Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

VĂN học VIỆT NAM GIAI ðoạn 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.58 KB, 11 trang )

VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ÐOẠN 1945-1954
------------------------Trong quá trình 30 năm phát triển của văn học cách mạng (1945-1975), giai đoạn
1945-1954 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Ðây vừa là thời kỳ mở đầu, đắp nền cho văn
học mới vừa là bước chuyển tiếp lịch sử ghi nhận nhiều thay đổi triệt để và sâu sắc, từ
quan niệm nghệ thuật cho tới thực tế sáng tác. Vượt qua những thử thách khắc nghiệt của
hoàn cảnh chiến tranh, văn học chín năm kháng chiến chống Pháp đã khẳng định sự tồn
tại và phát triển với tầm vóc xứng đáng. Tuy những thành tựu còn ở mức độ ban đầu
nhưng đóng góp chính của nó là mang đến một sắc thái độc đáo, làm bừng lên khí thế
mới chưa từng có trong đời sống văn học dân tộc.
I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ - XÃ HỘI
- Cách mạng tháng Tám (1945) thành công, mở ra một kỷ nguyên mới cho đất
nước - kỷ nguyên độc lập, tự chủ. Ngày 2-9-1945, tại quảng trường Ba Ðình, Hồ Chủ
Tịch đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ách nô lệ
bị đập tan, con người Việt Nam được giải phóng; bừng lên một niềm hạnh phúc lớn lao
đến thiêng liêng, như kết quả tất yếu từ khát vọng tự do và quyết tâm cứu nước của cả
dân tộc.
- Nhưng chính quyền cách mạng non trẻ, ngay lúc đó, đã phải đương đầu với
muôn vàn khó khăn trên tất cả các phương diện của đời sống. Nền kinh tế hầu như kiệt
quệ với hệ thống kho tàng trống rỗng, nông nghiệp lạc hậu, mất mùa vì lũ lụt ; các ngành
công thương nghiệp, thủ công nghiệp bị đình đốn hoặc phá sản. (Hậu quả thảm khốc là
nạn đói xảy ra, làm chết hơn hai triệu người, ngót 1/10 dân số nước ta bấy giờ). Trình độ
dân trí, văn hóa giáo dục thấp kém với hơn 80% dân số mù chữ. Cùng lúc, các thế lực thù
trong giặc ngoài lăm le chờ thời cơ để gây rối, hòng làm suy yếu và lật đổ nhà nước Cách
mạng. Ðược Anh mở đường, thực dân Pháp trở lại gây căng thẳng ở Nam Bộ. Quân
Tưởng Giới Thạch kéo vào miền Bắc. Trong nước, các tổ chức Việt Nam cách mệnh
đồng minh của Nguyễn Hải Thần (Việt Cách) và Việt Nam quốc dân đảng của Vũ Hồng
Khanh, Nguyễn Tường Tam (Việt Quốc) núp bóng quân Tưởng, bất hợp tác với Cách
mạng, liên tục quấy phá ; lớp địa chủ, tư sản cũng ngóc dậy, ngấm ngầm chống đối.
- Vượt qua mọi khó khăn, chính quyền dân chủ nhân dân không những được giữ
vững mà còn ngày càng củng cố, mạnh mẽ hơn. Dưới sự lãnh đạo tài tình của Ðảng và
Hồ Chủ Tịch, bằng nhiều biện pháp kịp thời nhân dân ta đã chặn đứng nạn đói, phát động


một cao trào bình dân học vụ diệt giặc dốt và phong trào tình nguyện nhập ngũ để bảo vệ
nhà nước Cách mạng, bảo vệ sự toàn vẹn của tổ quốc. Ngày 6-1-1946, quốc hội đầu tiên
được bầu qua tổng tuyển cử. Hiếp pháp được công bố. Những thế lực thù địch lần lượt bị
khuất phục bằng chính sách ngoại giao kiên quyết về nguyên tắc nhưng uyển chuyển về
sách lược của ta : hai trăm ngàn quân Tưởng Giới Thạch phải rút về nước kéo theo sự tán
loạn của bọn phản động tay sai ; hiệp định Sơ bộ (6-3-1946) và Tạm ước (14-9-1946)
giúp nhân dân tranh thủ được thời gian hòa hoãn để chuẩn bị lực lượng đương đầu lâu dài
với thực dân Pháp.


- Khi mọi biện pháp ngoại giao không còn hiệu quả trước dã tâm của Pháp nhằm
áp đặt chế độ thuộc địa lên nước ta một lần nữa, cuộc kháng chiến toàn quốc bắt đầu. Ðáp
lời kêu gọi ngày 19-12-1946 của Hồ Chủ Tịch, cả đất nước đã đứng lên, vừa đánh giặc
vừa củng cố lực lượng, huy động sức mạnh dân tộc không chỉ ở hiện tại mà cả từ truyền
thống quật khởi bốn nghìn năm.
- Từ năm 1947, liên tiếp những chiến thắng quan trọng đã làm thay đổi cục diện,
tương quan lực lượng giữa ta và địch : chiến thắng Việt Bắc thu đông (1947) chặn đứng
sức tiến công của giặc, chuyển cuộc kháng chiến từ thế phòng ngự sang cầm cự ; chiến
thắng Biên giới (1950) phá vỡ thế phong tỏa, mở đường thông với phe xã hội chủ nghĩa ;
chiến thắng Hòa Bình (1952) mở rộng vùng giải phóng,... Cuối cùng, chiến thắng Ðiện
Biên Phủ (7-5-1954) làm lịm tắt ý đồ xâm lược của thực dân Pháp, buộc chúng phải chấp
nhận thương lượng và ký kết hiệp định Giơnevơ về Ðông Dương (20-7-1954).
Cuộc kháng chiến chín năm đã kết thúc thắng lợi. Một nửa nước được giải phóng.
Chính quyền kiểu mới ở các cấp từng bước được củng cố. Tổ chức Ðảng vững mạnh hơn
nhiều. Ðại hội Ðảng lần 2 (1951) xác định đúng đắn đường lối cho kháng chiến. Năm
1953, Hồ Chủ Tịch ra sắc lệnh giảm tô và cải cách ruộng đất. Tuy có nơi có lúc còn cực
đoan, thái quá nhưng về cơ bản cuộc Cách mạng phản phong này đã thực sự giải phóng
đất đai và người nông dân, thủ tiêu triệt để quan hệ sản xuất cũ, đem lại cho kháng chiến
một động lực mạnh mẽ. Nền kinh tế tự túc đảm bảo được những nhu cầu thiết yếu của đời
sống nhân dân trong kháng chiến.

- Trong hoàn cảnh chiến tranh hết sức khó khăn, văn hóa giáo dục vẫn không
ngừng được nâng cao. Nạn mù chữ cơ bản được thanh toán (phổ cập cấp 1 trong toàn
dân). Tiếng Việt trở thành ngôn ngữ chính thức giảng dạy trong tất cả các cấp học. Một
số trường Ðại học được mở ra để đào tạo nhân tài cho đất nước (y khoa, sư phạm)...
Tất cả những phương diện của tình hình lịch sử - xã hội nêu trên đã có ảnh hưởng
trực tiếp, tạo nên những thuận lợi và khó khăn riêng cho sự phát triển, quyết định diện
mạo của văn học giai đoạn này.
II. TÌNH HÌNH VĂN HỌC
1. Những thuận lợi và khó khăn đối với sự phát triển của văn học :

TOP

1) Trước hết, phải kể đến sự lãnh đạo và quan tâm giúp đỡ thường xuyên
của Ðảng. Thông qua hoạt động của các tổ chức văn nghệ, Ðảng đã đề ra chủ trương
chính sách tích cực, giúp chấn chỉnh kịp thời những lệch lạc ; phát động các cuộc thi để
kích thích phong trào sáng tác, phát hiện tài năng mới ; động viên văn nghệ sĩ thâm nhập
thực tế,... (Hội văn nghệ Việt Nam được thành lập, ra tạp chí Văn nghệ - năm 1948 ; tổ
chức giải thưởng văn nghệ các năm 1951-1952, 1954-1955,...)
- Cách mạng tháng Tám đã giải phóng dân tộc, đồng thời cũng giải phóng cho văn
học khỏi những trói buộc của quan niệm cũ. Tính dân chủ được nâng cao, văn học không


còn là sở hữu riêng của một lớp người mà thành giá trị chung cho tất cả mọi người. Quan
niệm nghệ thuật tiến bộ được khẳng định, đưa văn học trở về với ngọn nguồn đích thực là
đời sống rộng lớn của nhân dân, hứa hẹn một sự khởi sắc rực rỡ.
- Lực lượng sáng tác được tập hợp đông đảo, có sự góp mặt đầy đủ và bổ sung lẫn
nhau giữa các thế hệ. Dưới ngọn cờ của Ðảng, văn nghệ sĩ dù ở thế hệ nào cũng hướng về
lý tưởng chung, soi sáng cuộc đời và công việc sáng tạo nghệ thuật. Mặc dù còn phải tiếp
tục giải quyết nhiều vướng mắc về lập trường, quan điểm, về tư tưởng nghệ thuật nhưng
nhìn chung ngay từ buổi đầu, đa số lớp trước Cách mạng đều phát huy tinh thần dân tộc,

hăng hái đi theo kháng chiến bằng lương tâm và trách nhiệm cao nhất của người nghệ sĩ
chân chính. Bên cạnh đó, phải kể đến lớp nhà văn trưởng thành từ quân đội, từ phong trào
sáng tác quần chúng. Sáng tác của họ mang đậm đà hơi thở đời sống, tạo nên sức trẻ cho
nền văn học, có sức động viên, khích lệ tinh thần nhân dân rất mạnh mẽ.
- Trình độ học vấn, đời sống tinh thần, năng lực thẩm mỹ được nâng cao, quần
chúng trở thành nhân tố quan trọng cho sự hồi sinh của văn học. Nhân dân là đối tượng
phản ánh, là độc giả và cũng chính là người trực tiếp sáng tạo nghệ thuật. Giới văn
chương được mở rộng, sinh hoạt văn nghệ sôi nổi hẳn lên. Mặt khác, chín năm kháng
chiến khổ nhục mà vĩ đại - một hiện thực hoành tráng, giàu chất sử thi - là nguồn đề tài
phong phú cho sáng tác. Cuộc sống mới, quan hệ xã hội mới với bao nhiêu cung bậc tình
cảm của con người Việt Nam tự do đã gợi lên những cảm hứng mãnh liệt, điều kiện cần
thiết trước hết cho sáng tác.
- Tuy khởi đầu cho một thời kỳ mới nhưng văn học 1945-1954 không hoàn toàn
tách rời mà gắn bó chặt chẽ, kế thừa những thành tựu của giai đoạn trước Cách mạng.
Những năm 40 là thời kỳ khủng hoảng cao độ của chế độ thuộc địa, xã hội bế tắc, hoang
mang, không tìm được hướng đi. Tình hình văn học, do đó hết sức phức tạp với nhiều
khuynh hướng, nhiều giá trị biểu hiện khác nhau. Văn học kháng chiến chống Pháp có
đầy đủ điều kiện để tiếp nhận phần tinh hoa, thành tựu cũng như loại trừ những yếu tố
không có lợi cho sự nghiệp chung. Ðặc biệt, phải kể đến những cách tân về phương diện
nghệ thuật của văn chương lãng mạn, giá trị hiện thực và nhân đạo của văn học hiện thực
phê phán, tính chiến đấu mạnh mẽ của văn học Cách mạng (chủ yếu là thơ ca trong tù của
Bác Hồ, Tố Hữu, Sóng Hồng, Lê Ðức Thọ,...)
2) Trong bối cảnh chung thời chiến tranh, văn học chín năm chống Pháp phải
đương đầu với những khó khăn, thiếu thốn về nhiều mặt : điều kiện in ấn, phát hành rất
hạn chế, thời gian và công sức của văn nghệ sĩ dành cho sáng tác không nhiều, sự khủng
bố của kẻ thù,... Nhiều cây bút đang độ sung sức đã ngã xuống, gây nên mất mát không gì
bù đắp được (Trần Ðăng, Nam Cao, Thôi Hữu,...)
Mặt khác, về phía chủ quan, tuy hầu hết văn nghệ sĩ đã tán thành quan niệm sáng
tác mới, nhưng để biến nhận thức ấy thành xúc động nghệ thuật, thành hình tượng nghệ
thuật có sức lay động lòng người thì quả không phải chuyện giản đơn một sớm một chiều.

Tình cảm bao giờ cũng chuyển biến chậm hơn. Không ít lần, nhất là ở những khúc quanh
của lịch sử (thời kỳ đầu kháng chiến, trong cải cách ruộng đất), hàng ngũ sáng tác có biểu


hiện hoang mang, dao động. Ðây chính là lý do giải thích vì sao mãi đến gần cuối cuộc
kháng chiến, văn học Cách mạng mới có được những thành tựu đáng kể.
2. Các chặng đường phát triển :

TOP

Có thể khảo sát quá trình phát triển của văn học giai đoạn này qua hai chặng cụ
thể như sau :
1) 1945-1946 : Ðây là năm bản lề, văn học chuyển mình hòa vào dòng thác Cách
mạng. Văn học Cách mạng dần trở thành trào lưu chủ đạo. Ðội ngũ sáng tác nòng cốt vẫn
là những cây bút đã khẳng định tên tuổi từ trước. Trừ một số ít tỏ ra lạc lõng, hầu hết tự
nguyện đứng vào hàng ngũ văn nghệ sĩ mới với niềm hạnh phúc lớn lao : được hai lần
giải phóng. (Hội văn hóa cứu quốc được thành lập).
Nhìn chung, sáng tác thời kỳ này tập trung vào hai chủ đề lớn. Thứ nhất, ngợi ca
thắng lợi vĩ đại của Cách mạng và bộc lộ niềm phấn khởi, tự hào tột độ của toàn dân (Vui
bất tuyệt, Hồ Chí Minh - Tố Hữu, Ngọn quốc kỳ - Xuân Diệu, kịch Bắc sơn - Nguyễn
Huy Tưởng). Thứ hai, tái hiện lại thực trạng xã hội tăm tối trước Cách mạng để tố cáo tội
ác dã man của thực dân và tay sai, đánh tan những ảo tưởng cuối cùng vào sự lừa mị của
chúng ; từ đó, giáo dục ý thức trân trọng, thiết tha với chế độ mới (Mò sâm banh - Nam
Cao, Lò lửa và địa ngục - Nguyên Hồng, Một lần tới thủ đô - Trần Ðăng, Chùa Ðàn Nguyễn Tuân).
Ðược viết do sự thôi thúc của nhiệt tình, trách nhiệm công dân mà chưa có độ sâu
sắc, độ lắng đọng từ phía cảm xúc người nghệ sĩ nên phần lớn tác phẩm dễ rơi vào quên
lãng. Nhiều văn nghệ sĩ còn quá bỡ ngỡ trước cuộc sống mới, yêu mến nhưng chưa hiểu
Cách mạng bao nhiêu nên chưa thật sự gắn bó và đồng cảm với quần chúng. Một số vẫn
chưa hết băn khoăn, đắn đo như Chế Lan Viên sau này tâm sự : Cách mạng làm tôi vui
nhưng cũng làm tôi lo lắng. Tôi có còn được tự do ? Văn học Cách mạng có phải là văn

học ? (Văn nghệ, 18-9-1976).
2) 1947-1949 : Kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Ðông đảo văn nghệ sĩ tự nguyện
tham gia. Xuất hiện kiểu nhà văn - chiến sĩ, những người vừa trực tiếp chiến đấu vừa
dùng ngòi bút như một thứ vũ khí để đấu tranh với kẻ thù và động viên, cổ vũ quần
chúng. Có thể kể : Chính Hữu, Hoàng Trung Thông, Quang Dũng, Hồ Phương,... Tuy có
thừa nhiệt tình và vốn sống thực tế nhưng do những cây bút trẻ này còn thiếu kinh
nghiệm sáng tác nên chất lượng tác phẩm của họ thường không đồng đều. Dù sao, cũng
đã có tín hiệu lạc quan của những phong cách mới, mang đậm đà hương sắc từ cuộc sống
kháng chiến.
Sự chuyển biến của văn nghệ sĩ lớp trước Cách mạng ở những năm đầu chặng
này vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của kháng chiến. Chưa đủ những điều kiện cần thiết
(thời gian, thực tế kháng chiến) để họ gắn bó máu thịt, nắm bắt được tâm tư nguyện vọng
của quần chúng. Do đó, những tác phẩm hay vẫn chưa nhiều. Tiêu biểu : thơ của Tố Hữu


(Cá nước, Phá đường, Bà mẹ Việt Bắc, Bầm ơi) ; truyện ngắn : Ðôi mắt - Nam Cao,
Làng - Kim Lân, Thư nhà - Hồ Phương, truyện và ký sự của Trần Ðăng.
Nhằm tạo bước phát triển đáng kể cho văn nghệ, Ðảng đã tiến hành hàng loạt biện
pháp tích cực : tổ chức học tập, thảo luận những báo cáo quan trọng có tính định hướng
(Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam - Trường Chinh, 1948 ; Xây dựng nền văn nghệ
nhân dân - Tố Hữu, 1949), tổ chức nhiều hội nghị tranh luận về các vấn đề văn nghệ
(Hội nghị văn nghệ bộ đội- 4/1919, Hội nghị tranh luận văn nghệ tại Việt Bắc- 3/1949).
Tổ chức của văn nghệ sĩ từng bước được kiện toàn. Hội văn nghệ Việt Nam được thành
lập (1948). Với phương châm Cách mạng hóa tư tưởng, quần chúng hóa sinh hoạt, nhằm
xây dựng một nền văn nghệ Dân tộc, khoa học, đại chúng, văn nghệ sĩ hăng hái xốc ba lô
tham gia kháng chiến. Những đợt đi thực tế ra mặt trận được tổ chức trang nghiêm, tưng
bừng đã gây ấn tượng rất sâu sắc đối với người cầm bút vốn xuất thân từ tầng lớp trí thức.
Những tác động ấy đã giúp văn nghệ sĩ dần rũ bỏ những ám ảnh của nếp sống,
nếp nghĩ cũ ; tạo một thái độ chân thành, gắn bó máu thịt với cuộc sống ; giúp giải quyết
thỏa đáng những vấn đề còn vướng mắc về tư tưởng và phương pháp sáng tác như : viết

cái gì ? viết cho ai ? viết như thế nào ?.
Trong khi bộ phận chuyên nghiệp còn đang loay hoay nhận đường thì, đặc biệt,
phong trào văn nghệ quần chúng vốn manh nha từ những ngày đầu Cách mạng, giờ phát
triển sôi nổi hẳn lên và giữ vai trò chủ yếu trong sinh hoạt văn nghệ kháng chiến. Không
khí khẩn trương và hoàn cảnh đặc biệt của kháng chiến rất thích hợp với những hình thức
tự biên tự diễn, phục vụ kịp thời như kịch lửa trại, vè độc tấu, ca dao diệt đồn, thơ báng
súng.... Cho dù chất lượng nghệ thuật còn hạn chế nhưng không thể phủ nhận rằng vào
thời điểm bấy giờ, văn nghệ quần chúng đã đáp ứng thỏa đáng nhu cầu đời sống tinh thần
người Việt Nam trong kháng chiến.
3) 1950-1954 : Ðây là những năm văn học gặt hái được nhiều thành tựu rực rỡ,
nhất là thơ ca. Các nhà thơ : Tố Hữu, Nông Quốc Chấn, Hoàng Trung Thông, Chính
Hữu, Trần Hữu Thung, Minh Huệ,... đều có tác phẩm hay. Ở lĩnh vực văn xuôi, tiểu
thuyết đã có những thể nghiệm bước đầu đáng khích lệ với Con trâu (Nguyễn Văn Bổng),
Xung kích (Nguyễn Ðình Thi), Vùng mỏ (Võ Huy Tâm).
Phong trào văn nghệ quần chúng sôi nổi và ngày càng sâu rộng vẫn là món ăn tinh
thần chính yếu của nhân dân. Thơ bộ đội, thơ của các cây bút dân tộc ít người có một số
tác phẩm nổi bật (Dọn về làng - Nông Quốc Chấn, Nhớ vợ - Cầm Vĩnh Ui, Em tắm - Bạc
Văn Ùi). Các loại hình sân khấu truyền thống cũng bước đầu được phục hồi tuy vẫn còn
nặng về hình thức và hiếm kịch bản có giá trị văn học cao.
III. THÀNH TỰU NỔI BẬT Ở CÁC THỂ LOẠI :
1. Thơ ca :

TOP


Ðây là thể loại phát triển thành cao trào mạnh hơn cả với nhiều thành tựu nổi bật.
Truyền thống yêu thơ của dân tộc và đặc điểm lịch sử cụ thể của chín năm kháng chiến
đã quyết định thực tế ấy. Thơ ca tiếp tục gắn bó với đời sống buồn vui, lúc hạnh phúc
cũng như khi gian lao, vất vả của con người Việt Nam. Nhà phê bình Hoài Thanh đã có
nhận xét xác đáng : Hầu hết những người mang ba lô lặng lẽ đi trên các nẻo đường

kháng chiến trong một quyển sổ tay nào đó thế nào cũng có ít bài thơ... Trong cuộc chiến
tranh nhân dân của chúng ta, tiếng súng, tiếng nhạc, tiếng thơ cùng hòa điệu. (Nói
chuyện thơ kháng chiến).
1) Có thể nhận thấy sự khởi sắc của thơ giai đoạn này, trước hết, qua khảo sát
phong trào và lực lượng sáng tác. Từ sau Cách mạng tháng Tám, thơ không còn là vương
quốc riêng của các nhà thơ chuyên nghiệp. Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp đồng thời cũng giải phóng cho nhà thơ, trong cuộc đời cũng như trong sáng tạo
nghệ thuật. Sự gặp gỡ giữa lý tưởng Cách mạng và lý tưởng thẩm mỹ của dân tộc là điều
kiện khách quan cho sự xuất hiện hình mẫu người nghệ sĩ kiểu mới. Có thể nói : không
có thế hệ nhà thơ kiểu mới thì không có thơ ca Cách mạng. Giờ đây, anh cán bộ chính trị,
anh cán bộ quân sự, anh công an, anh bình dân học vụ, anh thông tin, anh hỏa thực, các
chị phụ nữ, các em thiếu nhi, hết thảy đều làm thơ. (Hoài Thanh - Nói chuyện thơ kháng
chiến).
Không khí quần chúng sôi nổi một mặt tạo điều kiện thử thách và khẳng định các
tài năng trẻ, mặt khác, góp sức cùng cao trào cách mạng tác động mạnh mẽ vào tâm tư
tình cảm của các nhà thơ lãng mạn, giúp hồn thơ họ hồi sinh. Với kinh nghiệm và tài
năng đã được khẳng định, đóng góp của Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư, Tế
Hanh, Huy Cận,... tuy chưa thật sự là hơi thở mãnh liệt của thời đại nhưng vẫn có ý nghĩa
sâu sắc : khơi gợi lòng yêu nước, hào khí đấu tranh và lòng tự hào dân tộc. Việc hầu hết
các nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ Mới tìm đến với Cách mạng, tiếp tục phát huy
năng lực sáng tạo, luôn có mặt ở vị trí hàng đầu trận tuyến văn nghệ Cách mạng là một
hiện tượng đặc sắc. Ðiều đó chứng tỏ tính ưu việt, sức hấp dẫn mạnh mẽ của chế độ mới
và đường lối văn nghệ Cách mạng.
- Ở năm đầu sau Cách mạng, thơ tập trung thể hiện niềm vui lớn của dân tộc, ca
ngợi Ðảng và Bác Hồ, ca ngợi con người mới, chế độ mới. Nổi bật nhất phải kể đến Tố
Hữu với Huế tháng Tám, Vui bất tuyệt, Hồ Chí Minh ;... Xuân Diệu với hai trường ca
Ngọn quốc kỳ và Hội nghị non sông.
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Hòa vào lòng người hăm hở trên trận tuyến
chung, có đội ngũ chỉnh tề, khỏe khoắn của các nhà thơ. Mấy năm đầu, nhiều thi sĩ còn
gặp khó khăn. Tâm hồn họ chưa hòa nhịp kịp với đời sống kháng chiến sôi nổi, sống

động. Các nhà thơ vẫn còn vương vấn với những thi đề quen thuộc, những tình cảm tiểu
tư sản xốc nổi, đậm màu sắc anh hùng cá nhân ; cách biểu hiện sáo mòn,... Sương mù của
bầu trời tinh thần cũ giờ vẫn còn lẩn quẩn trong vườn thơ Cách mạng, biểu hiện ở những
Ðạo rớt, Mộng rớt, Buồn rớt,.... Giữa cảm xúc thơ trong Ngày về (Chính Hữu), Màu tím
hoa sim (Hữu Loan), Tây tiến (Quang Dũng) với tình cảm chân chất, phơi phới lạc quan
trong tư thế anh hùng thời đại mới của quần chúng - còn một khoảng cách nhất định. Bởi


lẽ, một khi nhận thức lý trí chưa thật sự hóa thành rung động tình cảm chân thành thì hình
tượng nghệ thuật khó có sức lay động mạnh mẽ.
Thực tế kháng chiến đã thay đổi cách nhìn, cách nghĩ và củng cố lập trường tư
tưởng của các nhà thơ, giúp họ ngày càng gần gũi, gắn bó với nhân dân. Lớp trước cách
mạng dần bắt kịp và hòa nhập vào đời sống mới. Bên cạnh đó, các nhà thơ trẻ không
ngừng tự khẳng định bằng sáng tác có giá trị. Những tác phẩm tiêu biểu thời kỳ này : Việt
Bắc (Tố Hữu) ; Nhớ, Ðất nước (Nguyễn Ðình Thi) ; Bài ca vỡ đất, Bao giờ trở lại (Hoàng
Trung Thông) ; Ðồng chí (Chính Hữu) ; Nhớ (Hồng Nguyên) ; Thăm lúa (Trần Hữu
Thung) ; Ðêm nay Bác không ngủ (Minh Huệ) ; Dọn về làng (Nông Quốc Chấn) ; Nhớ
máu (Trần Mai Ninh)....
- Một trong những thành tựu thơ ca kháng chiến nổi bật là sáng tác của Bác Hồ.
Người làm thơ vừa để cổ vũ, động viên mọi tầng lớp nhân dân (Thơ tặng các cháu thiếu
nhi, Khuyên thanh niên, Tặng các cụ du kích, Gửi nông dân), vừa nhằm thỏa mãn một
phần nhu cầu đời sống tinh thần phong phú của mình (Cảnh rừng Việt Bắc, Cảnh khuya,
Nguyên Tiêu, Báo tiệp, Thu dạ, Ðăng Sơn). Những sáng tác này góp phần làm nổi rõ ở
Bác một tâm hồn nghệ sĩ hết sức tinh tế, nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước
và con người Việt Nam.
2) Về nội dung tư tưởng, thơ ca 1945-1954 luôn gắn bó chặt chẽ, phản ánh chân
thực và sinh động hiện thực kháng chiến hoành tráng. Lần giở những trang thơ, có thể
gặp lại bước đường của lịch sử. Khác với thơ lãng mạn trước đó, thơ ca kháng chiến phát
triển trên nền hiện thực tâm trạng của nhân dân. Từ chỗ thơ Mới chỉ bộc lộc cái Ðẹp
trong từng con người riêng lẻ, trường cảm xúc giờ đây được mở rộng ; phạm vi phản ánh

cũng bao gồm từ nơi sâu kín tâm hồn người cho tới khoảng rộng bao la của cả đất nước,
dân tộc.
- Các thi sĩ đã đưa được không khí thời đại mới mẻ, khỏe khoắn vào thơ. Khuynh
hướng sử thi ngày càng nổi rõ. Thơ tập trung thể hiện tâm tình phơi phới tin yêu, lạc
quan, tự tin, tự hào của người Việt Nam được giải phóng ; những ước mơ, khát vọng cháy
bỏng ; những sắc thái tình cảm cao cả trong cuộc chiến đấu tuy gian khó nhưng vô cùng
anh dũng.
- Cảm hứng thơ chủ yếu hướng ngoại, chú ý nhiều đến tình cảm công dân nên ít
nói tới con người trong đời sống riêng tư. Tình yêu lứa đôi cũng như mọi cung bậc tình
cảm khác đều được cảm nhận thông qua tình đồng chí. Do đó, trong khi mặt chói sáng
của hiện thực được phản ánh sinh động thì chiều sâu đời sống, ở đó có nỗi buồn mất mát,
chia lìa - chất bi tráng - lại chưa được quan tâm đúng mức. Tuy nhiên, sự phiến diện ở
đây là tự giác và cần thiết. Hoàn cảnh lịch sử đòi hỏi mỗi cá nhân phải biết hi sinh cái
riêng tư, vì vận mệnh đất nước. Thơ ca không thể đứng ngoài sự hi sinh vĩ đại ấy. Không
có gì quí hơn độc lập tự do, các nhà thơ sẽ chẳng được ngợi ca nếu chỉ chuyên tâm sáng
tác nhiều thơ mà để nước mất, dân nô lệ một lần nữa.
- Nhân vật trữ tình trong thơ kháng chiến nghĩ suy và hành động chủ yếu hướng
về số phận tổ quốc. Các nhà thơ đặc biệt khơi gợi, đề cao tinh thần yêu nước, lòng tự hào


dân tộc, ý thức làm chủ và quyết tâm xả thân (Ðất nước - Nguyễn Ðình Thi ; Bao giờ trở
lại - Hoàng Trung Thông ; Bên kia sông Ðuống - Hoàng Cầm ; Ðôi mắt người Sơn Tây Quang Dũng).
Tình yêu nước, trước hết, được thể hiện rất đậm nét qua tình cảm đối với những
con người trong kháng chiến. Ðó là những con người vừa bình thường, chân chất vừa phi
thường, chói sáng. Truyền thống cha ông và khí phách của giai cấp vô sản được kết tinh ở
người anh hùng thời đại mới. Tiêu biểu hơn cả là hình ảnh người Vệ quốc quân. Tầm cao
tư tưởng và chiều sâu tâm hồn của hình tượng người Việt Nam được tập trung làm nổi bật
ở hai phương diện : phẩm chất cách mạng tốt đẹp và tình nghĩa quân dân thắm thiết.
Ðặc biệt, tình yêu nước còn được thể hiện đầy xúc động qua lòng kính yêu Chủ
Tịch Hồ Chí Minh. Rất nhiều bài thơ hay về Bác : Hồ Chí Minh, Sáng tháng Năm (Tố

Hữu) ; Ảnh cụ Hồ, Thơ dâng Bác (Xuân Diệu) ; Bộ đội ông Cụ (Nông Quốc Chấn); Ðêm
nay Bác không ngủ (Minh Huệ). Tất cả góp phần xây lên hình tượng cao đẹp về lãnh tụ,
đó là một con người tài năng kiệt xuất, có lòng nhân ái mênh mông và lối sống giản dị,
khiêm tốn.
3) Nghệ thuật biểu hiện của thơ ca 1945-1954 cũng có những vận động, biến
chuyển mới - trên cơ sở phát huy thành tựu của thời kỳ trước - để tương ứng với nội dung
tư tưởng, tình cảm mới. Dưới ánh sáng của quan niệm nghệ thuật cách mạng, yêu cầu về
tính đại chúng, tính dân tộc được đặc biệt chú trọng.
- Thể thơ ngày càng phong phú. Các thể thơ cổ (thất ngôn tứ tuyệt, bát cú, cổ
phong) hiện diện bên cạnh những tìm tòi mới mẻ (thơ không vần, phá thể, hợp thể, tự do).
Những thể truyền thống như lục bát, ngũ ngôn được sử dụng phổ biến.
- Hình tượng thơ, cảm hứng thơ không còn màu sắc yêng hùng, lãng mạn của
những năm đầu kháng chiến ; trở nên gần gũi, bình dị, phù hợp với quan niệm về người
anh hùng thời đại mới.
- Ngôn ngữ thơ chuyển dần từ tình trạng hoa mỹ, cầu kỳ, tượng trưng, ước lệ sang
đời thường, tự nhiên, phong phú đến vô cùng. Lời ăn tiếng nói của quần chúng hàng ngày
được chú ý vận dụng trong quan niệm thẩm mỹ mới mẻ.
( Thơ ca kháng chiến chống Pháp đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Không ít tác
phẩm sẽ bất tử với thời gian. Tuy nhiên, xét trên đại thể, vì là thời kỳ mở đầu của nền văn
học mới, nên không thể tránh khỏi một số hạn chế nhất định. Cảm xúc rất tinh nhạy,
mãnh liệt nhưng đôi khi lại chưa sâu, chưa chín ; thành ra thơ thường có sức vang xa, ít
vọng sâu. Mặt khác, nhiệt tình công dân và cảm xúc nghệ thuật ở người nghệ sĩ không
phải lúc nào cũng đạt đến độ hài hòa cần thiết.
2. Truyện ký :

TOP


1) Hiện thực cách mạng là mảnh đất màu mỡ, vô tận. Mẫu người lý tưởng của
thời đại mới dần khẳng định trên khắp các lĩnh vực đời sống. Truyện ký có điều kiện tốt

để phát triển, vạm vỡ hẳn lên với hai chặng cụ thể như sau :
- 1946-1948 : thời kỳ nhận đường. Văn nghệ sĩ đang trong quá trình vận động,
giải quyết dứt khoát những ám ảnh cũ để đến với nhân dân, với kháng chiến. Sáng tác
chủ yếu là ký : Nhật ký (Nguyễn Huy Tưởng) ; Ở rừng (Nam Cao) ; Một đêm vào tề,
Tháp Rùa giữa rừng (Nguyễn Tuân). Một số truyện ngắn nổi bật : Làng (Kim Lân) ; Ðôi
mắt (Nam Cao).
- 1949-1954 : thời kỳ được mùa, đánh dấu bằng nhiều tác phẩm đặc sắc, ở nhiều
thể loại. Ký : Trận phố Ràng (Trần Ðăng) ; Voi đi (Siêu Hải) ; Ðường vui, Tình chiến
dịch (Nguyễn Tuân) ; Ngược sông Thao (Tô Hoài) ; Ký sự Cao lạng (Nguyễn Huy
Tưởng); Truyện ngắn : Thư nhà (Hồ Phương); Truyện Tây Bắc (Tô Hoài); Xây dựng
(Nguyễn Khải) ;... Tiểu thuyết Xung kích (Nguyễn Ðình Thi) ; Vùng mỏ (Võ Huy Tâm) ;
Con trâu (Nguyễn Văn Bổng);....
2) Truyện, ký thời kỳ này thể hiện một khuynh hướng tiếp cận, khám phá đời
sống mới mẻ, cả ở bề rộng lẫn bề sâu.
- Những năm đầu sau cách mạng, nhiều vấn đề có tính thời sự được đặt ra: sự đổi
thay về quan niệm sống và sáng tác (Ngày đầy tuổi tôi cách mạng, Lột xác - Nguyễn
Tuân) ; cuộc đấu tranh giằng co giữa hai khuynh hướng cũ - mới trong việc nhận đường
(Ðôi mắt - Nam Cao). Một số tác phẩm trở lại với đề tài xã hội tăm tối trước 1945, nhằm
đánh tan ảo tưởng vào trật tự cuộc sống cũ và giáo dục lòng yêu mến chế độ mới (Lò lửa
và địa ngục - Nguyên Hồng ; Mò sâm banh - Nam Cao; Vợ nhặt - Kim Lân ; Truyện Tây
Bắc - Tô Hoài). Càng về sau, đề tài của văn xuôi càng phong phú hơn, bao quát hầu hết
các vấn đề nổi cộm của đời sống : chiến đấu và sản xuất, phản đế và phản phong, tiền
tuyến và hậu phương, nỗi đau mất mát và niềm vui chiến thắng,...
- Cuộc sống chiến đấu, nổi bật lên hình tượng người lính cụ Hồ là mảng đề tài tập
trung nhiều tâm huyết của các nhà văn. Vẻ đẹp chân chính toát ra từ hình tượng là chủ
nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng. (Một lần tới thủ đô, Trận phố Ràng, Một
cuộc chuẩn bị - Trần Ðăng; Ðường vui, Tình chiến dịch - Nguyễn Tuân; Ký sự Cao Lạng
- Nguyễn Huy Tưởng ; Xung kích - Nguyễn Ðình Thi ; Thư nhà - Hồ Phương).
- Nông thôn và người nông dân kháng chiến được phản ánh trong tầm tư tưởng
mới, vừa truyền thống vừa hiện đại. Con người mới trong sản xuất, xây dựng được chú ý

phát hiện và đề cao (Làng - Kim Lân ; Con trâu - Nguyễn Văn Bổng).
- Hình tượng con người mới trong văn xuôi 1945-1954 có những đặc điểm khá
nổi bật. Lần đầu tiên trong văn học, lớp lớp con người bình thường, chân chất xuất thân
từ nhiều tầng lớp khác nhau (trí thức, nông dân, công nhân) được xây dựng thành nhân
vật trung tâm. Họ tượng trưng cho sự quật khởi đầy ý thức của giai cấp và tiêu biểu cho
sức mạnh, vẻ đẹp của dân tộc, thời đại. Thông qua hình tượng đám đông, văn học làm rõ
những nét tính cách, tâm lý chung rất dân tộc và cách mạng : thủy chung tình nghĩa


không chỉ với gia đình, người thân, làng xóm mà cả với đất nước, quê hương ; không chỉ
yêu nước, căm thù giặc trên cơ sở tình dân tộc, nghĩa đồng bào mà còn mở rộng đến ý
thức vô sản ở tầm quốc tế.
Mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh đã khác trước. Con người không còn là
nạn nhân đáng thương hoặc phản kháng tự phát trước hoàn cảnh mà đã xuất hiện trong tư
thế chủ nhân chân chính, giác ngộ ngày càng sâu sắc, tự giải phóng mình và góp phần
giải phóng dân tộc, giai cấp (Xung kích, Vùng mỏ, Con trâu, Truyện Tây Bắc).
3) Thể loại của văn xuôi cũng có những phát triển đáng ghi nhận. Nếu trong mấy
năm đầu, ký và truyện ngắn chiếm ưu thế, thì dần về sau, xuất hiện những thể loại dài hơi
hơn như truyện vừa, tiểu thuyết. Theo đó, khả năng bao quát hiện thực - biểu hiện sự
trưởng thành của văn xuôi kháng chiến - được khẳng định.
IV. PHẦN KẾT LUẬN :
Văn học Việt Nam 1945-1954 đã phát triển mạnh mẽ và độc đáo theo cách riêng,
với phẩm chất mới về nội dung và hình thức. Văn học thực sự trở thành món ăn tinh thần,
vừa thể hiện khát vọng độc lập, tự do cháy bỏng vừa bồi đắp thêm niềm tin cho quần
chúng cách mạng.
Trong quá trình phát triển, văn học có sự kết hợp hài hòa giữa phổ cập và nâng
cao, giữa truyền thống và sáng tạo. Hình tượng nghệ thuật ngày càng phù hợp với cuộc
sống chứng tỏ tính ưu việt của phương pháp sáng tác mới. Văn học vận động theo hướng
dân tộc hóa, đại chúng hóa.
Năm tháng qua đi với nhiều biến động lịch sử ảnh hưởng tới đời sống văn học

nhưng, cho đến nay và chắc chắn nhiều năm nữa về sau, thơ văn kháng chiến chống Pháp
vẫn còn vang vọng sâu xa trong tâm hồn chúng ta. Bằng những hình tượng nghệ thuật
sinh động, văn học đã góp phần đắc lực vào sự nghiệp chung ; giáo dục tinh thần yêu
nước và động viên ý chí chiến đấu, bảo vệ tổ quốc. Trong ý nghĩa của bước khởi đầu, giai
đoạn 1945-1954 đặt được nền móng vững chắc, đảm bảo sự phát triển rực rỡ của văn học
cách mạng những năm về sau.

Văn xuôi việt nam giai đoạn 1955-1964?
Quan điểm :
- Các tác phẩm đều nói lên tinh thần đấu tranh của dân tôộc Viêột Nam , ca ngợi
những anh hùng chống Mỹ cứu nước, vẻ đẹp của con người , cuôộc sống khát
khao hạnh phúc . Giai đoạn : Khôi phục kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội

Nghêộ thuâột - thành tựu
Thời kỳ 1954 – 1965 Hà Nội đã trở thành trung tâm văn nghệ lớn. Đã hình thành


một lớp văn nghệ sĩ mới và họ cùng các nhà văn nghệ lớp trước, sáng tác về hai
đề tài chính: xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất đất nước. Hà
Nội có mặt trong thơ văn của các nhà văn nghệ nổi tiếng trước cách mạng như
Tố Hữu, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài, Nguyễn Tuân… và
những người xuất hiện trong kháng chiến như Quang Dũng, Trần Lê Văn, Vũ
Cao, Lê Đạt, Hà Minh Tuân, Hồ Phương, Yên Thao… và những người mới ra mắt
bạn đọc: Ngô Quân Miện, Lữ Giang… Nhiều tác phẩm tốt song tính giáo điều đã
hạn chế phần nào sự sáng tạo.

Đến những năm 1965 – 1975, là thời kỳ văn nghệ chống Mỹ cứu nước, thời kỳ
kết hợp trữ tình và anh hùng ca. Đề tài tập trung trong xây dựng và chiến đấu,
do đó đề tài đời thường bị gác bỏ. Lại một lớp văn nghệ sĩ trẻ ra đời với những
tác phẩm giá trị. Tuy nhiên tính phiến diện, một chiều, lập trường cứng nhắc

cũng có ảnh hưởng đến thành tựu. Có thể nêu các nhà thơ viết về Hà Nội và nổi
tiếng trong thời kỳ này: Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Nguyễn Mỹ, Vũ Quần Phương…
Về văn, có Ma Văn Kháng, Đỗ Chu, Vũ Bão, Hoàng Tiến…

Một sự kiện đáng lưu ý là ở Hà Nội từ năm 1966 đã thành lập Hội Văn nghệ với
các phân hội Văn, Mỹ thuật, Sân khấu… Hội đã thu hút được đông đảo những
người sáng tác và nghiên cứu văn học nghệ thuật của thành phố. Hội đã tạo điều
kiện cho hội viên hoạt động bằng cách tổ chức các trại sáng tác, các đợt đi tham
quan thực tế, hội thảo nghiệp vụ và hàng năm có những giải thưởng cho các tác
phẩm tốt. Hội có cơ quan ngôn luận là tuần báo Người Hà Nội.



×