề nghiệp kế toán và kiểm toán các nước
trong khu vực và thế giới.
Bên cạnh đó, do sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động kiểm toán độc lập tại
Việt Nam, Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (viết tắt VACPA) đã được
thành lập năm 2005, là tổ chức nghề nghiệp quản lý các kiểm toán viên hành nghề
tại Việt Nam. Website: . VACPA là thành viên của VAA. Mục
đích của VACPA là:Tập hợp, đoàn kết những cá nhân cùng nghề kiểm toán; Duy
trì, phát triển và nâng cao trình độ kiểm toán viên hành nghề, chất lượng dịch vụ kế
toán, kiểm toán; Giữ gìn uy tín và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp để trở thành Hội
nghề nghiệp chuyên nghiệp được khu vực và quốc tế thừa nhận, nhằm góp phần công
khai, minh bạch thông tin kinh tế, tài chính của doanh nghiệp và tổ chức theo qui định
của pháp luật.
Tại Việt Nam, sự phát triển của kiểm toán nội bộ chưa đủ mạnh, vì vậy cho
đến nay vẫn chưa ra đời hiệp hội nghề nghiệp của kiểm toán viên nội bộ.
Hiệp hội nghề nghiệp quốc gia hoạt động chủ yếu là xây dựng, ban hành các

chuẩn mực quốc gia về kế toán, kiểm toán và hướng dẫn thực hiện các thông lệ,
chuẩn mực, hướng dẫn nghiệp vụ và phát triển nghề nghiệp.
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 1
A. LÝ THUYẾT
Câu hỏi 1: Khái quát quá trình phát triển của kiểm toán. Liên hệ với lịch sử phát
triển của kiểm toán ở Việt Nam.
Câu hỏi 2: Kiểm toán là gì? Nêu những nội dung chính trong định nghĩa?
Câu hỏi 3: Vì sao sự ra đời và phát triển của kiểm toán là một tất yếu khách quan?
Câu hỏi 4: Phân loại theo mục đích kiểm toán có kiểm toán hoạt động, kiểm toán
tuân thủ và kiểm toán báo cáo tài chính. Vậy anh (chị) hãy phân biệt ba loại kiểm
toán nói trên.
Câu hỏi 5: Phân loại theo chủ thể kiểm toán có kiểm toán nhà nước, kiểm toán độc
lập, kiểm toán nội bộ. Vậy anh (chị) hãy phân biệt ba loại kiểm toán nói trên.
Câu hỏi 6: Tại Việt Nam, để được cấp chứng chỉ kiểm toán viên, người dự tuyển
phải đảm bảo những điều kiện gì?
23


Câu hỏi 7: Liệt kê những tổ chức nghề nghiệp về kế toán – kiểm toán ở Việt Nam.
Theo anh (chị) các tổ chức nghề nghiệp có ảnh hưởng tới hoạt động kiểm toán như
thế nào?
Câu hỏi 8: Anh (chị) hãy phân tích đặc điểm của nghề nghiệp kiểm toán trong nền
kinh tế hiện nay.
Câu hỏi 9: Anh (chị) cho biết các quan điểm sau đúng hay sai và giải thích:
a) Kiểm toán là sự phát triển đi lên từ kế toán.
b) Ở Việt Nam, Hiệp hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam cấp chứng chỉ
kiểm toán viên hành nghề và thực hiện kiểm soát chất lượng các cuộc kiểm toán báo
cáo tài chính.
c) Theo Luật doanh nghiệp Việt Nam, tất cả các công ty đều phải thực hiện
kiểm toán báo cáo tài chính hằng năm

d) Lợi ích kinh tế của người cung cấp thông tin và người sử dụng thông tin là
tương tự nhau nên nhu cầu cần thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính là một tất yếu
khách quan.
e) Nếu một doanh nghiệp lớn có bộ phận kiểm toán nội bộ hữu hiệu thì
không phải thuê công ty kiểm toán độc lập kiểm toán báo cáo tài chính của họ.
B. BÀI TẬP
Bài tập 1: Sau đây là các công việc liên quan đến lập báo cáo tài chính và kiểm
toán
báo cáo tài chính:
1. Phân tích các sự kiện và nghiệp vụ kinh tế
2. Hiểu về hoạt động kinh doanh và ngành hoạt động của khách hàng
3. Phân loại và tổng hợp các dữ liệu đã ghi chép
4. Phân phát báo cáo tài chính tới người sử dụng
5. Phát hành báo cáo kiểm toán cho công ty khách hàng
6. Đưa ra ý kiến về báo cáo tài chính được kiểm toán
7. Trình bày những kiến nghị đối với ban quản trị và hội đồng giám đốc
8. Đo lường và ghi chép các nghiệp vụ kinh tế
9. Thu thập và đánh giá bằng chứng kiểm toán liên quan đến báo cáo tài
chính
10. Lập báo cáo tài chính theo yêu cầu của chuẩn mực và chế độ kế toán hiện
hành
11. Kiểm tra xem các thông tin tài chính có được trình bày trung thực và hợp
lý, phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành hay không?
12. Đánh giá tính hợp lý
Yêu cầu: Sắp xếp các công việc nêu trên theo trật tự nhằm mô tả quy trình lập báo
cáo tài chính, quy trình kiểm toán báo cáo tài chính và cho biết mối liên hệ giữa
chúng.
Bài tập 2: Giả sử có các chủ thể kiểm toán sau: kiểm toán viên độc lập, kiểm toán
viên nhà nước, kiểm toán viên nội bộ và thanh tra viên ngân hàng với các hoạt
động: kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ, dịch vụ

kế toán và tư vấn quản lý. Anh (chị) hãy cho biết mỗi trường hợp sau sẽ do chủ thể
kiểm toán nào thực hiện và thuộc loại hoạt động nào trong các loại kể trên:
24


1. Kiểm toán báo cáo tài chính của một doanh nghiệp để nộp ngân hàng xin
vay vốn.
2. Kiểm toán báo cáo tài chính của một ngân hàng lớn có niêm yết để phân
phát cho cổ đông.
3. Lập báo cáo tài chính cho một doanh nghiệp nhỏ vì họ không có bộ phận
kế toán đủ năng lực.
4. Xác định tính trung thực, hợp lý của các báo cáo tài chính của một doanh
nghiệp nhà nước theo chỉ thị của Quốc hội.
5. Kiểm tra các chỉ thị của Tổng giám đốc công ty quy định trách nhiệm của
Trưởng đại diện bán hàng khu vực miền Trung.
6. Đánh giá hiệu quả của một chương trình trọng điểm của Chính Phủ đã
thực hiện cách đây bốn năm tại các địa phương thuộc khu vực Tây Bắc.
7. Ngân hàng nhà nước kiểm tra định kỳ các ngân hàng thương mại về công
tác huy động vốn, về các khoản thế chấp cho vay theo quy định của ngân hàng nhà
nước đã ban hành.
8. Kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của các bộ phận chức năng trong dự án
nâng cao chất lượng sản phẩm của đơn vị để xác định tính hiệu quả của dự án theo
yêu cầu của ban giám đốc.
Bài tập 3: Ông Quang là một thành viên trong Ban giám đốc của công ty Mai Hạ.
Trong một cuộc họp của Ban giám đốc về việc phê chuẩn kế hoạch tài chính cho
năm 2015, có hai khoản chi phí dự kiến cho kiểm toán nội bộ và kiểm toán độc lập
làm ông Quang chú ý. Ông Quang không hiểu rõ vì sao cần tốn kém chi phí cho cả
hai loại kiểm toán nêu trên. Do chi phí dự kiến cho việc thuê kiểm toán độc lập
kiểm toán báo cáo tài chính thấp hơn chi phí thiết lập bộ phận kiểm toán nội bộ nên
ông Quang đề nghị chỉ cần thuê kiểm toán độc lập.

Yêu cầu: Theo anh (chị) đề nghị của ông Quang có hợp lý không? Nếu không anh
(chị) hãy trình bày ý kiến của mình và giải thích.
Bài tập 4: Công ty TNHH New Star là công ty chuyên kinh doanh xuất khẩu đồ thủ
công mỹ nghệ do Ông Minh Mẫn làm tổng giám đốc. Công ty làm ăn rất phát triển
và trên thực tế không để xảy ra bất cứ sai phạm nghiêm trọng nào từ khi thành lập
tới nay. Do nhu cầu mở rộng kinh doanh, công ty quyết định đi vay vốn. Ngân hàng
Liên Việt yêu cầu Minh Mẫn cung cấp báo cáo tài chính của công ty trong 3 năm
gần đây được kiểm toán hoặc tối thiểu là báo cáo kiểm toán của năm trước.
Yêu cầu:
1) Theo anh/chị, tại sao Ngân hàng Liên Việt yêu cầu báo cáo tài chính của
công ty đã được kiểm toán?
2) Anh/chị hãy giải thích những lợi ích mà kiểm toán viên có thể đem lại cho
công ty như thế nào?
3) Anh/chị hãy mô tả mục tiêu của một cuộc kiểm toán độc lập với các báo
cáo tài chính.
Bài tập 5: Khi nói về vai trò của kiểm toán độc lập có nhận định cho rằng: Kiểm
toán độc lập có ý nghĩa trên nhiều mặt “Đó là quan toà công minh của qúa khứ,
người dẫn dắt cho hiện tại và người cố vấn sáng suốt cho tương lai”
Yêu cầu: Vận dụng kiến thức đã học, anh/ chị hãy:
25


×