Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân là quan điểm tư tưởng nhất quán của chủ tịch hồ chí minh”,

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.55 KB, 29 trang )

PHỤ LỤC
Trang
LỜI NĨI ĐẦU……………………………………………………………………….3
NỘI DUNG…………………………………………………………………………...4
I, CƠ SỞ VÀ Q TRÌNH HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ
NƯỚC……………………………………………………………………….………..4
1. Cơ sở hình thành……………………………………………………….….4
2. Quá trình hình thành……………………………………………………...5
II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC…7
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước của dân, do dân, vì dân……..7
1.1 Nhà nước của dân………………………………………………….8
1.2 Nhà nước do dân…………………………………………………...9
1.3 Nhà nước vì dân……………………………………………………9
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa bản chất của giai cấp cơng
nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của nhà nước……………………..............10
2.1 Về Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước…………………..10
2.2 Bản chất gia cấp công nhân thống nhất với tính nhân dân, tính dân
tộc của nhà nước………………………………………………………………12
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý
mạnh mẽ……………………………………………………………………….………13
3.1 Xây dựng một nhà nước hợp pháp, hợp hiến…………………..………….14
3.2 Hoạt động quản lý nhà nước bằng Hiến pháp, pháp luật và chú trọng đưa
pháp luật vào cuộc sống…………………………………………………….…………15
3.3 Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức đủ đức và tài......................................16
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt
động có hiệu quả…………………………………………………………..………….19
4.1 Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức……….….19

1



4.2 Kiên quyết chống ba thứ giặc “giặc nội xâm” là tham ơ, lãng phí, quan
liêu……………………………………………………………………………….……20
III, VẬN DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA……………………………….……………….…..22
1. Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm
bảo thật tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân……………………………...…..23
2. Cải cách và kiện tồn bộ máy hành chính nhà nước, xây dựng một nền
hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh……………………………………...24
3. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước; gắn liền xây dựng,
chỉnh đốn Đảng với cải cách bộ máy hành chính……………………….………...26
KẾT LUẬN…………………………………………………………..………28

2


LỜI NÓI ĐẦU
Khát vọng cháy bỏng trong cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh
là giành độc lập cho dân tộc, đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân. "Tơi chỉ có
một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc
lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được
học hành". Khát vọng và lý tưởng ấy đã thôi thúc, quán xuyến mọi suy nghĩ, hành
động trong suốt cuộc đời cách mạng của Người.
Trong Tuyên ngôn Độc lập đọc trước quốc dân đồng bào ngày 2-9-1945 tại
Quảng trường Ba Đình, Bác Hồ đã chỉ rõ: “Dân ta đã đánh đổ xiềng xích thực dân
gần 100 năm để xây dựng nên Nhà nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế
độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ cộng hịa”
Chính vì vậy mà “xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì
dân là quan điểm tư tưởng nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, là kim chỉ
nam định hướng cho tồn bộ q trình tổ chức, xây dựng và hoạt động của Nhà
nước ta. Và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do

dân, vì dân là bước phát triển mới và sự vận dụng sáng tạo của chủ nghĩa Mác Lênin kết hợp chủ nghĩa yêu nước, truyền thống văn hóa Việt Nam, tinh hoa văn
hóa phương Đơng và phương Tây

3


NỘI DUNG
I, CƠ SỞ VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ NHÀ NƯỚC
1. Cơ sở hình thành
Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, cha ơng ta đã tích lũy
được biết bao kinh nghiệm quý báu về xây dựng nhà nước và được phản ánh trong
các bộ sử lớn của dân tộc như Đại Việt sử ký tồn thư, Lịch triều hiến chượng loại
chí…, trong những bộ luật nổi tiếng như Bộ luật Hồng Đức(đời Lê), Quốc triều
hình luật (đời Trần)…mà giá trị của nó có thể sánh ngang với các bộ luật nổi tiếng
ở phương Đơng, trong đó có những tư tưởng cịn được đề cập đến sớm hơn cả
phương Tây, như vấn đề bình đẳng đối với phụ nữ: cho phép ly hơn, có quyền thừa
kế tài sản, cơng nhận cơng lao chung của vợ chồng trong vấn đề tài sản, cho phép
nhận con ni,…
Những yếu tố tích cực của nhà nước thân dân thời kỳ phong kiến hưng thịnh
trong lịch sử dân tộc cùng với hình ảnh về nhà nước “vua Nghiêu, vua Thuấn”,
“nước lấy dân làm gốc” tiếp thu được ở Nho giáo…là những hành trang đầu tiên
Hồ Chí Minh mang theo trên con đường cứu nước và tìm kiếm một mơ hình nhà
nước tiến bộ cho đất nước sau khi giành được độc lập.

Năm 1919, nhân danh

một nhóm người Việt Nam yêu nước tại Pháp, dưới tên Nguyễn Ái Quốc, Người đã
gửi đến Hội nghị Véc xây bản “yêu sách của nhân dân An Nam” đòi các quyền tự
do tối thiểu cho dân tộc mình.

Trong lịch sử chính trị và pháp lý của nước ta, đây là văn kiện pháp lý đầu
tiên đặt vấn đề kết hợp khăng khít quyền tự quyết của các dân tộc với các quyền tự
do, dân chủ của nhân dân; tức là kết hợp chặt chẽ quyền dân tộc và quyền con
người. Đây cũng là lần đầu tiên một người Việt Nam yêu nước, nhân một hội nghị
4


quốc tế, đã dũng cảm đứng lên đoạt lại ngọn cờ về quyền dân tộc và quyền con
người trong tay thực dân, đế quốc, biến những chiêu bài bịp bợp của chúng thành
những yêu sách chính trị và pháo lý chính đáng, buộc chúng phải thực hiện những
quyền dân tộc và dân chủ mà chúng đã rêu rao.
Trong cuộc hành trình tìm đường cứu nước, Người đã khảo sát mơ hình nhà
nước tư sản Mỹ, Pháp và Người cho rằng đố là những cuộc cách mạng không đến
nơi, và ở đó chính quyền vẫn ở trong tay một số ít người – một xã hội bất bình
đẳng. Người đã phát hiện ra rằng, sau những lời hoa mỹ về “quyền bình đẳng,
quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc” của Tun ngơn độc lập
1776, là sự bất bình đẳng, nghèo đói, nạn phân biệt chủng tộc và biết bao sự tàn
bạo, bất công khác, nhất là đối với người da đen. Người coi đó là một cuộc cách
mạng chưa đến nơi, vì cách mạng đã thành cơng hơn 150 năm mà công nông vân
cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính cách mạng lần thứ hai.
Khi tới Liên Xơ, Người đã tìm hiểu mơ hình nhà nước Xơ viết – kết quả của
cuộc cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 “ cuộc cách mạng Nga thành công đến
nơi”và Người nhận thấy nhà nước đó “Phát đất ruộng cho dân cày, giao công
xưởng cho thợ thuyền, …ra sức tổ chức kinh tế mới để thực hành chủ nghĩa thế
giới đại đồng”. Mơ hình nhà nước đó là một gợi ý cho Người về một kiểu nhà nước
sẽ được xây dựng ở Việt Nam trong tương lai.
2. Quá trình hình thành
Qua cuộc hành trình bơn ba tìm đường cứu nước, từ những cuộc nghiên cứu,
khảo sát khắp các nước, Hồ Chí Minh từng bước hình thành và phát triển tư tưởng
của mình về mơ hình nhà nước sẽ được xây dựng ở Việt Nam trong tương lai.

Năm 1930, trong Chính cương vắn tắt, lần đầu tiên Người nêu nên mục tiêu
“dựng ra chính quyền cơng nơng binh”

5


Đến năm 1941, Hồ Chí Minh về nước, trực tiếp lãnh đạo cách mạng và đã
chủ trì Hội nghị Trung ương 8(tháng 5/1941), hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo
chiến lược và sách lược, đề ra Chương trình Việt Minh. Về vấn đề chính quyền. Hội
nghị chủ trương “khơng nên nói cơng nơng liên hợp và lập chính quyền xơ viết, mà
phải nói tồn thể nhân dân liên hiệp và lập chính phủ cơng hịa”, chương trình Việt
Minh cũng đã ghi rõ “ Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật sẽ thành lập một
chính phủ nhân dân của Việt Nam Dân chủ cộng hòa lấy lá cờ đỏ ngơi sao vàng
năm cánh làm lá cờ tồn quốc. Chính phủ ấy do quốc gia đại hội cử ra”.
Khi thời cơ giải phóng dân tộc tới gần, trong thư gửi đồng bào tồn quốc
tháng 10/1944, Hồ Chí Minh cũng nói rõ: Trước hết cần có một chính phủ đại biểu
cho sự chân thành đồn kết và hành động nhất trí của toàn thể quốc dân, gồm tất cả
các đảng phái cách mệnh, các đoàn thể ái quốc trong nước bầu cử ra. “Một cơ cấu
như thế mới đủ lực lượng và oai tín, trong thì lãnh đạo cơng việc cứu quốc, kiến
quốc ngồi thì giao thiệp với các hữu bang”….
Sang đến năm 1945, phong trào phát triển mạnh, căn cứ địa cách mạng được
mở rộng, hình thành một vùng rộng lớn gồm 6 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn,
Hà Giang, Thái Nguyên, Tuyên Quang và một số vùng ngoại vi thuộc các tỉnh Bắc
Giang, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Yên Bái…
Trước tình hình đó, Hồ Chí Minh đã chỉ thị thành lập Khu giải phóng, cử ra
Ủy ban chi ủy lâm thời, thực hiện chức năng của chính quyền cách mạng. Tại các
địa phương trong khu giải phóng, các ủy ban nhân dân cách mạng cũng được thành
lập, do nhân dân cử ra, để thi hành chính sách của Việt Minh. Khu giải phóng là
hình ảnh “nước Việt Ma mới phôi thai”, “các ủy ban nhân dân cách mạng vừa lãnh
đạo nhân dân chuẩn bị tổng khởi nghĩa, vừa tập cho nhân dân cầm chính quyền”.

Tiếp nữa là, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào đã đi đến quyết
định lịch sử là phát động tổng khởi nghĩa, thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng Việt

6


Nam, ra mắt Quốc dân đại hội, làm chức năng của Chính phủ lâm thời ngay sau
cách mạng Tháng Tám thắng lợi.
Sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hịa được thành lập, trong gần ¼
thế kỷ, trên cương vị là Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam – nhà nước dân nhân
dân đầu tiên ở châu Á, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có cơng đầu trong việc đặt nền
móng xây dựng một nhà nước kiểu mới trong lịch sử dân tộc – nhà nước của dân,
do dân, vì dân.
Những nghiên cứu, khảo sát cùng thực tiến tổ chức hoạt động của Chủ tịch
Hồ Chí Minh chính là cơ sở góp phần hình thành nên tư tưởng của Người về Nhà
nước.
II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ
NƯỚC
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước của dân, do dân, vì dân
Ngay từ năm 1927, trong tác phẩm Đường kách mệnh, Hồ Chí Minh đã chỉ
rõ: “Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh thì làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách
mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người.
Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”. Và sau khi
nước ta giành được độc lập, Người khẳng định “Nước ta là nước dân chủ. Bao
nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân…Chính quyền từ xã đến
Chính phủ trung ương đều do dân cử ra. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều
ở nơi dân”. Đó là điểm khác nhau về bản chất giữa nhà nước của nhân dân với các
nhà nước của giai cấp bóc lột đã từng tồn tại trong lịch sử.
Tư tưởng nhất quán của Hồ Chí Minh là xây dựng nhà nước của dân, do dân,
vì dân, mọi quyền lực của Nhà nước, trong xã hội đều là của dân. Đó là quan điểm

cơ bản nhất của Hồ Chí Minh về nhà nước. Hiến pháp 1946 đã ghi: Tất cả quyền
bính trong nước đều là của tồn thể nhân dân. Nhân dân có quyền làm chủ kinh tế,
7


chính trị, văn hóa. Nhân dân bầu đại biểu của mình họp thành quốc hội – cơ quan
thể hiện quyền lực cao nhất của nhân dân. Nhân dân có quyền ứng cử và đề cử
người vào quốc hội và các cơ quan nhà nước. Nhân dân có quyền kiểm sốt, giám
sát đại biểu quốc hội. Nhân dân cơ quyền bãi miễn những đại biểu quốc hội và đại
biểu hội đồng nhân dân các cấp nếu đại biểu đó khơng làm tròn nhiệm vụ mà nhân
dân ủy nhiệm.
1.1 Nhà nước của dân
Trong Điều 1 Hiến pháp năm 1946 do Hồ Chí Minh làm trưởng ban soạn
thảo đã khẳng định rõ rằng: “Tất cả quyền bính trong nước là của tồn thể nhân dân
Việt Nam, khơng phan biệt nịi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Hay
trong Điều 32 của Hiến pháp đó cũng quy định “Những việc quan hệ đến vận mệnh
quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phán quyết”. Thực chất đây chính là chế độ trưng cầu
dân ý, một hình thức dân chủ trực tiếp được đề ra khá sớm ở nước ta.
Sau khi giành được chính quyền, nhân dân ta đã ủy quyền cho các đại diện
do minh bầu ra, đồng thời “nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu quốc hội và đại
biểu hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín
nhiệm của nhân dân”.
Trong nhà nước của dân thì dân là chủ, người dân được hưởng mọi quyền
dân chủ, nghĩa là có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật khơng cấm và có nghĩa
vụ tuân theo pháp luật. Nhà nước của dân phải bằng mọi nỗ lực, hình thành được
các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của người dân. Cũng trên ý nghĩa
đó, các vị đại diện của dân, do dân cử ra, chỉ là thừa ủy quyền của dân, chỉ là “công
bộc” của dân theo ý nghĩa đúng đắn của từ này.
Song đã có những “vị đại diện” đã nhầm lẫn sự ủy nhiệm đó với quyền lực
cá nhân, sinh ra lộng quyền, cửa quyền…Chính cơn khát cửa quyền đã đẻ ra biết

bao chuyện đau lòng mà Bác Hồ từng phê phán: “Cậy thế mình ở trong ban này,
8


ban nọ rồi ngan tàng, phóng túng muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, không
nghĩ đến dân. Quên rằng dân bầu mình ra để làm việc cho dân, chứ không phải để
cậy thế với dân”.
1.2 Nhà nước do dân.
Là nhà nước do dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của mình: Nhà nước đó
do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để nhà nước chi tiêu, hoạt động; Nhà nước đó lại
do dân phê bình, xay dựng giúp đỡ. Do vậy, Người yêu cầu: “Tất cả các cơ quan
nhà nước phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và
chịu sự kiểm sốt của nhân dân”. “Hễ chính phủ nào có hại cho dân chúng, thì dân
chúng phải đạp đổ Chính phủ ấy đi, và gây nên chính phủ khác”. Điều đó có nghĩa
là khi các cơ quan đó khơng đáp ứng được lợi ích và nguyện vọng của nhân dân thì
nhân dân sẽ bãi miễn nó.
1.3 Nhà nước vì dân
Nhà nước vì dân là một nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm
mục tiêu, tất cả đều vì lợi ích của nhân dân, ngồi ra khơng có lợi ích nào khác.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chỉ có một nhà nước thực sự của dân, do dân tổ chức,
xây dựng và kiểm soát trên thực tế mới có thể là nhà nước vì dân được. Đó là nhà
nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, khơng có đặc quyền đặc lợi,
thực sự trong sạch, cần, kiêm, liêm chính. Trong nhà nước đó, cán bộ từ Chủ tịch
trở xuống đều là công bộc của nhân dân. Vì vậy: “Việc gì có lợi cho dân, ta phải
hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”. Dân là gốc của nước. Hồ
Chí Minh ln ln tâm niệm: Phải làm cho dân có mặc, phải làm cho dân có chỗ
ở, phải làm cho dân được học hành.
Nhiều nhà nước của giai cấp thống trị khi cịn ở giai đoạn tích cực và tiến bộ
cũng chủ trương thân dân, thậm chí cũng đã tuyên bố là nhà nước “vì dân”, nhưng
9



đó chỉ là một thiện chí hay một chiêu bài, bởi vì cái cơ bản là nếu chính quyền đó
khơng của nhân dân và không do nhân dân làm chủ mà do các ơng quan làm chủ thì
khơng bao giờ có thể được vì dân được.
Một nhà nước vì dân, theo quan điểm của Hồ Chí Minh cịn là từ Chủ tịch
nước đến cơng chức bình thường đều phải làm công bộc, làm đày tớ cho nhân dân
chứ không phải “làm quan cách mạng” để “đè đầu cưỡi cổ nhân dân”. Cho nên đối
với chức vụ Chủ tịch nước của mình, Hồ Chí Minh cũng quan niệm là do dân ủy
thác cho và như vậy phải phục vụ nhân dân, tức là làm đầy tớ cho nhân dân.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa bản chất của giai cấp
cơng nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của nhà nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa
yêu nước và chủ nghĩa quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sự thống nhất
đõ cũng được thể hiện rõ trong tư tưởng của Người về Nhà nước.
2.1 Về Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước.
Nhà nước là một phạm trù lịch sử, nó chỉ ra đời và tồn tại khi giai cấp và đấu
tranh giai cấp xuất hiện. Do đó, nhà nước là sản phẩm tất yếu của một xã hội có
giai cấp, nó bao giờ cũng mang bản chất một giai cấp nhất định, khơng có một nhà
nước nào phi giai cấp, khơng có nhà nước đứng trên giai cấp. Như vậy, khơng phải
lịch sử nhân loại xuất hiện là có ngay nhà nước và nhà nước không phải tồn tại mãi
mãi.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được
coi là nhà nước của dân, do dân, vì dân nhưng khơng có nghĩa đó là nhà nước phi
giai cấp hay siêu cấp. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Tính chất nhà nước là vấn đề cơ
bản của Hiến pháp. Đó là vấn đề nội dung giai cấp của chính quyền. Chính quyền
về tay ai và phục vụ quyền lợi của ai? Điều đó quyết định tồn bộ nội dung của
10



Hiến pháp…Nhà nước của ta là nhà nước dân chủ của nhân dân dựa trên nề tảng
liên minh công nông, do giai cấp công nông lãnh đạo”.
Như vậy, Người khẳng định: Nhà nước Việt Nam mớ là nhà nước mang bản
chất giai cấp cơng nhân. Điều đó được thể hiện ở chỗ:
Một là, Nhà nước do Đảng cộng sản – Đảng của giai cấp công nhân lãnh
đạo.
Cách mạng Việt Nam từ sau năm 1930 đến nay là do Đảng cộng sản Việt
Nam lãnh đạo, dù cịn hoạt động bí mật hay đã ra cơng khai, dù chưa có chính
quyền hay sau khi đã giành được chính quyền, lúc nào Đảng ta cũng giữ vai trị
lãnh đạo của mình đối với cách mạng Việt Nam , trong đó có Nhà nước.
Trong lời nói đầu của bản Hiến pháp năm 1959 khẳng định: “Nhà nước cảu
ta là nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai
cấp cơng nhân lãnh đạo”. Hồ Chí Minh nhấn mạnh nòng cốt của nhân dân là liên
minh giữa giai cấp cơng nhân với giai cấp nơng dân và trí thức do giai cấp cơng
nân mà đội tiên phong của nó là Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Với vai trò lãnh đạo Nhà nước của mình Đảng cộng sản Việt Nam đã tìm ra
những phương thức thích hợp sao cho việc lãnh đạo có hiệu quả cao nhất, đó là
Đảng lãnh đạo bằng chủ trương, đường lối lớn, những quan điểm…thơng qua tổ
chức của mình là các Ban cán sự trong Quốc hội, chính phủ và các Bộ. Đảng lãnh
dạo Nhà nước bằng cơng tác kiểm tra, cịn Nhà nước cai trị bằng pháp luật. Đảng
phấn đấu thể chế hóa quan điểm, đường lối, nghị quyết của mình, biến nó thành
pháp luật, và Nhà nước sẽ đưa pháp luật vào cuộc sống. Đảng không bao biện, làm
thay công việc của Nhà nước.
Hai là: Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta thể hiện ở tính định
hướng đưa đất nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội “bằng cách phát triển và cải tạo
nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, biến nền kinh tế lạc hậu thành nền kinh
tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên
11



tiến”. Điều này đã được thể hiện trong quan điểm của Hồ Chí Minh ngay từ khi
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa mới ra đời.
Ba là: Bản chất giai cấp cơng nhân của Nhà nước ta cịn được thể hiện ở
nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của nó là ngun tắc tập trung dân chủ.
Hồ Chí Minh rất chú ý đến tính dân chủ trong tổ chức và hoạt động của tất cả
bộ máy, cơ quan nhà nước, Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Chính phủ Trung ương
và các cơ quan khác của nhà nước đều phải hoạt động theo nguyên tắc tập trung
dân chủ. Người nhấn mạnh đến phát huy cao độ dân chủ, đồng thời phát huy cao độ
tập trung, Nhà nước phải tập trung thống nhất quyền lực để tất cả mọi quyền lực
vào tay nhân dân. “Nhà nước ta phải phát huy dân chủ đến cao độ…có phát huy
dan chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách
mạng tiến lên. Đồng thời phải tập trung đến cao độ để thống nhất lãnh đạo nhân
dân xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
2.2 Bản chất gia cấp cơng nhân thống nhất với tính nhân dân, tính dân
tộc của nhà nước.
Hồ Chí Minh là người giải quyết rất thành công mối quan hệ giữa các vấn đề
giai cấp dân tộc trong xây dựng Nhf nước Việt Nam mới. Người đã giải quyết hài
hòa, thống nhất giữa bản chất giai cấp với tính nhân dân, tính dân tộc và điều đó
được biểu hiện rõ trong những quan điểm sau của Người:
Thứ nhất là, Nhà nước dân chủ mới của ta ra đời là kết quả của cuộc đấu
tranh lâu dài gian khổ với sự hy sinh xương máu của bao thế hệ cách mạng.
Cuối thế kỷ XIX dầu thế kỷ XX, dân tộc Việt Nam rơi vào khủng hoảng
đường lối cách mạng. Trong cuộc đấu tranh trường kỳ chống thực dân Pháp của
dân tộc ta, tiêu biểu là là các cuộc khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của các nhà cách
mạng tiền bối rất oanh liệt như phong trào Cần Vương, Đông Du, Duy Tân đến Cao
trào Xô viết Nghệ Tĩnh và bao cuộc khởi nghĩa yêu nước khác, đã tô thắm cho
12


truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm của dân tộc nhưng độc lập tự do cho

dân tộc vẫn chưa trở thành hiện thực. Cho đến đầu năm 1930, Đảng ta ra đời, thì sự
lớn mạnh của giai cấp cơng nhân và đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản Việt
Nam đã vượt qua được tất cả các hạn chế và đã lãnh đạo thắng lợi cuộc cách mạng
Tháng Tám 1945, đấu tranh giành chính quyền, lập nên nhà nước dân chủ nhân dân
đầu tiên ở Đông Nam châu Á.
Thứ hai, Tính thống nhất cịn được biểu hiện ở chỗ Nhà nước ta bảo vệ lợi
ích của nhân dân, lấy lợi ích dân tộc làm nền tảng.
Hồ Chí Minh khẳng định lợi ích cơ bản của giai cấp cơng nhân, của nhân dân
lao động và của toàn dân tộc là một. Nha nước ta không những thể hiện ý chí của
giai cấp cơng nhân mà cịn thể hiện ý chí của nhân dân và của tồn dân tộc.
Thứ ba là, Nhà nước ta vừa ra đời đã phải đảm nhiệm nhiệm vụ lịch sử giao
phó là tổ chức, lãnh đạo nhân dân tiến hành các cuộc kháng chiến để bảo vệ nền
độc lập, tự do của Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam hịa bình thống nhất, độc
lập dân chủ và giàu mạnh, góp phần tích cực vào sự phát triển tiến bộ của thế giới
Nhờ biết phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, trên cơ sở liên
minh công nông, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước do Hồ Chí Minh đứng đầu
đã hoàn thành được sứ mệnh vẻ vang là lãnh đạo cả dân tộc tiến hành thắng lợi hai
cuộc chiến vĩ đại trong lịch sử, bảo vệ nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc và bắt
tay vào xây dựng đất nước theo con đường của chủ nghĩa xã hội – con đường mà
Hồ Chí Minh và Đảng ta xác định là sự nghiệp của chính Nhà nước ta.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp
lý mạnh mẽ.
Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy được tầm quan trọng của hiến pháp và pháp
luật trong quản lý xã hội. Điều này thể hiện trong bản Yêu sách của nhân dân An
Nam do Người ký tên là Nguyễn Ái Quốc và gửi đến Hội nghị Véc xây năm 1919,
13


bản yêu sách đó đã nêu ra yêu cầu “Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách
cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những bảo đảm về mặt pháp luật như

người Âu châu; xóa bỏ hồn tồn các tịa án đặc biệt dùng làm cơng cụ để khủng bố
và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam”.
Sau này khi trở thành người đứng đầu Nhà nước Việt Nam mới, Hồ Chí
Minh càng quan tâm sâu sắc hơn việc xây dựng và điều hành Nhà nước một cách
có hiệu quả bằng pháp quyền. Một nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ được Hồ
Chí Minh chú ý xây dựng.
3.1 Xây dựng một nhà nước hợp pháp, hợp hiến.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, một nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ,
trước hết phải là một nhà nước hợp hiến.
Sau khi giành được chính quyền trong cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
thay mặt chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân
đồng bào và với thế giới về sự khai sinh của Nhà nước Việt Nam mới, qua đó biểu
dương lực lượng và ý chí của tồn thể dân tộc Việt Nam quyết tâm giữ vững nền
độc lập tự do của mình. Và chỉ một ngày sau khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập,
trong phiên họp đầu tiên của chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh đã đề nghị tổ chức
Tổng tuyển cử càng sớm càng tốt để lập Quốc hội rồi từ đó lập ra Chính phủ và các
cơ quan, bộ máy chính thức khác của Nhà nước mới.
Cuộc Tổng tuyển cử được tiến hành thắng loiwjj ngày 06/01/1946 với chế độ
phổ thông đầu phiếu, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Và lần đầu tiên trong lịch sử hàng
nghìn năm của dân tộc Việt Nam cũng như lần đầu tiên ở Đông Nam châu Á, tất cả
mọi người dân tử 18 tuổi trở lên, không phân biệt nam nữ, giàu nghèo, dân tộc,
đảng phái, tôn giáo…đều đi bỏ phiếu bầu những đại biểu của mình tham gia Quốc
hội. Ngày 02/03/1946 Quốc hội Khóa I nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã họp
phiên đầu tiên lập ra các tổ chức, bộ máy và các chức vụ chính thức của Nhà nước.
14


Hồ Chí Minh được bầu làm chủ tịch Chính phủ liên hiệp đầu tiên. Đây chính là
chính phủ có đầy đủ tư cách pháp lý để giải quyết một cach có hiệu quả những vấn
đề đối nội và đối ngoại ở nước ta.

3.2 Hoạt động quản lý nhà nước bằng Hiến pháp, pháp luật và chú trọng
đưa pháp luật vào cuộc sống.
Quản lý nhà nước là quản lý bằng bộ máy và nhiều biện pháp khác, nhưng
quan trọng nhất là quản lý bằng hệ thống luật, trong đó quạn trọng bậc nhất là Hiến
pháp – đạo luật cơ bản của nhà nước.
Bản Hiến pháp 1946 và 1959 của nước Việt Nam ta đã để lại dấu ấn đậm nét
thể hiện quan điểm của Hồ Chí Minh về bản chất, thiết chế và hoạt động của Nhà
nước mới. Song, có Hiến pháp và pháp luật rối nhưng không đưa được vào trong
trong cuộc sống thì xã hội cũng sẽ bị rối loạn. Dân chủ đích thực bao giờ cũng đi
liền với kỷ cương, phép nước, tức là đi liền với thực thi Hiến pháp và pháp luật.
Trong suốt thời kỳ giữ trọng trách chủ tịch nước Người luôn hết sức chăm lo xây
dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa để đảm bảo quyền làm chủ thật sự của
nhân dân, bên cạnh đó Người cịn ln chú ý đưa pháp luật vào đời sống để tạo ra
cơ chế bảo đảm cho pháp luật được thi hành trong các cơ quan nhà nước và nhân
dân.
Chính bản thân Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về sống và làm việc theo
Hiến pháp và pháp luật. Người tự khép mìn vào kỷ luật, vào việc gương mẫu chấp
hành Hiến pháp và pháp luật. Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật đã trở
thành nền nếp, thói quen, thành lối ứng xử tự nhiên của Hồ Chí Minh.
Người nói: “Cơng bố đại luật này chưa phải đã là mọi việc đều xong, mà còn
phải tuyên truyền giáo dục lâu dài mới thực hiện được tốt”. Hồ Chí Minh bao giờ
cũng địi hỏi mọi người phải hiểu và tuyệt đối chấp hành pháp luật, bất kể người đó
giữ cương vị nào. Người cho rằng, công tác giáo dục pháp luật cho mọi người, đặc
15


biệt cho thế hệ trẻ, trở nên cực kỳ quan trọng trong việc xây dựng một nhà nước
pháp quyền, bảo đảm mọi quyền và nghĩa vụ công dân được thực thi trong cuộc
sống. Việc thực thi pháp luật có quan hệ rất lớn đến trình độ dân trí của nhân dân,
vì vậy Hồ Chí Minh ln quan tâm chú trọng đến vấn đề nâng cao dân trí của nhân

dân, bồi dưỡng ý thức làm chủ, phát triển văn hóa chính trị và tính tích cực cơng
dân, khuyến khích nhân dân tham gia vào công việc của Nhà nước, khắc phục mọi
thứ dân chủ hình thức. Làm tốt nghĩa vụ cơng dân cũng là thực hiện nghĩa vụ của
mình đối với nhà nước, biết thực hành dân chủ.
Trong việc thực thi Hiến pháp và pháp luật, Hồ Chí Minh bao giờ cũng chú ý
bảo đảm tính nghiêm minh và hiệu lực của chúng. Người rất khơng hài lịng trước
việc pháp luật của ta không được thực hiện nghiêm minh, xét xử thiếu cơng bằng
“thưởng có khi q rộng mà phạt thì khong nghiêm”, lẫn lộn giữa cơng và tội. Có
cơng thì được thưởng, có lỗi thì phải phạt, “khơng vì cơng mà qn lỗi, vì lỗi mà
qn cơng”. Để thực hiện được điều đó địi hỏi pháp luật phải đúng, phải đủ, phải
tăng cường công tác tuyên truyền,, giáo dục pháp luật cho mọi người dân và người
thực thi pháp luật phai thực sự công tâm và nghiêm minh, bảo đảm cho luật pháp
trỏ thành cán cân công lý đối với tất cả mọi người, khơng có một trường hợp ngoại
lệ nào, bất kỳ ai vi phạm pháp luật cũng đều bị trừng trị nghiêm khắc, đúng người,
đúng tội.
3.3 Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức đủ đức và tài.
Để tiến tới một nhà nước pháp quyền mạnh mẽ, có hiệu lực chủ tịch Hồ Chí
Minh đã thấy rõ phải nhanh chóng đào tạo bồi dưỡng nhằm hình thành một đội ngũ
cán bộ viên chức nhà nước có trình độ văn hóa, am hiểu pháp luật, thành thạo
nghiệp vụ hành chính và nhất là phải có đạo đức cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ
tư, một tiêu chuẩn của người cầm cân nẩy mực cho công lý.
16


Hồ Chí Minh ln ln đề cao vị trí, vai trị của đội ngũ cán bộ, cơng chức.
Người coi cán bộ nói chung “là cái gốc của mọi cơng việc”, “muôn việc thành công
hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Bởi xét tới cùng cán bộ luôn là cái gốc của
mọi cơng việc. Do đó, việc lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ, đặc
biệt biết sử dụng nhân tài "vừa hồng vừa chuyên" là một khâu quan trọng để hoàn
thiện bộ máy nhà nước, nhất là trong giai đoạn chúng ta đang xây dựng Nhà nước

Pháp quyền XHCN. Đảng phải có cơ chế, chính sách để sớm phát hiện và bồi
dưỡng các tài năng giới thiệu vào các cơ quan nhà nước... Người yêu cầu : "Làm
cán bộ tức là suốt đời làm đày tớ trung thành của nhân dân. Mấy chữ a, b, c này
không phải ai cũng thuộc đâu, phải học mãi, học suốt đời mới được". Người đã nêu
lên những yêu cầu về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức.
Một là, tuyệt đối trung thành với cách mạng.
Đây là yêu cầu đầu tiên cần phải có đối với đội ngũ cán bộ, công chức. Cán
bộ, công chức phải là những người kiên cường bảo vệ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhà
nước. Hồ Chí Minh nhấn mạnh lịng trung thành đó khơng phải là những điều trừu
ngjm, chung chung, mà phải được thể hiện hàng ngày, hàng giờ trong mọi lĩnh vực
công tác và thể hiện trong kết quả thực tế cơng tác. Lịng trung thành đó cịn được
thể hiện đặc biệt rõ trong những lúc đất nước khó khăn, thử thách, chuyển giai
đoạn.
Hai là, hăng hái, thành thạo cơng việc, giỏi chun mơn, nghiệp vụ.
Chỉ với lịng nhiệt tình thì chưa đủ, yêu cầu tối thiểu của cán bộ, cơng chức
phải hiểu biết cơng việc của mình, biết quản lý nhà nước, do vậy phải được đào tạo
và tự mình phải ln học hỏi. Đó là tính chun nghiệp của đội ngũ công chức.
Công chức phải chuyên sâu nghiệp vụ, phải luôn luôn học tập không ngưng nghỉ,
học mọi lúc, mọi nơi, học tập suốt đời.
Ba là, phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân.
17


Hồ Chí Minh là người ln ln chủ trương xây dựng mối quan hệ bền chặt
giữa đội ngũ cán bộ công chức với nhân dân. Đội ngũ cán bộ, công chức là những
người hưởng lương từ nguồn ngân sách nhà nước do nhân dân đóng góp, chính vì
vậy mà Hồ Chí minh nhắc nhở mọi cán bộ, cơng chức khơng được lãng phí của
cơng, phải sẵn sàng phục vụ nhân dân, luôn luôn nêu cao đạo đức cách mạng, sẵn
sàng hy sinh quyền lợi cá nhân mình cho Tổ quốc, lấy phục vụ quyền lợi chính
đáng của nhân dân làm mục tiêu cho hoạt động của minh. Đặc biệt Hồ Chí Minh

cịn nhấn mạnh, phải chống bệnh tham ơ lãng phí, quan liêu, phải ln ln gần
dân, hiểu dân và vì dân. Cán bộ, cơng chức xa dân, hách dịch, cửa quyền… đối với
nhân dân đều dẫn đến nguy cơ làm suy yếu nhà nước, thâm trí biến chất nhà nước
vì đã vi phạm một điều có tính chất cốt tử của cấu tạo quyền lực nhà nước là tất cả
mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Bốn là, cán bộ, công chức phải là những người dám phụ trách, dám quyết
đoán, dám chịu trách nhiệm nhất là trong những tình huống khó khăn, “thắng
khơng kiêu, bại khơng nản”.
Đó là những người có ý thức sẵn sàng làm “cơng bộc” làm “đày tớ” cho dân,
những người cần, kiêm, liêm, chính, chí cơng vơ tư, làm việc với tinh thần đầy sáng
tạo. Hồ Chí Minh địi hỏi cán bộ, cơng chức phải luôn luôn tu dưỡng, rèn luyện đạo
đức cách mạng, ln ln có “trí tiến thủ” ln ln học tập để nâng cao trình độ
về mọi mặt trong mọi mối quan hệ, mọi lĩnh vực.
Năm là, phải thường xuên tự phê bình và phê bình, ln ln có ý thức hành
động vì sự lớn mạnh trong sạch của nhà nước
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh bộ máy nhà nước cần gọn nhẹ, có hiệu
lực, phù hợp với từng giai đoạn để phục vụ đắc lực cho mục tiêu hoạt động của nhà
nước, tất cả vì sự phát triển của đất nước, vì lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân,
khơng vì lợi ích của cá nhân nào. Chức vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức trong

18


bộ mày nhà nước là do nhân dân ủy thác, ủy quyền để làm việc cho ích quốc lợi
dân, khơng vì chủ nghĩa cá nhân.
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh,
hoạt động có hiệu quả.
Ngay từ những ngày đầu mới có chính quyền, chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan
tâm để ý tới vấn đề làm thế nào để xây dựng một nhà nước cách mạng trong sạch,
vững mạnh, hoạt động có hiệu quả, đấu tranh khắc phục những căn bệnh cố hữu

của các nhà nước kiểu cũ?
Đây là một cuộc đấu tranh gian khổ, muốn giành thắng lợi phải huy động sức
mạnh của nhân dân và của cả hệ thống chính trị, sử dụng kết hợp các biện pháp tư
tưởng và tổ chức, giáo dục và hành chính, kinh tế và pháp luật… trong đó Người
đặc biết chú ý và nhấn mạnh hai nội dung:
4.1 Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức
Hồ Chí Minh đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa quản lý xã hội bằng
pháp luật với phát huy truyền thống tốt đẹp trong đời sống cộng đồng người Việt
Nam được hình thành qua hàng ngàn năm lịch sử hay nói cách khác là Nổi bật
trong ý tưởng trị nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa
“Pháp trị” và “Đức trị”. Người nhận rõ: “Luật pháp phải dựa vào đạo đức”, bởi lẽ
do nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội xuất hiện nên cần có những quy tắc phù
hợp, nhà nước phải ban hành các quy phạm. Nhà nước sử dụng pháp luật để tổ
chức xã hội và dùng quyền lực cưỡng chế đối với hành vi vi phạm pháp luật.
Trong việc thực thi quyền hạn và trách nhiệm của mình với cương vị là chủ
tịch nước, Hồ Chí Minh bao giờ cũng thể hiện là một người sáng suốt, thống nhất
hài hòa giữa lý trí và tình cảm, nghiêm khắc, bao dung, nhân ái nhưng không bao
giờ bao che cho những sai lầm, khuyết điểm của bất kỳ ai. Kỷ cương phép nước
19


thời nào cũng luôn được đề cao và phải được áp dụng cho tất cả mọi người. Do đó
mà Hồ Chi Minh đòi hỏi pháp luật của ta phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất
liêm, bất kỳ kẻ đó ở cương vị nào, làm nghề nghiệp gì…
Tư tưởng “Pháp trị” và “ Đức trị” trong Hồ Chí Minh ln luôn thống nhất
thành chỉnh thể và thường xuyên bổ sung cho nhau. Hồ Chí Minh dùng “Đức” để
cảm hóa, ngăn cản những thói hư tật xấu. Người thưởng phạt rõ ràng, có như vậy
mới rộng được dân chủ, pháp luật mới nghiêm, mọi người đều bình đẳng như nhau,
mới ngăn chặn được cái xấu, cái ác, khuyến khích, nâng đỡ cái tốt, cái thiện vốn có
trong mỗi con người.

Tình trạng tiêu cực trong đời sống pháp luật ở nước ta hiện nay có một phần
là do hệ thóng pháp luật của ta thiếu đồng bộ, một phần nữa là do thi hành không
nghiêm. Nhưng dù sau này hệ thống pháp luật có hồn chỉnh đến đâu, việc thi hành
vẫn khơng thể tốt nếu tăng cường pháp luật không đi liền với thường xuyên giáo
dục đạo đức cho đội ngũ cán bộ nhà nước, trước nhất là những người giữ chức
năng bảo vệ pháp luật.
Qua đay có thể nhận thấy, chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà lập pháp đồng
thời là một nhà hành pháp vĩ đại. Tư tưởng ucar Người về sự kết hợp thống nhất,
biện chứng giữa giáo dục đạo đức và tăng cường pháp luật cần được chúng ta kế
thừa và phát huy trên con đường xây dựng một nhà nước pháp quyền mạnh mẽ
trong sạch, vững mạnh, có hiệu quả.
4.2 Kiên quyết chống ba thứ giặc “giặc nội xâm” là tham ơ, lãng phí, quan
liêu
Sức mạnh, hiệu quả của nhà nước một mặt dựa vào tình nghiêm minh của
việc thi hành pháp luật, mặt khác dựa vào sự gương mẫu, sự trong sạch về đạo đức
của người cầm quyền. Chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi “cán bộ phải
thực hành chữ Liêm trước để làm kiểu mẫu cho dân”.
20


Ngay từ rất sớm, chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra ba thứ “giặc nội xâm”,
“giặc trong lòng”, những căn bệnh mà chúng ta phải kiên quyết chống nếu khơng
chúng sẽ dẫn đến nguy cơ suy thối, đổ vỡ khơng lường hết được. Người nói:
“Tham ơ, lãng phí, và bệnh quan liêu, dù cố ý hay không, cũng là ban đồng minh
của thực dân, phong kiến…nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của
cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiêm, liêm, chính…tội lỗi
ấy cũng nặng như tội Việt gian, mật thám”.
Người chỉ ra mối quan hệ giữa đánh thù trong và diệt giặc ngồi: “Chống
tham ơ, lãng phí và bệnh quan liêu cúng cần kíp như việc đánh giặc trên mặt
trận”… “nếu chiến sỹ và nhân dân ta ra sức chống ngoại xâm và quên chống giặc

nội xâm, như thế là chưa làm tròn nhiệm vụ của mình”.
Hồ Chí Minh coi tham ơ, lãng phí, quan liêu là “giặc trong lòng” thứ giặc
nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm. Người phê bình những người “lấy của cơng dùng
vào việc tư, quên cả thanh liêm, đạo đức”…Nguyên nhân của những căn bệnh đó
cũng được chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Vì những người và những cơ quan lãnh
đạo từ cấp trên đến cấp dưới không sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo
dục cán bộ, không gần gũi quần chúng. Đối với cơng việc thì trọng hình thức mà
khơng xem xét mọi mặt, khơng vào sâu vấn đề. Chỉ biết khai hội, viết chỉ thị, xem
báo cáo trên giấy, chứ không kiểm tra đến nơi, đến chốn…thành thử có mắt mà
khơng thấy suốt, có tai mà khơng nghe thấu, có chế độ mà khơng giữ đúng, có kỷ
luật mà khơng nắm vững…thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng che chở cho
nạn tham ô, lãnh phí. Vì vậy muốn trừ sạch nạn tham ơ, lãng phí thì trước mắt phải
tẩy sạch bệnh quan liêu.
Mác và Ăngghen đã từng cảnh tỉnh giai cấp vô sản rằng: chủ nghĩa quan liêu
có thể dẫn các đảng cộng sản cầm quyền đến chỗ “đánh mất một lần nữa chính
quyền vừa giành được”. Lênin cũng viết: “ …chúng ta bị khốn khổ trước hết về tệ

21


quan liêu. Những người cộng sản đã trở thành tên quan liêu. Nếu có cái gì sẽ làm
tiêu vong chúng ta thì chính là cái đó”
Như vậy, khơng thể nói đến một nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả
nếu như không kiên quyết, thường xuyên dẩy mạnh cuộc đấu tranh để chặn đứng,
tiến tới tiêu diệt tận gốc những ngun nhân đã gây ra nạn tham ơ, lãng phí, quan
liêu.
III, VẬN DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Sau ngày cách mạng Tháng Tám 1945 thành cơng, chính quyền về tay nhân
dân. Đảng ta đã có kinh nghiệm hơn nửa thế kỷ xây dựng và lãnh đạo Nhà nước.

Từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa,
tuy nội dung, nhiệm vụ của Nhà nước có sự khác nhau, song về bản chất vẫn là nhà
nước của dân, do dân, vì dân, được xây dựng trên những nguyên tắc của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mang bản chất giai cấp cơng nhân, tính nhân
dân và tính dân tộc. Nhưng từ chiến tranh chống ngoại xâm chuyển sang hịa bình
xây dựng kinh tế, từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp chuyển sang cơ chế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước, trong
điều kiện mở của, hội nhập quốc tế, làm ăn với nước ngồi…đã có sự thay đổi rất
nhiều, từ nội dung nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, phương thức hoạt động, cho đến yêu
cầu về phẩm chất năng lực của con người vận hành bộ máy nhà nước.
Sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đang đứng trước những cơ hội và
thách thức chưa từng có. Xu thế tồn cầu hóa đang phát triển sâu rộng với tốc độ
nhanh, mở ra cơ hội cho các nước chậm phát triển có thể đuổi kịp các nước phát
triển, đồng thời cũng làm gia tăng nguy cơ bành trướng của chủ nghĩa thực dân
mới. Trong tình hình đó, nếu như khơng có một nhà nước thực sự trong sạch, vững
22


mạnh hoạt động có hiệu quả, hiệu lực, tranh thủ nắm lấy vận hội, đưa đất nước
vượt qua nguy cơ thách thức thì chủ nghĩa xã hội sẽ khơng có mà độc lập dân tộc
cũng khó mà bảo vệ được.
Vấn đề đặt ra là phải làm thế nào đề không ngừng hồn thiện Nhà nước của
dân, do dân, vì dân trong giai đoạn mới? Phải xây dựng Nhà nước ngang tầm nhiệm
vụ của giai đoạn cách mạng? Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, liên hệ với tình hình
hiện nay Đảng và Nhà nước ta cần thực hiện tốt những nội dung cơ bản sau:
1. Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa,
đảm bảo thật tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.
Để vượt lên tình trạng thấp kém của nền kinh tế, rút ngắn khoảng cách về
trình độ phát triển giữa nước ta với nhiều nước trên thế giới, trong điều kiện cạnh
tranh quốc tế quyết liệt hiện nay, ta khơng có con đường nào khác phải phát huy

cao độ nội lực của dân tộc, mà một trong những nhân tố cơ bản làm nên nội lực đó
là phát huy dân chủ. Chính khát vọng dân tộc và dân chủ đó đã tạo nên sức mạnh
kiên cường, đấu tranh cho độc lập, tự do. Giành được chính quyền về tay nhân dân
rồi thì quyền làm chủ thật sự của người dân là một nội dung đích thực của độc lập,
tự do. Bởi, như Bác Hồ đã nói: “Nếu nước độc lập mà dân khơng được hưởng hành
phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Trong cuộc chiến đấu quyết liệt chống kẻ thù xâm lược, nhiều công việc cấp
bách phải được giải quyết kịp thời và tập trung ở cơ quan lãnh đạo cao nhất của
Đảng và Nhà nước. Khi chuyển sang hịa bình, xây dựng đất nước, trong điều kiện
khó khăn, phức tạp của tình hình đất nước hiện nay thì việc mở rộng dân chủ là một
nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết để khai thác được sức mạnh vô tận của nhân dân
ta trong sự nghiệp đổi mới, mở cửa và hội nhập với thế giới.
Qua thực tế đổi mới đất nước, Đảng ta đã chỉ ra rằng nơi nào thực hiện được
dân chủ, phát huy được trí tuệ của đơng đảo cán bộ và nhân dân, thì nhất định thành
23


công. Ngược lại, nơi nào để mất dân chủ, tạo ra sự bất mãn trong quần chúng thì
nơi đó khơng tránh khỏi khó khăn và dẫn tới những hậu quả đáng tiếc. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã từng nhắc nhở: “Phải thực sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân,
tuyệt đối không được lên mặt “quan cách mạng” ra lệnh, ra oai”.
Vận dụng tư tưởng của Người về xây dựng Nhà nước còn đòi hỏi phải chú
trọng đảm bảo và phát huy quyền làm chủ thật sự của nhân dân trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội, và trong vấn đề này thì việc tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa với việc mở rộng dân chủ có ý nghĩa hết sức quan trọng. Do đó, quyền
làm chủ của nhân dân phải được thể chế hóa bằng Hiến pháp và pháp luật, đưa
Hiến pháp và pháp luật vào trong cuộc sống. Cần chủ ý đến việc bảo đảm cho mọi
người được bình đẳng trước pháp luật, xử phạt nghiêm minh mọi hành động vi
phạm pháp luật, bất kể sự vi phạm đó do tập thể hay cá nhân nào gây ra. Có như
vậy dân mới tin và mới bảo đảm được tính chất nhân dân của nhà nước ta.

Bên cạnh việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, ngoài vấn đề
thực thi nghiêm chỉnh pháp luật, còn cần chủ ý tới thực hiện những quy tắc dân chủ
trong các cộng đồng dân cư, tùy theo điều kiện của từng vùng, miễn là các quy tắc
đó khơng trái với những quy định của pháp luật. Theo đó cần thực hiện tốt các Quy
chế dân chủ ở cơ sở đã được chính phủ ban hành.
2. Cải cách và kiện tồn bộ máy hành chính nhà nước, xây dựng một
nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh.
Đường lối, chính sách đúng đắn của ĐẢng, pháp luật của Nhà nước là điều
kiện tiên quyết, song nếu khơng có một nền hành chính mạnh, có hiệu lực thì chính
sách, pháp luật dù đúng, cũng khơng thể đi vào cuộc sống. Do đó, việc cải cách và
kiện tồn bộ máy hành chính đang là một yêu cầu bức xúc đặt ra cần phải giải
quyết.

24


Hiện nay nền hành chính của ta cịn nhiều yếu kém: quan liêu, xa dân, xa cơ
sở, phân tán, thiếu trật tự kỷ cương, nạn tham nhũng và lãng phí của công, bộ mày
cồng kềnh, nằng nề, kém hiệu lực, đội ngũ cán bộ cơng chức cịn yếu về kiến thức,
năng lực, một bộ phận không nhỏ kém phẩm chất thậm chí hư hỏng..
Cải cách hành chính để có một nền hành chính dân chủ, trong sạch, phục vụ
đắc lực cho nhân dân, giữ vững trật tự kỷ cương xã hội theo pháp luật. Nó phải
được phục vụ tạn tụy, công tâm, đáp ứng yêu cầu hàng ngày về quyền lực hợp pháp
của nhân dân. Muốn được như vậy, bản thân nó phải trong sạch và có kỷ cương,
phải thanh toán được những căn bệnh mà từ rất sớm Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ
ra: trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo, “lúc nào cũng vác mặt
“quan cách mạng” lên. Không biết rằng thái độ kiêu ngạo đó sẽ làm mất lịng tin
cậy của dân, sẽ hại đến oai tín của chính phủ” . Tóm lại, là cần phải phấn đấu để
xóa bỏ ấn tượng hiện nay trong nhân dân: hành chính là hành dân là chính.
Cải cách và kiện tồn bộ máy hành chính là một q trình, phải tiến hành

đồng bộ trên nhiều mặt và trong thời gian dài.
Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện hiện nay cịn cần chú ý cải
cách các thủ tục hành chính; đề cao trách nhiệm trong việc giải quyết các khiếu
kiện của công dân theo đúng những quy định của pháp luật; tiêu chuẩn hóa cũng
như sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức, xây dựng một đội ngũ cán bộ, công
chức vừa có đức vừa có tài, tinh thơng chun mơn, nghiệp vụ. Nguồn lực dội ngũ
cơng chức yếu thì khơng thể nói tới một Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì
dân mạnh mẽ được. Do vậy cơng tác đào tào bồi dưỡng cán bộ, công chức phải
được đặt lên hàng đầu và phải được tiến hành thường xuyên, bảo đảm chất lượng.
theo đó, hệ thống các trường dạy nghề, dặc biệt là các trường đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ chuyên ngành tư pháp phải được đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo.

25


×