Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
STRESS, LO ÂU VÀ TRẦM CẢM Ở SINH VIÊN Y KHOA
Trần Kim Trang*
TÓM TẮT
Mở đầu: Stress học đường cũng có những biểu hiện tiêu cực và tác hại cho cơ thể như mọi dạng stress khác
nhưng có tác nhân, tỉ lệ, mức độ khác nhau giữa các cấp học và giữa các trường.
Mục tiêu: Khảo sát tình trạng stress, lo âu và trầm cảm ở sinh viên y khoa.
Đối tượng và phương pháp: Thiết kế cắt ngang mô tả có phân tích trên 483 sinh viên năm thứ 2 khoa y và
răng hàm mặt Đại học y dược Thành phố Hồ Chí Minh trong tháng 6/2011. Sử dụng thang đánh giá DASS -21.
Kết quả: Tỉ lệ sinh viên bị stress, trầm cảm và lo âu lần lượt là 71,4%, 28,8%, 22,4%, đa số ở mức độ nhẹ
và vừa. 52,8% sinh viên có cùng 3 dạng rối loạn trên. Không khác biệt giữa các mức độ stress, lo âu, trầm cảm
theo nguồn cư trú và giới tính, ngoại trừ trầm cảm- nhất là ở mức độ nặng và rất nặng thì nam nhiều hơn nữ.
Kết luận: Sinh viên y khoa có tỉ lệ bị stress cao. Hướng dẫn sinh viên cách đối phó, giảm áp lực từ chương
trình học và tăng cường sự hổ trợ của người thân sẽ cải thiện tình trạng này. Cần thêm nữa những nghiên cứu
khác ở các trường y nước ta.
Từ khóa: stress, lo âu, trầm cảm, sinh viên y.
ABSTRACT
STRESS, ANXIETY AND DEPRESSION AMONG MEDICAL STUDENTS
Tran Kim Trang * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 355 - 361
Background: School stress has the same negative manifestations and body harm as the various stress but the
different agents, incidence and level between the grades or the universities.
Objectives: To investigate the state of stress, anxiety and depression in medical students.
Methods: A cross – sectional survey was carried out in June 2011 on 483 second year medical and dentistry
students of University of medicine and pharmacy of HoChiMinh city by using DASS – 21 questionaire.
Results: The prevalence of stress, anxiety and depression was 71.4%, 28.8%, 22.4%, respectively; almost in
mild and moderate level. 52.8% of students had 3 states. There were no differencies between disturbance level
with gender or accommodation, except depression; severe and very severe depression was greater in male than
female subjects.
Conclusion: There was a high prevalance of stressed medical students.Training students on coping
strategies, reducing stressor-related medical training and enhancing relative supports to the students will
improve this condition. Further studies from the medical schools in our country are also required.
Keywords: stress, anxiety, depression, medical student.
stress nghề nghiệp, cũng có những biểu hiện
ĐẶT VẤN ĐỀ
tiêu cực và tác hại lên cơ thể. Tuy nhiên có sự
Áp lực của học và thi ở trường đại học góp
khác biệt về tác nhân, tỉ lệ và mức độ stress giữa
phần là tác nhân gây stress cho sinh viên, có thể
các đại học. Do đó nghiên cứu này hướng đến
được xem là một dạng của stress công việc,
sinh viên y khoa, một đối tượng vốn được nghĩ
*BM Nội – ĐH Y Dược TP.HCM
Tác giả liên lạc: TS.BS. Trần Kim Trang,
356
ĐT: 0989694263,
Email:
Chuyên Đề Nội Khoa I
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
là hạnh phúc dù đối mặt thường xuyên với
những gian nan trong học tập, nhằm có những
biện pháp giải áp cho nguồn nhân lực quý này.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Khảo sát tình trạng stress, lo âu và trầm cảm
ở sinh viên năm thứ 2 khoa y và răng hàm mặt
Đại học y dược TPHCM.
Mục tiêu chuyên biệt
Xác định tỉ lệ stress, lo âu và trầm cảm theo
thang DASS 21
Đánh giá mức độ stress, lo âu và trầm cảm
theo thang DASS 21
Khảo sát mối liên quan của stress, lo âu và
trầm cảm với các yếu tố dân số học.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Tiền cứu, cắt ngang mô tả có phân tích.
Nơi thực hiện
Tổ bộ môn Nội Bệnh viện Nguyễn Tri
Phương và Chợ Rẫy.
Thời gian nghiên cứu
Tháng 6/2011.
Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu Y học
Phương pháp chọn mẫu
Thuận tiện liên tiếp không xác suất.
Tiêu chuẩn lọai trừ
Sinh viên y năm thứ 2 hệ chuyên tu, < 17
tuổi(theo yêu cầu sử dụng của thang DASS).
Phương pháp thu thập số liệu
Sinh viên đọc hướng dẫn trên phiếu thu
thập và tự điền các dữ liệu vào bảng thu thập số
liệu. Bản dịch tiếng Việt thang DASS của Viện
sức khỏe tâm thần quốc gia.
Liệt kê và định nghĩa biến số
Giới: biến định tính nhị giá (nam & nữ)
Nguồn cư trú: biến định tính nhị giá
(thường trú tại TPHCM, tạm trú do hộ khẩu tỉnh
khác)
- Mức độ stress, lo âu và trầm cảm theo
thang DASS 21: biến định lượng sau đó mã hóa
thành biến định tính, mỗi dạng rối loạn có 5 giá
trị như bảng sau:
Mức độ
Bình thường
Nhẹ
Vừa
Nặng
Rất nặng
Stress
0 - 14
15 - 18
19 - 25
26 - 33
≥34
Lo âu
0-7
8-9
10 - 14
15 - 19
≥20
Trầm cảm
0-9
10 - 13
14 - 20
21 - 27
≥28
Phương pháp phân tích số liệu
Sinh viên năm thứ 2 thực tập tại Bộ môn Nội
ĐHYDTPHCM.
Nhập liệu bằng Excel.
Cở mẫu
Thống kê mô tả và thống kê phân tích.
Theo công thức tính tỉ lệ lưu hành của 1
quần thể: N= Z21- α/2 P(1-P)/d2
Phân tích đơn biến:
N: cỡ mẫu tối thiểu cần điều tra trên sinh
viên = 59
α: xác suất sai lầm lọai 1, chọn α = 0,05 thì Z1α/2 = Z0,975: trị số từ phân phối chuẩn = 1,96.
d: sai số cho phép (độ chính xác mong muốn
của ước lượng)= 0,05
p: 0,96(theo nghiên cứu “Mức độ biểu hiện
stress của sinh viên trường Đại học sư phạm –
Đại học Đà Nẳng” của Ngô Hoàng Anh và cộng
sự năm 2010, có 96% trên 200 sinh viên được
khảo sát có biểu hiện stress)(5).
Chuyên Đề Nội Khoa I
Xử lý số liệu bằng chương trình Stata 10.0
Biến số định lượng trình bày dạng trung
bình +/- độ lệch chuẩn, kiểm định sự khác biệt
thống kê bằng T test.
Biến số định tính trình bày dạng tỷ lệ %,
kiểm định sự khác biệt thống kê bằng chi bình
phương hay Fisher test khi > 20% tần số mong
đợi trong bảng < 5.
Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p< 0,05
- Phân tích hàm đa biến bằng phương pháp
tương quan với 3 biến ngẫu nhiên (stress, lo
357
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
âu, trầm cảm), không đòi hỏimối quan hệ là
phụ thuộc hay độclập.
Vấn đề y đức
Nghiên cứu không ảnh hưởng thời gian, tài
chính, sức khỏe, và riêng tư của sinh viên.
Thông tin của phiếu khảo sát được giữ bí
mật.
KẾT QUẢ
483 sinh viên được khảo sát, nam: 277
(57,3%), nữ 206 (42,7%), tuổi trung bình 20,33
±0,84 (19-26).
Bảng 1: Tỉ lệ và mức độ rối loạn
Mức độ Stress n(%) Lo âu n(%)
B/thường 138 (28,6)
344 (71,2)
Rối loạn:
245 (71,4)
139(28,8)
Nhẹ
135 (28,0)
75 (15,5)
Vừa
137 (28,4)
47 (9,7)
Nặng
46 (9,5)
12 (2,5)
Rất nặng
27 (5,6)
5 (1,0)
Tổng
483(100)
483(100)
Bảng 3: Tương quan giữa 3 dạng rối loạn
Biến số
Trầm cảm
Lo âu
Stress
Trầm cảm
1
0,428**
0,500 **
Lo âu
Stress
1
0,459**
1
** p < 0,001, tương quan chặt giữa các rối loạn(2 đuôi)
Bảng 4: Điểm trung bình của các rối loạn
Điểm
Chung
Giới:
Nam
Nữ
Stress
Lo âu
Trầm cảm
13,4 ± 7,2 (0- 7,2 ± 5,7 (0- 6,2 ± 6,2 (040)
36)
38)
13,7 ± 7,4
12,9 ± 6,8
P= 0,25
,3 ± 5,7
7,07±5,7
P=0,63
6,5 ± 6,9
5,7 ± 5,1
P=0,18
13,84
13,21
P=0,35
7,86
6,77
P=0,042
6,47
6,07
P=0,50
Nguồn cư trú
Trầm cảm n(%)
375 (77,6)
108 (22,4)
54 (11,2)
39 (8,1)
4 (0,8)
11 (2,3)
483(100)
Phép kiểm chi bình phương cho kết quả:
P value stress < 0,0001 stress mức độ nhẹ và
vừa cũng như sinh viên không stress chiếm tỉ lệ
cao hơn mức độ stress nặng và rất nặng.
P value lo âu < 0,0001 sinh viên không lo âu
hay lo âu ít chiếm tỉ lệ cao hơn
P value trầm cảm < 0,0001 tương tự, sinh
viên không trầm cảm hay trầm cảm ít chiếm tỉ lệ
cao hơn khác nhau có ý nghĩa thống kê.
So sánh giữa từng cặp bằng phép kiểm chi
bình phương:
TPHCM
Tỉnh
Mẫu tương đối lớn, nên không tính trung vị
và so sánh trung vị, các cận cũng không chênh
lệch nhiều.
Chỉ riêng tình trạng lo âu mới có sự khác
biệt giá trị trung bình theo nơi cư trú(ở TPHCM
có trị cao hơn).
Bảng 5: Liên quan stress với giới tính
Mức độ stress
theo giới
Bình thường
Stress:
Nhẹ
Vừa
Nặng
Rất nặng
Tổng
Nam:
n (%)
79 (57,2)
198(57,4%)
74(54,8)
76(55,5)
30 (65,2)
18 (66,7)
277 (57,3)
Nữ:
n (%)
59 (42,8)
147(42,6)
61(45,2)
61(44,5)
16(34,8)
9(33,3)
206(42,7)
Tổng: n(%)
138 (100)
345(100)
135 (100)
137 (100)
46 (100)
27 (100)
483 (100)
Stress và Lo âu: P < 0,001
P=0,614, không khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các
mức độ stress với giới tính.
Stress và Trầm cảm: P<0,001
Bảng 6: Liên quan trầm cảm với giới tính
Lo âu và trầm cảm: P=0,019
Tỉ lệ lo âu và trầm cảm tương đương nhau
nhưng thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với tỉ lệ
sinh viên bị stress.
Bảng 2: Rối loạn kết hợp
Stress- Lo âu
Stress – trầm cảm
Lo âu – trầm cảm
Stress – lo âu – trầm cảm
358
243(50,3%)
226(46,8%)
102(21,1%)
255(52,8%)
Mức độ trầm cảm
theo giới
Bình thường
Trầm cảm:
Nhẹ
Vừa
Nặng
Rất nặng
Tổng
Nam:
n (%)
216 (57,6)
61(56,5)
23 (42,6)
27 (69,2)
1 (25,0)
10 (57,3)
277(57,3)
Nữ:
Tổng:
n(%)
n (%)
159 (42,4) 375(100)
47(43,5) 108(100)
31 (57,4) 54 (100)
12 (30,8) 39 (100)
3 (75,0)
4 (100)
1 (9,1)
11 (100)
206(42,7) 483(100)
P=0,008, sinh viên nam trầm cảm nặng hơn
sinh viên nữ có ý nghĩa thống kê. Nhất là ở mức
Chuyên Đề Nội Khoa I
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
độ nặng và rất nặng với p = 0,035
BÀN LUẬN
Bảng 7: Liên quan rối loạn lo âu với giới tính
Mức lo âu
theo giới
Nữ:
n (%)
147(42,7)
Tổng: n(%)
Bình thường
Nam:
n (%)
197(57,3)
Lo âu:
Nhẹ
Vừa
Nặng
Rất nặng
Tổng
80(57,5)
43 (57,3)
26 (55,3)
8 (66,7)
3 (60,0)
277 (57,3)
59(42,4)
32 (42,7)
21 (44,7)
4 (33,3)
2 (40,0)
206 (42,7)
139(100)
75 (100)
47 (100)
12 (100)
5 (100)
483(100)
344(100)
P=0,97, không khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các mức
độ lo âu theo giới tính.
Bảng 8: Liên quan stress với nguồn cư trú
Mức độ stress theo TPHCM: n
nguồn cư trú
(%)
Bình thường
52 (38,2)
Tỉnh:
n (%)
84(61,8)
Stress:Nhẹ
Vừa
Nặng
Rất nặng
Tổng
46 (34,8)
63 (45,7)
19(41,3)
11 (40,7)
191 (40,1)
86 (65,2)
72 (53,3)
27 (58,7)
16 (59,3)
285(59,9)
Tổng:
n(%)
136(100)
132(100)
135(100)
46 (100)
27 (100)
476(100)
P=0,38, không khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các mức
độ stress theo nguồn cư trú.
Bảng 9: Liên quan trầm cảm với nguồn cư trú
Mức trầm cảm theo
nguồn cư trú
TPHCM:
n (%)
Bình thường
Trầm cảm:
Nhẹ
Vừa
Nặng
Rất nặng
Tổng
145(39,3)
Tỉnh khác
n (%)
224(60,7)
369(100)
64(59,8)
21 (39,6)
22 (56,4)
1 (25,0)
2 (18,2)
191(40,1)
43(40,2)
32 (60,4)
17 (43,6)
3 (75,0)
9 (81,8)
285 (59,9)
107(100)
53(100)
39(100)
4 (100)
11(100)
476(100)
Tổng:
n(%)
P=0,136, không khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các mức
độ trầm cảm theo nguồn cư trú.
Bảng 10: Liên quan lo âu với nguồn cư trú
Mức độ lo âu theo TPHCM: n Tỉnh khác: n
nguồn cư trú
(%)
(%)
Bình thường
132 (38,8)
208 61,2)
Lo âu:
59(43,4)
77(56,6)
Nhẹ
33 (45,2)
40 (54,8)
Vừa
18 (39,1)
28 (60,9)
Nặng
5 (41,7)
7 (58,3)
Rất nặng
3 (60)
2 (40)
Tổng
191 (40,1)
285(59,9)
Tổng:
n(%)
340(100)
136(100)
73 (100)
46 (100)
12 (100)
5 (100)
476(100)
p=0,75, không khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các mức
độ lo âu theo nguồn cư trú.
Chuyên Đề Nội Khoa I
Nghiên cứu Y học
Phương pháp nghiên cứu
Chọn sinh viên năm thứ 2 vì vào năm học
này, sinh viên nhiều khả năng phải đối mặt với
stress do chưa kịp thích ứng với việc chuyển
tiếp chương trình học từ khoa học cơ bản sang y
cơ sở và tiếp cận với lâm sàng.
Không chọn sinh viên hệ chuyên tu vì đối
tượng này đã có thời gian học và làm việc
chuyên ngành trước đó nên nhiều khả năng
thích ứng tốt hơn. Ngoài ra sinh viên chuyên tu
có tuổi đời lớn hơn và đa số đã lập gia đình nên
mẫu sẽ không tương đồng.
Chọn nghiên cứu vào tháng 6 vì đây là cuối
năm học, đã có sự tích lũy, cộng dồn các gánh
nặng áp lực qua 10 tháng học tập, và cũng là
thời điểm sinh viên phải trải qua rất nhiều kỳ thi
căng thẳng kết thúc chương trình
Chọn thang DASS 21 do đáp ứng được
yêu cầu của nhà nghiên cứu và cả nhà lâm
sàng khi đo lường tình trạng hiện tại cũng
như biến đổi theo thời gian của 3 khiá cạnh
stress, lo âu, trầm cảm. Sự phân biệt được 3
tình trạng liên quan này giúp các nhà nghiên
cứu nhận định được tính chất, nguyên nhân
và cơ chế của rối loạn cảm xúc. Bên cạnh đó,
thang đo này thích hợp để sàng lọc ở người
bình thường và có thể sử dụng bởi các bác sĩ
không thuộc chuyên khoa tâm thần.
Tỉ lệ và mức độ rối loạn
Các công bố trong và ngoài nước, trong hay
ngoài ngành y đều báo động tỉ lệ sinh viên
stress khá cao.
Trường đại học California Los Angeles
(UCLA) đã khảo sát 200.000 sinh viên năm đầu
trên gần 300 trường đại học Mỹ trong năm 2010
và kết quả là chỉ 51,9% sinh viên nhận thấy tình
trạng sức khỏe cảm xúc của họ tốt hoặc trên
trung bình. chứng tỏ áp lực của tài chính và học
tập đang khiến những sinh viên năm đầu ở
nước này đang trải qua stress ở mức độ cao kỷ
lục từ trước tới nay(9).
359
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Nghiên cứu Y học
Tại nước ta, một nghiên cứu vào năm 2010
trên 200 sinh viên đang theo học tại trường
Đại học sư phạm – Đại học Đà Nẳng cho thấy
tỷ lệ sinh viên có những biểu hiện của stress
chiếm 96%. Các tác giả lý giải do hầu hết là
sinh viên ngoại tỉnh, có cuộc sống xa nhà,
phải tự chăm lo cho sức khỏe và cuộc sống
của chính bản thân mình(5).
Theo một khảo sát năm 2008 do một số
giảng viên tâm lý học Trường Sĩ quan Lục quân
2 thực hiện trên 200 sinh viên năm 1 của Trường
đại học Sư phạm TP.HCM, Đại học Kinh tế quốc
dân, Cao đẳng Sư phạm Đồng Nai, có 54% sinh
viên cho biết cảm thấy khó khăn trong sinh hoạt
ở môi trường mới, 60% thừa nhận nội dung học
tập quá nhiều dẫn đến chán học, lo lắng, khó
chịu, 22% bị mất ngủ thường xuyên(8).
Bảng 11: Khảo sát từ trường y một số nước khác
Tác giả
Muhamad Saiful B. Y.
(4)
(Mã Lai)
(3)
G.M. Koochaki (Iran)
Năm
2009
N
1058
Tỉ lệ stress
72%
Kết luận thêm
Tỉ lệ stress liên quan với năm học, không liên quan giới tính,
tôn giáo, hoạt động ngoại khoá, chất lượng đầu vào
2009
222
61,3%
Pratibha M. Vaidya
(7)
(Ấn Độ)
2006
109
Chúng tôi
2011
483
51,3% stress
66% lo âu
39,4%trầm cảm
71,4% stress
28,8% lo âu
22,4% trầm cảm
Không khác biệt mức độ stress giữa năm học tiền lâm sàng
hay lâm sàng, giới tính, nhưng người đã lập gia đình có mức
độ stress thấp hơn người độc thân
Việc học là tác nhân gây stress nhất so với tình trạng vật chất,
cảm xúc, xã hội
Đáng lưu ý khi nghiên cứu của chúng tôi có
52,8% sinh viên bị kết hợp 3 dạng rối loạn stress
– lo âu – trầm cảm, khiến cho việc học, sức khoẻ
và quan hệ xã hội bị ảnh hưởng là điều không
thể tránh khỏi.
Chúng ta thường chỉ nghĩ đến stress với
những tác động tiêu cực của nó. Trong khi Giáo
sư Han Reul, một nhà thần kinh học tại Đại học
Bristol ở Anh, cho biết rằng học bài trong khi
stress có thể giúp học sinh tăng khả năng học.
Do những hormone stress như cortisol và
adrenalin xuất hiện để tăng cường một cơ chế
“tái lập trình” ADN trong não, tạo ra thay đổi
bên trong tế bào não, các tế bào thần kinh lớn
hơn và tạo thành mạng lưới liên lạc lớn hơn nên
nó có thể tăng hay giảm sự thể hiện của một số
gene nhất định, thay đổi hoạt động của các gene
neuron thần kinh, và do đó thúc đẩy khả năng
học, giúp trí nhớ lưu trữ hiệu quả hơn. Tuy
nhiên, bác sĩ Reul cảnh báo rằng dù một số loại
stress có thể tốt cho việc hình thành trí nhớ,
nhưng quá nhiều stress có thể có tác dụng
ngược lại(2).
360
Đa số ở mức độ nhẹ và vừa. Không khác biệt giữa các mức
độ stress, lo âu, trầm cảm theo nguồn cư trú và giới tính,
ngoại trừ trầm cảm- nhất là ở mức độ nặng và rất nặng thì
nam nhiều hơn nữ.
Yếu tố liên quan
UCLA ghi nhận nữ sinh viên bị stress nhiều
hơn nam, họ thường xuyên cảm thấy “quá tải vì
tất cả những việc mình phải làm”, sức khoẻ cảm
xúc chỉ 45,9% so với 59,1% của nam sinh viên(9).
Universiti Sains Malaysia cũng có 62,3%
trong tổng số 761 sinh viên bị stress là nữ nhưng
giới tính không là yếu tố tiên báo stress(4).
Trái lại, tác giả Bùi Văn Vân qua đánh giá
biểu hiện stress của sinh viên Đại học Đà Nẳng
cho thấy nam sinh viên bị stress ở mức độ “căng
thẳng” và “rất căng thẳng” nhiều hơn nữ(1).
Bảng 11 khi tham chiếu với các khảo sát của
một số trường y ở nước ngoài cho thấy có vẻ
như việc học mới là tác nhân chính liên quan
đến stress, nhất là khi chương trình y khoa có
nhiều nét đặc thù so với đại học ngành khác
KẾT LUẬN
Cũng như các cấp học khác và đại học các
ngành khác, sinh viên y khoa có tỉ lệ stress cao
đòi hỏi có những biện pháp từ nhà trường, xã
hội, gia đình và tự thân sinh viên để giảm thiểu
Chuyên Đề Nội Khoa I
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
tình trạng này. Đã có nhiều nghiên cứu ở nước
ngoài về stress ở sinh viên y khoa, còn nghiên
cứu của chúng tôi chỉ là bước đầu ghi nhận, cần
Nghiên cứu Y học
được khảo sát sâu và rộng hơn tại các trường y
nước ta.
PHỤ LỤC: MẪU THU THẬP SỐ LIỆU
Thang đánh giá Lo âu - Trầm cảm - Stress (DASS 21)
Họ tên:.............................Tuổi:......Giới:.......SV lớp:..........tổ:...........
Địa chỉ:............................. Điện thoại:.................... Ngày khảo sát:..........
Hãy đọc mỗi câu và khoanh tròn vào các số 0, 1, 2 và 3 ứng với tình trạng mà bạn cảm thấy trong suốt MỘT
TUẦN QUA. Không có câu trả lời đúng hay sai. Và đừng dừng lại quá lâu ở bất kỳ câu nào.
Mức độ đánh giá: 0 Không đúng với tôi chút nào cả
1 Đúng với tôi phần nào, hoặc thỉnh thoảng mới đúng
2 Đúng với tôi phần nhiều, hoặc phần lớn thời gian là đú
3 Hoàn toàn đúng với tôi, hoặc hầu hết thời gian là đúng
MỘT TUẦN QUA:
S
1.
Tôi thấy khó mà thoải mái được
0123
A
2.
Tôi bị khô miệng
0123
D
3.
Tôi dường như chẳng có chút cảm xúc tích cực nào
0123
A
4.
Tôi bị rối loạn nhịp thở (thở gấp, khó thở dù chẳng làm việc gì nặng)
0123
D
5.
Tôi thấy khó bắt tay vào công việc
0123
S
6.
Tôi có xu hướng phản ứng thái quá với mọi tình huống
0123
A
7.
Tôi bị ra mồ hôi (chẳng hạn như mồ hôi tay...)
0123
S
8.
Tôi thấy mình đang suy nghĩ quá nhiều
0123
A
9.
Tôi lo lắng về những tình huống có thể làm tôi hoảng sợ hoặc biến tôi thành trò cười
0123
D
10.
Tôi thấy mình chẳng có gì để mong đợi cả
0123
S
11.
Tôi thấy bản thân dễ bị kích động
0123
S
12.
Tôi thấy khó thư giãn được
0123
D
13.
Tôi cảm thấy chán nản, thất vọng
0123
S
14.
Tôi không chấp nhận được việc có cái gì đó xen vào cản trở việc tôi đang làm
0123
A
15.
Tôi thấy mình gần như hoảng loạn
0123
D
16.
Tôi không thấy hăng hái với bất kỳ việc gì nữa
0123
D
17.
Tôi cảm thấy mình chẳng đáng làm người
0123
S
18.
Tôi thấy mình khá dễ phật ý, tự ái
0123
A
19.
Tôi nghe thấy rõ tiếng nhịp tim dù chẳng làm việc gì cả (ví dụ, tiếng nhịp tim tăng, tiếng
tim loạn nhịp)
0123
A
20.
Tôi hay sợ vô cớ
0123
D
21.
Tôi thấy cuộc sống vô nghĩa
0123
Điểm của Trầm cảm, Lo âu và Stress: tính bằng cách cộng điểm các câu cùng đề mục, rồi nhân hệ số
2.
Tổng điểm sau nhân hệ số 2: D
Chuyên Đề Nội Khoa I
A
S
361
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
362
Bùi Văn Vân (2009). Biểu hiện stress của sinh viên Đại học Đà
Nẳng.Tạp chí khoa học và công nghệ, Đại học Đà Nẳng, số
6(35), t. 126 – 132
Johannes M.H.M. Reul. (2007). Epigenetic mechanisms in stressrelated memory formation. Psychoneuroendocrinology, 32, pp
S21–S25
Koochaki G.M (2011). Prevalence of stress among Iranian
medical students: a questionnaire survey. Eastern Mediterranean
Health Journal, vol. 17 No. 7, pp 593 – 597
Muhamad SBY (2010). Prevalence and Sources of Stress among
Universiti Sains Malaysia Medical Students. Malaysian J Med Sci.
Jan-Mar; 17(1)pp: 30-37
Ngô Hoàng Anh (2010). Mức độ biểu hiện stress của sinh viên
trường ĐH sư phạm – ĐH Đà Nẳng. Tuyển tập Báo cáo Hội
nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học lần thứ 7 Đại học Đà Nẵng
6.
7.
8.
9.
Phychology foundation of Autralia (2010). Overview of the
DASS and its uses. dass/
Pratibha MV (2007). Depression, anxiety and stress in
undergraduate medical students and its co-relation with their
academic performance. The Indian Journal of Occupational
Therapy: Vol. XXXIX: No. 1. pp 7-10
Nguyễn Minh Thức (2010). Giảm stress cho tân sinh viên. Đại
học Kỹ thuật công nghệ TPHCM. />phongctsv/index.php/component/content/article/38-goc-sinhvien/256-gim-stress-cho-tan-sinh-vien.html
UCLA news (2011). Stress Increasing Among Incoming
College Freshmen. />news/press-clips/stress-increasing-among-incoming-collegefreshmen.
Chuyên Đề Nội Khoa I