NGUYỄN NGỌC KHÁNH
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
LUẬT KINH TẾ
PHÁP LUẬT VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
ĐỐI VỚI CÁ NHÂN KHÔNG CƯ TRÚ Ở VIỆT NAM –
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
NGUYỄN NGỌC KHÁNH
2013 - 2015
HÀ NỘI - 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
ĐỐI VỚI CÁ NHÂN KHÔNG CƯ TRÚ Ở VIỆT NAM THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
NGUYỄN NGỌC KHÁNH
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. VŨ VĂN CƯƠNG
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi, dưới
sự hướng dẫn khoa học của TS. Vũ Văn Cương, Trường Đại học Luật Hà Nội. Các
nội dung, kết luận trong luận văn chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình khoa
học nào khác. Các số liệu, ý tưởng khoa học tham khảo từ các tài liệu khác được
trích dẫn nguồn gốc rõ ràng.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính trung thực của luận văn.
Hà Nội, ngày 31 tháng 10 năm 2015
TÁC GIẢ
Nguyễn Ngọc Khánh
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Khoa Đào tạo Sau Đại học - Viện Đại
học Mở Hà Nội và các thầy cô đã giúp tôi trang bị kiến thức, tạo môi trường điều
kiện thuận lợi nhất trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn này.
Với lòng kính trọng và biết ơn, tôi xin được bày tỏ lời cảm ơn tới TS. Vũ
Văn Cương đã khuyến khích, chỉ dẫn tận tình cho tôi trong suốt thời gian thực hiện
nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.
Xin chân thành cảm ơn Tổng cục Thuế, Vụ Kiểm tra nội bộ, Vụ Quản lý thuế
thu nhập cá nhân đã hợp tác chia sẻ thông tin, cung cấp cho tôi nhiều nguồn tư liệu,
tài liệu hữu ích phục vụ cho đề tài nghiên cứu cũng như tạo điều kiện cho tôi rất
nhiều trong quá trình thực hiện luận văn này.
Tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến gia đình và những người bạn đã động viên,
hỗ trợ tôi rất nhiều trong suốt quá trình học tập, làm việc và hoàn thành luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn!
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁ NHÂN KHÔNG CƯ TRÚ
VÀ PHÁP LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN ĐỐI VỚI CÁ NHÂN
KHÔNG CƯ TRÚ ................................................................................................. 6
1.1. Khái quát về cá nhân không cư trú và thuế thu nhập cá nhân đối với cá
nhân không cư trú .............................................................................................. 6
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm cá nhân không cư trú .............................................. 6
1.1.2. Tiêu chí xác định cá nhân không cư trú ................................................. 10
1.1.3. Khái niệm, vai trò của thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân không cư
trú ................................................................................................................... 16
1.2. Khái quát pháp luật thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân không cư trú 24
1.2.1. Khái niệm pháp luật thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân không cư trú
....................................................................................................................... 24
1.2.2. Cấu trúc pháp luật thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân không cư trú ở
Việt Nam ........................................................................................................ 26
1.2.3. Các nguyên tắc đánh thuế áp dụng trong pháp luật thuế TNCN đối với cá
nhân không cư trú ........................................................................................... 28
1.2.4. Các yếu tố chi phối pháp luật thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân
không cư trú ở Việt Nam................................................................................. 30
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .................................................................................... 35
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT - THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP
LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN ĐỐI VỚI CÁ NHÂN KHÔNG CƯ TRÚ
Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN ................................ 36
2.1. Thực trạng quy định pháp luật thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân
không cư trú ở Việt Nam hiện nay .................................................................. 36
2.1.1. Quy định về đối tượng nộp thuế là cá nhân không cư trú ....................... 37
2.1.2. Quy định về thu nhập chịu thuế, thu nhập được miễn thuế..................... 39
2.1.3. Quy định về kỳ tính thuế ....................................................................... 49
2.1.4. Quy định về căn cứ tính thuế ................................................................. 50
2.1.5. Một số quy định về quản lý thuế TNCN đối với cá nhân không cư trú... 62
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân
không cư trú ở Việt Nam ................................................................................. 64
2.2.1. Những kết quả đạt được ........................................................................ 64
2.2.2. Những tồn tại, hạn chế .......................................................................... 68
2.3. Phương hướng và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế thu nhập
cá nhân đối với cá nhân không cư trú ở Việt Nam ......................................... 71
2.3.1. Những định hướng cơ bản trong hoàn thiện pháp luật thuế thu nhập cá
nhân đối với cá nhân không cư trú ở Việt Nam hiện nay ................................. 71
2.3.2. Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân đối
với cá nhân không cư trú ở Việt Nam .............................................................. 74
2.3.3. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật thuế TNCN đối với
cá nhân không cư trú ở Việt Nam .................................................................... 84
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .................................................................................... 88
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BHXH
Bảo hiểm Xã hội
BLDS
Bộ luật Dân sự
NSNN
Ngân sách Nhà nước
TNCN
Thu nhập cá nhân
TNDN
Thu nhập doanh nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thuế ra đời cùng với sự ra đời của Nhà nước, là điều kiện vật chất quan trọng
để Nhà nước tồn tại và phát triển. Hệ thống thuế được cấu thành bởi nhiều sắc thuế
khác nhau, hướng đến các chủ thể và các hoạt động phong phú, đa dạng của đời sống
xã hội. Mỗi một loại thuế mang trong mình những vai trò, chức năng khác nhau đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, đảm đương tương đối tốt chức năng phân
phối thu nhập, từ đó nhằm giảm bớt sự phân hóa giàu nghèo, đảm bảo công bằng xã
hội phải kể đến vai trò quan trọng của thuế thu nhập cá nhân (TNCN).
Sự hình thành nền kinh tế thị trường là cơ sở tiền đề cho sự ra đời của thuế
TNCN ở Việt Nam. Pháp lệnh Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao năm
1990 đã động viên được sự đóng góp của những cá nhân có thu nhập cao trong xã hội
cho Ngân sách Nhà nước (NSNN), giảm bớt sự chênh lệch về mức sống của người
lao động trong xã hội. Trải qua năm lần sửa đổi, bổ sung, Pháp lệnh Thuế thu nhập
đối với người có thu nhập cao đã có những điều chỉnh các quy định về đối tượng chịu
thuế, đối tượng nộp thuế, căn cứ tính thuế,… để phù hợp với thực trạng kinh tế - xã
hội của đất nước.
Nhằm tăng hiệu lực pháp lý của thuế TNCN cũng như khắc phục những nhược
điểm của Pháp lệnh Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, ngày 21/11/2007,
Quốc hội đã ban hành Luật Thuế TNCN, chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2009.
Từ khi thực hiện Luật Thuế TNCN đến nay, hệ thống thuế ở Việt Nam đã dần hoàn
thiện, phạm vi đối tượng nộp thuế và đối tượng chịu thuế được mở rộng; thống nhất
các quy định về thuế áp dụng đối với cá nhân có thu nhập và đóng góp ngày càng lớn
cho NSNN. Tuy nhiên, do sự biến động nhanh của nền kinh tế nên một số quy định
trong Luật Thuế TNCN đã không còn phù hợp với thực tiễn như quy định về mức
giảm trừ gia cảnh, một số quy định về kỳ tính thuế, về thủ tục kê khai, quyết toán
thuế còn phức tạp, chưa tạo thuận lợi cho người nộp thuế, công tác quản lý thuế cũng
như hiện đại hoá quản lý thuế.
1
Những bất cập này phần nào đã sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh kịp thời khi ban
hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế TNCN vào năm 2012.
Mặc dù vậy, trong bối cảnh mới, các quy định của pháp luật thuế TNCN vẫn
còn những nhược điểm như: quy định về giảm trừ gia cảnh, quy định về xác định
thuế TNCN đối với một số loại thu nhập chưa hợp lý,… Ngoài ra, công tác quản lý
thuế TNCN trên thực tiễn vẫn còn gặp những vướng mắc, khó khăn gây thất thoát
nguồn thu cho NSNN. Tuy nhiên, một trong những bất cập của Luật Thuế TNCN,
cũng là một trong những điều tác giả quan tâm là các quy định của pháp luật điều
chỉnh về thuế thu thập cá nhân đối với cá nhân không cư trú. Đây là một nhóm chủ
thể chịu sự điều chỉnh của Luật Thuế TNCN, cũng là chủ thể đóng góp một phần
thu nhập của mình vào quỹ NSNN. Do đó, vấn đề đặt ra là cần quan tâm đến chủ
thể này như thế nào để vẫn đảm bảo nguồn thu, đồng thời vẫn tạo nên sự công bằng
giữa họ với nhóm cá nhân cư trú.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng pháp luật thuế TNCN hiện hành đối
với nhóm cá nhân không cư trú để từ đó đề ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật thuế TNCN đối với cá nhân không
cư trú ở Việt Nam là yêu cầu cấp thiết. Đó cũng là lý do để tác giả lựa chọn nghiên cứu
đề tài “Pháp luật thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân không cư trú ở Việt Nam Thực trạng và một số giải pháp hoàn thiện” làm luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Có thể nhận xét về tình hình nghiên cứu pháp luật thuế TNCN nói chung và
pháp luật thuế TNCN đối với cá nhân không cư trú qua các giai đoạn sau:
- Trước 01/01/2009: Các quy định về thuế TNCN trong Pháp lệnh Thuế thu
nhập đối với người có thu nhập cao được nghiên cứu ở một số luận văn thạc sỹ, bài
báo khoa học như: “Một số vấn đề pháp lý về thuế TNCN” - Luận văn thạc sĩ luật
học của Võ Quang Huy (1997), “Thực trạng pháp luật thuế TNCN ở Việt Nam hiện
nay và phương hướng hoàn thiện” bài viết trên Tạp chí Luật học, số 10/2007 của
Ths. Trần Vũ Hải; “Một số vấn đề về nguyên tắc công bằng trong pháp luật về thuế
2
TNCN” bài viết trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 12/2008 của Ths. Trần
Minh Đức,…
Các nghiên cứu giai đoạn này hầu hết đã chỉ ra những nhược điểm của pháp
luật hiện hành về thuế TNCN và đề ra những giải pháp khắc phục. Đó là một trong
những cơ sở khoa học cho việc hoàn thiện và ban hành Luật Thuế TNCN năm
2007. Tuy nhiên, thời điểm này nội dung pháp luật thuế TNCN điều chỉnh đối với
cá nhân không cư trú chưa được đưa ra để tìm hiểu, nghiên cứu ở một nội dung
riêng, đặc thù.
- Từ 01/01/2009 đến nay: Luật Thuế TNCN năm 2007 chính thức có hiệu lực,
thuế TNCN tiếp tục nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Tiêu biểu là bài
viết “Những vấn đề đặt ra khi thực thi Luật Thuế TNCN Việt Nam” của TS. Lê Thị
Thu Thuỷ đăng trong Tạp chí Luật học số 6/2009; “ Tìm hiểu các quy định về thuế
TNCN từ chuyển nhượng bất động sản” - Khoá luận tốt nghiệp của Ma Thị Vân Kiều
(2010) “Thực trạng và giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về thu nhập
chịu thuế TNCN” - Khoá luận tốt nghiệp của Nguyễn Văn Dũng (2011); “Vấn đề
giảm trừ gia cảnh trong Luật Thuế TNCN năm 2007 - Thực trạng và kiến nghị từ
kinh nghiệm Nhật Bản” - Khoá luận tốt nghiệp của Trần Thúy Mai Lan (2012);
“Pháp luật thuế TNCN với thu nhập từ bất động sản” - Khoá luận tốt nghiệp của
Nguyễn Thị Kim Cúc (2012). Các nghiên cứu chủ yếu tập trung ở một số khía cạnh
của thuế TNCN như thu nhập chịu thuế TNCN, phạm vi áp dụng của thuế TNCN,
quy định về giảm trừ gia cảnh,…
Ở cấp độ luận văn thạc sỹ Luật học, tiêu biểu có “Thực tiễn thi hành pháp luật
thuế TNCN ở Việt Nam và định hướng hoàn thiện” - Luận văn thạc sỹ Luật học của
Hoàng Quốc Đạt (2012) đã phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về
thuế TNCN trên phương diện thực tiễn áp dụng, có sự so sánh với pháp luật một số
quốc gia trên thế giới để ra các giải pháp áp dụng có hiệu quả ở Việt Nam;“Pháp luật
quản lý thuế TNCN ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” - Luận văn thạc sĩ luật học
của Tạ Minh Hảo (2013) đã làm rõ nội dung pháp luật về quản lý thuế TNCN ở Việt
3
Nam. Các nghiên cứu trên là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho tác giả trong quá
trình nghiên cứu và hoàn thiện đề tài.
Tuy nhiên, có thể nhận thấy số lượng các công trình nghiên cứu một cách toàn
diện về pháp luật thuế TNCN đối với cá nhân không cư trú, nhất là ở cấp độ Luận văn
thạc sỹ không nhiều, thậm chí, theo tìm hiểu của tác giả là chưa có… Đặc biệt là từ
thời điểm ngày 01/7/2013 khi Luật Thuế TNCN được sửa đổi, bổ sung có hiệu lực ở
một số điều khoản, vẫn chưa có công trình khoa học nào đề cập đến pháp luật Thuế
TNCN đối với cá nhân không cư trú trong giai đoạn mới. Đó là thuận lợi nhưng đồng
thời cũng đặt ra những thách thức cho tác giả khi lựa chọn đề tài nghiên cứu này.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Đề tài có phạm vi nghiên cứu như sau:
- Pháp luật Việt Nam về thuế TNCN của cá nhân không cư trú tại Luật Thuế
TNCN năm 2007, sửa đổi, bổ sung năm 2012; Luật số 71/2014/QH13 sửa đổi, bổ sung
một số điều của các Luật về thuế; Luật Quản lý thuế năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm
2012; Pháp lệnh Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao; các văn bản hướng dẫn
thi hành; so sánh với pháp luật thuế TNCN của một số quốc gia trên thế giới.
- Thực tiễn thi hành pháp luật thuế TNCN đối với cá nhân không cư trú ở
Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài được dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế và quản lý Nhà nước trong lĩnh vực
tài chính công.
Các phương pháp nghiên cứu được tác giả kết hợp sử dụng trong bài là:
phương pháp liệt kê; phương pháp so sánh, đối chiếu và phương pháp phân tích
tổng hợp.
4
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm cung cấp cho người đọc những vấn đề
pháp lý cơ bản nhất về thuế TNCN đối với cá nhân không cư trú, thực trạng pháp luật
và thực tiễn thi hành pháp luật thuế TNCN ở Việt Nam đối với cá nhân không cư trú
trong thời gian qua. Trên cơ sở phân tích, đánh giá những ưu điểm và hạn chế của
pháp luật thuế TNCN đối với cá nhân không cư trú cũng như thực tế áp dụng để đưa
ra các giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật thuế TNCN đối với cá nhân không cư
trú hiện hành.
Để hoàn thành mục đích nghiên cứu đó, những nhiệm vụ nghiên cứu sau sẽ
phải đảm bảo thực hiện:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận về cá nhân không cư trú, thuế TNCN, thuế
TNCN đối với cá nhân không cư trú và pháp luật thuế TNCN đối với cá nhân không
cư trú.
- Phân tích và đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật hiện hành về thuế
TNCN đối với cá nhân không cư trú, từ đó chỉ ra những ưu điểm cũng như hạn chế.
- Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật thuế TNCN đối với cá nhân không cư
trú, chỉ ra những thành tựu và hạn chế, vướng mắc trong quá trình áp dụng.
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật và nâng
cao hiệu quả thực thi pháp luật thuế TNCN đối với cá nhân không cư trú.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có
hai chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về cá nhân không cư trú và pháp luật thuế
thu nhập cá nhân đối với cá nhân không cư trú
Chương 2: Thực trạng pháp luật thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân
không cư trú và một số giải pháp hoàn thiện.
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁ NHÂN KHÔNG
CƯ TRÚ VÀ PHÁP LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ
NHÂN ĐỐI VỚI CÁ NHÂN KHÔNG CƯ TRÚ
1.1. Khái quát về cá nhân không cư trú và thuế thu nhập cá nhân đối với cá
nhân không cư trú
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm cá nhân không cư trú
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, việc xác định nội hàm “cư trú” và
“người cư trú”, cũng như “người không cư trú” ở những bộ phận pháp luật khác
nhau có sự khác nhau. Lý giải cho sự khác biệt này, xuất phát từ chính sách và yêu
cầu quản lý nhà nước đối với từng chủ thể trong từng trường hợp nhất định.
Theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005, nơi cư trú là
nơi người đó thường xuyên sinh sống; trường hợp không xác định được nơi cư trú
theo địa điểm thường xuyên sinh sống, thì nơi cư trú là nơi người đó đang sinh
sống. Với quy định này, có thể hiểu BLDS căn cứ vào tiêu chí về yếu tố quản lý
hành chính là nơi đăng ký hộ khẩu thường trú, tạm trú khi xác định nơi cư trú của cá
nhân. Còn tại Luật Cư trú năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2013, cư trú là việc công
dân sinh sống tại một địa điểm thuộc xã, phường, thị trấn dưới hình thức thường trú
hoặc tạm trú; nơi cư trú của công dân được hiểu là chỗ ở hợp pháp mà người đó
thường xuyên sinh sống. Nơi cư trú của công dân là nơi thường trú hoặc tạm trú
[24, Điều 12]. Trong đó, chỗ ở hợp pháp là nhà ở, phương tiện hoặc nhà khác mà
công dân sử dụng để cư trú. Chỗ ở hợp pháp có thể thuộc sở hữu của công dân hoặc
được cơ quan, tổ chức, cá nhân cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ theo quy định của
pháp luật. Nơi thường trú là nơi công dân sinh sống thường xuyên, ổn định, không
có thời hạn tại một chỗ ở nhất định và đã đăng ký thường trú; còn nơi tạm trú là nơi
6
công dân sinh sống ngoài nơi đăng ký thường trú và đã đăng ký tạm trú. Trong
trường hợp không xác định được nơi cư trú của công dân như trên, thì nơi cư trú của
công dân là nơi người đó đang sinh sống. Như vậy, cũng giống như BLDS, đối
tượng áp dụng khái niệm “cư trú” của Luật cư trú là những cơ quan, tổ chức, hộ gia
đình, công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vẫn còn quốc tịch
Việt Nam trở về Việt Nam sinh sống, và hai văn bản pháp luật này không đề cập
đến khái niệm “người không cư trú”. Tuy nhiên, qua những quy định nêu trên, có
thể thấy phần nào, quy định về nơi cư trú là một chế định pháp luật có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng liên quan đến các quan hệ dân sự của một cá nhân và quan hệ hành
chính giữa một công dân với Nhà nước. Nơi cư trú của một cá nhân không chỉ đơn
thuần là nơi sinh sống, tồn tại về mặt sinh học, mà về mặt pháp lý thì nơi đó cá nhân
có thể xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự (theo nghĩa rộng), nơi mở
thừa kế, nơi xác định một cá nhân mất tích hoặc đã chết, là căn cứ lựa chọn thẩm
quyền giải quyết, lựa chọn pháp luật áp dụng khi giải quyết các tranh chấp có yếu tố
nước ngoài, nơi công dân thực hiện các quyền và nghĩa vụ đối với nhà nước trong
quan hệ hành chính... Do đó, việc xác định không đúng nơi cư trú của một cá nhân
chắc chắn sẽ đem đến một hậu quả pháp lý bất lợi cho một trong các bên có liên
quan khi tham gia vào các quan hệ pháp luật nói chung và quan hệ dân sự nói riêng.
Ở một bộ phận pháp luật khác điều chỉnh các hoạt động ngoại hối tại Việt
Nam, việc xác định khái niệm “người cư trú” lại có những căn cứ khác. Theo Pháp
lệnh ngoại hối năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2013, người cư trú là tổ chức, cá nhân
thuộc các đối tượng sau: (i) tổ chức tín dụng được thành lập, hoạt động kinh doanh tại
Việt Nam; (ii) tổ chức kinh tế được thành lập, hoạt động kinh doanh tại Việt Nam trừ
các tổ chức tín dụng nói trên; (iii) cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ
chức xã hội - nghề nghiệp, quỹ xã hội, quỹ từ thiện của Việt Nam hoạt động tại Việt
Nam; (iv) cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của Việt Nam tại nước ngoài;
(v) văn phòng đại diện tại nước ngoài của các tổ chức nói trên; (vi) công dân Việt
Nam cư trú tại Việt Nam, công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài có thời hạn dưới
7
12 tháng; công dân Việt Nam làm việc tại cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh
sự của Việt Nam tại nước ngoài, văn phòng đại diện tại nước ngoài của các tổ chức
tín dụng, tổ chức kinh tế, cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang... và cá nhân đi
theo họ; (viii) công dân Việt Nam đi du lịch, học tập, chữa bệnh và thăm viếng ở
nước ngoài; (ix) người nước ngoài cư trú tại Việt Nam có thời hạn từ 12 tháng trở lên,
trừ các trường hợp người nước ngoài học tập, chữa bệnh, làm việc cho cơ quan đại
diện ngoại giao, lãnh sự, văn phòng đại diện của các tổ chức nước ngoài tại Việt Nam
[34; Khoản 2 Điều 4]. Người không cư trú là các đối tượng không phải những đối
tượng trên. Như vậy, trong bộ phận pháp luật điều chỉnh đối với hoạt động ngoại hối
tại Việt Nam đã có xuất hiện khái niệm “người không cư trú”, đồng thời, khái niệm
“người cư trú” theo quy định của pháp lệnh ngoại hối có sự mở rộng hơn so với việc
xác định công dân cư trú của BLDS và Luật cư trú, cả về nhóm chủ thể và phạm vi
chủ thể. Nguyên nhân của sự khác biệt này xuất phát từ yêu cầu quản lý ngoại hối, để
có thể thực hiện hiệu quả việc xác lập chủ quyền tiền tệ quốc gia, tăng cường tích lũy
và quản lý tốt dự trữ quốc gia.
Bên cạnh đó, dưới khía cạnh quyền thu thuế của Nhà nước, Luật thuế thu
nhập cá nhân cũng đề cập khá nhiều đến nội dung “người cư trú” và “người không
cư trú”. Luật Thuế TNCN năm 2007, sửa đổi, bổ sung năm 2012 đã thay đổi quy
định xác định về đối tượng nộp thuế theo tiêu chí “cư trú” cho phù hợp với tình hình
thực tế ở Việt Nam và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì việc quy định thuật ngữ cá nhân cư
trú, không cư trú trong Luật Thuế TNCN nhằm đảm bảo quyền đánh thuế của Việt
Nam được quy định trong nội dung của các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần và phù
hợp với thông lệ quốc tế khi xác định nghĩa vụ nộp thuế của đối tượng này. Đối với
cá nhân cư trú, theo quy định tại Khoản 2 Điều 2 Luật Thuế TNCN năm 2007, sửa
đổi, bổ sung năm 2012, thì “Cá nhân cư trú là người đáp ứng một trong các điều
kiện sau:(1) Có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên tính trong một năm dương lịch
hoặc trong 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam;(2) có nơi ở
8
thường xuyên tại Việt Nam, bao gồm có nơi ở đăng ký thường trú hoặc có nhà thuê
để ở tại Việt Nam theo hợp đồng thuê có thời hạn”.
Điều kiện “có mặt tại Việt Nam” được hiểu là sự hiện diện của cá nhân đó trên
lãnh thổ Việt Nam và phải từ 183 ngày trở lên tính trong một năm dương lịch hoặc
trong 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam. So với quy định tại
Pháp lệnh Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao“có mặt tại Việt Nam từ 183
ngày trở lên tính cho 12 tháng liên tục kể từ khi đến Việt Nam” thì rõ ràng quy định
của Luật Thuế TNCN năm 2007 đã thể hiện sự mềm dẻo, linh hoạt hơn và đã bao
quát được những cá nhân có mặt ở Việt Nam trên 183 ngày nhưng ở những tháng
gián đoạn, không liên tục.
Đối với quy định về điều kiện “có nhà thuê để ở tại Việt Nam theo quy định
của pháp luật về nhà ở” pháp luật thuế TNCN đã có sự sửa đổi tăng thời hạn thuê
nhà để ở theo hợp đồng thuê từ 90 ngày lên 183 ngày. Việc xác định số ngày thuê
nhà căn cứ vào các hợp đồng thuê kể cả trường hợp hợp đồng thuê nhà được ký
trước ngày 01/7/2013. Sửa đổi này đã giảm thủ tục hành chính, phiền phức cho
người nộp thuế, đơn giản trong quản lý thu thuế và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Cá nhân không cư trú là người không đáp ứng điều kiện quy định đối với cá
nhân cư trú.
Như vậy, một cá nhân không phân biệt nguồn gốc quốc tịch nếu đáp ứng các
điều kiện trên là đối tượng cư trú để xác định nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước Việt
Nam. Cá nhân cư trú phải kê khai, nộp thuế thu nhập phát sinh tại Việt Nam và thu
nhập phát sinh ngoài Việt Nam. Theo quy định của Luật Thuế TNCN thì việc xác
định đối tượng nộp thuế là người không cư trú bằng cách loại trừ, nếu không đáp
ứng đủ điều kiện của người cư trú thì người đó được xác định là người không cư trú
và cá nhân này chỉ phải kê khai thu nhập phát sinh tại Việt Nam.
Từ đó ta có thể rút ra được khái niệm về người không cư trú như sau:
“Người không cư trú là người có quốc tịch Việt Nam hoặc quốc tịch nước
ngoài hoặc người không quốc tịch có thời gian cư trú tại Việt Nam dưới 183 ngày
9
tính trong một năm dương lịch hoặc tính theo 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên
có mặt tại Việt Nam hoặc không có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam”.
Người không cư trú là người không phân biệt quốc tịch và không đáp ứng
được điều kiện của cá nhân cư trú theo quy định tại Khoản 2, Điều 2 Luật Thuế
TNCN. Ngoài những đặc điểm chung của đối tượng nộp thuế thì người không cư trú
có một số đặc điểm riêng sau:
- Cá nhân không cư trú là người không đáp ứng được điều kiện cư trú về thời
gian có mặt tại Việt Nam và có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam.
- Cá nhân không cư trú là người Việt Nam, người nước ngoài có thu nhập
chịu thuế phát sinh trong lãnh thổ Việt Nam. Họ có thể là cá nhân kinh doanh, hộ
kinh doanh hoặc cá nhân không kinh doanh nhưng có thu nhập chịu thuế phát sinh
ở Việt Nam.
- Cá nhân không cư trú do thời gian hiện diện ở Việt Nam không nhiều, thậm
chí không có mặt ở Việt Nam và thu nhập chịu thuế phát sinh trong lãnh thổ Việt
Nam thường không có tính thường xuyên, cố định, do vậy các phương pháp tính
thuế và cách thức hành thu thuế (quản lý thuế) đối với người không cư trú cần đảm
bảo sự đơn giản, thuận lợi và khả thi trên thực tế.
1.1.2. Tiêu chí xác định cá nhân không cư trú
Trên thế giới, hầu hết các quốc gia đều áp dụng đánh thuế theo tiêu thức nơi
cư trú, nhưng mỗi quốc gia khác nhau, có những cách khác nhau để xác định cá
nhân không cư trú, chủ yếu là xác định tiêu thức để trở thành cá nhân cư trú, còn cá
nhân không cư trú là những trường hợp không đáp ứng được điều kiện thành cá
nhân cư trú. Đa số các nước quy định, đối tượng cư trú là những người có thời gian
sinh sống ở nước sở tại trên 182 hoặc trên 183 ngày trong năm tính thuế (có thể là
năm dương lịch hoặc năm tài chính) hoặc trong khoảng 12 tháng liên tục. Nếu
không thỏa mãn điều kiện trên thì được coi là đối tượng không cư trú.
Một số nước trong khu vực ASEAN cũng lựa chọn việc xác định người cư
trú hay không cư trú dựa theo số ngày họ có mặt tại nước sở tại. Chẳng hạn,
10
Indonesia là hơn 183 ngày; Singapore, Myanmar là 183 ngày, Thái Lan là 180
ngày, Malaysia là 182 ngày. Trừ pháp luật thuế TNCN Indonesia quy định căn cứ
thời gian xác định đối tượng cư trú là tổng số ngày có mặt trong vòng 12 tháng kể
từ khi đến Indonesia, còn pháp luật thuế TNCN của các quốc gia ASEAN khác
đều xác định đối tượng cư trú qua tổng số ngày có mặt ở nước sở tại trong năm
dương lịch [7].
Ngoài ra, theo quy định của pháp luật thuế TNCN của Malaysia, Myanmar
thì việc xác định là cư trú hay không cư trú còn có ngoại lệ sau: (i) ở tại Malaysia ít
nhất là 183 ngày trong năm tính thuế; (ii) ở tại Malaysia ít hơn 183 ngày trong năm
tính thuế, tuy nhiên, số ngày này liên tục với một giai đoạn khác vào năm trước
hoặc năm sau có thu nhập tạo thành một giai đoạn ít nhất 183 ngày liên tục; (iii) ở
tại Malaysia ít nhất 90 ngày trong năm tính thuế nhưng trong 3 năm trước đó đã là
người cư trú; (iv) không có mặt vào năm có thu nhập nhưng đã là người cư trú trong
3 năm kế tiếp trước đó và năm kế tiếp sau cũng là người cư trú. Ngoài ra, pháp luật
thuế thu nhập của Malaysia còn xác định một số trường hợp liên quan đến cư trú
như: tình trạng cư trú của người vợ sẽ theo chồng, trừ trường hợp: (i) đã ly hôn, ly
thân, hay không sống chung; (ii) người vợ yêu cầu tính thuế riêng với chồng.
Còn theo pháp luật thuế thu nhập của Singapore, tình trạng cư trú của người
vợ sẽ theo tình trạng cư trú của người chồng trừ trường hợp: (i) đã ly hôn, ly thân
hoặc không sống chung; (ii) người vợ là người cư trú còn chồng không phải là
người cư trú.
Hơn nữa, trong pháp luật của một số nước ASEAN khác còn có quy định tư
cách của người chưa thành niên trong việc nộp thuế, như quy định về độ tuổi của đối
tượng nộp thuế. Theo luật thuế thu nhập cá nhân của Indonesia, thu nhập của người
chưa thành niên ngoại trừ thu nhập từ lao động hay những công việc khác có liên
quan tới việc kinh doanh của thành viên gia đình được cộng dồn vào thu nhập của bố
mẹ. Như vậy, trong một số trường hợp thì người chưa thành niên không đủ tư cách
đứng tên của chủ thể nộp thuế, mà trong những trường hợp này sẽ là bố mẹ họ.
11
Ở Nhật Bản, đối tượng nộp thuế TNCN được quy định thành ba trường hợp
cụ thể là: cư trú thường xuyên (người định cư thường xuyên ở Nhật được đánh thuế
đối với mọi nguồn thu nhập nhưng phải thường trú ở Nhật từ 5 năm trở lên); cư trú
không thường xuyên (người không có ý định cư trú thường xuyên tại Nhật nhưng có
thường trú ở Nhật từ 1-5 năm, thuế sẽ đánh vào nguồn thu nhập có phát sinh tại
Nhật); đối tượng không cư trú (người không có nơi định cư hoặc sống ở Nhật dưới
một năm phải có hợp đồng lao động hoặc giấy tờ khác chứng minh, không phải nộp
thuế thu nhập).
Ở Pháp, một người được coi là cư trú tại Pháp nếu coi Pháp là nơi ở chính,
hành nghề chính hay có các trung tâm quyền lợi đặt tại Pháp hoặc thường xuyên có
mặt ở Pháp trên 6 tháng trong 1 năm hoặc Pháp là nơi mang lại phần lớn thu nhập.
Người không cư trú là những người không đáp ứng được điều kiện trên.
Hay như ở Mỹ, cá nhân cư trú là công dân Mỹ và những người sinh sống ở
Mỹ tối thiểu là 330 ngày đêm.
Ở Philippin, đối tượng nộp thuế TNCN tại Philippin bao gồm cả các cá nhân
cư trú và không cư trú. Trong đó công dân cư trú là đối tượng chịu thuế thu nhập
trên thu nhập toàn cầu (bao gồm cả thu nhập có nguồn gốc tại Philippin và thu nhập
có nguồn gốc từ nước ngoài). Công dân không cư trú, người nước ngoài cư trú hoặc
người nước ngoài không cư trú là đối tượng chịu thuế đối với phần thu nhập phát
sinh tại Philippin.
Còn ở Trung Quốc, đối tượng nộp thuế TNCN là các cá nhân có chỗ ở hoặc
không có chỗ ở trong nước Trung Quốc, mà cư trú tại Trung Quốc đủ một năm thì
phải nộp thuế đối với toàn bộ thu nhập của người đó nhận được từ trong và ngoài
nước Trung Quốc. Cá nhân không có chỗ ở tại Trung Quốc mà cư trú dưới một
năm, thì phải nộp thuế đối với thu nhập phát sinh từ Trung Quốc.
Pháp luật Việt Nam từng giai đoạn cũng có những tiêu chí khác nhau để xác
định cá nhân cư trú và cá nhân không cư trú. Nếu như trước đây, đối tượng cư trú chỉ
là cá nhân có mặt ở Việt Nam từ 183 ngày trở lên trong năm dương lịch hoặc tính
12
theo 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên đến Việt Nam thì Luật Thuế TNCN đã bổ
sung thêm điều kiện nữa là “có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam” được coi là cư trú
ở Việt Nam. Trước đây, theo quy định của Pháp lệnh Thuế thu nhập đối với người có
thu nhập cao, đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân gồm: (i) Công dân Việt nam, cá
nhân khác định cư tại Việt Nam ở trong nước hoặc đi lao động, công tác ở nước
ngoài; (ii) người nước ngoài làm việc tại Việt Nam có thu nhập như người nước ngoài
làm việc tại Việt Nam trong các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, văn hóa, xã hội...
của Việt Nam hoặc của nước ngoài, các văn phòng đại diện, các chi nhánh công ty
nước ngoài, các cá nhân hành nghề độc lập có thu nhập chịu thuế; (iii) người nước
ngoài tuy không hiện diện tại Việt Nam nhưng có thu nhập phát sinh tại Việt Nam
trong các trường hợp như: có thu nhập từ chuyển giao công nghệ, tiền bản quyền
thuộc định mức chịu thuế. Với cách phân loại khác, ta có thể phân ra đối tượng nộp
thuế thu nhập cá nhân làm các loại sau: (i) Công dân Việt nam, cá nhân khác định cư
tại Việt Nam; (ii) người nước ngoài cư trú; (iii) người nước ngoài không cư trú.
Người nước ngoài được coi là cư trú tại Việt Nam nếu ở tại Việt Nam từ 183 ngày trở
lên tính cho 12 tháng kể từ khi đến Việt Nam (từ năm tính thuế thứ 2 trở đi là 183
ngày trong năm dương lịch); được coi là không cư trú nếu ở tại Việt Nam dưới 183
ngày trong năm tính thuế, ngày đi và ngày đến tính là một ngày.
Đến thời điểm hiện nay, cùng với sự cải cách pháp luật thuế, để đảm bảo các
nguyên tắc đánh thuế TNCN, thực hiện tốt vai trò của loại thuế này, đối tượng nộp
thuế được chia làm hai loại là cá nhân cư trú và cá nhân không cư trú. So với các
văn bản pháp luật trước, nội dung đối tượng nộp thuế đã định nghĩa rõ hơn đối
tượng cư trú (đối tượng phải nộp thuế TNCN cho Việt Nam đối với toàn bộ thu
nhập, kể cả thu nhập phát sinh ở Việt Nam và nước ngoài).
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành thì cá nhân cư trú hay
không cư trú có thể là người Việt Nam hay người nước ngoài không phụ thuộc vào
quốc tịch của họ. Để xác định được một người là cư trú hay không cư trú, việc làm
rõ hai khái niệm “quốc tịch” và khái niệm “cư trú” là điều cần thiết. Quốc tịch của
một cá nhân chỉ mối quan hệ pháp lí giữa một Nhà nước đối với một con người cụ
13
thể thông qua chế định công dân mà không phụ thuộc vào thời gian ở quốc gia đó.
Theo điều 13 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 “Người có quốc tịch Việt Nam
bao gồm người đang có quốc tịch Việt Nam cho đến ngày Luật này có hiệu lực và
người có quốc tịch Việt Nam theo quy định của Luật này. Người Việt Nam định cư ở
nước ngoài mà chưa mất quốc tịch Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam
trước ngày Luật này có hiệu lực thì vẫn còn quốc tịch Việt Nam và trong thời hạn 5
năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực, phải đăng ký với cơ quan đại diện Việt Nam ở
nước ngoài để giữ quốc tịch Việt Nam ”. Còn khái niệm “cư trú” của một cá nhân là
chỉ khoảng thời gian mà cá nhân đó hiện diện tại quốc gia đó, hoặc có nơi ở thường
xuyên tại quốc gia đó hay không? Từ đây, ta có thể thấy rằng một cá nhân mang
quốc tịch của Việt Nam chưa chắc đã là cá nhân cư trú và ngược lại. Việc phân biệt
hai khái niệm này nhằm tránh trường hợp sai lầm thừa nhận cá nhân mang quốc tịch
Việt Nam là cá nhân cư trú tại Việt Nam để xác định đối tượng nộp thuế TNCN.
Khái niệm thế nào là một cá nhân không cư trú tại Việt Nam cũng được quy
định rõ trong pháp luật Thuế TNCN hiện hành. Tuy nhiên, trong hiệp định tránh
đánh thuế hai lần mà Việt Nam đã ký kết với một số quốc gia, việc xác định cá nhân
cư trú và cá nhân không cư trú khá phức tạp, do liên quan đến quyền thu thuế của
quốc gia.
Theo Thông tư số 205/2013/TT-BTC ngày 24/12/2013 của Bộ Tài chính
hướng dẫn thực hiện các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn
lậu thuế đối với các loại thuế đánh vào thu nhập và tài sản giữa Việt Nam với các
nước và vùng lãnh thổ có hiệu lực thi hành tại Việt Nam, tại Khoản 1 Điều 1 có
hướng dẫn:
Theo Hiệp định, thuật ngữ “đối tượng cư trú của một Nước ký kết” là đối
tượng mà theo luật của một Nước ký kết là đối tượng chịu thuế tại nước đó do: (i)
Có nhà ở, có thời gian cư trú tại nước đó hoặc các tiêu thức có tính chất tương tự
trong trường hợp đối tượng đó là một cá nhân; hoặc (ii) có trụ sở điều hành, trụ sở
đăng ký, hoặc được thành lập tại nước đó hoặc các tiêu thức có tính chất tương tự
14
trong trường hợp đối tượng đó là một tổ chức; hoặc (iii) thuật ngữ “đối tượng cư trú
của một Nước ký kết” cũng bao gồm cả Nhà nước hoặc chính quyền địa phương
của nước đó, trong trường hợp Hiệp định có quy định.
Ngoài ra, Thông tư 205/2013/TT-BTC cũng quy định những nội dung, tiêu
thức, điều kiện mà một cá nhân được xác định là người cư trú theo quan điểm của
Luật Việt Nam. Trong trường hợp nếu một đối tượng vừa là đối tượng cư trú của Việt
Nam vừa là đối tượng cư trú của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam thì căn cứ vào
các tiêu thức theo thứ tự ưu tiên dưới đây để xác định đối tượng đó là đối tượng cư
trú của Việt Nam:
- Nếu cá nhân đó có nhà ở thường trú ở Việt Nam (nhà thuộc sở hữu hoặc nhà
thuê thuộc quyền sử dụng của đối tượng đó) thì cá nhân đó được coi là đối tượng cư
trú của Việt Nam.
- Nếu cá nhân đó có nhà ở thường trú tại cả hai nước nhưng cá nhân đó có
quan hệ kinh tế chặt chẽ hơn tại Việt Nam như việc làm, có địa điểm kinh doanh, nơi
quản lý tài sản cá nhân, hoặc có quan hệ cá nhân chặt chẽ hơn tại Việt Nam như quan
hệ gia đình (người thân như bố, mẹ, vợ/chồng, con...), xã hội (ví dụ: Hội viên các
đoàn thể xã hội, hiệp hội nghề nghiệp…), thì cá nhân đó được coi là đối tượng cư trú
của Việt Nam.
- Nếu không xác định được cá nhân đó có quan hệ kinh tế, quan hệ cá nhân
tại nước nào chặt chẽ hơn hoặc nếu cá nhân đó không có nhà ở thường trú ở nước
nào, nhưng cá nhân đó có thời gian có mặt tại Việt Nam nhiều hơn trong năm tính
thuế thì cá nhân đó được coi là đối tượng cư trú của Việt Nam.
- Nếu cá nhân đó thường xuyên có mặt cả ở Việt Nam và Nước ký kết Hiệp
định với Việt Nam cũng như không có mặt thường xuyên ở cả hai nước nhưng cá
nhân đó mang quốc tịch Việt Nam hoặc được xác định là công dân Việt Nam theo
nguyên tắc quốc tịch hữu hiệu Việt Nam thì cá nhân đó được coi là đối tượng cư trú
của Việt Nam.
15
- Nếu cá nhân đó mang quốc tịch của cả Việt Nam và Nước ký kết Hiệp định
với Việt Nam hoặc không mang quốc tịch của cả hai nước thì Nhà chức trách có thẩm
quyền của Việt Nam sẽ giải quyết vấn đề này thông qua thủ tục thỏa thuận song
phương với Nhà chức trách có thẩm quyền của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam.
Tóm lại, dù quan điểm xác định điều kiện là cá nhân không cư trú ở các quốc
gia có khác nhau, hay tại Việt Nam, quan điểm xác định cá nhân không cư trú ở
từng thời điểm cũng có sự thay đổi, nhưng hiện nay, để thống nhất quản lý đối với
người nộp thuế thu nhập cá nhân là cá nhân không cư trú, thì đối tượng này được
hiểu là người không đáp ứng được đầy đủ các quy định về thời gian cư trú và nơi ở
thường xuyên đối với người cư trú. Cụ thể cá nhân đó có mặt ở Việt Nam ít hơn 183
ngày tính theo một năm dương lịch hoặc tính theo 12 tháng liên tục kể từ ngày có
mặt ở Việt Nam hoặc cá nhân đó không có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam.
Như vậy, hiểu theo quy định của pháp luật hiện hành thì người không cư trú
bao gồm hai loại sau:
- Công dân Việt Nam không cư trú tại Việt Nam.
- Người nước ngoài bao gồm: người có quốc tịch quốc gia khác, người
không quốc tịch không cư trú tại Việt Nam.
Việc xác định “cư trú” hay “không cư trú” của một đối tượng nộp thuế là nội
dung rất quan trọng để xác định nghĩa vụ kê khai nộp thuế và mức thuế suất áp dụng
đối với từng đối tượng có các khoản thu nhập khác nhau và thời gian cư trú khác
nhau tại Việt Nam. Đây là quy định phù hợp với thông lệ quốc tế và cũng là cơ sở
cho việc thực hiện hiệp định tránh đánh thuế hai lần được kí kết giữa nước ta và các
quốc gia khác nhằm mục đích bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, các chuyên gia
nước ngoài, đồng thời khuyến khích họ đến kinh doanh và làm việc tại Việt Nam.
1.1.3. Khái niệm, vai trò của thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân không cư trú
1.1.3.1. Khái niệm và vai trò của thuế thu nhập cá nhân nói chung
Trong hệ thống thuế ở các quốc gia, thuế thu nhập là loại thuế quan trọng
được áp dụng phổ biến ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Ở Việt Nam,
16
cũng như nhiều quốc gia trên thế giới, thuế thu nhập gồm hai loại là thuế Thu nhập
Doanh nghiệp (TNDN) và thuế TNCN, mặc dù hai loại thuế này có thể ban hành
trong cùng một văn bản luật hoặc được ban hành riêng lẻ. Nhìn chung, việc phân
định thuế TNCN và thuế TNDN dựa trên cơ sở chủ thể nộp thuế là cá nhân hay tổ
chức có thu nhập chịu thuế. Theo đó, thuế TNCN là loại thuế trực thu đánh vào thu
nhập thực nhận của các cá nhân trong một năm, từng tháng hoặc từng lần.
Thuế TNCN là sắc thuế đã được áp dụng từ lâu ở các nước phát triển, đối
tượng nộp thuế là mọi cư dân trong nước và người nước ngoài có thu nhập phát sinh
ở nước sở tại không phân biệt nghề nghiệp và địa vị xã hội. Bất kỳ một quốc gia nào
có nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường đều coi thuế TNCN là một sắc thuế
có tầm quan trọng lớn trong việc huy động nguồn thu cho ngân sách nhà nước và
điều hòa thu nhập dân cư để thực hiện mục tiêu công bằng xã hội.
Thuế TNCN có thể được hiểu là sắc thuế mà Nhà nước sử dụng để điều tiết
một phần thu nhập của các cá nhân vào NSNN với mục đích tạo nguồn thu cho
NSNN và thực hiện công bằng xã hội.
Thuế TNCN trên thế giới thông thường đánh vào cả cá nhân kinh doanh và
cá nhân không kinh doanh. Thuế này được coi là loại thuế đặc biệt vì có lưu ý đến
hoàn cảnh của các cá nhân có thu nhập phải nộp thuế thông qua việc xác định miễn,
giảm thuế hoặc khoản miễn trừ đặc biệt.
Một điểm đặc biệt nữa của thuế TNCN đó là hầu hết các quốc gia trên thế giới
hiện nay khi áp dụng thuế TNCN đều thực hiện trên cơ sở kết hợp hai quyền thu thuế
của Nhà nước, đó là thu thuế theo yếu tố lãnh thổ và thu thuế theo yếu tố cư trú. Theo
đó, những cá nhân là đối tượng nộp thuế TNCN không chỉ là người có quốc tịch của
Nhà nước thu thuế mà còn bao gồm cả người nước ngoài, người không có quốc tịch
có thu nhập chịu thuế phát sinh trong lãnh thổ quốc gia thu thuế. Đặc điểm này đã
phát sinh tình trạng đánh thuế hai lần thường gặp khi thực hiện nghĩa vụ thuế thu
nhập nói chung và thuế TNCN nói riêng. Đánh thuế trùng ở thuế TNCN xảy ra khi
một cá nhân với một khoản thu nhập chịu thuế có thể vừa phải nộp thuế TNCN cho
17
quốc gia mà cá nhân đó cư trú, vừa phải nộp thuế TNCN cho quốc gia mà thu nhập
đó phát sinh. Để hạn chế tình trạng này, các quốc gia trên thế giới thường lựa chọn
giải pháp ký kết các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần hoặc quy định khấu trừ nghĩa
vụ thuế đã thực hiện ở quốc gia khác trong Luật Thuế TNCN.
* Thuế TNCN có các đặc điểm cơ bản như sau:
- Thứ nhất, thuế TNCN là thuế trực thu
Thuế TNCN là thuế trực thu bởi cá nhân có thu nhập chịu thuế là người nộp
thuế, việc nộp thuế được tiến hành từ việc khấu trừ trực tiếp từ thu nhập của cá nhân
đó mà không thông qua hành vi tiêu dùng hoặc chủ thể trung gian khác.
Do thuế trực thu trực tiếp điều tiết vào thu nhập, tài sản của tổ chức và cá
nhân, có xem xét đến hoàn cảnh, điều kiện và khả năng đóng góp của người nộp thuế
nên có tác dụng hữu hiệu trong việc điều hoà thu nhập, góp phần giảm bớt sự chênh
lệch về thu nhập và tài sản giữa các tầng lớp dân cư. Tuy nhiên, thuế trực thu lại có
hạn chế lớn là dễ gây phản ứng từ phía người nộp thuế hoặc dễ xảy ra tình trạng trốn,
lậu thuế nếu quy định mức thuế suất cao. Hơn nữa, việc theo dõi, tính toán và thu
thuế phức tạp, đặc biệt là thuế TNCN với diện thu thuế rộng và phân tán. Vì vậy, nếu
không có biện pháp quản lý thu thuế hiệu quả thì dễ dẫn đến hạn chế tác dụng của
loại thuế này trong việc tập trung số thu đầy đủ, kịp thời về cho NSNN.
- Thứ hai, thuế TNCN có đối tượng chịu thuế là thu nhập của cá nhân
Khái niệm “thu nhập” hiện nay chưa được hiểu thống nhất nên vẫn còn nhiều
quan điểm khác nhau. Chính vì vậy, các nhà làm luật thường chỉ liệt kê các khoản được
coi là thu nhập của tổ chức, cá nhân mà không đưa ra khái niệm thu nhập.
Trong nền kinh tế thị trường, thu nhập của cá nhân phát sinh rất đa dạng. Nếu
căn cứ vào hoạt động hoặc các giao dịch làm phát sinh thu nhập thì thu nhập bao
gồm: thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh; thu nhập từ lao động; thu nhập từ
tài sản, tiền vốn; thu nhập từ chuyển nhượng; thu nhập từ thừa kế, tặng cho; thu
nhập từ bản quyền; thu nhập do bồi thường; thu nhập từ trúng thưởng; thu nhập từ
Nhà nước hoặc xã hội dành cho và các khoản thu nhập khác.
18