Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong hoạt động kinh doanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG
TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH

TRẦN THỊ HƯỜNG

HÀ NỘI – 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG
TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH

TRẦN THỊ HƯỜNG

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. VŨ THỊ HỒNG YẾN

HÀ NỘI - 2015



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Trần Thị Hường


LỜI CẢM ƠN

Tác giả xin trân trọng cảm ơn các thầy, cô giáo công tác tại Khoa Sau Đại
Học – Viện Đại Học Mở Hà Nội đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tác giả hoàn thành
bản luận văn này. Đặc biệt tác giả xin trân trọng cảm ơn cô giáo hướng dẫn TS Vũ
Thị Hồng Yến đã hết lòng ủng hộ và hướng dẫn tác giả hoàn thành luận văn này.
Tác giả xin trân trọng cảm ơn các Thầy Cô trong Hội đồng khoa học đã đóng
góp những góp ý, những lời khuyên quý giá cho bản luận văn này.
Tác giả cũng xin trân trọng cảm ơn Thư viện Quốc gia Hà Nội, Thư viện
Trường Đại học Luật Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi hỗ trợ, giúp đỡ tác giả trong
việc thu thập thông tin, tài liệu trong quá trình thực hiện luận văn.
Xin cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã giúp đỡ, chia sẻ khó khăn và
động viên tác giả trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu để hoàn thành luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn!


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP
ĐỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH ................................................... 7
1.1. Khái niệm và đặc điểm pháp lý của hợp đồng trong hoạt động thương
mại...................................................................................................................... 7
1.2. Khái niệm điều kiện có hiệu lực của hợp đồng.......................................... 8
1.3. Ý nghĩa của các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong lĩnh vực kinh
doanh ................................................................................................................ 11
1.4. Pháp luật về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong lĩnh vực kinh
doanh ............................................................................................................... 13
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến 1989 ......................................................... 13
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1989 đến hết năm 2005 ............................................ 14
1.3.3. Giai đoạn từ năm 2006 đến nay ........................................................... 16
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .................................................................................... 17
Chương 2: NỘI DUNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN CÓ
HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH ......... 18
2.1. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong hoạt động kinh doanh ... 18
2.1.1. Điều kiện về chủ thể tham gia hợp đồng kinh doanh thương mại ......... 18
2.1.2. Điều kiện đại diện các bên tham gia giao kết hợp đồng kinh tế phải đúng
thẩm quyền. Đại diện hợp pháp của chủ thể hợp đồng có thể là đại diện theo
pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền. .......................................................... 18
2.1.3. Điều kiện về mục đích, nội dung của hợp đồng ................................... 21
2.1.4. Điều kiện về ý chí................................................................................ 24
2.1.5. Điều kiện về hình thức......................................................................... 28


2.2. Hậu quả của việc vi phạm các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong
hoạt động kinh doanh...................................................................................... 33
2.2.1. Thời hiệu khởi kiện và chủ thể khởi kiện ............................................. 33

2.2.2. Hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu .............................................................. 35
2.2.3. Xử lý hợp đồng kinh doanh thương mại vô hiệu .................................. 39
2.2.4. Bảo vệ người thứ ba ngay tình khi hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu......... 46
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .................................................................................... 53
Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÁC ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA
HỢP ĐỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH ...................................... 54
3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng ... 54
3.2. Những kiến nghị nhằm khắc phục bất cập và hoàn thiện pháp luật về
các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong hoạt động kinh doanh ........... 61
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .................................................................................... 69
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong nền kinh tế mở nhiều thành phần hiện nay, sự phát triển của các doanh
nghiệp ngày càng phong phú và đa dạng dưới nhiều hình thức, không chỉ đơn thuần
là doanh nghiệp nhà nước chiếm ưu thế nữa mà hàng loạt các doanh nghiệp tư nhân,
doanh nghiệp liên doanh liên tục được thành lập. Để đảm bảo cho hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp được thực hiện một cách thuận lợi và an toàn, một hoạt
động quan trọng đối với mọi doanh nghiệp là việc xây dựng các hợp đồng. Trên
thương trường, bất kể hoạt động kinh doanh nào với đối tác cũng đều được thể hiện
thông qua hợp đồng. Đây chính là ràng buộc pháp lý về nghĩa vụ của các bên trong
kinh doanh. Khá nhiều các tranh chấp kinh doanh ngày nay đều xuất phát từ những
bất cập của hợp đồng. Nhiều công ty, tập đoàn lớn trên toàn thế giới đã tổ chức bộ
phận pháp lý riêng để xem xét, đánh giá và tư vấn cho mình trước khi ký kết các
hợp đồng. Nhiều chuyên gia kinh tế từng đặt câu hỏi: Đâu là yếu tố quan trọng nhất
của một thương vụ làm ăn? Phần lớn câu trả lời nhận được là: Tính chặt chẽ và hình

thức của hợp đồng.
Hợp đồng kinh doanh đóng vai trò là “hòn đá tảng” cho các hoạt động đầu tư
và phần lớn các hoạt động kinh doanh khác của công ty. Mỗi hợp đồng sẽ là cơ sở
tạo thành các yếu tố liên quan, từ đó thiết lập các quan hệ kinh doanh giữa các đối
tác như nhân lực, khách hàng, nhà thầu, chi phí, quyền lợi và trách nhiệm. Những
bản dự thảo hợp đồng tạm trong quá trình lên kế hoạch kinh doanh sẽ đảm bảo cho
công ty sớm nhận diện và xử lý kịp thời các vấn đề thiết yếu có thể bị bỏ qua.
Thực tế cho thấy, việc thiếu trang bị những kiến thức pháp lý cần thiết trong
hoạt động ký kết và thực hiện hợp đồng đã mang lại hậu quả khôn lường mà nhiều
doanh nghiệp đã phải gánh chịu những thiệt hại về tài sản, tiền bạc, sự mất uy tín
trong quan hệ kinh doanh và nhiều thua thiệt khác. Nguyên nhân có cả khách quan
và chủ quan, nhưng trong đó vẫn chủ yếu vẫn là thiếu kiến thức, kinh nghiệm và
chưa chú trọng đúng mức đến tầm quan trọng của việc ký kết, thực hiện hợp đồng

1


mà đặc biệt là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Khi tranh chấp xảy ra trong hoạt
động kinh doanh, câu hỏi đầu tiên cần đặt ra đó là “Liệu hợp đồng đó có tồn tại hay
không? Hợp đồng có hiệu lực không” để từ đó xác định quyền lợi, nghĩa vụ của các
bên trong hợp đồng. Bởi vậy, việc nghiên cứu điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
trong hoạt động kinh doanh đã và đang trở thành vấn đề có tính cấp thiết cho bất kỳ
doanh nghiệp nào khi tham gia vào hoạt dộng kinh doanh. Hợp đồng có giá trị pháp
lý như luật (contract = law) là công thức để giúp cho các doanh nghiệp có cơ sở bảo
vệ các lợi ích hợp pháp của mình khi có tranh chấp xảy ra. Nếu như sự an toàn của
con người, tài sản được bảo đảm trên cơ sở những quy định trong pháp luật hình sự
thì sự an toàn và trật tự trong thế giới kinh doanh lại phụ thuộc vào hợp đồng trong
lĩnh vực dân sự và kinh tế. Trong kinh doanh, để đi đến hợp đồng là điều khó,
nhưng để hoàn thành một hợp đồng mà các bên đều hài lòng lại là điều khó hơn,
thực vậy, khi ký kết hợp đồng các doanh nghiệp không thể lường trước hết mọi tình

huống sẽ xảy ra trong tương lai, nguyên nhân dẫn đến việc không hoàn thành hay
không thực hiện những thỏa thuận có thể là khách quan nhưng cũng có thể là chủ
quan dẫn để dẫn đến tranh chấp
Có thể nói, một hợp đồng bao giờ cũng là sự thỏa thuận nhưng không phải
thỏa thuận nào cũng là hợp đồng nếu nội dung không thoả mãn điều kiện có hiệu
lực hoặc nội dung trái đạo đức xã hội, thuần phong mỹ tục. Do vậy, pháp luật luôn
tôn trọng quyền tự do thỏa thuận giữa các bên nhưng phải chịu sự điều chỉnh của
pháp luật.
Bằng những kiến thức đã được trang bị, những hiểu biết, kinh nghiệm của
bản thân và hướng dẫn của giáo viên em đã chọn đề tài “Điều kiện có hiệu lực của
hợp đồng trong hoạt động kinh doanh” để làm luận văn tốt nghiệp nhằm góp phần
làm sáng tỏ những quy định của pháp luật hiện thời về những điều kiện có hiệu lực
của hợp đồng trong hoạt động kinh doanh, qua đó, vận dụng kiến thức pháp luật về
hợp đồng để thực hiện giao kết hợp đồng và giải quyết các tranh chấp về hợp đồng.

2


2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam là một trong những chế định hết sức quan
trọng nhằm điều chỉnh một sự thoả thuận giữa hai hoặc nhiều bên về nhiều lĩnh vực
khác nhau. Văn bản pháp luật được biết và sử dụng nhiều nhất trong việc điều chỉnh
quan hệ hợp đồng là Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989, tuy nhiên do sự thay đổi
của tình hình trước yêu cầu đổi mới và hội nhập văn bản pháp luật này đã bị hủy bỏ.
Thay vào đó quan hệ hợp đồng đã được điều chỉnh bằng văn bản luật có giá trị pháp
lý cao hơn là Bộ luật dân sự và một số văn bản pháp luật có liên quan như Luật
thương mại, Luật đầu tư... nhằm tạo ra một sự thống nhất trong việc điều chỉnh các
quan hệ hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự.
Bộ Luật dân sự 2005 được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005 có hiệu lực
từ ngày 01/01/2006, tạo ra một hành lang pháp lý quan trọng trong giao lưu dân

sự, thể hiện một bước tiến cao hơn trong tư duy lập pháp, hành pháp và tư pháp
của nhà làm luật. Các nhà lập pháp Việt Nam đã có sự tiếp thu học hỏi những quy
định pháp luật từ thực tiễn cũng như luật pháp của các nước trên thế giới, cân nhắc
với hoàn cảnh thực tế của Việt Nam để đưa ra một văn bản có tính chuẩn mực
pháp lí cao nhất trong hệ thống pháp luật dân sự. Trong đó, chế định hợp đồng
chiếm tới hơn 200 Điều trong tổng số 777 Điều của Bộ Luật dân sự. Với đa số Đại
biểu tán thành, ngày 24/11, Quốc hội đã biểu quyết thông qua dự thảo Bộ luật dân
sự (sửa đổi). Bộ luật dân sự sửa đổi có hiệu lực từ 1/1/2017 với nhiều quy định
mới quan trọng có liên quan đến các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Hợp
đồng trong hoạt động kinh doanh có bản chất của hợp đồng nói chung, là sự thoả
thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ
thương mại. Luật Thương mại 2014 được hiểu là luật chuyên ngành không đưa ra
định nghĩa về hợp đồng trong kinh doanh, song có thể xác định bản chất pháp lý
của hợp đồng trong kinh doanh, thương mại trên cơ sở quy định của Bộ luật Dân
sự về hợp đồng. Do vậy, hợp đồng trong kinh doanh, thương mại là một dạng cụ
thể của hợp đồng dân sự.

3


Hiện nay, Việt Nam đang trên đà hội nhập nền kinh tế toàn cầu, quá trình hội
nhập mở ra nhiều cơ hội lớn cho nền kinh tế Việt Nam nhưng cũng không ít thách
thức, đòi hỏi phải có sự chặt chẽ trong hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật về
hợp đồng trong hoạt động kinh doanh. Trước những đòi hỏi khách quan của các
doanh nghiệp đang hoạt động tại Việt Nam, những năm gần đây đã có một số công
trình khoa học và có rất nhiều bài viết nghiên cứu về vấn đề hợp đồng, cụ thể là:
Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Dạ Như Ngọc - Khoa Luật Trường Đại học
Cần Thơ về “Các trường hợp vô hiệu của hợp đồng thương mại: Lý luận, pháp luật
và thực tiễn tài phán” năm 2009; Luận văn thạc sĩ của tác giả Trần Hải Hưng Trường Đại học Luật Hà Nội về “Đổi mới sự điều chỉnh của pháp luật về hợp đồng
trong Bộ Luật Dân sự 2005” năm 2006; Luận văn thạc sĩ của tác giả Hoàng Minh

Chiến - Trường Đại học Luật Hà Nội về “Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng trong
kinh doanh - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” năm 2003; bài viết “Đặc trưng
pháp lí của hợp đồng dân sự” của tác giả Đinh Văn Thanh - Tạp chí Luật học số 2
năm 1999; bài viết “Một số điểm mới về hợp đồng trong Bộ Luật Dân sự 2005 số
3(215)/2006 - Tạp chí Nhà nước và Pháp luật; bài viết Hợp đồng - thuật ngữ và khái
niệm số 8 (2006) - Tạp chí Nhà nước và Pháp luật …
Ở một số công trình cũng đề cập đến vấn đề có hiệu lực của hợp đồng như:
Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Trần Thị Nhường về “Điều kiện có hiệu lực
của hợp đồng dân sự” năm 2009. Các công trình nghiên cứu trên đã có nội dung
nghiên cứu về hợp đồng những góc độ, khía cạnh khác nhau và là tài liệu vô cùng
quý báu giúp tác giả có thêm thông tin quan trọng phục vụ cho việc nghiên cứu luận
văn, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách chuyên sâu điều kiện có
hiệu lực của hợp đồng trong điều kiện kinh doanh. Do đó, việc chọn đề tài “Điều
kiện có hiệu lực của hợp đồng trong hoạt động kinh doanh” là không trùng lặp với
các công trình khoa học đã được công bố.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở kiến thức được học, những hiểu
biết thực tiễn qua công tác tìm ra các luận cứ khoa học và thực tiễn nhằm góp phần

4


làm sáng tỏ những quy định của pháp luật hiện thời về điều kiện có hiệu lực của
hợp đồng trong hoạt động kinh doanh.
Đề tài tập trung đưa ra những khái niệm chung và những vấn đề lý luận liên
quan đến điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong hoạt động kinh doanh theo khoa
học pháp lí, pháp luật của Việt Nam và một số nước.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong hoạt động
kinh doanh.

Khách thể nghiên cứu: Bộ Luật Dân sự; Luật kinh doanh; Luật Thương mại
và các văn bản hướng dẫn khác có liên quan.
Đối tượng khảo sát: Các doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh trên địa bàn
thành phố Hà Nội.
5. Phương pháp tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu, Đề tài nghiên cứu khoa học vận dụng phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử. Để thực hiện mục
tiêu nghiên cứu, công trình nghiên cứu sử dụng các phương pháp: phân tích, tổng
hợp, thống kê, so sánh, lý thuyết hệ thống, quy nạp, diễn dịch, lôgic, lịch sử... kết
hợp nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn. Các phương pháp được sử dụng nhằm
làm rõ nội dung cơ bản của đề tài nghiên cứu, bảo đảm tính khoa học và lôgic giữa
các vấn đề được nêu ra. Ngoài ra, công trình nghiên cứu cũng kế thừa, phát triển các
kết quả của các công trình nghiên cứu có liên quan đến nội dung đề tài ở trong và
ngoài thành phố nhằm làm rõ những vấn đề chính của công trình nghiên cứu .
6. Đóng góp của đề tài (ý nghĩa khoa học và thực tiễn)
Đề tài mang đến cái nhìn rõ nét hơn cho các đối tượng sử dụng đến hợp đồng
trong quá trình kinh doanh nói chung và trên hết đó là giúp chúng ta có một kiến
thức cụ thể về pháp luật để chấp hành đúng, đủ, hạn chế rủi ro xảy ra trong giao
dịch có liên quan đến hợp đồng.

5


Bên cạnh đó, đề tài nghiên cứu còn đưa ra những nhận xét, quy định chưa
thống nhất, chưa rõ ràng hoặc chưa khả thi của pháp luật hiện nay về các vấn đề liên
quan đến hợp đồng trong hoạt động kinh doanh. Qua đó đưa ra những đề xuất, kiến
nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh doanh thương mại.
Luận văn có 3 phần: Phần mở đầu, phần kết luận và phần nội dung gồm 3
chương sau:
Chương 1:Khái quát chung về hợp đồng trong hoạt động kinh doanh

Chương 2: Nội dung quy định của pháp luật về điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng trong hoạt động kinh doanh
Chương 3:Thực tiễn áp dụng pháp luật và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp
luật về các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong hoạt động kinh doanh.

6


Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC
CỦA HỢP ĐỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
1.1. Khái niệm và đặc điểm pháp lý của hợp đồng trong hoạt động thương mại
Từ khi Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế hết hiệu lực, vấn đề pháp luật về hợp
đồng trong kinh doanh, thương mại không có sự khác biệt với các hợp đồng dân sự,
như: Giao kết hợp đồng, hợp đồng vô hiệu và xử lý hợp đồng vô hiệu,… Bên cạnh
đó, xuất phát từ yêu cầu của hoạt động thương mại, một số vấn đề về hoạt động
trong kinh doanh, thương mại được quy định trong pháp luật thương mại có tính
chất là sự phát triển tiếp tục những quy định của dân luật truyền thống về hợp đồng
(như chủ thể, hình thức, quyền và nghĩa vụ của các bên, chế tài và giải quyết tranh
chấp hợp đồng...). Pháp luật Việt Nam hiện hành không đưa ra khái niệm hợp đồng
trong hoạt động kinh doanh mà thông qua khái niệm hoạt động thương mại trong
Luật Thương mại năm 2005 để làm rõ đặc điểm của khái niệm hợp đồng trong hoạt
động kinh doanh, thương mại. Điều 3.1 của Luật Thương mại năm 2005 quy định:
“hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi...”. Từ đây, có thể hiểu
hợp đồng trong hoạt động kinh doanh thương mại là sự thỏa thuận giữa các bên để
thực hiện các hoạt động thương mại nhằm mục đích sinh lợi. Với tư cách là hình
thức pháp lý của quan hệ thương mại, hợp đồng trong kinh doanh, thương mại có
những đặc điểm nhất định để nhận biết và phân biệt với các loại hợp đồng khác.
Về chủ thể: Hợp đồng trong kinh doanh, thương mại được thiết lập giữa các
chủ thể chủ yếu là thương nhân. Theo quy định của Luật Thương mại 2005, thương

nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương
mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Thương nhân là chủ
thể của hợp đồng kinh doanh, thương mại có thể là thương nhân Việt Nam hoặc
thương nhân nước ngoài. Có những quan hệ trong quan hệ hợp đồng trong kinh

7


doanh, thương mại đòi hỏi các bên đều phải là thương nhân (Hợp đồng đại diện cho
thương nhân, hợp đồng đại lý thương mại, hợp đồng dịch vụ quảng cáo thương
mại...); bên cạnh đó có những hợp đồng kinh doanh, thương mại chỉ cần ít nhất một
bên là thương nhân (hợp đồng mua bán hàng hoá, hợp đồng dịch vụ bán đấu giá
hàng hoá, hợp đồng môi giới thương mại...).
Về hình thức: Hợp đồng trong kinh doanh, thương mại có thể được thiết lập
dưới hình thức văn bản, lời nói hoặc bằng hành vi cụ thể của các bên giao kết.
Trong những trường hợp nhất định, pháp luật bắt buộc các bên phải thiết lập hợp
đồng trong kinh doanh, thương mại bằng hình thức vàn bản (Hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế, hợp đồng dịch vụ khuyến mãi, quảng cáo, hội chợ, triển lãm
thương mại...). Luật Thương mại năm 2005 cho phép các bên hợp đồng có thể thay
thế hình thức văn bản bằng các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương. Các
hình thức có giá tri tương đương văn bản bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp
dữ liệu [15, Điều 3].
Về mục đích: Mục đích phổ biến của các bên trong hợp đồng kinh doanh,
thương mại là lợi nhuận. Trường hợp có chủ thể hợp đồng không nhằm mục đích lợi
nhuận, thì hợp đồng được áp dụng Luật Thương mại khi bên không nhằm mục đích
lợi nhuận lựa chọn áp dụng Luật Thương mại.
1.2. Khái niệm điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
Để đưa ra được một cách khái quát và đầy đủ, bao hàm nhất về khái niệm điều
kiện có hiệu lực của hợp đồng, trước hết cần tìm hiểu hiệu lực của hợp đồng là gì?
Hiệu lực hợp đồng là vấn đề mang tính bản chất của hợp đồng, vì suy cho

cùng, các bên thiết lập hợp đồng là để ràng buộc quyền và nghĩa vụ đối với nhau.
Khi thiết lập một hợp đồng, người ta luôn hướng đến việc tạo lập “sự ràng buộc
pháp lý” đối với nhau và trông đợi bên kia cùng thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ hợp
đồng, nhằm thỏa mãn các lợi ích các bên. Nội dung sau đây làm rõ khái niệm có
hiệu lực hợp đồng.

8


Một hợp đồng không có hiệu lực cũng có nghĩa là giữa các bên không tồn tại
quan hệ hợp đồng. Tuy nhận thức được tính chất quan trọng của hiệu lực hợp đồng
là như vậy, nhưng để đưa ra một định nghĩa chính xác về hiệu lực của hợp đồng,
quả là điều không dễ. Trong Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học có giải thích khái
niệm “hiệu lực của hợp đồng dân sự” là “giá trị bắt buộc thi hành đối các chủ thể
tham gia giao kết hợp đồng” [241, tr.65]. Tuy ngắn gọn, nhưng định nghĩa này cũng
phản ánh được bản chất của khái niệm hiệu lực hợp đồng. Tuy vậy, nội hàm của
định nghĩa này vẫn chưa đầy đủ, và nếu giải thích rõ ra thì cũng có phần chưa chính
xác. Bởi lẽ, hiệu lực của hợp đồng, hiểu theo đúng bản chất của nó, thì không chỉ là
“giá trị bắt buộc thi hành” mà còn bao gồm cả việc sáng tạo ra các quyền và nghĩa
vụ của các bên chủ thể tham gia hợp đồng. Giá trị bắt buộc thi hành còn là đặc điểm
chung của nhiều loại giao dịch pháp lý khác, chứ không phải là đặc trưng riêng có
của hiệu lực hợp đồng. Mặt khác, trong định nghĩa này sử dụng cụm từ “đối với các
chủ thể giao kết hợp đồng” là có phần chưa chính xác. Bởi vì, chủ thể giao kết hợp
đồng hoặc chủ thể thực hiện hợp đồng chưa chắc là chủ thể của hợp đồng đó. Ở đây
nếu sử dụng cụm từ “chủ thể tham gia xác lập và thực hiện hợp đồng” thì đúng hơn
và rõ nghĩa hơn. Như vậy, trên phương diện giải thích thuật ngữ, các từ điển trên đã
đưa ra khái niệm hiệu lực hợp đồng với dấu hiệu đặc trưng cơ bản của nó là giá trị
ràng buộc các bên phải thi hành nghiêm túc. Tuy vậy, chỉ với dấu hiệu này, các khái
niệm về hiệu lực hợp đồng trong các từ điển trên vẫn chưa phản ánh đầy đủ các dấu
hiệu thể hiện bản chất của hiệu lực hợp đồng. Trong luật thực định, khái niệm hiệu

lực hợp đồng cũng được qui định trong các văn bản pháp luật của một số quốc gia.
Chẳng hạn, Bộ luật dân sự Pháp có qui định: “Hợp đồng được giao kết hợp pháp có
giá trị là luật đối với các bên”, “chỉ có thể bị hủy bỏ trên cơ sở có thỏa thuận chung,
hoặc theo những căn cứ do pháp luật qui định” và “phải được thực hiện một cách
thiện chí” [19, Điều 1134]. Theo qui định này, hợp đồng có hiệu lực thì có giá trị là
luật đối với các bên, được pháp luật tôn trọng và bảo vệ, được các bên phải tuân thủ
và thực hiện hợp đồng đó một cách nghiêm túc, có thiện chí. Các bên không thể hủy
bỏ hợp đồng nếu không dựa trên ý chí tự nguyện của tất cả các bên hoặc các căn cứ

9


do pháp luật qui định. Bộ luật dân sự năm 2005 không qui định cụ thể về hiệu lực
của hợp đồng, mà chỉ qui định khái quát là: “hợp đồng được giao kết hợp pháp có
hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có
quy định khác” [15, Điều 405]. Có thể nói, qui định này không thể hiện được bản
chất của khái niệm hiệu lực hợp đồng - đó là giá trị pháp lý ràng buộc đối với các
bên, mà chủ yếu là để xác định thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng. Ngoài ra,
tại Điều 4 Bộ luật dân sự năm 2005 cũng có qui định chung về hiệu lực của các cam
kết dân sự: “cam kết, thoả thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với
các bên và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn trọng”. Tóm lại, qua
nghiên cứu khía cạnh pháp lý và từ điển của khái niệm hiệu lực hợp đồng, chúng ta
thấy có hai dấu hiệu thể hiện bản chất của nó, đó là: Giá trị pháp lý của hợp đồng
giống như pháp luật và hiệu lực ràng buộc mang tính cưỡng chế nhằm buộc các bên
phải tôn trọng và thực thi đầy đủ các cam kết trong hợp đồng. Giá trị pháp lý và
hiệu lực ràng buộc các bên phải tôn trọng và thực hiện đúng hợp đồng là hai mặt
không thể thiếu của hiệu lực hợp đồng.
Trên cơ sở nhận thức bản chất của ‘hiệu lực hợp đồng, có thể đưa ra khái
niệm điều kiện có hiệu lực của hợp đồng như sau: Điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng là tổng hợp những yêu cầu pháp lý nhằm đảm bảo cho hợp đồng được lập

đúng bản chất đích thực của nó. Đây là những điều kiện cần và cũng là tiền đề pháp
lý nhằm đảm bảo cho hợp đồng được xác lập hợp pháp và có hiệu lực ràng buộc đối
với các bên.
Các điều kiện bắt buộc để hợp đồng có hiệu lực là những yêu cầu pháp lý
phải được tuân thủ khi xác lập, giao kết hợp đồng mà nếu thiếu các điều kiện đó thì
hợp đồng đương nhiên vô hiệu hoặc có thể bị vô hiệu. Tuy cách tiếp cận vấn đề còn
nhiều điểm khác nhau, nhưng hầu hết các hệ thống pháp luật trên thế giới đều xem
các điều kiện về chủ thể, nội dung và ý chí tự nguyện của các bên tham gia hợp
đồng là những yêu cầu pháp lý bắt buộc phải tuân thủ khi xác lập hợp đồng. Theo
qui định trong Bộ luật dân sự Pháp, hợp đồng được thừa nhận là có hiệu lực thì phải
thỏa mãn bốn điều kiện chủ yếu [Điều 1108] các bên giao kết hợp đồng phải hoàn

10


toàn tự nguyện [22, Điều 1109]; các bên giao kết phải là người có năng lực (hành vi
dân sự) để giao kết hợp đồng [5, Điều 1123]; đối tượng và nội dung chủ yếu của
hợp đồng phải xác định [30, Điều 1126]; mục đích, căn cứ của hợp đồng phải hợp
pháp [3, Điều 1131]. Về nguyên tắc, một hợp đồng được lập thiếu một trong các
điều kiện trên thì có thể bị xem là không có hiệu lực. Xuất phát từ bản chất của hợp
đồng, pháp luật của Việt Nam qui định hợp đồng phải tuân thủ các điều kiện bắt
buộc: chủ thể hợp đồng phải có năng lực hành vi dân sự; nội dung, mục đích của
hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội; các bên
hoàn toàn tự nguyện, vấn đề này hiện đã được Bộ luật dân sự năm 2005 qui định
tương đối hoàn thiện, trừ điều kiện về hình thức hợp đồng. Về phương diện lý luận,
việc nhận thức đúng khái niệm các điều kiện có hiệu lực hợp đồng là cơ sở để tiếp
cận các vấn đề khác có liên quan đến việc nghiên cứu quá trình tạo lập, xác nhận giá
trị pháp lý và thực thi hợp đồng. Khái niệm này cũng thể hiện rõ các yếu tố quan
trọng mang tính bản chất của hiệu lực hợp đồng, đó là sáng tạo ra, làm thay đổi,
chấm dứt các quyền và nghĩa vụ giữa các bên; đồng thời tạo ra sự ràng buộc pháp lý

nhằm bắt buộc các bên tôn trọng và nghiêm túc thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó.
1.3. Ý nghĩa của các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh
Hợp đồng dân sự nói chung và hợp đồng trong hoạt động kinh doanh nói
riêng là kết quả của sự thỏa thuận thống nhất ý chí của các bên đồng thời là căn cứ
phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên. Tuy nhiên không phải cứ có sự thỏa thuận
thống nhất ý chí của các bên là có hợp đồng và làm phát sinh quyền và nghĩa vụ mà
nó còn phải là những thỏa thuận hợp pháp. Tức là những thỏa thuận đó còn phải
tuân theo những quy định của pháp luật thì mới có thể có giá trị pháp lí và trở thành
căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự. Vì vậy việc quy định cụ thể các điều kiện có
hiệu lực của hợp đồng dân sự nói chung và hợp đồng trong kinh doanh nói riêng có
ý nghĩa pháp lí rất quan trọng:
Thứ nhất, tạo hành lang pháp lí an toàn cho các chủ thể khi tham gia giao kết
Pháp luật quy định về các điều kiện để các chủ thể tham gia hợp đồng phải
tuân theo đồng thời quy định biện pháp chế tài nếu các bên tham gia không tuân thủ

11


các điều kiện để hợp đồng có hiệu lực thì hợp đồng có thể bị vô hiệu, các bên phải
chịu hậu quả pháp luật bất lợi. Quy định này tạo hành lang pháp lí an toàn cho các
chủ thể khi tham gia giao dịch. Vì thế các quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng đóng vai trò là công cụ pháp lí quan trọng bảo đảm an toàn cho các chủ thể
trong hoạt động kinh doanh. Bên cạnh đó còn góp phần nâng cao ý thức của các chủ
thể khi tham gia vào các quan hệ hợp đồng, bởi lẽ họ ý thức được hậu quả pháp lí
bất lợi của việc không tuân thủ các điều kiện do pháp luật quy định để bảo vệ cho
chính mình và cho người khác.
Thứ hai, là cơ sở pháp lí để giải quyết các tranh chấp xảy ra
Ngày nay việc tranh chấp giữa các bên trong hợp đồng xảy ra rất nhiều, vì
thế khi quy định về điều kiện của hợp đồng là một căn cứ pháp lí phát sinh không
thể thiếu trong quá trình giải quyết các tranh chấp phát sinh. Bởi lẽ bên cạnh những

chứng cứ trực tiếp là những thỏa thuận của các bên pháp luật cũng có những quy
định cần thiết để bảo vệ lợi ích của các bên tham gia.
Thứ ba, góp phần ổn định quan hệ xã hội nói chung và quan hệ trong hoạt
động kinh doanh
Các quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng có ý nghĩa quan trọng để
cho các chủ thể khi tham gia quan hệ hợp đồng nghiêm túc thực hiện, tránh không
vi phạm các quy định của nhà nước. Nếu một trong các bên tham gia mà vi phạm
các quy định đó thì hợp đồng sẽ bị vô hiệu và phải chịu hậu quả pháp lí bất lợi cho
chính họ, bên có lỗi sẽ phải bồi thường. Điều này có ý nghĩa khắc phục những thiệt
hại do bên vi phạm gây ra cho những bên bị vi phạm, đồng thời còn tạo lên sự công
bằng cho xã hội và cũng là lời cảnh cáo cho các bên chủ thể khi tham gia giao dịch,
tạo thái độ nghiêm túc cho các chủ thể trong việc thực hiện các quy định của pháp
luật nhằm tạo ra sự ổn định trong hoạt động kinh doanh.

12


1.4. Pháp luật về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh
Ở nước ta, ngay sau khi hai miền Nam - Bắc thống nhất, hòa bình lập lại sau
30 năm bền bỉ cả dân tộc đấu tranh chống ngoại xâm, ngay ngày 10/3/1975 Nhà
nước đã ra Nghị định số: 54/CP ban hành Điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế. Sau
đó không lâu, ngay từ những năm đầu của công cuộc “đổi mới” nền kinh tế, Pháp
lệnh hợp đồng kinh tế (được Hội đồng nhà nước ban hành ngày 25/9/1989, đã hết
hiệu lực từ ngày 01/01/2006), tiếp tục thay thế cho Nghị định 54/CP, đánh dấu mốc
quan trọng cho quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ kế hoạch hóa tập
trung sang kinh tế thị trường. Và cho tới ngày hôm nay, pháp luật về hợp đồng
trong hoạt động thương mại đã có nhiều thay đổi căn bản từ nội dung đến hình thức.
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến 1989
Đây là giai đoạn trước đổi mới nền kinh tế, là những cơ sở đầu tiên làm nền
cho việc ra đời một chế định pháp lý về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại hoàn

chỉnh về sau. Ngay từ những năm 1956, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Điều lệ
tạm thời về hợp đồng kinh doanh kèm theo Nghị định số: 735/TTG ngày 10/4/1956,
theo bản Điều lệ đó, hợp đồng giữa các đơn vị kinh tế với nhau đã được gọi chung
là hợp đồng kinh doanh, được ký kết trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng về quyền
và nghĩa vụ. Kể từ năm 1960, khi miền Bắc nước ta bước vào giai đoạn tiến lên xây
dựng Chủ nghĩa xã hội trên cơ sở nền kinh tế kế hoạch tập trung, nhà nước ta đã
thực hiện cơ chế kế hoạch tập trung, nhà nước vừa là trung tâm quyền lực chính trị,
vừa là trung tâm quyền lực kinh tế. Nhà nước xuất hiện với vai trò duy nhất, vừa
thành lập các tổ chức kinh tế để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, vừa đồng
thời lãnh đạo, tổ chức quản lí các tổ chức sản xuất kinh doanh. Vì vậy, ở giai đoạn
này hợp đồng không được hiểu theo nghĩa đích thực của nó là tự do thỏa thuận mà
nó thực chất được hiểu là một dạng “hợp đồng kế hoạch”. Ngày 04/01/1960, Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 04/TTg ban hành điều lệ tạm thời về
hợp đồng kinh tế để thay thế cho Điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh doanh (năm
1956), Điều lệ này được áp dụng trong một thời gian dài ở miền Bắc Việt Nam và

13


được thay thế bằng Nghị định số 54/CP ngày 10/3/1975, quy định Điều lệ về chế độ
hợp đồng kinh tế được ban hành. Đây là bản Điều lệ chính thức đầu tiên về hợp
đồng trong kinh doanh, là công cụ pháp lý của Nhà nước trong việc xây dựng và
phát triển nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Như vậy, ở giai đoạn này điều kiện để một
hợp đồng kinh doanh có hiệu lực quy định khá đơn giản, chủ thể tham gia ký kết
hợp đồng kinh tế có phạm vi rất hẹp và điều kiện về nội dung và hình thức không
bắt buộc.
Có thể nói, trước thời kỳ đổi mới đất nước, vấn đề hợp đồng trong lĩnh vực
kinh doanh không thể hiện đúng bản chất của hợp đồng là dựa trên cơ sở sự thỏa
thuận tự nguyện, phản ánh mối quan hệ hàng hóa - tiền tệ mà thực chất là một dạng
công cụ để các tổ chức kinh tế xã hội chủ nghĩa thực hiện các kế hoạch nhà nước

giao. Mặc dù được hình thành khá sớm, ngay từ khi pháp luật còn chưa có quy định
chung dành cho pháp luật hợp đồng dân sự, thế nhưng bản chất của hợp đồng kinh
doanh giai đoạn này mang tính mệnh lệnh, hành chính cứng nhắc, theo ý chí của
nhà nước, nội dung quy định sơ sài và văn bản pháp lý có giá trị cao nhất chỉ là
Nghị định.
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1989 đến hết năm 2005
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ Vi của Đảng năm 1986 thành công, Đảng
chủ trương xóa bỏ cơ chế quản lý kinh tế quan lưu bao cấp cũ, xây dựng nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, thúc đẩy quan hệ
thương mại phát triển với sự quản lý của Nhà nước. Thông qua những chính sách,
pháp luật, Nhà nước tạo dựng môi trường kinh doanh lành mạnh, thuận lợi, đảm bảo
mọi thành phần kinh tế đều được bình đẳng trước pháp luật. Do đó, ngày 25/9/1989
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế đã được ban hành với những thay đổi cơ bản về tư
tưởng so với các điều lệ về hợp đồng kinh tế trước đây. Để hoàn thiện việc xây
dựng thể chế kinh tế thị trường, hàng loạt những văn bản pháp luật kinh tế chứa
đựng các quy định về hợp đồng kinh tế đã lần lượt được ban hành như: Quyết định
số: 18/HĐBT ngày 16/01/1990 về việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế theo

14


chỉ tiêu pháp lệnh, đặc biệt là Bộ luật dân sự 1995 (đã được thay thế bằng Bộ luật
dân sự 2005); Bộ luật hàng hải Việt Nam năm 1990 (đã được sửa đổi, bổ sung năm
2005); Luật kinh doanh bảo hiểm 2000; Luật xây dựng năm 2003 …
Pháp Lệnh hợp đồng kinh tế đã làm thay đổi nhận thức về bản chất của hợp
đồng kinh tế. Hợp đồng kinh tế chính thức là sự thỏa thuận của các bên ký kết trên cơ
sở thỏa thuận tự nguyện, vì lợi ích kinh tế của mình. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ghi
nhận nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong hợp
đồng (Điều 3); ký kết hợp đồng kinh tế là quyền của các đơn vị kinh tế (Điều 4).
Có thể nói, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế đã có sự đáp ứng được yêu cầu đặt ra

là đảm bảo các quan hệ kinh tế được thiết lập trên cơ sở tôn trọng quyền tự chủ
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế nhằm đẩy mạnh sản
xuất và lưu thông hàng hóa và tuy không quy định cụ thể nhưng cũng một phần hé
mở những điều kiện bắt buộc để hợp đồng kinh tế có hiệu lực thông qua các nguyên
tắc của hợp đồng kinh tế như: chủ thể trong hợp đồng kinh tế ít nhất một bên phải là
pháp nhân (Điều 2) hoặc nguyên tắc tự nguyện thỏa thuận (Điều 3) …. Tuy nhiên,
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế vẫn còn tồn tại những bất cập, hạn chế và chưa phù hợp
với thực tiễn như:
Thứ nhất, việc quy định điều kiện về chủ thể trong hợp đồng kinh tế bắt buộc
ít nhất một bên phải là pháp nhân (Điều 2) dẫn đến tình trạng hợp đồng kinh tế giữa
các chủ thể kinh doanh không có tư cách pháp nhân (như: hợp đồng giữa các doanh
nghiệp tư nhân với nhau hoặc giữa các cá nhân có đăng ký kinh doanh với nhau)
không được coi là hợp đồng kinh tế, gây khó khăn cho việc giải quyết những tranh
chấp phát sinh.
Thứ hai, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế không cho phép người được ủy quyền
kinh tế có thể ủy quyền cho người khác ký hợp đồng (Điều 9), không quy định điều
kiện có hiệu lực của hợp đồng kinh tế trong khi đó lại liệt kê ra một số trường hợp
dẫn đến hợp đồng kinh tế vô hiệu toàn bộ, do đó bỏ sót nhiều căn cứ có thể dẫn đến
hợp đồng kinh tế vô hiệu như: Hợp đồng kinh tế được ký có dấu hiệu giả tạo, đe

15


dọa, nhầm lẫn, cưỡng bức .. và thực tiễn áp dụng quy định về xử lý tài sản khi hợp
đồng kinh tế vô hiệu còn nhiều vướng mắc.
Thứ ba, nếu xét về mặt lý luận thì hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự có
cùng bản chất, bởi đều là các giao dịch song phương và đều là hợp đồng hình thành
từ sự thỏa thuận của các chủ thể ở vị trí hoàn toàn bình đẳng với nhau, tuy nhiên,
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định hình thức của hợp đồng kinh tế chỉ có thể
bằng văn bản (Điều 11), trong khi hình thức của hợp đồng dân sự có thể bằng văn

bản, cử chỉ, lời nói.
1.3.3. Giai đoạn từ năm 2006 đến nay
Giai đoạn này, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông
qua Bộ luật dân sự sửa đổi - Luật dân sự năm 2005, có hiệu lực từ ngày 01/01/2006,
thay thế cho Luật dân sự 1995 và Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989. Bên cạnh
đó, Quốc hội còn thông qua Luật thương mại năm 2005, có hiệu lực từ ngày
01/01/2006, thay thế cho Luật thương mại năm 1997, trong đó quy định cụ thể về
hợp đồng trong hoạt động kinh doanh của các thương nhân. So với Bộ luật dân sự
năm 1995, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989, Luật thương mại năm 1997, Bộ
luật dân sự năm 2005 và Luật thương mại năm 2005 có nhiều quy định mới, tiến bộ
về điều chỉnh pháp luật đối với hợp đồng nói chung và hợp đồng trong hoạt động
kinh doanh nói riêng. Bộ luật dân sự năm 2005 đã thay đổi quan niệm về hợp đồng
trong lĩnh vực thương mại, kể từ ngày 01/01/2006 khái niệm hợp đồng kinh tế
không còn tồn tại, mọi hợp đồng dù được ký kết giữa các thương nhân với nhau để
phục vụ mục đích kinh doanh thu lợi hay được ký kết giữa các cá nhân với nhau để
phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dung đều được gọi chung là hợp đồng dân sự. Trong
từng lĩnh vực cụ thể, các hợp đồng dân sự được ký kết để phục vụ cho hoạt động
kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận có thể được phân biệt thành các loại hợp đồng riêng
như: Hợp đồng mua bán hàng hóa, Hợp đồng dịch vụ, hợp đồng tín dụng …
Bộ luật dân sự năm 2005 đã thống nhất điều chỉnh pháp luật đối với hợp
đồng trong lĩnh vực thương mại. Pháp luật về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại

16


là tổng hợp các quy phạm do nhà nước ban hành hoặc được nhà nước thừa nhận
điều chỉnh các quan hệ phát sinh từ việc ký kết và thực hiện hợp đồng phục vụ hoạt
động thương mại, tìm kiếm lợi nhuận. Bộ luật dân sự năm 2005 qui định tương đối
hoàn thiện các điều kiện bắt buộc: chủ thể hợp đồng phải có năng lực hành vi dân
sự; nội dung, mục đích của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật, không

trái đạo đức xã hội; các bên hoàn toàn tự nguyện, vấn đề này hiện đã được Bộ luật
dân sự năm 2005 qui định tương đối hoàn thiện, trừ điều kiện về hình thức hợp
đồng. Với đa số Đại biểu tán thành, ngày 24/11, Quốc hội đã biểu quyết thông qua
dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi). Bộ luật dân sự sửa đổi có hiệu lực từ 1/1/2017 với
nhiều quy định mới quan trọng có liên quan đến các điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng trong hoạt động kinh doanh.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong hoạt động kinh doanh thương
mại được thể hiện trong chương 1 là những vấn đề có tính lý luận bao quát, bao gồm
các quy định về hợp đồng kinh doanh thương mại, các điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng kinh doanh thương mại. Trên cơ sở phân tích các quan điểm khác nhau và dựa
trên các cách tiếp cận khác nhau, luận văn đã đưa ra được định nghĩa về hiệu lực của
hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh thương mại.
Bên cạnh đó, hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh các điều kiện có hiệu
lực của hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh thương mại cũng là những nội dung mang
tính cốt yếu về mặt lý thuyết, tạo căn cứ cho việc phân tích đánh giá pháp luật thực
định và thực tiễn áp dụng liên quan đến nội dung của luận văn ở chương 2.

17


Chương 2
NỘI DUNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU
KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG TRONG
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
2.1. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong hoạt động kinh doanh
Luật Thương mại 2005 không quy định cụ thể các điều kiện để hợp đồng có
hiệu lực. Vì vậy, khi xem xét điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong kinh doanh,
thương mại cần dựa trên các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự quy định

trong Bộ luật dân sự. Tuy nhiên, so với hợp đồng dân sự, điều kiện có hiệu lực của
hợp đồng trong hoạt động kinh doanh có những điểm đặc thù cơ bản thể hiện điều
kiện về chủ thể tham gia hợp đồng, điều kiện về đại diện giao kết hợp đồng và điều
kiện về nội dung, mục đích của hợp đồng. Căn cứ vào Bộ luật dân sự năm 2005
(Điều 122) và các quy định có liên quan, có thể xác định một hợp đồng trong kinh
doanh, thương mại có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
2.1.1. Điều kiện về chủ thể tham gia hợp đồng kinh doanh thương mại
Các chủ thể tham gia hợp đồng kinh doanh, thương mại phải có năng lực chủ
thể để thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng. Trong thực tiễn kinh doanh, thương mại,
chủ thể tham gia hợp đồng kinh doanh, thương mại chủ yếu là thương nhân. Khi
tham gia hợp đồng kinh doanh, thương mại nhằm mục đích lợi nhuận, các thương
nhân phải đáp ứng điều kiện có đăng ký kinh doanh phù hợp với nội dung hợp
đồng. Trường hợp mua bán hàng hóa, dịch vụ có điều kiện kinh doanh, thương nhân
còn phải đáp ứng các điều kiện kinh doanh đó theo quy định của pháp luật.
2.1.2. Điều kiện đại diện các bên tham gia giao kết hợp đồng kinh tế phải đúng
thẩm quyền. Đại diện hợp pháp của chủ thể hợp đồng có thể là đại diện theo
pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền.

18


Đại diện các bên tham gia giao kết hợp đồng kinh doanh, thương mại phải
đúng thẩm quyền. Đại diện hợp pháp của chủ thể hợp đồng có thể là đại diện theo
pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền. Khoản 2 Điều 137 BLDS 2015 quy định:
Một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật và mỗi người đại diện
có quyền đại diện cho pháp nhân. Quy định mỗi người đại diện theo pháp luật có
quyền đại diện cho pháp nhân phù hợp với quyền, nghĩa vụ của mình được xác định
rõ theo điều lệ hoặc quyết định của cơ quan có thẩm quyền sẽ là một rủi ro pháp lý
rất đáng ngại cho các đối tác giao dịch. Vì như vậy thì đồng nghĩa với việc đòi hỏi
các đối tác phải biết rõ thẩm quyền của từng người đại diện theo pháp luật của pháp

nhân. Trong khi không có cơ sở để xác định chắc chắn đâu là điều lệ hiện hành và
chính xác của pháp nhân. Đây hoàn toàn là công việc nội bộ của pháp nhân, vì vậy
pháp nhân phải chịu trách nhiệm đối với việc xác lập, thực hiện giao dịch của nhân
viên mình nói chung, của người đại diện theo pháp luật nói riêng.
Điều 13 Luật Doanh nghiệp 2014 cho phép công ty TNHH và công ty cổ
phần có thể tự quyết định, chỉ định một người đại diện theo pháp luật hoặc trong
trường hợp cần thiết thì có quyền tự chủ quyết định việc có nhiều người đại diện
theo pháp luật.
Số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp
luật của doanh nghiệp được quy định cụ thể tại Điều lệ công ty. Đây là quy định
hoàn toàn mới mẻ, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp tận dụng được mọi cơ hội kinh
doanh thông qua các đại diện theo pháp luật, đồng thời, gỡ rối cho doanh nghiệp
trong các trường hợp: người đại diện duy nhất không hợp tác, không thực hiện các
yêu cầu của thành viên/cổ đông trong quá trình quản lý điều hành nội bộ cũng như
giao dịch với bên ngoài công ty. Bằng cách có nhiều hơn 1 người đại diện, sự lạm
quyền, bất hợp tác như đã nói trên sẽ bị vô hiệu hóa.
Ngoài ra, doanh nghiệp phải bảo đảm luôn có ít nhất một người đại diện theo
pháp luật cư trú tại Việt Nam. Trường hợp doanh nghiệp chỉ có một người đại diện
theo pháp luật thì người đó phải cư trú ở Việt Nam và phải ủy quyền bằng văn bản

19


×