Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Pháp luật việc làm thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 92 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
--------------***--------------

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VIỆC LÀM – THỰC TRẠNG VÀ
GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN

NGUYỄN MẠNH TRƯỜNG

HÀ NỘI – 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
--------------***--------------

LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT VIỆC LÀM – THỰC TRẠNG VÀ
GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN

NGUYỄN MẠNH TRƯỜNG

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐỖ NGÂN BÌNH

HÀ NỘI - 2015




LỜI CAM ĐOAN

Tôi là Nguyễn Mạnh Trường, sinh ngày 27 tháng 08 năm 1985. Tôi là học
viên lớp cao học Luật Kinh tế, khóa II (2013 - 2015), Viện Đại học Mở Hà Nội.
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ Đỗ Ngân Bình, vấn đề nghiên cứu trong luận văn
chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào của tác giả khác.
Trong quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn này, tôi có tham khảo một
số bài viết, chuyên đề, các tài liệu, các nguồn trích dẫn, tham khảo đã được chỉ ra
trong danh mục tài liệu tham khảo.
Tác giả

Nguyễn Mạnh Trường


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy giáo, cô giáo của
Viện Đại học Mở Hà Nội, đặc biệt là các thầy, cô giáo trong khoa Sau đại học –
Viện Đại học Mở Hà Nội, các thầy cô của Trường Đại học Luật Hà Nội, cùng các
thầy cô khác đã tận tâm dạy dỗ, chỉ bảo, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Tôi cũng xin gửi lời tri ân sâu sắc đến TS. Đỗ Ngân Bình – người đã tận tình
hướng dẫn, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình nghiên
cứu và hoàn thiện luận văn này.
Cảm ơn gia đình và những người thân, bạn bè đã tận tình giúp đỡ tôi về mọi
mặt để hoàn thành được luận văn này.
Mặc dù đã có sự cố gắng và tận tâm, nhưng do còn nhiều hạn chế về kinh
nghiệm thực tiễn, kiến thức nên luận văn này chắc chắn sẽ không thể tránh khỏi
những thiếu sót và hạn chế. Kính mong quý thầy, cô giáo và bạn bè đồng nghiệp

quan tâm góp ý để luận văn của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VIỆC LÀM VÀ PHÁP LUẬT VIỆC LÀM....... 5
1.1. Tổng quan chung về việc làm...................................................................... 5
1.1.1. Khái niệm việc làm ................................................................................ 5
1.1.2. Đặc điểm của việc làm ........................................................................... 6
1.1.3. Tầm quan trọng của việc làm ................................................................. 8
1.1.4. Phân loại việc làm .................................................................................. 9
1.2. Tổng quan chung về pháp luật việc làm ................................................... 11
1.2.1. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với vấn đề việc làm .... 11
1.2.2. Những nội dung cơ bản của hệ thống pháp luật việc làm ...................... 12
1.3. Lược sử quá trình hình thành và phát triển của pháp luật việc làm ở
Việt Nam .......................................................................................................... 18
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .................................................................................... 21
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VIỆC LÀM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............................................................. 22
2.1. Thực trạng pháp luật và thực hiện các quy định về trách nhiệm của Nhà
nước trong lĩnh vực việc làm ........................................................................... 22
2.1.1. Quy định của pháp luật hiện hành về trách nhiệm của Nhà nước trong
lĩnh vực việc làm ........................................................................................... 22
2.1.2. Thực trạng thực hiện các quy định về trách nhiệm của Nhà nước trong
lĩnh vực việc làm ........................................................................................... 32

2.2. Thực trạng pháp luật và thực hiện các quy định về quyền hạn và trách
nhiệm của các doanh nghiệp, tổ chức dịch vụ việc làm .................................. 41


2.2.1. Quy định của pháp luật hiện hành về quyền hạn và trách nhiệm của các
doanh nghiệp, tổ chức dịch vụ việc làm ......................................................... 41
2.2.2. Thực trạng thực hiện các quy định về quyền hạn và trách nhiệm của các
doanh nghiệp, tổ chức dịch vụ việc làm ......................................................... 44
2.3. Thực trạng pháp luật và thực hiện các quy định về quyền và nghĩa vụ
của người sử dụng lao động trong lĩnh vực việc làm ...................................... 47
2.3.1. Quy định của pháp luật hiện hành về quyền và nghĩa vụ của người sử
dụng lao động trong lĩnh vực việc làm ........................................................... 47
2.3.2. Thực trạng thực hiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của người sử
dụng lao động trong lĩnh vực việc làm ........................................................... 50
2.4. Thực trạng pháp luật và thực hiện các quy định về quyền và nghĩa vụ
của người lao động trong lĩnh vực việc làm .................................................... 52
2.4.1. Quy định của pháp luật hiện hành về quyền và nghĩa vụ của người lao
động trong lĩnh vực việc làm ......................................................................... 52
2.4.2. Thực trạng thực hiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của người lao
động trong lĩnh vực việc làm ......................................................................... 55
2.5. Thực trạng pháp luật và thực hiện các quy định về thanh tra và xử lý vi
phạm trong lĩnh vực việc làm .......................................................................... 57
2.5.1. Quy định của pháp luật hiện hành về thanh tra và xử lý vi phạm trong
lĩnh vực việc làm ........................................................................................... 57
2.5.2. Thực trạng thực hiện các quy định về thanh tra và xử lý vi phạm trong
lĩnh vực việc làm ........................................................................................... 60
2.6. Thực trạng pháp luật và thực hiện các quy định về khiếu nại và giải
quyết tranh chấp trong lĩnh vực việc làm ....................................................... 62
2.6.1. Quy định của pháp luật hiện hành về khiếu nại và giải quyết tranh chấp
trong lĩnh vực việc làm .................................................................................. 62

2.6.2. Thực trạng thực hiện các quy định về khiếu nại và giải quyết tranh chấp
trong lĩnh vực việc làm .................................................................................. 63
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .................................................................................... 65


CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VIỆC LÀM ....................................... 66
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về vấn đề việc làm ..................... 66
3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về việc làm ....................... 67
3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về việc
làm .................................................................................................................... 73
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .................................................................................... 78
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT

Ký hiệu

Ý nghĩa

1

World Bank

Ngân hàng Thế giới


2

ILO

Tổ chức Lao động Quốc tế

3

GDP

Tổng sản phẩm trong nước

4



Nghị định

5

NQ

Nghị quyết

6



Quyết định


7

TT

Thông tư


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là quốc gia đang trên đà phát triển theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nên luôn là điểm sáng thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Nguồn nhân
lực, bộ phận trực tiếp tham gia vào các quy trình sản xuất, đóng vai trò hết sức quan
trọng trong việc phát triển kinh tế của doanh nghiệp. Theo số liệu thống kê của Viện
Khoa học Lao động và Xã hội, tỷ lệ thất nghiệp của cả nước tính đến hết ngày 20
tháng 4 năm 2015 là khoảng 2,43%, nằm trong top những nước có tỷ lệ thất nghiệp
thấp trên thế giới. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là Việt Nam đang có tình
trạng việc làm ổn định cho người dân. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới
(World Bank), thì nước ta đang rất thiếu lao động có trình độ tay nghề, công nhân
kĩỹthuật bậc cao và chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam cũng thấp hơn nhiều so
với các nước khác. Trong khi đó cử nhân, thạc sỹ ra trường không có việc làm vẫn
còn ở mức báo động. Từ con số 72.000 người không có việc làm tăng lên đến
162.000 người trong đầu năm nay, trong đó, nhóm người không có chuyên môn kỹ
thuật chiếm gần 60% tổng số lao động thất nghiệp, nhóm có bằng đại học và trên
đại học chiếm gần 17%. Như vậy, so với thế giới, Việt Nam thuộc diện có tỷ lệ thất
nghiệp thấp nhưng đối với tình hình lao động việc làm trong nước thì tỷ lệ thất
nghiệp vẫn ở mức cao. Trong khi đó, các dự án đầu tư trực tiếp còn hiệu lực của
doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam là trên 16.300 dự án, với tổng số vốn đầu tư
thực tế khoảng 238 tỷ USD đã tạo ra không ít việc làm cho người lao động.
Việt Nam là một quốc gia có nguồn nhân lực trẻ, dồi dào cùng sự phát triển
ngày càng nhiều của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh với quy mô, hình

thức khác nhau. Đến thời điểm 31/12/2014, dân số cả nước là 90,7 triệu người,
trong đó có 54,4 triệu người thuộc lực lượng lao động. Theo thống kê, cả nước hiện
có khoảng 1,2 triệu lao động thiếu việc làm (tỷ lệ 2,43%, trong đó khu vực thành thị
là 1,15% và nông thôn là 3,05%) và gần 1 triệu lao động thất nghiệp chiếm 2,27%;
trong số này khu vực thành thị là 3,27% và nông thôn là 1,81%. Như vậy, số việc

1


làm tạo ra dù tăng nhưng không theo kịp số người có nhu cầu tìm việc, vì vậy tình
trạng thất nghiệp vẫn là vấn đề “nóng bỏng”. Bên cạnh đó, trong nền kinh tế thị
trường hiện nay, các doanh nghiệp, cơ sở sản xuât, kinh doanh chịu sự cạnh tranh
rất lớn nên dễ dẫn đến tình trạng hoạt động không hiệu quả, phải cắt giảm nhân sự,
hay thậm chí phá sản. Theo báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tháng 7 của Tổng cục
Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong 07 tháng đầu năm 2015, cả nước có 32.373
doanh nghiệp ngừng hoạt động hoặc chờ đóng mã số thuế. Có thể nói tình trạng
việc làm của phần đông người lao động là khá bấp bênh và thiếu ổn định.
Xuất phát từ tầm quan trọng của vấn đề việc làm đối với hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp cũng như đời sống của người lao động; xuất phát từ
tính cấp thiết phải làm rõ các quy định của pháp luật về lao động việc làm; với
mong muốn tìm hiểu, phân tích nguyên nhân thực trạng và góp ý làm hoàn thiện
hơn pháp luật về việc làm; tôi mạnh dạn chọn đề tài “Pháp luật việc làm – Thực
trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện” làm đề tài cho luận văn tốt
nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Bộ luật Lao động là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc bảo vệ quyền, lợi ích
cho các bên trong việc làm, cũng như đảm bảo sự hài hòa, ổn định của quan hệ lao
động. Hiện nay, vấn đề bảo vệ quyền lợi cho người lao động và người sử dụng lao
động nhận được nhiều sự quan tâm và được đề cập đến trong nhiều công trình
nghiên cứu. Tuy nhiên, các công trình này còn mang tính chất riêng lẻ, chủ yếu khai

thác vấn đề dưới góc độ người lao động hay người sử dụng lao động, hoặc chỉ được
nghiên cứu một cách gián tiếp…
Trong đó, đáng chú ý là Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường Trường Đại
học Luật Hà Nội năm 2004 của tác giả Lưu Bình Nhưỡng “Việc làm và giải quyết
việc làm trong điều kiện nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam”; Luận văn thạc sỹ luật học Trường Đại học Luật Hà Nội của ThS. Lưu
Thị Hoài Anh với đề tài “Giải quyết việc làm theo pháp luật lao động Việt Nam và

2


thực tiễn thực hiện tại vùng Đồng bằng Sông Hồng”; Luận văn thạc sỹ luật học năm
2012 của tác giả Lâm Thị Thu Huyền “Những vấn đề pháp lý cơ bản về việc làm và
giải quyết việc làm trong bối cảnh suy thoái kinh tế ở Việt Nam hiện nay”.
Ngoài ra, vấn đề này cũng là đối tượng nghiên cứu của nhiều bài báo, tạp chí
khoa học như bài viết “Bàn về khái niệm “việc làm” dưới góc độ pháp luật lao
động” của ThS. Nguyễn Thị Kim Phụng đăng trên số 6/2004, Tạp chí Luật học; bài
viết “Chính sách lao động – việc làm nhìn từ góc độ một chính sách kinh tế vĩ mô:
Những bài học giai đoạn 2006-2010” của TS. Nguyễn Minh Phong…
Về cơ bản, các công trình nghiên cứu, bài viết nêu trên mới chỉ dừng lại ở
việc phân tích các quy định của pháp luật nói chung về việc làm mà chưa đi sâu vào
nghiên cứu thực trạng thực hiện pháp luật về việc làm tại các doanh nghiệp ở các
khu vực cụ thể. Do đó, chưa thấy rõ được thực tế thực hiện quy định pháp luật về
việc làm của các doanh nghiệp ở các khu vực này.
3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung vào nghiên cứu những vấn đề lý luận về pháp luật việc
làm và các quy định của pháp luật về trách nhiệm của nhà nước, của các tổ chức,
dịch vụ việc làm về vấn đề đảm bảo việc làm; quyền lợi và nghĩa vụ của các bên
trong quan hệ lao động; giải quyết tranh chấp, khiếu nại liên quan đến vấn đề việc
làm và đưa ra một số giải pháp hoàn thiện. Đồng thời, luận văn đi sâu vào tìm hiểu

thực tiễn thực hiện pháp luật về việc làm tại các doanh nghiệp
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin với
phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để nghiên cứu về pháp luật việc làm
trong mối quan hệ với các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội khác.
Ngoài ra, luận văn còn áp dụng một số phương pháp nghiên cứu khác như:
phương pháp khảo cứu tài liệu và kế thừa những kết quả nghiên cứu đã có; phương
pháp sử dụng tổng hợp các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, suy luận
logic trong quá trình nghiên cứu và trình bày vấn đề.

3


5. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn thực
hiện pháp luật về việc làm tại các doanh nghiệp. Trên cơ sở đánh giá những kết quả
đạt được và những hạn chế của pháp luật hiện hành để đề xuất một số giải pháp
hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật trong điều kiện thực
tế hiện nay.
Với mục đích đó, nhiệm vụ của luận văn được xác định cụ thể như sau:
-

Làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến pháp luật việc làm;

-

Phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật Việt Nam về việc làm;

-


Đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về việc

làm, và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về việc làm tại các doanh nghiệp.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn với đề tài “Pháp luật việc làm – Thực trạng và giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả thực hiện”, ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo, được kết cấu gồm 03 chương:
Chương 1: Tổng quan về việc làm và pháp luật việc làm
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật việc làm ở Việt Nam
hiện nay
Chương 3: Giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật việc làm

4


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ VIỆC LÀM VÀ PHÁP LUẬT VIỆC LÀM

1.1. Tổng quan chung về việc làm
1.1.1. Khái niệm việc làm
Lao động là quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và việc làm chính là nội
dung thực tiễn để công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Dưới nhiều góc
độ khác nhau, có nhiều cách hiểu về khái niệm việc làm nhưng về cơ bản đó là các
hoạt động nhằm tạo ra lợi ích vật chất nhất định.
Dưới góc độ ngôn ngữ học, việc làm được định nghĩa là công việc được giao
theo nghề nghiệp, có thù lao và chế độ, đảm bảo đời sống lâu dài [1]. Tuy nhiên, khái
niệm việc làm đã được cụ thể hóa trong phạm vi nghề nghiệp với những đặc điểm,
điều kiện tiên quyết đối với quan hệ việc làm theo pháp lý và trên thực tế đời sống.
Dưới góc độ kinh tế - xã hội, hoạt động kiếm sống của con người được coi là

việc làm. Việc làm trước hết là vấn đề của mỗi cá nhân, xuất phát từ nhu cầu mưu
sinh của các cá nhân. Con người vì muốn thỏa mãn các nhu cầu của bản thân nên
tiến hành các hoạt động lao động nhất định. Người có việc làm chính là khái niệm
dùng để chỉ những người hiện đang tham gia các hoạt động đó. Tùy theo mức độ
tham gia và thu nhập từ những hoạt động này mà có thể chia đối tượng này thành
hai loại là: người có việc làm đầy đủ và người có việc làm không đầy đủ. Trong đó,
người có việc làm đầy đủ là người làm việc với mức thu nhập ổn định, thường
xuyên và toàn thời gian theo quy định, người có việc làm không đầy đủ là cá nhân
làm việc với mức thu nhập không thường xuyên và thời gian không cố định như cá
nhân lao động thời vụ, lao động theo công việc. Việc làm luôn gắn liền với vấn đề
sản xuất. Hiệu quả của việc giải quyết tốt vấn đề việc làm cũng chính là hiệu quả
của sản xuất. Kinh tế phát triển sẽ tạo điều kiện để giải quyết tốt vấn đề việc làm và

5


ngược lại, nếu không giải quyết tốt vấn đề việc làm và thất nghiệp thì đó sẽ là
những yếu tố kìm hãm sự tăng trưởng của kinh tế.
Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), việc làm là một mục tiêu quan trọng
trong tôn chỉ hoạt động của tổ chức này, thể hiện qua việc ILO đã có nhiều công
ước và khuyến nghị liên quan đến việc làm, trong đó có một số công ước quan trọng
như Công ước số 47 về duy trì tuần làm việc 40 giờ, Công ước số 88 về tổ chức
dịch vụ việc làm, Công ước số 122 về chính sách việc làm… Theo quan niệm của
ILO, người có việc làm là những người thực hiện một công việc để được trả tiền
công, lợi nhuận hoặc được thanh toán bằng hiện vật hoặc những người tham gia vào
các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình
không đươc nhận tiền công hoặc hiện vật. ILO định nghĩa việc làm gồm những
người trên một độ tuổi xác định nào đó, trong một khoảng thời gian cụ thể được trả
lương hay tự trả lương cho mình.
Dưới góc độ pháp lý, giải thích về việc làm được thống nhất ghi nhận trong

Bộ luật Lao động năm 2012 và Luật Việc làm năm 2013, cụ thể tại khoản 2 Điều 3
Luật Việc làm năm 2013 quy định: “Việc làm là hoạt động lao động tạo ra thu nhập
mà không bị pháp luật cấm”. Theo đó, việc làm trên phương diện pháp lý hay
phương diện kinh tế đều được hình dung là một hoạt động lao động nhằm tạo ra thu
nhập và các hoạt động này phải không bị pháp luật cấm. Định nghĩa việc làm trong
quan hệ pháp lý là phương hướng xác định được mối quan hệ cũng như hoạt động
thực tiễn của mỗi cá nhân trong phạm trù lao động qua đó có những quy định về
phạm vi điều chỉnh và xác định cụ thể được đối tượng điều chỉnh trong quan hệ này.
1.1.2. Đặc điểm của việc làm
Việc làm được nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau mặc dù dưới các góc độ
này, việc làm đều được xem xét với bản chất không đổi. Tuy nhiên, đối với từng
mối quan hệ cụ thể, việc làm lại có những đặc trưng riêng để xác minh khi được đưa
ra phân biệt với các đối tượng khác.

6


Dưới góc độ kinh tế - xã hội, hoạt động kiếm sống là hoạt động quan trọng
nhất của thế giới nói chung và con người nói riêng. Hoạt động kiếm sống của con
người được gọi chung là việc làm.
Việc làm trước hết là vấn đề của mỗi cá nhân, xuất phát từ nhu cầu của bản
thân nên tiến hành các hoạt động nhất định. Họ có thể tham gia công việc nào đó để
được trả công hoặc tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm như
dùng các tư liệu sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận hoặc tự làm những công
việc cho hộ gia đình mình.
Ngoài vấn đề cá nhân, việc làm còn là vấn đề của cộng đồng của xã hội.. Sở
dĩ có sự phát sinh này là do: con người không sống đơn lẻ và hoạt động lao động
của mỗi cá nhân cũng không đơn lẻ mà nằm trong tổng thể các hoạt động sản xuất
của xã hội. Hơn nữa, việc làm và thu nhập không phải là vấn đề mà lúc nào mỗi cá
nhân người lao động cũng quyết định được mà việc làm còn là vấn đề của cộng

đồng, của xã hội. Sự phát triển quá nhanh của dân số, mức độ tập trung tư liệu sản
xuất ngày càng cao vào tay một số cá nhân dẫn đến tình trạng xã hội ngày càng có
nhiều người không có khả năng tự tạo việc làm. Trong điều kiện đó, mỗi cá nhân
phải huy động mọi khả năng của bản thân để tự tìm việc làm cho mình, phải cạnh
tranh để tìm việc làm. Điều này đòi hỏi phải có những chính sách và biện pháp nhất
định từ phù hợp từ phĩa nhà nước nhằm tăng số lượng việc làm và chất lượng việc
làm, đảm bảo đời sống dân cư, kiềm chế nạn thất nghiệp và thông qua đó để giải
quyết các vấn đề xã hội khác.
Tóm lại, xét về phương diện kinh tế - xã hội, có thể hiểu việc làm là các hoạt
động tạo ra, đem lại lợi ích, thu nhập cho người lao động được xã hội thừa nhận.
Dưới góc độ pháp lý, việc làm được xem xét trên phương diện là cơ sở của
mối quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động.
Chính sách lao động - việc làm không chỉ bảo đảm ổn định chính trị - xã hội,
mà còn trực tiếp góp phần củng cố và nâng cao chất lượng, sức mạnh kinh tế của
đất nước. Hệ thống chính sách xã hội phải dựa trên nền tảng cốt lõi nhất là coi trọng
yếu tố con người và phát huy đến mức cao nhất tiềm năng của con người, bảo đảm

7


các yêu cầu có tính nguyên tắc, đó là: mọi người có việc làm, có thu nhập đảm bảo
cuộc sống hàng ngày; thực hiện nguyên tắc công bằng, dân chủ, bình đẳng trong
mọi quan hệ xã hội trước pháp luật; xây dựng một xã hội phát triển tương đối đồng
đều, giảm dần sự cách biệt giữa lao động chân tay và lao động trí óc, giữa phụ nữ và
nam giới, giữa nông thôn và thành thị, giữa người giàu và người nghèo, giữa người
có hoàn cảnh bất lợi, rủi ro với người có hoàn cảnh thuận lợi.
1.1.3. Tầm quan trọng của việc làm
Việc làm có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, đây là hoạt động liên
quan chặt chẽ tới đời sống xã hội, có mối quan hệ mật thiết với kinh tế và xã hội,
chi phối toàn bộ mọi hoạt động của cá nhân và xã hội.

Đối với mỗi cá nhân, việc làm tạo ra nguồn thu nhập phục vụ cho nhu cầu
cuộc sống của họ, vì vậy, việc làm cũng sẽ chịu ảnh hưởng bởi ngành nghề cũng
như sự phát triển chung của vùng kinh tế tại nơi đối tượng sinh sống (vùng đông
dân cư, vùng có khó khăn về điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng…), đối với những
nhóm người nhất định (lao động không có trình độ tay nghề, lao động có trình độ
tay nghề cao…). Việc không có việc làm trong thời gian dài không chỉ gây trở ngại
tới sự phát triển chung của xã hội mà còn làm mai một kiến thức cũng như khả năng
chuyên môn nghề của người lao động, dẫn tới việc không đáp ứng được yêu cầu của
công việc đồng thời dẫn tới nguy cơ kéo dài hiện tượng thất nghiệp.
Đối với nền kinh tế, việc làm là một trong những nguồn lực quan trọng, vì
vậy nó là nhân tố tạo nên tăng trưởng kinh tế và thu nhập quốc dân, nền kinh tế luôn
đảm bảo tạo cầu và việc làm cho từng cá nhân sẽ giúp cho việc duy trì mối quan hệ
hài hoà giữa việc làm và kinh tế, duy trì nền kinh tế có xu hướng phát triển bền
vững, đồng thời nó cũng mang lại lợi ích và phát huy tiềm năng của người lao động.
Đối với xã hội, việc làm cũng tác động trực tiếp mỗi cá nhân, gia đình những nhân tố, tế bào của xã hội. Khi tất cả các cá nhân trong xã hội có việc làm thì
xã hội sẽ được duy trì và phát triển do không có mâu thuẫn nội sinh trong xã hội,
không tạo ra các tiêu cực, tệ nạn trong xã hội, con người được dần hoàn thiện về cả
nhân cách và trí tuệ… Ngược lại khi nền kinh tế không đảm bảo đáp ứng về việc
8


làm cho người lao động có thể dẫn đến nhiều tiêu cực trong đời sống xã hội và ảnh
hưởng xấu đến sự phát triển nhân cách con người. Khi con người lao động, ngoài
mục đích nhằm đảm bảo nhu cầu đời sống còn hướng đến các nhu cầu về phát triển
và tự hoàn thiện hoàn thiện tính cách trong môi trường cộng đồng xã hội. Vì vậy
trong nhiều trường hợp tình trạng thất nghiệp sẽ ảnh hưởng tới nhân cách con người,
như khiến con người thiếu tự tin trong giao tiếp xã hội, tự ti về khả năng của mình,
bất mãn với xã hội… dẫn đến những ảnh hưởng xấu phát sinh như tệ nạn xã hội.
Ngoài ra, tình trạng không có việc làm còn làm gia tăng khoảng cách chênh lệch
giàu nghèo, là nguyên nhân nảy sinh ra các mâu thuẫn và có ảnh hưởng lớn đến tình

hình chính trị.
Qua đó, có thể thấy, vai trò của việc làm trong đời sống xã hội là vô cùng lớn,
ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển chung của kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
của đất nước. Chính vì thế, vấn đề việc làm cần được đánh giá đúng mức, có sự
quan tâm đặc biệt và định hướng cụ thể cho sự phát triển.
1.1.4. Phân loại việc làm
Việc làm trên nhiều góc độ phân tích khác nhau có thể chia ra thành nhiều
loại công việc khác nhau nhằm cụ thể hóa cũng như tạo sự rõ ràng trong quá trình
phân tích và nắm bắt các thông tin về việc làm.
Việc làm bình thường và việc làm nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm được phân
loại dựa trên tính chất của công việc mà người lao động làm. Trong đó, việc làm
bình thường là những công việc mà cá nhân làm việc trong môi trường bình thường,
không có các yếu tố gây nguy hại tới sức khỏe của bản thân, đồng thời đối với các
công việc này không đòi hỏi ở người sử dụng lao động phải có đãi ngộ đặc biệt
cũng như các yêu cầu khắt khe đối với trang bị an toàn lao động cho người làm việc
trong điều kiện công việc bình thường. Ngược lại, đối với việc làm nặng nhọc, độc
hại, nguy hiểm đòi hỏi cá nhân làm công việc này sẽ phải đáp ứng các điều kiện cụ
thể đối với từng loại công việc khác nhau. Bên cạnh đó, người sử dụng lao động
phải đảm bảo được các yêu cầu khắt khe đối với an toàn lao động cho người làm
việc trong điều kiện việc làm nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm. Ngoài ra, đối với các
9


cá nhân thực hiện công việc này sẽ có những chế độ đãi ngộ đặc biệt. Cụ thể như
đối với tuổi nghỉ hưu sẽ được áp dụng trong khoảng thời gian là hai mươi năm thay
vì hai lăm năm như lao động trong điều kiện lao động bình thường…
Việc làm cho đối tượng lao động bình thường và việc làm cho đối tượng lao
động đặc thù. Xuất phát từ những đặc điểm riêng của các chủ thể tham gia quan hệ
lao động, hoặc xuất phát từ những đặc điểm của công việc, tính chất của ngành nghề,
tính chất của doanh nghiệp dẫn tới quy định về đối tượng lao động đặc thù, là đối

tượng lao động đặc biệt và được áp dụng các chế độ ưu tiên khác so với người lao
động bình thường, gồm: phụ nữ, người lao động chưa thành niên, người lao động
cao tuổi, người tàn tật.
Trong đó, phụ nữ là người lao động được ưu tiên trong việc hạn chế không
thực hiện các công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; áp dụng chế độ thai sản;
hay lao động nữ sẽ không bị áp dụng các hình thức kỷ luật lao động nếu người đó
đang mang thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi…
Người lao động chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi, thể lực và trí lực
của họ đang phát triển và chưa ổn định. Vì vậy, người lao động chưa thành niên cần
có sự ưu tiên và quan tâm đặc biệt trong quá trình làm việc để đảm bảo cho quyền
lợi của họ như: thời gian làm việc của người lao động chưa thành niên không được
quá 7 giờ một ngày hoặc 42 giờ một tuần; người sử dụng lao động chỉ được sử dụng
người lao động chưa thành niên làm thêm giờ, làm việc ban đêm trong một số nghề,
công việc do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định…
Đối với người lao động cao tuổi, có chế độ ưu đãi cho những người đã nghỉ
hưu là được phép giao kết hợp đồng lao động, nếu họ có nguyện vọng và người sử
dụng lao động có nhu cầu. Người tàn tật là người do bị thương hoặc dị tật bẩm sinh,
bị khiếm khuyết hoặc sút giảm khả năng của một hoặc nhiều hoặc nhiều bộ phận cơ
thể mà khả năng lao động bị suy giảm từ 21% trở lên do tàn tật, được Hội đồng Y
khoa giám định và xác nhận. Như vậy, đối với các đối tượng lao động đặc thù này
sẽ được áp dụng những việc làm phù hợp với khả năng lao động, thời gian làm việc
hợp lý đồng thời có chế độ đãi ngộ đặc biệt phù hợp với từng nhóm đối tượng.

10


Việc làm chân tay, việc làm trí óc là các công việc phân loại dựa trên điều
kiện đối với công việc đó. Việc làm chân tay đòi hỏi yếu tố lành nghề, sức khỏe tốt
như: việc làm về xây dựng, việc làm về mây tre đan… Việc làm trí óc đòi hỏi các
yếu tố điều kiện về khả năng hiểu biết, qua đào tạo và chủ yếu vận dụng các kiến

thức đó trong công việc hàng ngày mà không phải vận động sức lực nhiều như: việc
làm tại văn phòng, việc làm hành chính, việc làm liên quan tới giáo dục,…
Việc làm trọn ngày làm việc và việc làm không trọn ngày làm việc: được xác
định dựa trên yếu tố thời gian làm việc yêu cầu đối với công việc đó. Trong đó, việc
làm trọn ngày là việc người lao động làm việc theo chế độ thời gian làm việc bình
thường đối với cá nhân được quy định trong pháp luật lao động là 08 giờ trên một
ngày. Bên cạnh đó, việc làm không trọn ngày làm việc là việc thực hiện công việc
với thời gian ít hơn so với thời gian được quy định trong điều kiện làm việc bình
thường, đây là những công việc thường được gọi là việc làm thêm và thời gian
thường áp dụng khoảng 04 đến 06 giờ trên ngày.
1.2. Tổng quan chung về pháp luật việc làm
1.2.1. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với vấn đề việc làm
Việc làm là một trong những nhu cầu cơ bản của người lao động để bảo đảm
cuộc sống và phát triển toàn diện. Tạo việc làm cho người lao động, bảo đảm quyền
bình đẳng về việc làm cho mọi người lao động là trách nhiệm của mọi quốc gia.
Việc làm là mối quan tâm của toàn xã hội và là chỉ tiêu kinh tế xã hội quan trọng
đối với một đất nước. Đối với một quan hệ xã hội có tầm ảnh hưởng lớn như vậy
đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật hoàn thiện điều chỉnh nhằm đảm bảo tính kiểm
soát của Nhà nước, đồng thời quản lý chặt chẽ, điều tiết đảm bảo sự cân bằng đối
với chỉ số việc làm, hướng tới mục tiêu không còn tồn tại người không có việc làm.
Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy chính sách về việc làm và tạo việc làm
chưa đủ mạnh để xóa bỏ mọi rào cản, giải phóng năng lực của con người trong thời
kỳ phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, chính sách đầu tư, huy động vốn kém
hiệu quả đã tác động không nhỏ đến việc giải quyết việc làm dẫn tới nhiều cá nhân

11


gặp khó khăn trong việc duy trì doanh nghiệp cũng như đảm bảo sự ổn định đối với
nhân sự trong doanh nghiệp, tức là đảm bảo việc làm cho người lao động. Bên cạnh

đó, chính sách thu hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp sang
đất phi nông nghiệp, đô thị hóa, sáp nhập, phân tách địa giới hành chính nhưng lại
chưa đưa ra các phương thức hiệu quả trong điều tiết lao động từ các đơn vị hành
chính cụ thể gây ra khó khăn trong phân bố lao động, cụ thể dẫn tới nhiều vùng
nông thôn có tỷ lệ lao động không có việc làm cao.
Điều chỉnh pháp luật việc làm là công cụ giúp Nhà nước trong việc quản lý,
điều tiết thị trường lao động nói chung và nắm bắt được tình hình phát triển kinh tế
từ thực tế lao động cũng như tỷ lệ cung cầu của thị trường việc làm. Theo đó, Nhà
nước sẽ có những biện pháp cụ thể nhằm hạn chế tình trạng thất nghiệp, thông qua
pháp luật gián tiếp điều chỉnh quan hệ lao động trong các doanh nghiệp, giữa người
lao động và người sử dụng lao động để hạn chế tối đa việc chấm dứt quan hệ lao
động trong doanh nghiệp, đảm bảo hạn chế gia tăng số lượng cá nhân không có việc
làm. Bên cạnh đó, việc điều chỉnh pháp luật việc làm còn là cơ sở để bảo vệ quyền
và lợi ích cho các chủ thể tham gia quan hệ lao động khi không phải bất kỳ quan hệ
việc làm nào cũng được thực hiện thông qua hợp đồng lao động và đều được điều
chỉnh bằng Bộ luật Lao động.
Từ những yêu cầu thực tế, những ảnh hưởng của việc làm tới nền kinh tế, sự
phát triển của xã hội cũng như quan hệ pháp lý nói chung, xây dựng và hoàn thiện
pháp luật điều chỉnh về vấn đề việc làm là một yêu cầu cấp bách.
1.2.2. Những nội dung cơ bản của hệ thống pháp luật việc làm
* Trách nhiệm của Nhà nước trong lĩnh vực việc làm
Điều 57 Hiến pháp năm 2013 quy định:
“1. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tạo việc làm
cho người lao động.

12


2. Nhà nước bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động, người
sử dụng lao động và tạo điều kiện xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa

và ổn định”.
Nhà nước là chủ thể đặc biệt không chỉ đóng vai trò là người quản lý các
hoạt động việc làm, điều phối việc làm, mà còn là chủ thể đảm bảo quyền lợi chung
cho các chủ thể từ người lao động đến người sử dụng lao động nhằm đạt được sự ổn
định, cân bằng giữa các nhu cầu cung cầu của thị trường việc làm, quan trọng hơn là
tạo được việc làm phù hợp cho người lao động, thúc đẩy kinh tế của người sử dụng
lao động phát triển. Đồng thời, theo quy định của Luật Việc làm năm 2013 thì:
“Điều 7. Thẩm quyền quản lý nhà nước về việc làm
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về việc làm trong phạm vi cả nước.
2. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chịu trách nhiệm trước Chính phủ
thực hiện quản lý nhà nước về việc làm.
Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách
nhiệm phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thực hiện quản lý nhà
nước về việc làm.
3. Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình,
thực hiện quản lý nhà nước về việc làm tại địa phương”.
Như vậy, pháp luật lao động quy định trách nhiệm trực tiếp thuộc về Chính
phủ và các cơ quan hành chính Nhà nước, trách nhiệm trước hết thuộc về Quốc hội
và hệ thống các cơ quan quyền lực (Hội đồng nhân dân các cấp) với nội dung của
việc giải quyết việc làm cho người lao động bao gồm:
Thứ nhất, Nhà nước quy định chỉ tiêu việc làm mới trong kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội 5 năm và hằng năm. Nhà nước có chính sách hỗ trợ tài chính, cho vay
vốn, giảm, miễn thuế và các biện pháp khuyến kích để người có khả năng lao động
tự giải quyết việc làm, để các tổ chức, đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế
phát triển nhiều nghề mới nhằm tạo nhiều việc làm cho người lao động.

13


Thứ hai, Nhà nước có chính sách ưu đãi về giải quyết việc làm để thu hút và

sử dụng lao động là người dân tộc thiểu số; chính sách khuyến khích, tạo điều kiện
thuận lợi cho cá nhân trong và ngoài nước, bao gồm cả người Việt Nam định cư ở
nước ngoài đầu tư phát triển kinh doanh nhằm tạo nhiều việc làm cho người lao
động. Thứ ba, Nhà nước đóng vai trò là chủ thể quản lý, giải quyết các vấn đề tranh
chấp nảy sinh giữa các chủ thể tham gia vào quan hệ việc làm để duy trì sự ổn định
đối với quan hệ pháp luật này.
* Quyền và nghĩa vụ của người sử dụng lao động trong lĩnh vực việc làm
Người sử dụng lao động là chủ thể góp phần tạo nên việc làm cho thị trường
lao động nói riêng và xã hội nói chung, do đó pháp luật có quy định cụ thể về trách
nhiệm của người sử dụng lao động trong việc tạo điều kiện làm việc cũng như tạo
việc làm (khoản 3 Điều 8 Luật Việc làm năm 2013). Bên cạnh đó, người sử dụng
lao động có trách nhiệm tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề
và sử dụng lao động theo phương án đã được phê duyệt; sử dụng nguồn kinh phí
đúng đối tượng, đúng mục đích và thực hiện báo cáo kết quả tổ chức đào tạo cho cơ
quan nhà nước có thẩm quyền sau khi kết thúc khóa đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao
trình độ kỹ năng nghề. Mặt khác, người sử dụng lao động có quyền trực tiếp hoặc
thông qua tổ chức dịch vụ việc làm để tổ chức tuyển chọn người lao động.
Đồng thời, đối với đối tượng lao động đặc thù, người sử dụng lao động phải
có trách nhiệm giải quyết việc làm cho các đối tượng này, trường hợp nhiều người
cùng có đủ điều kiện tuyển dụng thì phải ưu tiên tuyển dụng lao động là thương,
bệnh binh; con liệt sĩ, con thương bệnh binh, con em gia đình có công; người tàn tật;
phụ nữ; người có quá trình tham gia lực lượng vũ trang, người tham gia lực lượng
thanh niên xung phong, người đã bị mất việc làm từ một năm trở lên.
Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, mọi hình thức sở hữu phải nhận
một tỷ lệ người lao động là người tàn tật, lao động nữ vào làm việc. Doanh nghiệp
tiếp nhận số người lao động là người tàn tật vào làm việc thấp hơn tỷ lệ quy định thì
hàng tháng phải nộp vào quỹ việc làm cho người tàn tật một khoản tiền theo quy

14



định, nếu cao hơn thì khi sản xuất kinh doanh gặp khó khăn hoặc có dự án phát triển
sản xuất sẽ được xét cho vay vốn với lãi suất thấp hoặc được xét hỗ trợ từ quỹ việc
làm (Nghị định 81/CP ngày 23 tháng 11 năm 1995 của Chính phủ về việc quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về lao động là
người tàn tật). Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ sẽ được hưởng các chính
sách ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh và hoạt động dịch vụ, người sử dụng lao
động phải đảm bảo công việc thường xuyên liên tục theo hợp đồng lao động và thỏa
ước lao động tập thể; phải có trách nhiệm tổ chức nâng cao trình độ nghiệp vụ cho
người lao động theo kịp tiến bộ khoa học kỹ thuật và làm việc có trách nhiệm, hiệu
quả cao; đồng thời phải đào tạo lại trước khi chuyển người lao động sang làm việc
mới trong doanh nghiệp. Ngoài ra, khi có sự thay đổi về cơ cấu hoặc công nghệ mà
cần phải cho người lao động thôi việc, người sử dụng lao động căn cứ vào nhu cầu
của công việc và thâm niên làm việc, tay nghề, hoàn cảnh gia đình và những yếu tố
khác của từng người để chấm dứt hợp đồng lao động sau khi đã trao đổi nhất trí với
Ban chấp hành công đoàn cơ sở và phải công bố danh sách cho người lao động để
người lao động có sự chuẩn bị trước cũng như công khai, minh bạch đảm bảo công
bằng. Trước khi quyết định chấm dứt hợp đồng với người lao động phải báo cho cơ
quan quản lý về lao động ở địa phương biết để cơ quan này nắm được tình hình lao
động của địa phương và có kế hoạch hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp hoặc tạo
điều kiện giải quyết việc làm cho người lao động mất việc làm.
* Quyền và nghĩa vụ của người lao động trong lĩnh vực việc làm
Song song với những nghĩa vụ mà người sử dụng lao động phải thực hiện
nhằm đảm bảo quyền của người lao động, người lao động cũng đồng thời phải có
trách nhiệm trong việc thực hiện các nghĩa vụ của mình đối với người sử dụng lao
động trên cơ sở hợp đồng lao động được điều chỉnh bởi pháp luật lao động. Cụ thể,
trong các nội dung tại Bộ luật Lao động năm 2012 về nghĩa vụ của người lao động
khi đang làm việc, đang thực hiện các nội dung của hợp đồng lao động như: “…
thực hiện hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể; chấp hành kỷ luật lao


15


động, nội quy lao động, tuân theo sự điều hành hợp pháp của người sử dụng lao
động; thực hiện các quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội và pháp luật về bảo
hiểm y tế” (khoản 2 Điều 5 Bộ luật Lao động năm 2012).
Bên cạnh đó, cá nhân mà cụ thể là những đối tượng tham gia lao động phải
thực hiện trách nhiệm của người lao động trong việc tự tạo việc làm và bảo đảm
việc làm. Đồng thời, với những người lao động có nhu cầu việc làm mà không tự
giải quyết được thì có thể đăng ký với trung tâm dịch vụ việc làm để yêu cầu môi
giới tìm việc làm, kể cả môi giới đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, hoặc yêu cầu
dạy nghề gắn với tạo việc làm phù hợp với nghề đã chọn, phù hợp với khả năng sức
khỏe của mình và theo tiêu chuẩn của nơi cần nhân công. Ngoài ra, phải có trách
nhiệm trong việc thực hiện quy định của pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao
trình độ kỹ năng nghề.
* Thanh tra và xử lý vi phạm trong lĩnh vực việc làm
Thanh tra và xử lý vi phạm trong lĩnh vực việc làm hiện nay chỉ được cụ thể
bằng hoạt động thanh tra và xử lý vi phạm trong lĩnh vực lao động nói chung và chủ
yếu trong hoạt động của người lao động, người sử dụng lao động và các tổ chức
khác dựa trên quan hệ về hợp đồng lao động. Theo đó, được quy định trong pháp
luật về xử lý vi phạm hành chính, bao gồm: Bộ luật Lao động năm 2012, Luật Xử
lý vi phạm hành chính năm 2012, Luật Thanh tra năm 2010, Nghị định
148/2013/NĐ-CP ngày 30 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực dạy nghề, Nghị định 39/2013/NĐ-CP ngày 24
tháng 4 năm 2013 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của thanh tra ngành lao
động – thương binh và xã hội, Nghị định 95/2013/NĐ ngày 22 tháng 8 năm 2013
của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo
hiểm xã hội và đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp
đồng lao động…

Theo đó, việc thanh tra, xử lý vi phạm được thực hiện trên cơ sở những quy
định cơ bản trong Bộ luật Lao động về nhiệm vụ của thanh tra nhà nước về lao

16


động gồm Thanh tra Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Thanh tra Sở Lao
động – Thương binh và Xã hội với các nội dung cụ thể bao gồm: i) thanh tra việc
chấp hành và thực hiện các quy định của pháp luật về lao động; ii) điều tra tai nạn
lao động và những vi phạm an toàn lao động, vệ sinh lao động; iii) tham gia hướng
dẫn áp dụng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về điều kiện lao động, an
toàn lao động, vệ sinh lao động; iv) giải quyết khiếu nại, tố cáo về lao động theo
quy định của pháp luật; v) xử lý theo thẩm quyền và đề nghị các cơ quan có thẩm
quyền xử lý các vi phạm pháp luật về lao động. Tuy nhiên, bên cạnh trách nhiệm
của thanh tra lao động, các chủ thể có thẩm quyền khác cũng phải thực hiện các
nhiệm vụ của mình trong quá trình xử lý vi phạm về lĩnh vực lao động nói riêng
và việc làm nói chung.
* Giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực việc làm
Tranh chấp xảy ra trong lĩnh vực việc làm là các tranh chấp chủ yếu thuộc
lĩnh vực lao động, cụ thể là khi quan hệ lao động giữa người sử dụng lao động và
người lao động đã được xác lập thông qua hợp đồng lao động và sẽ được điều chỉnh
bởi Bộ luật Lao động năm 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Đồng thời, đây
cũng là cơ sở để giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực việc làm. Tuy nhiên, bên
cạnh những nội dung về lao động việc làm được quy định trong Bộ luật Lao động,
còn có các quy định về các tranh chấp trong lĩnh vực việc làm được nêu ở các văn
bản pháp luật khác như Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng, Luật Việc làm năm 2013…
Như vậy, đối với các tranh chấp trong lĩnh vực việc làm phần lớn là các
tranh chấp trong lĩnh vực lao động dựa trên quan hệ hợp đồng lao động theo quy
định của pháp luật lao động và các văn bản tố tụng dân sự gồm: giải quyết tranh

chấp thông qua hòa giải, giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài lao động và giải
quyết tranh chấp thông qua tranh tụng tại Tòa án. Đối với từng nội dung cụ thể
được áp dụng theo pháp luật lao động trên căn cứ hợp đồng lao động thông thường
hay hợp đồng dịch vụ đối với tranh chấp cá nhân đi lao động nước ngoài với công

17


×