Tải bản đầy đủ (.pdf) (146 trang)

Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tại công ty thương mại dịch vụ hoàng dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.9 MB, 146 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

---------------

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH TẠI
CÔNG TY THƯƠNG MẠI & DỊCH VỤ HOÀNG DƯƠNG
VŨ THỊ HỒNG HẠNH
CHUYÊN NGÀNH : QUẢN TRỊ KINH DOANH

MÃ SỐ : 60340102
HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. ĐÀO VĂN HÙNG

Hà Nội-2014

0


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị
trường, các doanh nghiệp chuyển sang chế độ hạch toán độc lập và phải thích ứng
với các yêu cầu của cơ chế thị trường. Để tồn tại và phát triển, doanh nghiệp phải
kinh doanh có hiệu quả.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử
dụng các nguồn lực, các yếu tố cần thiết của doanh nghiệp tham gia vào hoạt động
kinh doanh theo mục đích nhất định. Do đó, hiệu quả sản xuất kinh doanh là một
chỉ tiêu tương đối tổng hợp, đánh giá chính xác tình hình hoạt động kinh doanh của
một doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả hoặc hiệu quả


sản xuất kinh doanh thấp thì khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thấp, đời sống
của người lao động gặp nhiều khó khăn và nếu hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp
trong một thời gian dài có thể đe doạ đến sự tồn tại của doanh nghiệp.
Ở nước ta, việc tính toán các chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh không
còn là điều mới mẻ. Đã có rất nhiều tài liệu, giáo trình, luận văn nghiên cứu về hiệu
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Song việc đánh giá các chỉ tiêu hiệu
quả sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp, từ đó có những đánh giá chính xác
tình hình hoạt động của doanh nghiệp, nắm được nguyên nhân của những tồn tại và
đề xuất được giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp lại
có nhiều điều mới mẻ.
2. Tổng quan nghiên cứu
Trải qua hơn 17 năm phát triển, đến nay, Công ty TM & DV Hoàng Dương
là một trong những doanh nghiệp dệt may Việt Nam đang hoạt động với lĩnh vực
sản xuất hàng thời trang xuất khẩu với thế mạnh là các sản phẩm chủ yếu làm từ
len, sợi và các dòng sản sẩm : Mùa đông với dòng sản phẩm thế mạnh len, sợi
truyền thống và áo khoác vải ấm áp. Mùa hè với dòng sản phẩm thun, kaki thoáng
1


mát . Các sản phẩm cho trẻ em gồm cả hàng len, sợi, cotton cho mùa đông và mùa
hè. v.v..
Nắm bắt được nhu cầu sử dụng sản phẩm len, sợi trên thế giới ngày một lớn,
trong khi đó các làng nghề truyền thống hoạt động trong lĩnh vực này qui mô sản
xuất nhỏ lẻ, kỹ thuật dựa vào kinh nghiệm, quản lý không mang tính tập trung nên
không thể đáp ứng những đơn đặt hàng lớn với yêu cầu kỹ thuật, hoàn tất chất
lượng cao. Do đó, mục tiêu chiến lược của Công ty TM & DV Hoàng Dương là
trực tiếp nhận đơn đặt hàng lớn từ khách hàng với chất lượng cao mà không qua
các hệ thống trung gian (trực tiếp lo từ đầu vào là nguyên vật liệu, thiết kế.. để cuối
cùng đầu ra là sản phẩm hoàn chỉnh) qua đó sẽ bỏ dần kiểu truyền thống của các
doanh nghiệp dệt may Việt Nam là gia công cố hữu. Bằng chất lượng và mẫu mã

sản phẩm hàng len, sợi của công ty đã có mặt và chinh phục được khách hàng ở
nhiều thị trường khó tính như: Mỹ, Đài Loan, CH Séc, Ba Lan, Anh,Lào, Hàn
Quốc... Để đạt được mục tiêu này, một trong những bài toán quan trọng mà Công
ty phải tìm lời giải đó là vấn đề nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh , nâng cao
khả năng cạnh tranh của công ty. Giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
không chỉ là yêu cầu trước mắt mà còn là vấn đề mang tính chiến lược đối với
Công ty. Xuất phát từ tầm quan trọng của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh đối với mỗi doanh nghiệp nói chung và với Công ty TM & DV Hoàng
Dương nói riêng
Vì vậy, tôi quyết định chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh tại công ty TM& DV Hoàng Dương ” làm luận văn thạc sỹ vì nó có ý nghĩa
cả về mặt lý luận và thực tiễn. Lựa chọn đề tài trên, tôi mong muốn đi sâu phân tích
thực trạng hiệu quả sản xuất kinh doanh tại Công ty TM & DV Hoàng Dương, đưa
ra những nhận định, đánh giá để từ đó có những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty TM & DV Hoàng Dương trong thời
gian tới.

2


3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích: Thông qua nghiên cứu sẽ đưa ra đánh giá về hiệu quả sản xuất
kinh doanh , đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh của Công ty TM & DV Hoàng Dương.
Nhiệm vụ: Hệ thống hoá và làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận cơ bản
về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.
- Phân tích, đánh giá thực trạng kinh doanh nói chung và hiệu quả sản xuất
kinh doanh nói riêng của Công ty TM & DV Hoàng Dương
- Đề xuất phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
của Công ty TM & DV Hoàng Dương

4. Câu hỏi nghiên cứu
- Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh là gì?
- Thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh tại Công TM & DV Hoàng
Dương như thế nào?
- Tại sao phải nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh tại Công TM &
DV Hoàng Dương?
- Làm thế nào để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh tại Công TM &
DV Hoàng Dương?
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
+ Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan
đến hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sản xuất kinh doanh của
Công ty TM & DV Hoàng Dương nói riêng. Đề tài cũng phân tích tình hình hoạt
động kinh doanh của công ty, đề xuất phương hướng và biện pháp nhằm nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty trong thời gian tới.
- Phạm vi nghiên cứu :
3


+ Về nội dung: Những kết quả đạt được và những vấn đề còn tồn tại, nguyên
nhân, giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tại Công
ty TM & DV Hoàng Dương trong thời gian tới.
+ Về địa bàn nghiên cứu: Do thời gian và điều kiện cũng như năng lực
nghiên cứu của bản thân còn hạn chế nên tôi chỉ xin nghiên cứu trong Công ty TM
& DV Hoàng Dương thông qua những điều tra được tiến hành
+ Thời gian nghiên cứu: thực trạng hiệu quả sản xuất kinh doanh tại Công ty
TM & DV Hoàng Dương trong giai đoạn 3 năm từ năm 2011 đến năm 2013.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài này, tôi đã sử dụng phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương
pháp thu thập dữ liệu, phương pháp phân tích dữ liệu. Cụ thể như sau:

6.1. Quy trình nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng hệ thống các phương pháp
nghiêncứu:
+ Phương pháp phân tích và tổng hợp,đánh giá chuỗi số liệu sản xuất kinh
doanh qua các năm của công ty.
+ Phương pháp thống kê, mô hình, so sánh, đối chiếu
+ Phương pháp khảo sát thực tế.
+ Phương pháp dự báo : Dự báo thay đổi của thị trường, dự báo xu hương
thay đổi của đối thủ cạnh tranh, dự báo thay đổi của nghành.
6.2. Thu thập dữ liệu.
- Phương pháp thu thập sơ cấp thông qua điều tra trắc nghiệm, phỏng vấn
người tiêu dùng.
- Phương pháp tổng hợp số liệu sơ cấp được thực hiện qua việc sử dụng phần mềm.

4


- Phương pháp thống kê: Phương pháp thống kê được sử dụng để thu thập
các biến số: dân số, thu nhập bình quân của người dân, giá cả của sản phẩm.
6.2.1. Dữ liệu thứ cấp:
Nguồn số liệu thứ cấp được lấy từ các nguồn sau:
Phòng kinh doanh .
Phòng kế hoạch .
Phòng tài chính - kế toán .
Niên giám thống kê, số liệu thống kê về dân số, thu nhập.
Tài liệu trong các sách, giáo trình liên quan tới vấn đề nghiên cứu.
Các trang web như:
-

www.vinatex.com.vn của Tập đoàn Dệt May Việt Nam.


-

www.gso.gov.vn của Tổng cục thống kê Việt Nam.

-

www.vinacorp.vn của Cổng thông tin Doanh nghiệp - Tài Chính Chứng Khoán.

- Thu thập tài liệu từ thư viện, internet, báo chí…
- Thống kê số liệu để phân tích đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh
- Tổng hợp các phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh tại công ty.
6.3.2. Xử lý số liệu thu thập:
- Phương pháp đồ thị hoá: phương pháp này là phương pháp phổ biến trong
phân tích kinh tế . Đây là phương pháp phân tích các số liệu, dữ liệu thu thập được
và mối quan hệ giữa các yếu tố thông qua đồ thị.
- Phương pháp dự báo cầu theo dãy số thời gian.
- Bằng phương pháp thống kê và tổng hợp, sử dụng phần mềm.

5


7.Những đóng góp của luận văn
- Luận văn đã hệ thống hóa những lý luận chung về hiệu quả sản xuất kinh
doanh trong doanh nghiệp.
- Phân tích thực trạng hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty TM & DV
Hoàng Dương ; những mặt đạt được và những hạn chế của Công ty; luận giải những
nguyên nhân của những hạn chế đó.
- Đề xuất những kiến nghị, giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh của Công ty TM & DV Hoàng Dương trong thời gian tới.

8. Nội dung của Luận văn
Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn được kết cấu theo 3 chương với các phần chính sau đây:
Chương 1: Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng về hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty TM &
DV Hoàng Dương
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của
Công ty TM & DV Hoàng Dương.

6


CHƯƠNG 1: HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA
DOANH NGHIỆP

1.1.HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH VÀ PHÂN LOẠI HIỆU QUẢ
SẢN XUẤT KINH DOANH
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh
1.1.1.1. Khái niệm hiệu quả sản xuất kinh doanh
Đối với tất cả các doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất kinh doanh hoạt động
trong nền kinh tế, với các cơ chế quản lý khác nhau thì có các nhiệm vụ mục tiêu
hoạt động khác nhau. Ngay trong mỗi giai đoạn phát triển của doanh nghiệp cũng
có các mục tiêu khác nhau. Nhưng có thể nói rằng trong cơ chế thị trường ở nước ta
hiện nay, mọi doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh (doanh nghiệp nhà
nước, doanh nghiệp tư nhân, Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn...) đều
có mục tiêu bao trùm lâu dài là tối đa hoá lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu này mọi
doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh và phát triển
doanh nghiệp thích ứng với các biến động của thị trường, phải thực hiện việc xây
dựng các kế hoạch kinh doanh, các phương án kinh doanh, phải kế hoạch hoá các
hoạt động của doanh nghiệp và đồng thời phải tổ chức thực hiện chúng một cách có

hiệu quả.
Trong qúa trình tổ chức xây dựng và thực hiện các hoạt động quản trị trên,
các doanh nghiệp phải luôn kiểm tra, đánh giá tính hiệu quả của chúng. Muốn kiểm
tra đánh giá các hoạt động sản xuất kinh doanh chung của toàn doanh nghiệp cũng
như từng lĩnh vực, từng bộ phận bên trong doanh nghiệp thì doanh nghiệp không
thể không thực hiện việc tính hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh
doanh đó. Vậy thì hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh (hiệu quả
sản xuất kinh doanh) là gì ? Để hiểu được phạm trù hiệu quả kinh tế của hoạt động

7


sản xuất kinh doanh thì trước tiên chúng ta tìm hiểu xem hiệu quả kinh tế nói chung
là gì. Từ trước đến nay có rất nhiều tác giả đưa ra các quan điểm khác nhau về hiệu quả kinh tế:
Theo P. Samerelson và W. Nordhaus (1) thì : "hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã
hội không thể tăng sản lượng một loạt hàng hoá mà không cắt giảm một loạt sản
lượng hàng hoá khác. Một nền kinh tế có hiệu quả nằm trên giới hạn khả năng sản
xuất của nó". Thực chất của quan điểm này đã đề cập đến khía cạnh phân bổ có hiệu
quả các nguồn lực của nền sản xuất xã hội. Việc phân bổ và sử dụng các nguồn lực
sản xuất trên đường giới hạn khả năng sản xuất sẽ làm cho nền kinh tế có hiệu quả
cao. Có thể nói mức hiệu quả ở đây mà tác giả đưa ra là cao nhất, là lý tưởng và
không thể có mức hiệu quả nào cao hơn nữa.
Có một số tác giả lại cho rằng hiệu quả kinh tế được xác định bởi quan hệ tỷ
lệ giữa sự tăng lên của hai đại lượng kết quả và chi phí. Các quan điểm này mới chỉ
đề cập đến hiệu quả của phần tăng thêm chứ không phải của toàn bộ phần tham gia
vào quy trình kinh tế.
Một số quan điểm lại cho rằng hiệu quả kinh tế được xác định bởi tỷ số giữa
kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để có được kết quả đó. Điển hình cho quan điểm
này là tác giả Manfred Kuhn (2), theo ông : "Tính hiệu quả được xác định bằng cách
lấy kết quả tính theo đơn vị giá trị chia cho chi phí kinh doanh"Đây là quan điểm

được nhiều nhà kinh tế và quản trị kinh doanh áp dụng vào tính hiệu quả kinh tế của
các qúa trình kinh tế.
Hai tác giả Whohe và Doring (3) lại đưa ra hai khái niệm về hiệu quả kinh tế.
Đó là hiệu quả kinh tế tính bằng đơn vị hiện vật và hiệu quả kinh tế tính bằng đơn vị
giá trị. Theo hai ông thì hai khái niệm này hoàn toàn khác nhau. "Mối quan hệ tỷ lệ
giữa sản lượng tính theo đơn vị hiện vật (chiếc, kg...) và lượng các nhân tố đầu vào
(giờ lao động, đơn vị thiết bị,nguyên vật liệu...) được gọi là tính hiệu quả có tính
chất kỹ thuật hay hiện vật", "Mối quan hệ tỷ lệ giữa chi phí kinh doanh phải chỉ ra
1

P. Samueleson và W. Nordhaus : Giáo trình kinh tế học, trích từ bản dịch Tiếng Việt (1991)
Trích dẫn theo giáo trình quản trị kinh doanh tổng hợp trang 407, 408

2 ,3

8


trong điều kiện thuận lợi nhất và chi phí kinh doanh thực tế phải chi ra được gọi là
tính hiệu quả xét về mặt giá trị" và "Để xác định tính hiệu quả về mặt giá trị người
ta còn hình thành tỷ lệ giữa sản lượng tính bằng tiền và các nhân tố đầu vào tính
bằng tiền" Khái niệm hiệu quả kinh tế tính bằng đơn vị hiện vật của hai ông chính là
năng suất lao động, máy móc thiết bị và hiệu suất tiêu hao vật tư, còn hiệu quả tính
bằng giá trị là hiệu quả của hoạt động quản trị chi phí.
Một khái niệm được nhiều nhà kinh tế trong và ngoài nước quan tâm chú ý
và sử dụng phổ biến đó là : hiệu quả kinh tế của một số hiện tượng (hoặc một qúa
trình) kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực
(nhân tài, vật lực, tiền vốn) để đạt được mục tiêu đã xác định. Đây là khái niệm
tương đối đầy đủ phản ánh được tính hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh
doanh.

Từ các quan điểm về hiệu quả kinh tế thì có thể đưa ra khái niệm về hiệu quả
kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh (hiệu quả sản xuất kinh doanh) của
các doanh nghiệp như sau : hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế
phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực (lao động, máy móc, thiết bị, tiền vốn và
các yếu tố khác) nhằm đạt được mục tiêu mà doanh nghiệp đã đề ra.
Từ khái niệm trên ta có công thức để biểu diễn khái quát phạm trù hiệu quả
sản xuất kinh doanh.

(1.1)
H: Hiệu quả sản xuất kinh doanh.
K: Kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh.
C: Chi phí của quá trình sản xuất kinh doanh (chi phí bỏ ra để đạt được kết quả K).
Như vậy ta nhận thấy rằng hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Còn kết quả
của quá trình sản xuất kinh doanh (doanh thu, lợi nhuận) thì phản ánh số lượng của
9


hoạt động sản xuất kinh doanh. Vậy khi xem xét, đánh giá hoạt động của một doanh
nghiệp thì phải quan tâm cả kết quả cũng như hiệu quả của doanh nghiệp đó.
Quan điểm này đã đánh giá được tốt nhất trình độ lợi dụng các nguồn lực ở
mọi điều kiện "động" của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Việc tính toán hiệu quả hoàn toàn có thể thực hiện được trong sự vận động
và biến đổi không ngừng của hoạt động sản xuất kinh doanh, không phụ thuộc vào
quy mô và tốc độ biến động khác nhau của chúng.

1.1.1.2.Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh
Hiệu quả sản xuất kinh doanh phản ánh mặt chất lượng của các hoạt động
kinh doanh, phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực (lao động, thiết bị, máy móc,
tiền, nguyên vật liệu) để đạt được mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp. Bản chất

của hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là sự thực hiện yêu cầu của quy
luật tiết kiệm thời gian.
Quy luật tiết kiệm thời gian là quy luật có tầm quan trọng đặc biệt. Mọi hoạt
động của con người đều phải tuân theo quản lý đó. Con người tạo ra của cải vật chất
bằng sức lao động. Lao động được đo lường bằng thời gian. Với một mục tiêu nhất
định con người phải thực hiện trong một thời gian lao động ít nhất hay nói một cách
khác thì trong một thời gian lao động nhất định kết quả đạt được phải cao nhất.
Vì vậy yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là phải đạt
kết quả tối đa với chi phí tối thiểu (thời gian hao phí lao động thấp nhất). Điều này
có nghĩa là với mức chi phí nhất định thì doanh nghiệp phải đạt kết quả tối đa hoặc
ngược lại, đạt kết quả nhất định với chi phí tối thiểu.
Tuy nhiên, để hiểu rõ bản chất của phạm trù hiệu quả kinh tế của hoạt động
sản xuất kinh doanh, cũng cần phân biệt ranh giới giữa hai khái niệm hiệu quả và
kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Trước đây trong lý luận cũng như thực
tiễn đã tồn tại sự nhầm lẫn giữa hai phạm trù hiệu quả và kết quả của hoạt động sản

10


xuất kinh doanh, khi đó đã coi kết quả là mục tiêu mục đích và coi hiệu quả của
hoạt động sản xuất kinh doanh là mục tiêu. Từ quan niệm nhầm lẫn đó dẫn đến sự
hạn chế trong phương pháp luận giải quyết vấn đề, đôi khi người ta hay coi đạt
được kết quả là đạt được hiệu quả và rõ ràng điều đó có nghĩa là không cần chú ý
đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đây là quan niệm sai lầm và cần phải được thay đổi.
Hiện nay, chúng ta có thể hiểu kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp là những gì mà doanh nghiệp đạt được sau một quá trình sản xuất
kinh doanh nhất định, kết quả cần đạt bao giờ cũng là mục tiêu cần thiết của doanh
nghiệp có thể là những đại lượng có thể cân, đo, đong đếm được như số sản phẩm
tiêu thụ mỗi loại, doanh thu, lợi nhuận… và cũng có thể là các đại lượng chỉ phản
ánh mặt chất lượng hoàn toàn có tính chất định tính như uy tín của hãng, chất lượng

sản phẩm… Như thế kết quả bao giờ cũng là mục tiêu của doanh nghiệp.Trong khi
đó trong khái niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh, người ta đã sử dụng cả hai chỉ
tiêu là kết quả (đầu ra) và chi phí (các nguồn lực đầu vào) để đánh giá hiệu quả sản
kinh doanh. Trong lý thuyết và thực tế quản trị kinh doanh cả hai chỉ tiêu kết quả và
chi phí đều có thể được xác định bằng đơn vị hiện vật và đơn vị giá trị. Tuy nhiên,
sử dụng đơn vị hiện vật để xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ vấp phải khó
khăn là giữa "đầu vào" và "đầu ra" không có cùng một đơn vị đo lường, còn việc sử
dụng đơn vị giá trị luôn luôn đưa các đại lượng khác nhau về cùng một đơn vị đo
lường tiền tệ. Vấn đề được đặt ra là hiệu quả sản xuất kinh doanh là mục tiêu hay
phương tiện của kinh doanh? Trước tiên, hiệu quả sản xuất kinh doanh phản ánh
việc thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp đạt được ở trình độ nào. Nhưng xem xét
hiệu quả kinh tế không chỉ dừng ở đó mà thông qua đó có thể phân tích, tìm ra các
nhân tố cho phép nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Từ đó có thể có các giải
pháp nhằm đạt mục tiêu của doanh nghiệp ở mức độ cao hơn với chi phí về nhân
tài, vật lực và tiền vốn ít hơn. Như vậy, nhiều lúc người ta sử dụng các chỉ tiêu hiệu
quả như mục tiêu cần đạt và trong nhiều trường hợp khác người ta lại sử dụng
chúng như công cụ để nhận biết khả năng tiến tới mục tiêu cần đạt là kết quả.

11


1.1.1.3. Đặc điểm của hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một khái niệm phức tạp và khó đánh giá
chính xác. Sở dĩ phạm trù hiệu quả sản xuất kinh doanh là phạm trù phức tạp và khó
đánh giá chính xác là vì ngay ở khái niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh đã cho
thấy hiệu quả sản xuất kinh doanh được xác định bởi mối tương quan giữa hai đại
lượng là kết quả đạt được từ hoạt động sản xuất (doanh nghiệp sản xuất) hoặc kinh
doanh (doanh nghiệp thương mại, dịch vụ…) và chi phí bỏ ra để thực hiện các hoạt
động sản xuất kinh doanh đó. Trong khi cả hai đại lượng kết quả và chi phí đều khó
xác định chính xác.

Về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh chúng ta thấy hầu như rất ít khi
các doanh nghiệp xác định được chính xác các kết quả mà doanh nghiệp thu được ở
một thời điểm nào đó do các quá trình tạo ra kết quả diễn ra trong các doanh nghiệp
thường có sản phẩm dở dang, bán thành phẩm,… Trong nền kinh tế thị trường,
doanh nghiệp không phải chỉ tạo ra kết quả (sản phẩm, dịch vụ) mà còn phải bán
được các kết quả đó và quá trình bán hàng và quá trình tạo ra kết quả luôn không
trùng nhau. Một doanh nghiệp ở một thời điểm nào đó có thể có nhiều sản phẩm
được sản xuất ra nhưng lại tiêu thụ được rất ít, như thế chưa thể nói doanh nghiệp
đã đạt được kết quả (mục tiêu). Nếu xét trên góc độ giá trị, đại lượng kết quả của
sản xuất kinh doanh không phải là đại lượng đánh giá dễ dàng vì ngoài các nhân tố
ảnh hưởng trên, kết quả sản xuất kinh doanh còn chịu ảnh hưởng của thước đo giá
trị (đồng tiền với những thay đổi của nó trên thị trường). Mặt khác, chính hoạt động
của con người là luôn nhằm đến và đạt đến kết quả nhất định, song không phải lúc
nào con người cũng nắm chắc được, biết hết được các kết quả do chính hành động
của họ. Như vậy, phạm trù kết quả là một phạm trù phức tạp mà không phải lúc nào
chúng ta cũng đánh giá đầy đủ được nó.
Việc xác định đại lượng chi phí cũng không dễ dàng. Nếu xét trên phương
diện lý thuyết thì chi phí tính bằng đơn vị hiện vật là chi phí sử dụng tài nguyên, chi
phí "thực" để tạo ra kết quả của doanh nghiệp song điều đó không thể xác định được
12


trong thực tiễn. Ở mọi doanh nghiệp, việc kiểm kê, kiểm tra xem đã sử dụng bao
nhiêu đơn vị nguyên nhiên vật liệu mỗi loại cũng không phải lúc nào cũng tiến hành
được. Trong khi đó, ở mọi doanh nghiệp lại còn nhiều loại nguồn lực đầu vào
không chỉ liên quan đến một quá trình tạo ra sản phẩm nào đó mà nó liên quan đến
nhiều quá trình kinh doanh khác nhau. Điều này dẫn tới việc xác định hao phí một
cách chính xác vào một quá trình kinh doanh cụ thể gặp nhiều khó khăn. Nếu xét
trên phương diện giá trị, chi phí kinh doanh thường được hiểu là giá trị của toàn bộ
tài nguyên đã sử dụng trong kinh doanh. Bản thân việc sử dụng các yếu tố đầu vào

dưới dạng chi phí sử dụng tài nguyên đã là không xác định được trong tính toán
bằng tiền, độ phức tạp và thiếu chính xác còn lớn hơn nhiều vì nó hàm chứa rất
nhiều yếu tố chủ quan của con người (chi phí là chi phí tính toán). Cùng với sự phát
triển của khoa học quản trị kinh doanh con người ngày càng đưa chi phí tính toán
tiếp cận đến gần chi phí kinh tế hơn. Hơn nữa, không chỉ những chi phí trực tiếp
trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mới đem lại kết quả cho doanh nghiệp,
mà còn rất nhiều chi phí cho hoạt động xã hội như: Giáo dục, cải tạo môi trường,
sức khoẻ… có tác động không nhỏ tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Các
chi phí này rất khó tính toán được trong quá trình xem xét hiệu quả kinh tế. Mặt
khác, trong thực tế khi ra các quyết định sản xuất kinh doanh của mình, các doanh
nghiệp thường hướng vào mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận nên dẫn đến xu hướng chi
phí biên cá nhân (MPC) thấp hơn chi phí biên xã hội (MSC). Điều này dẫn đến sự
tách biệt giữa kết quả và hiệu quả cá biệt xã hội. Để rút ngắn sự tách biệt này, các
biện pháp can thiệp vĩ mô của Nhà nước là hoàn toàn cần thiết. Cũng cần thấy rằng
khi doanh nghiệp ra quyết định sản xuất kinh doanh theo hướng giảm chi phí biên
cá nhân so với chi phí biên xã hội sẽ tạo ra ảnh hưởng ngoại ứng đối với các doanh
nghiệp sản xuất khác cũng như đối với người tiêu dùng và trong nhiều trường hợp
cũng ảnh hưởng trực tiếp đến bản thân doanh nghiệp với tư cách là một thành viên
trong đó. Nhiều doanh nghiệp cố tình giảm thiểu chi phí cho việc xử lý chất thải,
gây ô nhiễm môi trường và sự ô nhiễm ngày một tăng ảnh hưởng đến cả khu vực
rộng lớn và cuối cùng dẫn đến việc đóng cửa hoạt động kinh doanh của doanh
13


nghiệp bằng các biện pháp pháp luật. Như thế kết quả và hiệu quả đạt được trước
mắt của doanh nghiệp đã dẫn đến không có hiệu quả và thậm chí phi hiệu quả kinh
tế nếu xét trong thời gian dài.

1.1.2 Vai trò của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh .
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là công cụ hữu hiệu để các nhà quản trị doanh

nghiệp thực hiện nhiệm vụ quản trị kinh doanh : Khi tiến hành bất kỳ một hoạt động
sản xuất kinh doanh nào thì các doanh nghiệp đều phải huy động và sử dụng các
nguồn lực mà doanh nghiệp có khả năng có thể tạo ra kết quả phù hợp với mục tiêu
mà doanh nghiệp đề ra. Ở mỗi giai đoạn phát triển của doanh nghiệp thì doanh
nghiệp đều có nhiều mục tiêu khác nhau, nhưng mục tiêu cuối cùng bao trùm toàn
bộ qúa trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận trên cơ
sở sử dụng tối ưu các nguồn lực của doanh nghiệp. Để thực hiện mục tiêu tối đa hoá
lợi nhuận cũng như các mục tiêu khác, các nhà doanh nghiệp phải sử dụng nhiều
phương pháp, nhiều công cụ khác nhau. Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một trong
các công cụ hữu hiệu nhất để các nhà quản trị thực hiện chức năng quản trị của
mình. Thông qua việc tính toán hiệu quả sản xuất kinh doanh không những cho
phép các nhà quản trị kiểm tra đánh giá tính hiệu quả của các hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp (các hoạt động có hiệu quả hay không và hiệu quả đạt
ở mức độ nào), mà còn cho phép các nhà quản trị phân tích tìm ra các nhân tố ảnh
hưởng đến các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, để từ đó đưa ra
được các biện pháp điều chỉnh thích hợp trên cả hai phương diện giảm chi phí, tăng
doanh thu nhằm nâng cao hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Với tư cách là một công cụ quản trị kinh doanh hiệu quả sản xuất kinh
doanh không chỉ được sử dụng để kiểm tra, đánh giá và phân tích trình độ sử dụng
tổng hợp các nguồn lực đầu vào trong phạm vi toàn doanh nghiệp mà còn được sử
dụng để kiểm tra đánh giá trình độ sử dụng từng yếu tố đầu vào trong phạm vi toàn
doanh nghiệp cũng như ở từng bộ phận cấu thành của doanh nghiệp. Do vậy xét
trên phương diện lý luận và thực tiễn thì phạm trù hiệu quả sản xuất kinh doanh
đóng vai trò rất quan trọng và không thể thiếu được trong việc kiểm tra đánh giá và
14


phân tích nhằm đưa ra các giải pháp tối ưu nhất, lựa chọn được các phương pháp
hợp lý nhất để thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp đã đề ra.
Trong nhiều trường hợp các nhà quản trị còn coi hiệu quả kinh tế như là các

nhiệm vụ, các mục tiêu để thực hiện. Vì đối với các nhà quản trị khi nói đến các
hoạt động sản xuất kinh doanh thì họ đều quan tâm đến tính hiệu quả của nó. Do
vậy mà hiệu quả sản xuất kinh doanh có vai trò là công cụ để thực hiện nhiệm vụ
quản trị kinh doanh đồng thời vừa là mục tiêu để quản trị kinh doanh.
Ngoài ra, hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp còn có vai trò quan
trọng trong cơ chế thị trường.
Thứ nhất, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là cơ sở cơ bản để đảm bảo
sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Sự tồn tại của doanh nghiệp được xác
định bởi sự có mặt của doanh nghiệp trên thị trường, mà hiệu quả sản xuất kinh
doanh lại là nhân tố trực tiếp đảm bảo sự tồn tại đó, đồng thời mục tiêu của doanh
nghiệp là luôn tồn tại và phát triển một cách vững chắc. Do vậy, việc nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh là một đòi hỏi tất yếu khách quan đối với tất cả các doanh
nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường hiện nay. Do yêu cầu của sự tồn tại và
phát triển của mỗi doanh nghiệp đòi hỏi nguồn thu nhập của doanh nghiệp phải
không ngừng tăng lên. Nhưng trong điều kiện nguồn vốn và các yếu tố kỹ thuật
cũng như các yếu tố khác của quá trình sản xuất chỉ thay đổi trong khuôn khổ nhất
định thì để tăng lợi nhuận đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả kinh
doanh. Như vậy, hiệu quả sản xuất kinh doanh là hết sức quan trọng trong việc đảm
bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Một cách nhìn khác sự tồn tại của doanh nghiệp được xác định bởi sự tạo ra
hàng hóa, của cải vật chất và các dịch vụ phục vụ cho nhu cầu của xã hội, đồng thời
tạo ra sự tích lũy cho xã hội. Để thực hiện được như vậy thì mỗi doanh nghiệp đều
phải vươn lên và đứng vững để đảm bảo thu nhập đủ bù đắp chi phí bỏ ra và có lãi
trong quá trình hoạt động kinh doanh. Có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu tái
sản xuất trong nền kinh tế. Như vậy chúng ta buộc phải nâng cao hiệu quả sản xuất
15


kinh doanh một cách liên tục trong mọi khâu của quá trình hoạt động kinh doanh
như là một nhu cầu tất yếu. Tuy nhiên, sự tồn tại mới chỉ là yêu cầu mang tính chất

giản đơn còn sự phát triển và mở rộng của doanh nghiệp mới là yêu cầu quan trọng.
Bởi vì sự tồn tại của doanh nghiệp luôn luôn phải đi kèm với sự phát triển mở rộng
của doanh nghiệp, đòi hỏi phải có sự tích lũy đảm bảo cho quá trình sản xuất mở
rộng theo đúng quy luật phát triển.
Thứ hai, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là nhân tố thúc đẩy sự cạnh
tranh và tiến bộ trong kinh doanh. Chính việc thúc đẩy cạnh tranh yêu cầu các
doanh nghiệp phải tự tìm tòi, đầu tư tạo nên sự tiến bộ trong kinh doanh. Chấp nhận
cơ chế thị trường là chấp nhận sự cạnh tranh. Song khi thị trường ngày càng phát
triển thì cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng gay gắt và khốc liệt hơn. Sự
cạnh tranh lúc này không còn là sự cạnh tranh về mặt hàng mà cạnh tranh về mặt
chất lượng, giá cả mà cò phải cạnh tranh nhiều yếu tố khác nữa. Mục tiêu của doanh
nghiệp là phát triển thì cạnh tranh là yếu tố làm cho doanh nghiệp mạnh lên nhưng
ngược lại cũng có thể là cho doanh nghiệp không tồn tại được trên thị trường. Để
đạt được mục tiêu là tồn tại và phát triển mở rộng thì doanh nghiệp phải chiến thắng
trong cạnh tranh trên thị trường. Do đó doanh nghiệp cần phải có hàng hóa, dịch vụ
chất lượng tốt, giá cả hợp lý. Mặt khác hiệu quả lao động là đồng nghĩa với việc
giảm giá thành, tăng khối lượng hàng hóa, chất lượng, mẫu mã không ngừng được
cải thiện nâng cao....
Thứ ba, việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh chính là nhân tố cơ bản
tạo ra sự thắng lợi cho doanh nghiệp trong quá trình hoạt động kinh doanh trên thị
trường. Muốn tạo ra sự thắng lợi trong cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp phải
không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình. Chính sự nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh là con đường nâng cao sức cạnh tranh và khả năng tồn
tại, phát triển của mỗi doanh nghiệp.

16


1.1.3. Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một trong các công cụ hữu hiệu để các nhà

quản trị thực hiện các chức năng của mình. Việc xem xét và tính toán hiệu quả sản
xuất kinh doanh không những chỉ cho biết việc sản xuất đạt ở trình độ nào mà còn
cho phép các nhà quản trị phân tích, tìm ra các nhân tố để đưa ra các biện pháp
thích hợp trên cả hai phương diện tăng doanh thu và giảm chi phí kinh doanh nhằm
nâng cao hiệu quả. Với tư cách là một công cụ đánh giá và phân tích kinh tế, phạm
trù hiệu quả không chỉ được sử dụng ở giác độ tổng hợp, đánh giá chung trình độ sử
dụng tổng hợp đầu vào trong phạm vi toàn doanh nghiệp mà còn sử dụng để đánh
giá trình độ sử dụng từng yếu tố đầu vào ở phạm vi toàn bộ hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp cũng như ở từng bộ phận cấu thành của doanh nghiệp.
Việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh còn là sự biểu hiện của việc lựa
chọn phương án sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp phải tự lựa chọn phương án sản
xuất kinh doanh của mình cho phù hợp với trình độ của doanh nghiệp. Để đạt được
mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, doanh nghiệp buộc phải sử dụng tối ưu nguồn lực sẵn
có. Nhưng việc sử dụng nguồn lực đó bằng cách nào để có hiệu quả nhất lại là một
bài toán mà nhà quản trị phải lựa chọn cách giải. Chính vì vậy, ta có thể nói rằng
việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh không chỉ là công cụ hữu hiệu để các
nhà quản trị thực hiện các chức năng quản trị của mình mà còn là thước đo trình độ
của nhà quản trị.

1.1.4. Phân loại hiệu quả sản xuất kinh doanh
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, hiệu quả trực tiếp của các
doanh nghiệp là hiệu quả kinh tế, còn hiệu quả của ngành hoặc hiệu quả của nền
kinh tế quốc dân là hiệu quả kinh tế xã hội.Tùy theo phạm vi, kết quả đạt được và
chi phí bỏ ra mà có các phạm trù hiệu quả khác nhau như : hiệu quả kinh tế xã hội,
hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất trong qúa trình kinh doanh…. Từ đó, ta có thể
phân ra như sau :

17



1.1.4.1 Hiệu quả kinh tế và hiệu quả kinh tế xã hội
Hiệu quả về mặt kinh tế phản ánh trình đồ lợi dụng các nguồn lực để đạt
được các mục tiêu kinh tế ở một thời kỳ nào đó. Nếu đứng trên phạm vi từng yếu tố
riêng lẻ thì chúng ta có phạm trù hiệu quả kinh tế, và xem xét vấn đề hiệu quả trong
phạm vi các doanh nghiệp thì hiệu quả kinh tế chính là hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả có thể hiểu là hệ số giữa kết quả thu về với chi
phí bỏ ra để đạt được kết quả đó, và nó phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực
tham gia vào quá trình kinh doanh.
Hiệu quả kinh tế phản ánh đồng thời các mặt của quá trình sản xuất kinh
doanh như: kết quả kinh doanh, trình độ sản xuất, tổ chức sản xuất và quản lý, trình
độ sử dụng các yếu tố đầu vào…đồng thời nó yếu cầu doanh nghiệp phải phát triển
theo chiều sâu. Nó là thước đo ngày càng trở nên quan trọng của sự tăng trưởng
kinh tế và là chỗ dựa cơ bản để đánh giá việc thực hiện mục tiêu kinh tế của doanh
nghiệp trong từng thời kỳ. Sự phát triển tất yếu đòi hỏi doanh nghiệp phải nâng cao
hiệu quả kinh doanh, đây là mục tiêu cơ bản của mỗi doanh nghiệp.
Hiệu quả kinh tế - xã hội là hiệu quả mà doanh nghiệp đem lại cho xã hội và
nền kinh tế quốc dân. Nó thể hiện qua việc tăng thu ngân sách cho Nhà nước, tạo
thêm công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao mức sống của người lao động
và tái phân phối lợi tức xã hội.
Trong quản lý kinh doanh, hiệu quả kinh tế của từng doanh nghiệp từng
thương vụ rất được coi trọng trong nền kinh tế thị trường vì hoạt động có hiệu quả
thì mới có cái để doanh nghiệp mở rộng và phát triển quy mô kinh doanh. Nhưng
quan trọng hơn là phải đạt được hiệu quả kinh tế xã hội đối với nền kinh tế , đó là
tiêu chuẩn quan trọng của sự phát triển. Hiệu quả kinh tế xã hội và hiệu quả kinh tế
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và tác động qua lại với nhau. Hiệu quả kinh tế xã
hội đạt được trên cơ sở hiệu quả của các doanh nghiệp kinh doanh , tuy nhiên có
trường hợp hiệu quả kinh doanh của một số doanh nghiệp nào đó không đảm bảo
nhưng hiệu quả chung kinh tế xã hội vẫn thu được. Điều này có thể xảy ra trong
18



những trường hợp nhất định trong những thời điểm nhất định do những nguyên
nhân khách quan mang lại. Mặt khác, để thu được hiệu quả kinh tế xã hội đôi khi
phải từ bỏ một số hiệu quả kinh doanh nào đó. Bởi vậy, Nhà nước cần có chính
sách đảm bảo kết hợp hài hòa lợi ích chung của toàn xã hội với lợi ích của từng
doanh nghiệp và người lao động trên quản điểm cơ bản là đặt hiệu quả sản xuất kinh
doanh trong hiệu quả kinh tế xã hội.

1.1.4.2. Hiệu quả kinh tế tổng hợp và hiệu quả kinh tế của từng yếu tố.
Hiệu qủa kinh tế tổng hợp là phạm trù kinh tế biểu hiện tập của sự phát triển
kinh tế theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực đó trong qúa trình
tái sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp.
Hiệu quả kinh tế tổng hợp là thước đo hết sức quan trọng của sự tăng trưởng
kinh tế và là chỗ dựa cho việc đánh giá việc thực hiện mục tiêu kinh tế của doanh
nghiệp trong từng thời kỳ.
Hiệu quả kinh tế từng là yếu tố, là sự thể hiện trình độ và khả năng sử dụng
các yếu tố đó trong qúa trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó là thước đo
quan trọng của sự tăng trưởng từng yếu tố và cùng với hiệu quả kinh tế tổng hợp
làm cơ sở để đánh giá việc thực hiện mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp.

1.1.4.3. Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả tương đối.
Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả tương đối là hai hình thức biểu hiện mối quan
hệ giữa kết quả và chi phí. Trong đó hiệu quả tuyệt đối được đo bằng hiệu số giữa
kết quả và chi phí. Hiệu quả tương đối được đo bằng tỷ số giữa kết quả và chi phí.
Trong công tác quản lý kinh doanh việc xác định hiệu quả nhằm mục tiêu cơ bản:
- Để thể hiện và đánh giá trình độ sử dụng các nguồn lực trong hoạt động
kinh doanh
- Phân tích luận chứng kinh tế của các phương án khác nhau trong việc thực
hiện một nhiệm vụ cụ thể đó để lựa chọn phương án tối ưu nhất.


19


1.1.4.4. Hiệu quả ngắn hạn và dài hạn
Hiệu quả sản xuất kinh doanh ngắn hạn là hiệu quả sản xuất kinh doanh được
xem xét, đánh giá ở từng khoảng thời gian ngắn. Hiệu quả sản xuất kinh doanh ngắn
hạn chỉ đề cập đến từng khoảng thời gian ngắn hạn như tuần, tháng, quý, năm…
Hiệu quả sản xuất kinh doanh dài hạn là hiệu quả sản xuất kinh doanh được
xem xét, đánh giá trong khoảng thời gian dài, gắn với chiến lược, kế hoạch dài hạn
hoặc thậm chí nói đến hiệu quả sản xuất kinh doanh dài hạn người ta hay nhắc đến
hiệu quả lâu dài gắn với quãng thời gian tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh dài hạn và ngắn hạn vừa có mối quan hệ biện
chứng với nhau và trong nhiều trường hợp có thể mâu thuẫn với nhau. Về nguyên
tắc chỉ có thể xem xét và đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh ngắn hạn trên cơ sở
vẫn đảm bảo đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh dài hạn trong tương lai.

1.2. CÁC NGUYÊN TẮC VÀ CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SẢN XUẤT
KINH DOANH
1.2.1. Nguyên tắc đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Đảm bảo sự thống nhất biện chứng về mặt thời gian và không gian.
Sự toàn diện của hiệu quả đạt được trong từng giai đoạn không được làm
giảm hiệu quả khi xét trong dài hạn, hoặc hiệu quả của chu kỳ sản xuất trước
không được làm hạ thấp hiệu quả của chu kỳ sau. Bên cạnh đó, có Hiệu quả sản
xuất kinh doanh hay không còn phụ thuộc vào chỗ hiệu quả của hoạt động cụ thể
nào đó có ảnh hưởng tăng hay giảm như thế nào đối với cả hệ thống mà nó có liên quan
Xét trên cả hai mặt định lượng và định tính .
Về định lượng, hiệu quả kinh tế phải được thể hiện trong mối tương quan
giữa thu và chi theo hướng tăng thu, giảm chi. Điều này có nghĩa là tiết kiệm đến
mức tối đa chi phí sản xuất kinh doanh để tạo ra một đơn vị sản phẩm có ích.
Về định tính, trong bất kỳ hoạt động kinh doanh nào, khi đánh giá hiệu


20


quả của hoạt động đó không chỉ dừng lại ở việc đánh giá kết quả đạt được mà
còn đánh giá chất lượng của kết quả ấy.
Đứng trên góc độ nền kinh tế quốc dân, hiệu quả kinh tế mà doanh nghiệp
đạt được phải gắn chặt với hiệu quả của toàn xã hội. Giành được hiệu quả cao cho
doanh nghiệp chưa phải là đủ mà còn đòi hỏi mang lại hiệu quả cho xã hội. Trong
nhiều trường hợp, hiệu quả toàn xã hội lại là mặt có tính quyết định khi lựa chọn
một giải pháp kinh tế, dù xét về mặt kinh tế nó chưa hoàn toàn được thoả mãn.
Đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh phải căn cứ cả mặt hiện vật và mặt giá trị
của hàng hóa.
Mặt hiện vật của hàng hóa thể hiện ở số lượng sản phẩm, chất lượng sản
phẩm. Mặt giá trị là biểu hiện bằng tiền của sản phẩm hàng hóa, của kết quả và
chi phí bỏ ra.
Đảm bảo tính chính xác của các số liệu tính toán.
Các số liệu tính toán các chỉ tiêu hiệu quả phải là số liệu chính xác, phản
ánh khách quan hoạt động của doanh nghiệp. Bởi vì các chỉ tiêu hiệu quả là
những chỉ tiêu rất quan trong đối với hoạt động quản trị doanh nghiệp
Đánh giá hiệu quả phải sử dụng tổng hợp các chỉ tiêu hiệu quả khác nhau.
Để có cái nhìn chính xác thì khi đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp cũng như sử dụng các chỉ tiêu hiệu quả cho hoạt động quản trị doanh
nghiệp thì phải sử dụng nhiều chỉ tiêu đánh giá về nhiều mặt khác nhau của doanh
nghiệp …
Cụ thể khi đánh giá hiệu quả kinh doanh chúng ta cần phải quán triệt một số
quan điểm trong việc đánh giá hiệu quả kinh doanh.
Thứ nhất: Bảo đảm sự kết hợp hài hoà các loại lợi ích xã hội, lợi ích tập thể,
lợi ích người lao động, lợi ích trước mắt, lợi ích lâu dài... Quan điểm này đòi hỏi
việc nâng cao hiệu quả kinh doanh phải xuất phát từ việc thoả mãn một cách thích

đáng nhu cầu của các chủ thể trong mối quan hệ mắt xích phụ thuộc lẫn nhau. Trong
21


đó quan trọng nhất là xác định được hạt nhân của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh
đã từ đó thoả mãn lợi ích của chủ thể này tạo động lực, điều kiện để thoả mãn lợi ích
của chủ thể tiếp theo và cứ thế cho đến đối tượng và mục đích cuối cùng. Nói tóm lại
theo quan điểm này thì quy trình thoả mãn lợi ích giữa các chủ thể phải đảm bảo từ
thấp đến cao. Từ đó mới có thể điều chỉnh kết hợp một cách hài hoà giữa lợi ích các
chủ thể.
Thứ hai : là bảo đảm tính toàn diện và hệ thống trong việc nâng cao hiệu quả
kinh doanh. Theo quan điểm này thì việc nâng cao hiệu quả kinh doanh phải là sự
kết hợp hài hoà giữa hiệu quả kinh doanh của các bộ phận trong doanh nghiệp với
hiệu quả toàn doanh nghiệp. Chúng ta không vì hiệu quả chung mà làm mất hiệu quả
bộ phận. Và ngược lại, cũng không vì hiệu quả kinh doanh bộ phận mà làm mất hiệu
quả chung toàn bộ doanh nghiệp. Xem xét quan điểm này trên lĩnh vực rộng hơn thì
quan điểm này đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả kinh doanh phải xuất phát từ việc đảm
bảo yêu cầu nâng cao hiệu quả của nền sản xuất hàng hoá, của ngành, của địa
phương, của cơ sở. Trong từng đơn vị cơ sở khi xem xét đánh giá hiệu quả kinh
doanh phải coi trọng toàn bộ các khâu của quá trình kinh doanh. Đồng thời phải xem
xét đầy đủ các mối quan hệ tác động qua lại của các tổ chức, các lĩnh vực trong một
hệ thống theo một mục tiêu đã xác định.
Thứ ba: là phải bảo đảm tính thực tiễn cho việc nâng cao hiệu quả kinh
doanh. Quan điểm này đòi hỏi khi đánh giá và xác định biện pháp nâng cao hiệu quả
kinh doanh phải xuất phát từ đặc điểm, điều kiện kinh tế - xã hội của ngành, của địa
phương và của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
Thứ tư: là đảm bảo thống nhất giữa nhiệm vụ chính trị, xã hội với nhiệm vụ
kinh tế trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Trước hết ta phải nhận thấy rằng sự
ổn định của một quốc gia là một nhân tố quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả
kinh doanh. Trong khi đó chính sự ổn định đó lại được quyết định bởi mức độ thoả

mãn lợi ích của quốc gia. Do vậy, theo quan điểm này đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả
kinh doanh phải được xuất phát từ mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội của
22


đất nước. Cụ thể là, nó được thể hiện ở việc thực hiện các chỉ tiêu pháp lệnh hoặc
đơn hàng của nhà nước giao cho doanh nghiệp hoặc các hợp đồng kinh tế mà doanh
nghiệp ký kết với nhà nước. Bởi vì đó là nhu cầu điều kiện đã đảm bảo sự phát triển
cân đối của nền kinh tế quốc dân.
Thứ năm là: Đánh giá hiệu quả kinh doanh phải căn cứ vào cả mặt hiện vật
lẫn giá trị của hàng hoá. Theo quan điểm này đòi hỏi việc tính toán và đánh giá hiệu
quả phải đồng thời chú trọng cả hai mặt hiện vật và giá trị ở đây mặt hiện vật thể
hiện ở số lượng sản phẩm và chất lượng sản phẩm, còn mặt giá trị là biểu hiện bằng
tiền của hàng hoá sản phẩm, của kết quả và chi phí bỏ ra. Như vậy, căn cứ vào kết
quả cuối cùng cả về mặt hiện vật và mặt giá trị là một đòi hỏi tất yếu trong quá trình
đánh giá hiệu quả kinh doanh trong nền kinh tế thị trường.
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Khi xem xét hiệu quả kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, cần phải dựa vào một
hệ thống các tiêu chuẩn, các doanh nghiệp phải coi các tiêu chuẩn là mục tiêu phấn
đấu. Có thể hiểu tiêu chuẩn hiệu quả là giới hạn, là mốc xác định ranh giới có hay
không có hiệu quả. Nếu theo phương pháp so sánh toàn ngành có thể lấy giá trị bình
quân đạt được của ngành làm tiêu chuẩn hiệu quả. Nếu không có số liệu của toàn
ngành thì so sánh với các chỉ tiêu của năm trước. Cũng có thể nói rằng, các doanh
nghiệp có đạt được các chỉ tiêu này mới có thể đạt được các chỉ tiêu về kinh tế. Hệ
thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm:
1.2.2.1 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh tổng hợp
a. Lợi nhuận của hoạt động kinh doanh
Lợi nhuận vừa là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả của kinh doanh trong

một thời kỳ nhất định đồng thời vừa là chỉ tiêu phản ánh tính hiệu quả của các hoạt

động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với các chủ doanh nghiệp thì hay
quan tâm cái gì người ta thu được sau quá trình sản xuất kinh doanh và thu được bao
nhiêu, do đó mà chỉ tiêu lợi nhuận được các chủ doanh nghiệp đặc biệt quan tâm và đặt

23


nó vào mục tiêu quan trọng nhất của doanh nghiệp. Còn đối với các nhà quản trị thì lợi
nhuận vừa là mục tiêu cần đạt được vừa cơ sở để tính các chỉ tiêu hiệu quả của doanh nghiệp.

Tổng lợi nhuận của hoạt động sản xuất kinh doanh được tính như sau:
LN = DT – CP (1.2)
LN: là tổng lợi nhuận
DT: là tổng doanh thu
CP: là tổng chi phí
Như vậy, xét về mục đích kinh doanh thì lợi nhuận là động cơ trực tiếp của
các doanh nghiệp, xét về hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh thì lợi nhuận là
chỉ tiêu cơ bản và được sử dụng phổ biến nhất.
Qua đây ta thấy: để đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh cao cần mở rộng
quy mô sản xuất kinh doanh, thu hút khách hàng, sử dụng mọi tiềm lực tiết kiệm
chi phí để lợi nhuận lớn nhất mà chi phí bỏ ra thấp nhất. Đồng thời để thấy được
thực trạng kinh doanh của toàn doanh nghiệp
b.Doanh lợi của hoạt động kinh doanh
Các chỉ tiêu về doanh lợi nó cho ta biết hiệu quả sản xuất kinh doanh của toàn
doanh nghiệp, nó là các chỉ tiêu được các nhà quản trị, các nhà đầu tư, các nhà tín dụng
đặc biệt quan tâm chú ý tới, nó là mục tiêu theo đuổi của các nhà quản trị.

Phương pháp 1: Doanh lợi theo chi phí (Dcf) được tính theo công thức:
Dcf


=

LN

x

100%

(1.3)

CP
Chỉ tiêu doanh lợi theo chi phí (Dcf) cho biết một đồng chi phí sản xuất và
tiêu thụ trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao thì
chứng tỏ doanh nghiệp hoạt động càng có hiệu quả.
Phương pháp 2: Doanh lợi theo doanh thu (D):
24


×