Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Kỹ thuật nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa và mương vườn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (760.34 KB, 23 trang )

NG 6

KỸ THUẬT NUÔI TÔM CÀNG XANH
(Macrobrachium rosenbergi Deman)
TRONG RUỘNG LÚA và MƯƠNG VƯỜN
I. Giới thiệu
II. Đặc điểm sinh học của tôm càng xanh
1. Hình thái, phân loại và phân bố
2. Các yếu tố môi trường.
3. Đời sống của tôm càng xanh
4. Đặc điểm dinh dưỡng
5. Đặc tính sinh trưởng
6. Đặc tính sinh sản

III. Các mô hình nuôi tôm càng xanh
1. KỸ THUẬT NUÔI TÔM TRONG RUỘNG LÚA
1.Thiết kế công trình
2.Mùa vụ
2. KỸ THUẬT NUÔI TÔM TRONG MƯƠNG VƯỜN

I. Giới thiệu

TOP

Tôm càng xanh Macrobrachium rosenberii phân bố tự nhiên ở vùng Châu Á - Thái
Bình Dương như Ấn Độ, Sri Lanka, Bangladesh, Thái Lan, Malaysia, Myanmar, Philippines,
Campuchia, Indonesia, Bắc Úc và Việt Nam. Sản lượng tôm cũng được báo cáo tại nhiều nước
như Israel, Nhật Bản, Đài Loan và vài nước Châu Phi, Mỹ la tinh và Caribbean (New, 1990).
Ngoài ra, một số loài có giá trị kinh tế phân bố ờ phía Tây châu Mỹ (M. americanum) và các
vùng tiếp giáp Đại Tây Dương (M. carinus).
Hiện nay có nhiều quốc gia sản xuất giống và nuôi tôm càng xanh với các qui mô khác


nhau. Ở Ấn Độ sản lượng tôm càng xanh khoảng 500 tấn/năm trong đó khoảng 40 tấn từ tôm
nhân tạo. Campuchia khai thác hàng năm khoảng 100-200 tấn. Sản lượng tôm ở Malaysia
khoảng 400 - 500 tấn. Chương trình nghiên cứu nuôi và sản xuất giống tôm càng xanh bắt đầu
1957-1960. Đồng thời họ có chương trình đào tạo cán bộ khoa học về lãnh vực này. Từ năm
1972 phát động phong trào nuôi tôm với chương trình Nhà nước phát triển nghề nuôi tôm.
1980 Thái Lan có 30 trại sản xuất giống đáp ứng 85% nhu cầu người nuôi. Sang 1983 có 300
trại nuôi tôm đạt sản lượng 500 tấn. Ở Hawaii năm 1966, tiến sĩ Fujimura nhập 36 con tôm
càng xanh từ Malaysia và công bố qui trình sản xuất giống bằng nước xanh + thức ăn tổng hợp
và Artemia vào năm 1977. Ở Carolina (Mỹ) có những trại 70 -100 ha với năng suất nuôi 1,6 -


1,8 tấn/ha với 165 ngày nuôi. Ở Đài Loan, năm 1970 nhập về 300 con tôm từ Thái Lan và
công bố quy trình sản xuất giống mang tính đặc thù của mình là nơi chỉ có 7 - 8 tháng nhiệt độ
ẩm. Tại Pháp là nơi không có tôm càng xanh phân bố, nhưng cũng có qui trình sản xuất giống
mới (nước trong và Artemia) và xuất khẩu Kỹ thuật nuôi tôm sang các nước Châu Phi và Nam
Mỹ.
Theo FAO (2002), tổng sản lượng tôm càng xanh trên thế giới đạt trên 119.000 tấn, đạt
giá trị 410 triệu USD vào năm 2000. Châu Á, đặc biệt là Trung Quốc, được xem là nơi sản
xuất tôm càng xanh chủ yếu với 95% tổng sản lượng tôm càng xanh trên thế giới. Theo báo
cáo mới nhất, năm 2003, chỉ riêng Trung Quốc, sản lượng tôm càng xanh đạt trên 300.000 tấn
Tôm là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nhiều tỉnh ở Đồng bằng Sông Cửu Long. Sản
lượng chủ yếu là khai thác từ tự nhiên với sản lượng như sau:
Năm
Tấn

1981
2.500

1982
3.800


1983
4.200

1984
4.800

1985
6.500

Tuy nhiên với sản lượng khai thác tăng hàng năm cộng với môi trường bị ô nhiễm nên
nguồn lợi tự nhiên bị suy giảm. Trong những năm gần đây do cải tiến các qui trình ương tôm
nên khâu sản xuất giống ngày càng đáp ứng cho nhu cầu của vùng Đồng bằng Sông Cửu
Long. Sản lượng, diện tích hiện tại và dự kiến được biểu hiện qua bảng sau:
Tỉnh

An Giang
Bạc Liêu
Bến Tre
Cà Mau
Cần Thơ
Đồng Tháp
Tiền Giang
Trà Vinh
Vĩnh Long
TPHCM

Hiện tại
Năm
Sản lượng

Tấn
1988
1998
1997
1998
1995
1998
1998
1998

0.7
1379.5
113
850
200
238
250
500

Năm

Dự kiến
Sản lượng
Tấn

Diện tích
ha

2010
2010

2010
2010
2010
2010
2010
2010
2005

750
400-800
1000
2000
200-220
2500
2690
1000

870
2500
500-1000
5000
200
5000
3000
500

Theo thống kê năm 2002 của Bộ Thủy Sản thì cả nước đạt khoảng 10.000 tấn tôm càng
xanh, mà chủ yếu là của ĐBSCL. Nghề nuôi tôm hiện phổ biến ở các tỉnh An Giang, Cần Thơ,
Đồng Tháp, Bến Tre, Vĩnh Long và Trà Vinh với các mô hình như: nuôi tôm trong mương
vườn, nuôi tôm trên ruộng lúa, nuôi tôm trong đăng quầng. Năng suất tôm nuôi đạt bình quân

184 kg/ha/vụ đối với nuôi kết hợp với trồng lúa, 686 kg/ha/vụ đối với nuôi tôm luân canh với
trồng lúa, 4.120 kg/ha/vụ đối với nuôi tôm đăng quầng và 1.200 kg/ha/vụ đối với nuôi tôm ao .

II. Đặc điểm sinh học của tôm càng xanh
1. Hình thái, phân loại và phân bố

TOP


Tôm càng xanh gồm 2 phần: phần đầu hay còn gọi là vỏ đầu ngực và phần mình gồm 6
đốt và tận cùng là telson. Thân tôm tương đối tròn, thân có màu xanh dương xen kẽ những
đoạn trắng trong trên thân. Chủy rất phát triển, nhọn ở đầu và cong vút lên. Mặt trên của chủy
có 11-15 răng, thường có 3 - 4 răng sau hốc mắt, mặt dưới chủy cò 12 -15 răng. Công thức
chủy như sau:
CR =

3 - 4 / 11-15
----------------12-15

Phân loại tôm như sau
Ngành tiết túc:
Arthropoda
Lớp giáp xác:
Crustacean
Lớp phụ giáp xác bậc cao: Malacostraca
Bộ mười chân:
Decapoda
Bộ phụ chân bơi:
Natantia
Phân bộ:

Caridae
Họ:
Palaemonidae
Giống:
Macrobrachium
Loài:
M. rosenbergii (de Man)
Ở Việt Nam, theo Đặng Ngọc Thanh và ctv (1980) ở Bắc Việt Nam có 4 loài thuộc
giống Macrobrachium nhưng không có loài Macrobrachium rosenbergii, ở miền Nam có 2
loài là M. lanchesteri và M. rosenbergii. Trong đó tôm càng xanh M. rosenbergii phân bố chủ
yếu ở các thủy vực thuộc hệ thống sông Đồng Nai, Vàm cỏ, Sài gòn và Đồng bằng Sông Cửu
Long.
2. Các yếu tố môi trường.

TOP

Tôm càng xanh là loại giáp xác 10 chân, sống chủ yếu ở tầng đáy. Tôm sống hầu hết
các thủy vực nước ngọt trong nội địa và vùng nước lợ. Tôm là loài giáp xác vừa bơi vừa bò.
* Độ phèn (pH): Tôm sinh trưởng tốt trong môi trường nước trung tính pH dao động từ 7 - 8.
Độ pH từ 5,5 - 6,5 tôm có thể sống nhưng tăng trọng rất kém. Độ pH < 5,5 tôm sẽ chết. Điều
này cần lưu ý khi nuôi tôm ở vùng ĐBSCL, đặc biệt là những vùng bị nhiễm phèn.
* Nhiệt độ: Tôm thích ứng ở nhiệt độ 25 - 30 oC. Tôm không chiụ được lạnh hay quá nóng 35 38oC Vì thế nuôi tôm trong mùa khô phải đảm bảo đủ độ sâu tối thiểu của nước 0,8 m.
* Oxy hòa tan: Tôm thích sống trong môi trường nước sạch, không nhiễm mặn, phèn và nhiễm
bẩn. Tốt nhất nên đảm bảo oxy hòa tan là 5 mg/l.
* Độ mặn. Tôm sinh trưởng và phát triển tốt trong môi trường nước ngọt, tuy nhiên trong môi
trường nước lợ (5 - 7 ppt) tôm vẫn sinh trưởng và phát triển bình thường. Độ mặn cao có thể
ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của tôm.
3. Đời sống của tôm càng xanh

TOP


Chu kỳ sống của tôm càng xanh có 4 giai đoạn là phôi, ấu trùng, hậu ấu trùng và tôm trưởng
thành.


Thời kỳ phát triển phôi. Trướng thành thục sẽ được thụ tinh khi có sự giao vĩ giữa tôm
đực và tôm cái. Trứng thụ tinh sẽ được ấp ở phần bụng của con cái cho đến khi nở thành ấu
trùng.
Thời kì ấu trùng (larva). Ấu trùng sống trong môi trường nước lợ (12 - 16 ppt ) giai
đoạn này kéo dài 30 - 45 ngày. Ấu trùng sống phù du và phải trải qua 11 giai đoạn phát triển.
Bảng tóm tắt dược phân biệt như sau
Giai đoạn
I
II
III
IV
V
VI
VII
VIII
IX
X
XI
Hậu ấu trùng

Đặc điểm đáng chú ý
Mắt không có cuống
Mắt có cuống
Chân đuôi xuất hiện
Chủy có hai răng ở cạnh trên

Đốt đuôi hẹp laị và kéo dài
Mầm chân bụng xuất hiện
Chân bụng có hai nhánh và chưa có lông tơ
Chân bụng có lông tơ
Nhánh trong của chân bụng có nhánh phụ trong
Chủy có 3 - 4 răng ở cạnh đầu
Chủy có răng ỏ nửa cạnh trên
Chủy có răng ở cạnh trên và cạnh dưới

Thời kỳ hậu ấu trùng (Post-larvae). Tôm giống nhỏ có kích cỡ 1cm, tôm có thể bơi lội
chủ động. Sau thời gian nuôi 2 - 3 tháng trong điều kiện ương nuôi thích hợp tôm sẽ đạt 7 - 10
cm gọi là tôm giống lớn (juvenile).
Thời kỳ tôm trưởng thành. Tôm trưởng thành là lúc tôm sau khi nuôi khoảng 3-4 tháng
từ tôm lứa hay 7 - 8 tháng từ postllarva.
4. Đặc điểm dinh dưỡng

TOP

Tùy từng giai đoạn phát triển, tôm ăn các loại thức ăn khác nhau. Ở giai đoạn ấu trùng ,
tôm ăn chủ yếu là phiêu sinh động vật, giun rất nhỏ và ấu trùng của các động vật không xương
sống khác. Trong trại tôm, tảo Chlorella, Artemia và thức ăn chế biến như gan bò, trứng, sữa
được dùng làm thức ăn cho tôm.
Tôm càng xanh là loài ăn tạp thiên về thức ăn động vật. Khi phân tích thành phần thức
ăn trong dạ dày của tôm ngoài tự nhiên gặp chủ yếu các loài nguên sinh dộng vật, giun trong
đó có nhiều nhất là giun nhiều tơ, giáp xác, côn trùng, ốc và cả cá nhỏ. Ngoài ra còn gặp các
ngành tảo dạng sợi thuộc ngành tảo lục (Chlorophyta), tảo làm (Cyanophyta), tảo silic
(Bacilariophyta) và tảo vàng ánh (Chrysophyta). Ngoài những thức ăn tự nhiên, tôm còn ăn
các loại thức ăn khác như cua, ốc, cá vụn, khoai mì, cơm dừa, xác động vật thối rữa và thức ăn
tổng hợp.
5. Đặc tính sinh trưởng


TOP

Tôm càng xanh tăng trưởng nhanh. Khi tăng trưởng, tôm cần lột xác. Thường thì tôm
lột xác khoảng 2 - 3 lần trong một tháng tùy thuộc vào chất lượng nước và chất lượng thức ăn.
Khi lột xác, tôm thường cặp mé, hoặc tìm những chổ cạn hay chà trú ẩn để lột xác. Tôm


thường lột xác vào ban đêm hay buổi sáng sớm khi con nước ròng. Sau 30 phút tôm có thể
hoạt động trở lại nhưng vỏ kitin vẩn còn mềm, sau khoảng 4 - 5 giờ thì vỏ cứng hẳn.
Chu kỳ lột xác của tôm càng xanh
Trọng lượng tôm (g)
0,05 - 0,5
1,0 - 2,0
3,0 - 5,0
6,0 - 10
11 - 15
16 - 20
21 - 25
26 - 35
Trên 35
6. Đặc tính sinh sản

Chu kỳ lột xác (ngày)
5
6
9
13
17
18

20
22
22 - 24
TOP

Có thể phân biệt tôm đực và tôm cái bằng đôi chân bụng thứ II. Ở tôm đực có 2 mấu
(nhánh phụ), trong khi tôm cái có 1 mấu. Ngoài ra có thể phân biệt tôm đực và tôm cái thông
qua cơ quan sinh dục: lổ sinh dục dực ở 2 gốc của đôi chân bò V, trong khi con cái ở đôi chân
bò III.
Tôm sinh sản quanh năm, tuy nhiên mùa vụ sinh sản của tôm ngoài tự nhiên tập trung
vào tháng 1 - 2 và 8 - 9 âm lịch. Tuy nhiên trong ao nuôi, bắt gặp tôm mang trứng khi 3 - 4
tháng tuổi con giống từ postlarvae.
Tôm đực thành thục có trứng màu da cam ở bên trong giáp đầu ngực, đó là những con
cái sắp bước vào thời kỳ giao vĩ. Hiện tượng giao vĩ chỉ xảy ra khi con cái lột xác, còn con đực
hình như lúc nào cũng sẳn sàng. Quá trình giao vĩ có thể chia làm 4 giai đoạn gồm tiếp xúc,
ôm giữ con cái, trèo lên lưng và lật ngữa gắn túi tinh. Tinh trùng được tiết ra dưới dạng hình
túi nằm sát phần ngực của con cái. Sau 6-20 giờ, tôm cái bắt đầu đẻ trứng. Khi đẻ con cái cong
mình về phía trước đến khi ngực và bụng tiếp xúc nhau, tạo nên sức đẩy ép trứng từ buồng
trứng ra ngoài lổ sinh dục. Trứng thụ tinh rồi chảy xuống vào bên trái và bên phải của buồng
ấp trứng từ đôi chân bụng thứ 4 đến thứ 3, 2 và cuối cùng là chân bụng 1. Trong buồng ấp
trứng được bao bọc bởi một màng nhày trong suốt như chùm nho, những chùm trứng này dính
chặt vào những sợi lông ở 4 chân bụng. Tôm cái mang trứng dưới bụng và bảo vệ trứng cho
đến khi nở. Tùy thuộc vào nhiệt độ, trứng sẽ nở vào khoảng 15 - 23 ngày. Trứng mới đẻ có
màu vàng nhạt sáng chuyển dần sang màu da cam đến ngày thứ 12 chuyển dần sang sáng đậm
và đến ngày nở có màu sáng đậm đen.
Sức sinh sản tuyệt đối của tôm dao động rất lớn. Ở Ấn độ sớ lượng trứng dao động từ
7.000 - 30.000 trứng, ở Philippines từ 45.000 - 94.000 trứng, ở Thái lan từ 20.000 - 120.000
trứng và ở Việt nam từ 2.600 - 160.000 trứng. Tuy nhiên số lượng trứng tùy thuộc vào kích cỡ
tôm và dinh dưỡng. Tôm càng lớn thường càng nhiều trứng. Sức sinh sản tương đối dao
động 500 -1.000 trứng/g. Thông thường tôm đẻ lần 2, 3 tăng lên và giảm dần các lần còn lại.

Tôm thường đẻ từ 4 -5 lần, cá biệt 6 lần. Mỗi lần cách nhau 19 - 45 ngày tuy nhiên cũng có
trường hợp 7 ngày.

III. Các mô hình nuôi tôm càng xanh

TOP


1. KỸ THUẬT NUÔI TÔM TRONG RUỘNG LÚA
1.Thiết kế công trình
Ruộng lúa có thể nuôi tôm càng xanh phải đáp ứng các yêu cầu sau:
-

Cơ cấu chất đất phải giữ được nước.

-

Gần nguồn nước ngọt tốt để có thể cấp tiêu nước dễ dàng. Tốt nhất là có thể trao đổi
nước theo thuỷ triều.

-

Đất không bị nhiễm phèn, độ pH của nước từ 6,5 trở lên.

-

Không bị ảnh hưởng bởi nước thải công nghiệp và nước bẩn.

-


Tiện đi lại và chăm sóc quản lý.

Diện tích ruộng nuôi dao động từ 0,5 - 5,0 ha tuỳ theo từng điều kiện cụ thể.


Ruộng nuôi phải có đê bao kiên cố để đảm bảo giữ được mức nước tối thiểu trên mặt
ruộng là 0,6 m. Mặt bờ đê rộng 1,2 - 1,5 m, chân bờ rộng 3,0 - 4,0 m, cao 1,2 m. Vào
mùa lũ nên chắn lưới quanh bờ để ngăn không cho tôm ra ngoài khi mức nước cao hơn
bờ đê.



Ruộng phải có mương bao rộng 3,0 - 4,0 m, sâu 0,8-1 m so với mặt ruộng. Mặt đáy của
mương bao có độ nghiêng về phía cống thoát nước. Diện tích mương bao chiếm khoảng
20 - 25 % tổng diện tích ruộng.



Ruộng nuôi nên thiết kế cống cấp và thoát riêng.

Mặt cắt ngang ruộng lúa nuôi tôm càng xanh
Chuẩn bị ruộng nuôi tôm


Hình 1: Rơm rạ khô sẽ được dọn sạch


Sau khi thu hoạch lúa, dọn sạch rơm rạ, cỏ trên ruộng lúa; sên vét lớp bùn đáy ở
mương bao, cho nước vào ngập ruộng ngâm vài ngày rồi xả bỏ. Những ruộng có hệ
thống mương bao mới đào thì cần lấy nước vào ngâm vài lần để rửa phèn.




Bón vôi: sử dụng vôi nung (CaO) 10 - 15 kg/100m2. Bón vôi sau khi đáy mương bao đã
được tát cạn, vôi được rải khắp mương và bờ ruộng. Bón vôi ngoài việc diệt tạp, tiêu
độc đáy mương nó còn tạo điều kiện pH cao thích hợp trong việc tạo thức ăn tự nhiên
ban đầu có ích cho tôm nuôi giai đoạn nhỏ.



Phơi mặt ruộng và đáy mương bao khoảng 2 - 3 ngày, tránh phơi quá lâu mặt ruộng bị
nứt nẻ làm xì phèn.



Cấp nước vào ruộng nuôi tôm phải qua lưới lọc (lưới cước a = 1 mm) để ngăn chặn
địch hại và tép cá tạp vào làm giảm sản lượng nuôi và cạnh tranh thức ăn.Khi mực nước
trong mương bao đạt 1,2 m thì có thể bón phân vô cơ DAP để gây màu nước. Lượng
phân bón từ 100 - 150 g/100 m 2. Lợi ích của việc bón phân là để hạn chế tảo đáy phát
triển, tảo sẽ hấp thu các sản phẩm Nitơ và Phospho trong nước hạn chế nguồn gây ô
nhiễm và ổn định nhiệt độ, pH.

Xung quanh mương bao ruộng có thế để chà khoảng 4 - 5 m cắm một bó. Chà nên buộc
lại thành bó cắm một góc nghiêng 45o so với mặt đất. Chà thường là những bó tre hay các
nhánh cây khác. Không nên dùng chà của những cây có chứa tinh dầu như: cam, quít, bưởi.
2. Mùa vụ

TOP

Thường tận dụng vụ lúa Hè - Thu để nuôi tôm. Lúc này nước nhiều và thời gian ngập

nước trong ruộng kéo dài, tôm có điều kiện ăn được thức ăn trên ruộng. Nuôi tôm tốt nhất nên
nuôi trên các ruộng cấy lúa vì luá cấy có khoảng trống nên tôm có thể bơi xen giữa lúa ăn
được thức ăn trên ruộng. Nếu nuôi trên lúa sạ thì nên sạ lúa thưa hơn sạ bình thường. Thả
giống tốt nhất khi cây lúa 2 tuần sau khi sạ hay 1 tuần sau khi cấy. Lịch thời vụ 2 lúa + 1 tôm.
Lúa Hè - Thu
4

5

6

Lúa Đông - Xuân
Tôm càng xanh
7
8
9

10
11
12
1
2
Tháng
Sơ đồ: Lịch thời vụ sản xuất lúa và nuôi tôm xen canh

3


Một số nơi do vụ lúa Hè - Thu không lời nên nông dân bỏ hẳn vụ này và chỉ nuôi tôm
càng xanh. Lịch thời vụ 1 lúa + 1 tôm

Lúa Đông - Xuân
4

5

6

Tôm càng xanh
7
8
9

10
11
12
1
2
Tháng
Sơ đồ: Lịch thời vụ sản xuất lúa và nuôi tôm luân canh

3

Mô hình nuôi tôm càng xanh ở ruộng lúa
- Mô hình một vụ lúa và một vụ tôm: ruộng chỉ canh tác vụ lúa Đông -Xuân, sau khi thu
hoạch lúa thì tiến hành thả tôm Post (cỡ 1,1 - 1,2 cm). Thời điểm thả giống thông thường từ
tháng 3 - 4, mật độ thả từ 3 - 5 con/m2, thời gian nuôi 7 - 8 tháng. Tỉ lệ sống 30 - 40%, trọng
lượng bình quân lúc thu hoạch 50 g/con.
-

Mô hình hai vụ lúa và một vụ tôm: thời gian nuôi ngắn khoảng 4,5 - 5,0 tháng, do đó yêu

cầu thả giống lớn (cỡ 3,0 - 5,0 g/con). Mật độ thả từ 2 - 4 con/m 2. Tỉ lệ sống 40 - 60%,
trọng lượng bình quân lúc thu hoạch 50 g/con.



Sau khi làm lúa vụ hai khoảng 1 tháng thì có thể ương Post trong ao hoặc ở mương bao
trong ruộng lúa. Khi thu hoạch lúa xong, vệ sinh chuẩn bị ruộng nuôi theo yêu cầu thì có
thể đưa giống vào thả nuôi trên ruộng.

Cách chọn tôm giống tốt để thả nuôi
Chỉ tiêu

Yêu cầu kỹ thuật

Tôm bột
Tôm giống
1. Sạch bệnh
- Tôm khoẻ mạnh không có dấu hiệu bị nhiễm bệnh.
2. Chiều dài toàn
10 -12
25 - 30
thân (mm)
(Số tôm chiều dài nhỏ và lớn hơn (Số tôm chiều dài nhỏ và lớn
qui định không nhiều hơn 10%hơn qui định không nhiều hơn
tổng số).
15% tổng số).
3. Màu sắc
- Màu hồng, màu cam nhạt hoặc- Màu xám xanh trong suốt
màu xám trong.
4. Ngoại hình

- Hình thái cấu tạo ngoài đã hoàn chỉnh như tôm trưởng
thành.Thân và các bộ phân bên ngoài không bị tổn thương.
5. Trạng thái hoạt - Khi ngừng sục khí tôm hoạt- Tôm thích sống tầng đáy và
động
động mạnh.
bám vào các giá thể.
- Tôm thường bơi hướng về phía - Có thể bơi ngược nước, di
trước, mặt bụng úp xuống.
chuyển nhanh bằng cách bò
- Thường bám chắc vào đáy và hoặc bún thân.
thành bê.
- Phản ứng nhanh với chướng
- Phản ứng nhanh với chướng ngại vật.
ngại vật và ánh sáng mạnh.
- Háo ăn và bắt giữ thức ăn tốt.


- Háo ăn và bắt giữ thức ăn tốt.

Cách vận chuyển và thả tôm giống
-

Thông thường tôm càng xanh giai đoạn post được chuyên chở trong bao nilon có bơm oxy.
Bao gồm 2 lớp nilon và 1 lớp bao bảo vệ bên ngoài. Kích thước bao 5x10 dm (bao bảo vệ
là loại bao đựng lúa khoảng 2 giạ), lượng nước trong bao từ 3 - 5 lít, thông thường mỗi bao
chứa 2.000 - 2.500 post. Trường hợp vận chuyển gần trong thời gian 15 - 20 phút có thể
tăng mật độ lên 7.000 - 8.000 post/bao. Trường hợp vận chuyển đi xa trong thời gian dài từ
12 - 20 giờ cần giảm mật độ tôm, mỗi bao chứa khoảng 1.500 con và được vận chuyển
lạnh. Đối với xe tải phải rãi một lớp nước đá cục dưới sàng xe, trãi bạc lên sau đó mới đặc
bao tôm lên.


-

Nên thả tôm lúc sáng sớm hay chiều mát. Trước khi thả tôm cần ngâm bao tôm trong nước
ao từ 20 - 30 phút để cân bằng nhiệt độ bên trong bao và bên ngoài môi trường nước. Khi
nhiệt độ bên trong và bên ngoài bao tôm tương đối cân bằng thì mở miệng bao cho nước
bên ngoài vào trong bao, sau đó hạ từ từ cho tôm bơi ra ngoài. Không nên thả tập trung mà
phải thả nhiều nơi và cách bờ khoảng 2,0 m.

Hình: Ngâm bao tôm và thả tôm


Thức ăn: Một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công trong nuôi tôm là thức
ăn. Tôm cần phải được cung cấp thức ăn đầy đủ về số lượng và chất lượng để có thể phát triển
tốt. Vì vậy việc xác định nguồn thức ăn đảm bảo giá trị dinh dưỡng và ổn định là điều cần thiết
đối với người nuôi tôm.
− Thức ăn tự nhiên: là thức ăn có sẵn trong thủy vực bao gồm động thực vật thủy sinh,
thức ăn tự nhiên giữ vai trò quan trọng trong giai đoạn đầu của các đối tượng thuỷ sản nuôi.
− Thức ăn tươi: bao gồm cá, tép, cua, ốc, hến,... các phế phẩm từ nhà máy chế biến thủy
sản. Thức ăn tươi rất dễ làm chất lượng nước xấu đi nhanh chóng, hệ số tiêu tốn thức ăn cao.
− Thức ăn viên (công nghiệp), thức ăn chế biến: các thàn phần dinh dưỡng đã được phối
chế phù hợp với từng giai đoạn tăng trưởng của đối tượng nuôi. Qui trình công nghệ sản xuất
thức ăn hiện đại đảm bảo chất lượng thức ăn, thời gian bảo quản lâu, hệ số thức ăn thấp, ít ảnh
hưởng đến chất lượng nước trong hệ thống nuôi.
Các yếu tố quyết định đến chất lượng thức ăn viên
− Chất lượng của nguyên liệu: nguyên liệu phải tươi, ít lẫn tạp chất. Nguyên liệu phải
được đối tượng nuôi hấp thu tốt.
− Quy trình sản xuất phải hiện đại, vệ sinh. Kích cỡ viên thức ăn phù hợp với từng giai
đoạn của đối tượng nuôi. Viên thức ăn phải có độ bóng, chậm tan trong nước, có mùi kích
thích đối tượng nuôi mau bắt mồi.

− Thành phần dinh dưỡng phải cân đối và phù hợp với từng giai đoạn phát triển giúp đối
tượng nuôi mau lớn. Hệ số thức ăn thấp.
Làm thế nào để xác định thức ăn tốt bằng phương pháp cảm quang
− Đặc điểm ngoài: kích cỡ viên tương đối đều nhau, bề mặt của viên thức ăn bóng, thức
ăn ít vụn, chìm nhanh khi đưa vào nước, có mùi hấp dẫn, khô ráo và không có nấm mốc.
− Độ tan trong nước ít nhất 2 - 3 giờ để có thời gian cho đối tượng nuôi bắt mồi, hạn chế
chất dinh dưỡng tan trong nước.
− Có mùi thơm hấp dẫn giúp đối tượng nuôi mau phát hiện và kích thích đối tượng nuôi
ăn nhiều và ăn hết.


An toàn, không có chất độc và nấm mốc làm ảnh hưởng đến đối tượng nuôi.

− Kích cỡ viên thức ăn: phải phù hợp với kích cỡ miệng của đối tượng nuôi ở từng giai
đoạn.
Những vấn đề lưu ý khi sử dụng thức ăn viên
- Thức ăn kém chất lượng hoặc hư: Sử dụng thức ăn kém chất lượng tôm sẽ chậm lớn,
tỉ lệ hao hụt cao.
- Chất lượng nước: Cho ăn dư sẽ làm chất lượng nước xấu đi
Lượng thức ăn dư thừa nhiều sẽ tích tụ ở nền đáy, khi thức ăn phân huỷ sẽ sinh khí độc (H 2S)
và làm giảm lượng oxy trong nước. Thức ăn dư ở mức độ ít sẽ tác dụng như phân bón làm tảo
phát triển mạnh (hiện tượng tảo nở hoa) gây ra hiện tượng thiếu oxy vào lúc sáng sớm.
Một số công thức thức ăn phối chế áp dụng cho nuôi tôm


Công thức thức ăn I:
Thành phần
Dầu cá
Bột tôm
Bột cá

Bánh dầu đậu nành hoặc đậu phọng
Tấm
Cám
Bột gòn (chất kết dính)
Công thức thức ăn II:
Thành phần
Bột đậu nành
Bột mì
Bột cá
Bột xương
Cám
Bột gòn (chất kết dính)
Premix khoáng
Dầu cá hoặc dầu mực

Lượng dùng cho 1 Kg thức ăn (g)
30
100
40
40
390
390
10

Lượng dùng cho 1 Kg thức ăn (g)
200
100
250
20
350

50
20
10

Các nguyên liệu trên được nấu, phối trộn sau đó ép viên, phơi hanh nắng, dùng trong 2 - 3
ngày.
Cách cho ăn
-

Trong thời gian đầu tôm còn nhỏ yêu cầu thức ăn có chất lượng dinh dưỡng cao, do đó nên
sử dụng thức ăn viên (hàm lượng đạm từ 35 - 40%), thức ăn được rải đều khắp ao hoặc
mương bao. Cho ăn 3 - 4 lần/ngày.

-

Khi tôm đạt kích cỡ trên 10 g/con dùng thức ăn viên kết hợp luân phiên với thức ăn tươi
sống. Thức ăn tươi sống phải được rửa kỹ và đặt trong sàn ăn để tiện theo dõi điều chỉnh
lượng cho ăn tránh dư thừa. Cho ăn 2 - 3 lần/ngày.

Hình: Chuẩn bị thức ăn tự chế biến cho tôm
Sàng ăn thường có dạng hình vuông, khung được làm bằng kim loại hoặc gỗ vớii kích cỡ
1m2, số thượng sàng ăn được đề nghị 100m 2/ 1 sàng ăn. Thức ăn được rãi đều khắp mặt ao
kể cả trong sàng ăn. Sau nữa giờ kiểm tra nếu thức ăn được tôm ăn không hết có nghĩa là
thức ăn dư thừa, nên giảm thức ăn tránh hiện tượng thừa thức ăn làm dơ nước trong ao.


Hình: Sàng ăn và quạt nước trong ruộng nuôi tôm càng xanh luân canh với trồng lúa
Lượng thức ăn viên cho tôm
Trọng lượng tôm (g/con)
2,5 - 3,0

4,0 - 5.0
6,0 - 9,0
10 - 13
14 - 20
21 - 27
28 - 34
35 – 40

Lượng thức ăn (% trọng lượng đàn tôm)
6,5
5,5
4,2-4,5
3,7-4,0
3,0-3,5
2,5-2,7
1,7-2,0
1,0-1,4

Hình 2: Ốc bươu vàng, nguồn thức ăn tươi sống, rẻ tiền cho tôm càng xanh


Hình: Chài kiểm tra tăng trưởng của tôm nuôi mô hình nuôi xen canh và luân canh
Theo dõi môi trường ao ương
Nhiệt độ
Nên giữ nhiệt độ nước trong ao ương ổn định, khi nhiệt độ tăng cao 37 - 38 oC làm ảnh
hưởng đến sự phát triển của tôm. Ngoài ra khi nhiệt độ tăng cao sẽ làm giảm oxy và làm
tăng hàm lượng khí độc. Để giảm tình trạng nhiệt độ tăng cao cần lưu ý độ sâu mực nước
1,2 - 1,5 m.
pH
Trong ao ương pH luôn biến động và phụ thuộc theo sự phát triển tảo trong ao (pH tăng

cao khi tảo quang hợp mạnh) và sự phân hủy và sự phân hủy các hợp chất hữu cơ ở đáy
ao (pH thấp ở tầng đáy), hay do mưa rửa phèn từ bờ ao xuống làm pH thấp. Khi có sự biến
động pH của ao ương (lên cao hoặc xuống thấp) đều ảnh hưởng đến sức khỏe tôm và luôn
giữ pH trong ao ổn định trong khoảng 7-8,5. Để điều chỉnh pH trong ao ta có thể rãi vôi
xung quanh bờ ao trước khi trời mưa, hoặc rãi vôi trực tiếp xuống ao bằng cách pha loãng
với liều lượng thấp hoặc thay nước.
Oxy
Tôm càng xanh yêu cầu hàm lượng oxy trong nước cao, do đó không được để màu nước ao
quá xanh hay xám đen, điều này sẽ dẫn đến Oxy giảm thấp vào lúc sáng sớm và tôm dễ bị
bệnh. Thường xuyên kiểm tra tôm vào ban đêm và lúc sáng sớm để xem tôm có bị thiếu oxy
hay không.


Địch hại
Bao gồm cá tạp, cá dữ, cua, rắn, ếch, chim,... tấn công trực tiếp đến tôm hay gián tiếp cạnh
tranh thức ăn. Để hạn chế các đối tượng này bờ ao cần có lưới chắn và nước trước khi vào
hệ thống ương nuôi phải qua lọc.
Cá tạp
Trong quá trình nuôi, cá tạp gồm cá mè vinh, cá trê, cá rô đồng, tép, cá lòng tong… Để hạn
chế sự cạnh tranh thức ăn của cá tạp, cần diệt, bắt cá tạp thường xuyên.

Hình: Lưới để bắt cá tạp
Thu hoạch
Hai tháng trước khi thu hoạch thì có thể tiến hành thu tỉa những con lớn, con cái và con
chậm phát triển để bán. Năng suất tôm nuôi xen canh trong ruộng lúa thường dao động 200 300 kg/ha/vụ. Nếu thả giống vào vụ Đông - Xuân thì thu những con lớn và những tôm nhỏ để
lại nuôi tiếp. Gần đây, với mô hình nuôi tôm càng xanh luân canh trong ruộng lúa, năng suất
tôm nuôi thu hoạch khá cao, bình quân đạt 800 – 1.200 kg/ha/vụ. Lợi nhuận từ phương thức
nuôi này đã góp phần cải thiện rất nhiều điều kiện thu nhập cho nông hộ.

Hình: Thu hoạch tôm càng xanh

* MỘT SỐ TRỞ NGẠI THƯỜNG GẶP TRONG NUÔI TÔM


+ Tôm đóng rong: tôm đực đôi càng phát triển rất lớn: nguyên do tôm chậm lột xác trong thời
gian dài, dinh dưỡng kém và chất lượng nước không tốt. Khắc phục bằng cách thay nước mới,
tăng cường thức ăn giàu dinh dưỡng.
+ Tôm bị đen mang: do nền đáy bị bẩn, nước có nhiều chất hữu cơ lơ lững, pH thấp. Khắc
phục bằng cách thay nước mới, giảm cho ăn, bón đá vôi nghiền (CaCO 3) 7 - 10
Kg/100m2

Hình: Tôm bệnh đen mang

Hình: Tôm bệnh đóng rong

2. KỸ THUẬT NUÔI TÔM TRONG MƯƠNG VƯỜN

TOP

1. Thiết kế công trình nuôi
Mương nuôi tôm trong mương vườn cây thiết kế theo dạng răng lược. Đáy mương rộng
2m trở lên. Mương sâu bảo đảm tối thiểu 1m. Mặt vườn tối thiểu rộng 4m để có thể trồng được
cây ăn trái. Cây ăn trái nên trồng tiêu, dừa và các loại cây ăn trái khác. Tránh trông những cây
rụng lá theo mùa hay lá có chất tinh dầu như cam, quít, bưởi.
2. Kỹ thuật nuôi
Chuẩn bị mương nuôi. Mương nuôi nên diệt sạch cỏ bụi rậm ở mặt bờ hay mái bờ để
không nơi trú ần cho các địch hại của tôm như rắn, ếch nhái, chuột, chim. Lấy đất dẽo
Lắp hết các lỗ mọi hay hang hốc là nơi trú ẩn của rắn, cua ếch nhái, cá trê, lóc, rô, lươn.
Mương nên tát cạn và vét hết lớp bùn đáy ao. Sau đó dùng vôi diệt cá tạp với liều lượng 8 -10
kg /100 m2 mương. Sau đó phơi mương khoảng 3 - 4 ngày. Nếu mương không tát cạn được thì
dùng rễ dây thuốc cá để diệt cá tạp, cá dữ. Đối với ao 100 m 2 nên dùng khoảng 0,2 - 0,3 kg.

Cho nước vào khoảng 20 cm và bón phân chuồng khoảng 20 - 30 kg/100 m 2. Sau đó cho nước
vào khoảng 1 m.


Hình 3: Nuôi tôm càng xanh trong mương vườn
Chà làm vật bám và là nơi trú ẩn của tôm khi lột xác. Có thể sử dụng cành bần, trâm
bầu, ổi hay tre để làm chà. Nhành cây sẽ tuốt hết lá và phơi khô cho hết nhựa mới và dài
khoảng 1,5 - 2 m. Chà cắm thành từng bó và nghiêng 1 góc khoảng 450 so với mặt đất.
Mật độ nuôi khoảng 6 - 10 con/m2 từ tôm bột hay 5 - 6 con/m2 nếu từ tôm giống 2 - 3
g/con.
Tôm nuôi trong mương vườn có thể nuôi quanh năm. Nhưng nên tập trung vào mùa
mưa để dễ dàng thay nước. Mương nên thiết kế thêm hệ thống sụt khí để tránh hiện tượng tôm
nổi đầu vào ban đêm. Năng suất nuôi 500 - 600 kg/ha/vụ (6 - 8 tháng nuôi)
Bảng: Công thức thức ăn cho tôm càng xanh
Công thức 1 chứa 25% đạm
Bột đậu nành
12.6
Bột cá
12
Bột tôm
12
Bột bắp xay
42
Bột mì
20
Khoáng vi lượng
1.4

Công thức 2 chứa 20% đạm
Cám

30
Bột cá
20
Bột mì
8
Bột bắp
30
Bánh dầu dừa
10
Khoáng vi lượng
2

Các thành phần thứa ăn trộn đều với nhau. Bột mì nấu sôi và trộn vào thức ăn. Sau đó
đưa vào máy ép viên. Kích cỡ viên thức ăn tùy thuộc vào kích thước tôm. Thức ăn sau đó phơi
khô trong bóng râm và cho ăn từ từ. Tránh để thức ăn ở những nơi quá nóng dễ làm biến chất
thức ăn.
Bảng: Khẩu phần thức ăn cho tôm càng xanh nuôi từ tôm bột
Tháng
1
2
3
4 trở đi

Khẩu phần (% cơ thể)
30
15
10
5



Cho tôm vào buổi sáng sớm hay chiều tối. Lượng thức ăn buổi chiều chiếm 2/3 tổng
lượng cho ăn. Cho tôm ăn nên rãi ven bờ. Cũng có thể cho ăn thành nhiều điểm trong ao và
cho ăn cùng một chổ vì tôm quen nơi ăn.
Điều chỉnh lượng cho ăn. Hàng tháng nên dùng chài kiểm tra trọng lượng tôm trong
ao và ước lượng tỉ lệ sống của tôm trong ao để điều chỉnh lượng thức ăn kịp thời. Ngoài ra có
thể dùng nhiều sàn ăn để kiểm tra. Rải thức ăn xuống ngẫu nhiên rơi vào sàn và sau 2-4 giờ
kéo lên xem lượng thức ăn trong sàn còn hay hết sau đó điều chỉnh thức ăn kịp thời.
Kích thích tôm lột xác. Chu kỳ lột xác của tôm tùy thuộc vào kích thước của tôm (Bảng
3). Để cho tôm lột xác đồng đều cần thả tôm có kích cỡ như nhau, thức ăn đầy đủ và kích thích
nước. Trước khi con nước rong thì ngưng trao đổi nước 2 - 3 ngày và cho tôm ăn tích cực. Khi
con nước rong thì cho nước vào tối đa để kích thích tôm lột xác đồng loạt. Sau đó cho tôm ăn
tích cực để tôm không ăn nhau sau khi lột xác do đói. Thức ăn cũng cần có nhiều canxi và
phospho để tôm có đầy đủ vật chất khi lột xác.
Chăm sóc và quản lý
Thường xuyên theo dõi tôm trong ao diệt trừ địch hại, cua còng đục khoét bờ ao. Nếu
có cá dữ thì dùng rễ dây thuốc với lượng 0,1kg/100 m2 ao mà không ảnh hưởng đến tôm.
Thu hoạch
Có thể thu toàn bộ hay thu tỉa. Năng suất 800 – 1.500 kg/ha/vụ (6 - 7 tháng)

Kỹ thuật nuôi Tôm càng xanh luân canh
Posted by ktnt On August 01, 2011 0 Comment
KỸ THUẬT NUÔI TÔM CÀNG XANH LUÂN CANH
1. Chọn lựa địa điểm để nuôi tôm
- Nguồn nước đảm bảo cấp tiêu chủ động.
- Bờ bao phải giữ được nước và chất đất ít nhiễm phèn.
- Không bị ảnh hưởng bởi nước thải công nghiệp và nước bẩn.
- Tiện đi lại và chăm sóc quản lý.
2. Thiết kế công trình
- Diện tích ruộng nuôi tuỳ theo từng điều kiện cụ thể thường dao động 0,5 – 5 ha.
- Ruộng phải có đê bao đảm bảo giữ mức nước trên ruộng tối thiểu 0,5m đối với ruộng có mương



bao và 0,8 m đối với ruộng không mương bao.
- Đối với ruộng nuôi có mương bao, diện tích mương bao chiếm 20 – 25% tổng diện tích ruộng. Đối
với ruộng không có mương bao tốt nhất nên có một khu vực ương riêng (vị trí ao ương thường
nằm ngay bên cạnh ao nuôi).
- Ruộng nuôi có cống cấp và thoát riêng.

3. Chuẩn bị ruộng nuôi
- Sau khi thu hoạch lúa, dọn sạch gốc rạ, trải đều rơm ra khắp ruộng và đốt trước khi đưa tôm lên
ruộng 7 ngày; dọn cỏ xung quanh bờ bao; sên vét bùn đáy ở mương bao.
- Bón vôi: sử dụng CaO 10 – 15 kg/100m2. Vôi được rãi khắp mương bao và bờ ruộng.
- Phơi mương bao 2 – 3 ngày.
- Cấp nước qua lưới lọc mịn. Khi nước trong mương bao đạt 1 – 1,2 m hay 0,8m (đối với ruộng
không có mương bao), sau 2-3 ngày sau tiến hành thả giống.
4. Mùa vụ nuôi

Mô hình 1 vụ lúa đông xuân 1 vụ tôm
thường bắt đầu thả giống tháng 3-4 sau khi thu hoạch lúa đông xuân, thời gian nuôi 5 – 6 tháng.
5. Cách chọn tôm giống
- Tôm nuôi phải khỏe mạnh không có dấu hiệu bị nhiễm bệnh.
- Chiều dài thân từ 10 – 15 mm (Post 15).


- Tôm có màu cam nhạt hoặc màu xanh trong suốt.
- Hình thái cấu tạo ngoài đã hoàn chỉnh như tôm trưởng thành, thân và các phụ bộ bên ngoài
không bị tổn thương.
- Tôm hoạt động mạnh bơi ngược dòng nước, thường bám vào thành bể, háo ăn và bắt giữ thức ăn
tốt.
6. Thả giống


– Đối với tôm bột P15 nên ương 2 – 3
tuần trong ao ương trước khi cho ra ruộng nuôi, nếu không có ao ương riêng có thể ngăn một
phần ruộng nuôi bằng lưới để ương hay một phần mương bao nhằm hạn chế hao hụt và tiện chăm
sóc.
- Mật độ ương: 300 – 500 con/m2.
- Mật độ thả nuôi: 5 – 10 con/m2 (tính cho cả ruộng).
- Thả tôm lúc sáng sớm hay chiều mát. Trước khi thả tôm cần ngâm bao tôm trong nước ao từ 20 –
30 phút để cân bằng nhiệt độ bên trong bao và bên ngoài môi trường nước. Khi nhiệt độ bên trong
và bên ngoài bao tôm tương đối cân bằng thì mở miệng bao cho nước bên ngoài vào trong bao,
sau đó hạ từ từ cho tôm bơi ra ngoài.
- Không nên thả tập trung mà phải thả nhiều nơi và cách bờ khoảng 2,0m.
7. Thức ăn
Một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công trong nuôi tôm là thức ăn. Tôm cần
phải được cung cấp thức ăn đầy đủ về số lượng và chất lượng để có thể phát triển tốt. Vì vậy việc
xác định nguồn thức ăn đảmbảo giá trị dinh dưỡng và ổn định là điều cần thiết đối với người nuôi
tôm.


- Thức ăn tự nhiên: là thức ăn có sẵn trong thủy vực bao gồm động thực vật thủy sinh, thức ăn tự
nhiên giữ vai trò quan trọng trong giai đoạn đầu của các đối tượng thuỷ sản nuôi.
- Thức ăn tươi: bao gồm cá, tép, cua, ốc bươu vàng, hến,cá tạp… các phế phẩm từ nhà máy chế
biến thủy sản. Thức ăn tươi rất dễ làm chất lượng nước xấu đi nhanh chóng, hệ số tiêu tốn thức ăn
cao. Đối với thức ăn tươi sống như cua, cá tạp, tép, ốc,… trước khi cho ăn phải được rửa sạch và
đặt trong sàn ăn để hạn chế ô nhiễm nước.
- Thức ăn viên (công nghiệp), thức ăn chế biến: các thành phần dinh dưỡng đã được phối chế phù
hợp với từng giai đoạn tăng trưởng của đối tượng nuôi. Qui trình công nghệ sản xuất thức ăn hiện
đại đảm bảo chất lượng thức ăn, thời gian bảo quản lâu, hệ số thức ăn thấp, ít ảnh hưởng đến
chất lượng nước trong hệ thống nuôi.
- Trong quá trình nuôi nên kết hợp thức ăn viên và thức ăn tươi sống.


a. Thức ăn cho tôm giai đoạn còn
nhỏ (1 tháng đầu)
Dùng thức ăn viên có hàm lượng đạm 35%. Thức ăn được rãi đều khắp ao. Lượng cho ăn lúc mới
thả giống chiếm 30% trọng lượng thân. Cho ăn 4 lần/ngày.
b. Thức ăn cho tôm giai đoạn lớn (tháng thứ 2 đến thu hoạch)

- Sử dụng thức ăn có hàm lượng đạm
là 30% khi tôm 2 – 3 tháng tuổi, 25% khi tôm 4 – 6 tháng tuổi.
- Bổ xung thức ăn tươi cho tôm chỉ nên cho tôm ăn 1 lần vào buổi trưa từ tháng thứ 2 – 3 trở đi.
Lượng cho ăn gấp 3 – 4 lần so với thức ăn viên. Thức ăn tươi nên băm từng miếng nhỏ và rửa sạch
trước khi cho ăn; nên cho ăn trong sàn để loại bỏ thức ăn thừa và dễ dàng kiểm tra điều chỉnh
lượng thức ăn hàng ngày.


- Định kỳ 1 tuần/lần bổ sung vitamin C để tăng sức đề kháng cho tôm.
- Hạn chế sử dụng thuốc, hóa chất trong xử lý nước và phòng trị bệnh cho tôm trong danh mục
cho phép của Bộ Nông nghiệp và PTNT.

8. Chăm sóc quản lý
a. Quản lý môi trường
- Nhiệt độ: khoảng tháng 3 – 5 là thời điểm nắng nóng, nhiệt độ nước trên ruộng rất cao, đôi lúc
lên đến 37 – 38oC làm ảnh hưởng đến sự phát triển của tôm. Ngoài ra khi nhiệt độ tăng cao sẽ
làm giảm oxy và làm tăng hàm lượng khí độc. Để giảm tình trạng nhiệt độ tăng cao cần lưu ý độ
sâu của mương bao phải giữ được mực nước 1,0 – 1,2 m, mức nước trên ruộng >0,6m.
- Oxy: trong ruộng nuôi tôm lượng oxy hoà tan trong nước có sự biến động giữa ngày và đêm, nói
chung vào thời điểm sáng sớm khi mặt trời chưa lên là lúc oxy thấp nhất. Tôm càng xanh có nhu
cầu hàm lượng oxy trong nước cao (>3mg/L), do đó không được để màu nước quá xanh hay xám
đen. Thường xuyên kiểm tra tôm vào ban đêm và lúc sáng sớm để xem tôm có bị thiếu oxy hay
không. Biện pháp để tăng cường và duy trì hàm lượng oxy ở mức cao là thay nước và điều chỉnh

màu nước.
- pH: pH trong hệ thống nuôi biến động theo sự phát triển của tảo. pH tăng khi tảo quang hợp và
phát triển mạnh. Những cơn mưa đầu mùa, nhất là đối với những hệ thống nuôi mới xây dựng,
phèn từ bờ xuống hệ thống nuôi làm pH giảm. Ngoài ra sự phân huỷ mùn bả hữu cơ ở đáy ao cũng
làm cho pH ở tầng này thấp. Dùng vôi CaO 7 – 10Kg/100m2 rải quanh bờ trước những cơn mưa
lớn. Định kỳ bón vôi CaCO3 hoặc Dolomite (đá vôi đen) CaMg(CO3)2 với lượng 1 – 2 Kg/100m3 để
ổn định pH.


- Thay nước: Việc thay nước sẽ tăng
thêm oxy, giảm các chất độc trong hệ thống nuôi. Ngoài ra việc thay nước sẽ kích thích tôm bắt
mồi và lột xác.
- Chế độ thay nước: Thay nước được thực hiện tùy theo tình trạng phát
triển của tôm nuôi. Tháng đầu tiên không thay nước hoặc chỉ cấp thêm khi nước hao hụt, tháng
thứ 2 – 3 định kỳ hàng tuần cấp thêm nước hoặc thay nước 20 – 30%. Vào tháng thứ 4 đến khi thu
hoạch, chế độ thay nước tăng dần tuỳ vào chất lượng nước và sức khỏe của tôm nuôi.
- Vào đầu mùa mưa, mùa lũ thường xuyên kiểm tra đăng, cống,… dọn cỏ quanh bờ bao tránh để
nước dâng cao ngập cỏ gây phân huỷ làm thiếu oxy.
b. Kiểm tra tôm nuôi
- Hàng tháng cân đo tôm để xác định tốc độ tăng trọng, kiểm tra mức độ sử dụng thức ăn của tôm
hàng ngày từ đó điều chỉnh phù hợp.
- Thường xuyên kiểm tra sức khoẻ của tôm để kịp thời phát hiện các dấu hiệu bệnh như thối đuôi,
các phụ bộ bị ăn mòn, tôm đóng rong, tôm phát triển chậm,…. Việc làm này rất quan trọng để có
biện pháp xử lý kịp thời nếu có sự cố xảy ra.

c. Quản lý địch hại
Địch hại bao gồm cá tạp, cá dữ, cua, rắn, ếch, chim,… tấn công trực tiếp đến tôm (hay gián tiếp
cạnh tranh thức ăn). Để hạn chế các đối tượng này bờ bao cần có lưới chắn và nước trước khi vào



phải qua hệ thống lưới lọc. Trong quá trình nuôi nếu có cá tạp thì dùng lưới, dớn để bắt.
9. Thu hoạch

Sau 3 – 4 tháng nuôi tiến hành thu tỉa
tôm cái, tôm lớn và tôm chậm phát triển. Sau 5 – 6 tháng nuôi có thể tiến hành thu hoạch toàn
bộ. Tuy nhiên không thay nước trước khi thu hoạch 7 – 10 ngày nhằm hạn chế tôm lột xác nhiều,
góp phần nâng cao chất lượng tôm nuôi.
Kỹ thuật nuôi Tôm càng xanh, Nguồn: Chi cục Thủy sản Cần Thơ



×