BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
—
—
HOÀNG NGHĨA MẠNH
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA THỨC ĂN, MẬT ĐỘ
VÀ ĐỘ MẶN LÊN SINH TRƯỞNG VÀ TỶ LỆ SONG
CỦA CA NAU (Scatophagus argus Linnaeus, 1766) NUOI
TẠI THỪA THIÊN HUÉ
7
f
A
A
Mã số: 60.62.70
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Nuôi trồng Thủy sản
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: PGS.TS. NGUYỄN ĐÌNH MÃO
NHA TRANG - 2010
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu và
kết quả trình bày trong luận văn hoàn toàn trung thực và chưa từng được ai công bố ở
bất cứ công trình khoa học nào khác.
Tác giả luận văn
Hoàng Nghĩa Mạnh
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, tác giả đã nhận được sự giúp đỡ, động
viên tận tình của giáo viên hướng dẫn PGS.TS. Nguyễn Đình Mão. Tác giả trân trọng
cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó.
Xin chân thành cảm ơn anh Nguyễn Khoa Huy Sơn, anh Nguyễn Đức đã tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình bố trí thí nghiệm tại trại sản xuất giống và
tại các ao nuôi thủy sản của gia đình.
Xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng đào tạo Đại học và sau đại học,
Khoa thủy sản Trường Đại học Nha Trang, quý thầy cô giáo trong và ngoài trường đã
truyền đạt nhiều kiến thức quý báu và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá
trình học tập và nghiên cứu tại trường.
Cuối cùng, tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới quý thầy cô giáo Trường Đại học
Nông Lâm Huế đã có những chỉ dạy, hướng dẫn tôi trong thời gian thực hiện đề tài.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn tới các em sinh viên và gia đình đã luôn hỗ trợ tôi
trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu.
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
3.1.
lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá nâu
3.2.1.
Ảnh hưởng của các loại thức ăn có tỷ lệ protein khác nhau trong thành phần 34
lên sinh trưởng của cá nâu
3.2.2.
KL
:
Ảnh hưởng của các loại thức ăn có tỷ lệ protein khác nhau
CD
:
trong thành phần
WS
:
lên tỷ lệ sống và hệ số chuyển hóa thức ăn của cá nâu
Ls
:
We
:
Le
:
WG (%)
:
LG (%)
:
DGRw (g/ngày) :
DGRL (cm/ngày):
Cv (%)
:
DGI (%/ngày) :
BC
:
BB
:
ĐN
:
CG
:
BM
:
CT1
:
CT2
:
CT3
:
CT4
:
FCR
:
FI
:
SR
:
RGL
:
40
3.2.
3.3.
3.4.
Khối lượng.
3.5.
Chiều dài.
3.6.
(Start Weight) khối lượng cá khi bắt đầu thí nghiệm.
3.7.
(Start Length) chiều dài của cá khi bắt đầu thí nghiệm.
3.8.
(End Weight) khối lượng cá khi kết thúc thí nghiệm.
3.9.
(Start Length) chiều dài của cá khi kết thúc thí nghiệm.
3.10.
(Weight gain) mức tăng khối lượng tương đối.
3.11.
(Legth gain) mức tăng chiều dài tương đối.
3.12.
(Daily Growth Rate of Weight) tốc độ tăng trưởng khối
lượng.
3.13.
(Daily Growth Rate of Length) tốc độ tăng trưởng chiều dài.
(Coefficient of variation) hệ số biến động.
3.14.
(Daily Growth Index) chỉ số sinh trưởng hàng ngày.
3.15.
Bột cá.
3.16.
Bột bắp.
3.17.
Bột đậu nành.
3.18.
Cám gạo.
3
3.19. Bột mì.
3.20. Công thức thức ăn có tỷ lệ protein 20% trong khẩu phần.
3.21. Công thức thức ăn có tỷ lệ protein 25% trong khẩu phần.
3.22. Công thức thức ăn có tỷ lệ protein 30% trong khẩu phần.
3.23. Công thức thức ăn có tỷ lệ protein 35% trong khẩu phần.
3.24. (Feed conversion ratio) hệ số chuyển hóa thức ăn.
3.25. (Feed intake) lượng thức ăn cá ăn vào.
3.26. (Survival rate) tỷ lệ sống.
3.27. (Raletive Gut Length) tương quan giữa chiều dài thân và chiều dài ruột.
4
3.28.
Bảng
Trang
3.29.
3.30.
3.31.
Hình
Trang
3.32.
3.33.
5
3.34.
Tốc độ tăng chiều dài hàng ngày DGRL (cm/ngày) ở thí nghiệm 3.1.
II
45
3.35.
Tỷ lệ sống của cá nâu ở thí nghiệm II
3.2.
3.36.
Sự phân cỡ về chiều dài của cá nâu ở các mật độ nuôi
45
3.37.
Sự phân cỡ về khối lượng của cá nâu ở các mật độ nuôi
3.3.
3.38.
Sự tăng trưởng khối lượng của cá nâu các đợt kiểm tra thí
48
nghiệm III
3.4.
3.39.
Mức tăng khối lượng tương đối WG (%) ở thí nghiệm III
49
3.40.
Tốc độ tăng khối lượng hàng ngày DGRW (g/ngày) ở thí nghiệm 3.5.
III
52
3.41.
Chỉ số sinh trưởng hàng ngày DGI (%/ngày) ở thí nghiệm III
3.6.
3.42.
Sự tăng trưởng chiều dài của cá nâu các đợt kiểm tra ở thí
52
nghiệm III
3.7.
3.43.
Mức tăng chiều dài tương đối LG (%) ở thí nghiệm III
52
3.44.
Tốc độ tăng chiều dài hàng ngày DGRL (cm/ngày) ở thí nghiệm 3.8.
III
52
3.45.
Tỷ lệ sống (%) của cá nâu ở thí nghiệm III
3.9.
3.46.
Sự phân cỡ chiều dài của cá nâu ở các mức độ mặn
53
3.47.
Sự phân cỡ khối lượng của cá nâu ở các mức độ mặn
3.10.
53
3.11.
53
3.12.
53
3.13.
57
3.14.
58
3.48. MỞ ĐẦU
3.49.
Cá nâu (Scatophagus argus) là một đối tượng có giá trị kinh tế. Cá có
nhiều ưu điểm như giá trị thương phẩm cao, rộng muối, sức sống cao, thức ăn chủ yếu
thực vật thủy sinh, mùn bã hữu cơ và là đối tượng mang những nét đặc trưng riêng ở
vùng đầm phá Tam Giang - Cầu Hai [10]. Do tập tính ăn tạp của cá, nên loài cá nâu rất
có triển vọng trong nuôi kết hợp với các loài cá khác, nhất là trong mô hình tôm - rừng.
Cá nâu còn được nuôi làm cá cảnh [4]. Hiện nay, nguồn lợi cá nâu tự nhiên ở khu vực
đầm phá Tam Giang - Cầu Hai giảm sút nghiệm trọng cần có những nghiên cứu để phát
triển nuôi thương phẩm đối tượng này nhằm giảm tải khai thác nguồn lợi cá nâu từ tự
nhiên [19].
3.50.
gũi
Ngư dân vùng
đầm phá Tam Giang từ lâu đã
với
đối tượng này,
rất
gần
với
3.51. họ cá nâu được biết đến như một đối tượng nuôi ghép không thể thiếu trong các
ao nuôi tôm. Trong những năm gần đây, sự thất bại trong nuôi tôm sú đã khiến nhiều
ngư dân trắng tay thì cá nâu đã hiện diện như một đối tượng cứu giúp cho ngư dân. Tại
Thừa Thiên Huế, nguồn giống cá nâu chủ yếu thu gom từ tự nhiên ở cửa biển Thuận An
và Tư Hiền của đầm phá Tam Giang - Cầu Hai, trong khoảng thời gian từ tháng 4 đến
tháng 10 âm lịch hàng năm [16; 34]. Nuôi cá nâu ở phá Tam Giang - Cầu Hai rất phổ
biến và nuôi ở các mô hình nuôi nhỏ, nuôi trong ao và trong lồng.
3.52.
Việc đưa cá nâu vào nuôi rộng rãi sẽ góp phần làm đa dạng đối tượng
nuôi, giảm áp lực lên đối tượng tôm sú, đồng thời làm tăng tính hiệu quả và bền vững
cho nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên, việc tiến hành nuôi cá nâu hoàn toàn không đơn
thuần với ngư dân, bởi người nuôi còn gặp nhiều khó khăn như (i) không chủ động con
giống; (ii) sử dụng thức ăn chưa hợp lý; (iii) mật độ nuôi chưa phù hợp và (iv) năng
suất, hiệu quả nuôi còn thấp. Có rất nhiều lý giải của các nhà khoa học về nguyên nhân
của vấn đề này như hạn chế kiến thức về đặc điểm sinh học, môi trường sống và quy
trình kỹ thuật nuôi thương phẩm đối tượng này. Minh chứng rõ nét cho khó khăn trong
nuôi cá nâu là ngư dân thường thất bại trong việc ương nuôi, lưu giữ nguồn giống tự
nhiên qua các mùa mưa lũ; đặc biệt, những năm vừa qua ngư dân vùng đầm phá Tam
Giang - Cầu Hai gặp phải hiện tượng cá chết trắng trong ao nuôi vào các khoảng thời
7
gian có sự thay đổi về độ mặn và nhiệt độ nước đầm nuôi.
3.53.
Sinh trưởng của cá liên quan đến sự sắp xếp của các mô cơ, mô mỡ, biểu
mô và mô liên kết. Cá sinh trưởng nhanh hay chậm phụ thuộc phần lớn vào khẩu phần
thức ăn, ngoài ra còn có một số yếu tố khác như loài, giới tính, tuổi, mật độ nuôi, môi
trường sống và điều kiện quản lý chăm sóc [1]. Thức ăn trong nuôi trồng thủy sản
thường chiếm 30 đến 60% chi phí sản xuất [45]. Thức ăn không chỉ tác động đến sinh
trưởng của cá, mà còn tác động đến hiệu quả kinh tế của ngư dân. Mặt khác, các nghiên
cứu về cá nâu còn rất hạn chế, chủ yếu tập trung vào phân loại, mô tả và một số dẫn liệu
chung về sinh học, còn nghiên cứu chuyên sâu về dinh dưỡng và nuôi thịt cá nâu hầu
như còn rất ít.
3.54.
Như vậy, để nuôi cá nâu đạt hiệu quả cao không chỉ cần con giống tốt mà
thức ăn, mật độ nuôi và yếu tố sinh thái môi trường đóng vai trò vô cùng quan trọng, đề
tài “Nghiên cứu ảnh hưởng của thức ăn, mật độ và độ mặn lên sinh trưởng và tỷ lệ
sống của cá nâu (Scatophagus argus Linnaeus, 1766) nuôi tại Thừa Thiên Huế” sẽ
3.55. góp phần xây dựng cơ sở khoa học cho nuôi thương phẩm cá nâu ở Thừa Thiên
Huế.
3.56.
Mục tiêu của đề tài:
3.57.
Tìm hiểu được mức protein có trong khẩu phần ăn, mật độ nuôi và độ mặn
thích hợp cho sinh trưởng, tỷ lệ sống của cá nâu trong nuôi thương phẩm. Kết quả
nghiên cứu của đề tài góp phần làm giảm chi phí thức ăn bằng cách nâng cao hiệu quả
sử dụng thức ăn và nâng cao tốc độ sinh trưởng, tỷ lệ sống của cá nâu bằng việc xác
định nuôi với mật độ và độ mặn phù hợp nhằm tăng lợi nhuận cho người nuôi. Đồng
thời, xây dựng nên các chỉ tiêu kỹ thuật trong nuôi thương phẩm cá nâu phù hợp với
điều kiện sinh thái vùng đầm phá Tam Giang - Cầu Hai.
3.58.
cứu sau:
Để đạt các mục tiêu trên đề tài đã thực hiện những nội dung nghiên
1- Nghiên
cứu ảnh hưởng của các loại thức ăn có tỷ lệ protein khác nhau trong
3.59. khẩu phần lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá nâu.
2- Nghiên cứu ảnh hưởng của các mật độ nuôi khác nhau lên sinh trưởng và tỷ lệ
sống của cá nâu.
8
3- Nghiên cứu ảnh hưởng của các mức độ mặn khác nhau lên sinh trưởng và tỷ lệ
sống của cá nâu.
3.60.
Trong quá trình thực hiện đề tài, mặc dù đã nhận được sự giúp đỡ tận tình
của giáo viên hướng dẫn, các thầy cô giáo và các em sinh viên, cùng với sự nỗ lực của
bản thân nhưng luận văn khó tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả kính mong nhận được
sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô và các bạn đồng nghiệp để luận văn hoàn thiện hơn.
3.61.
Nha Trang, tháng 12 năm 2010.
9
3.62. Chương 1
3.63. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1.
Đặc điểm sinh học của cá nâu (Scatophagus argus Linnaeus, 1766)
2.1.1.
•
Đặc điểm phân loại và phân bố
Phân loại
3.64.
Theo Mai Đình Yên (1992) cá nâu có tên khoa học (Scatophagus argus
Linnaeus, 1766) thuộc giống cá nâu Scatophagus Cuvier, 1830 và họ cá nâu Scatophagidae.
Cá có hệ thống phân loại như sau [38]:
3.65.
Ngành phụ: Động vật có xương sống -
Vertebrata Lớp: Cá xương - Osteichthyes Bộ: Cá
Vược - Perciformes
3.66.
Họ: Cá Nâu - Scatophagidae
3.67. Giống: Cá Nâu - Scatophagus
3.68.
Loài: Cá Nâu - Scatophagus argus Linnaeus, 1766
Tên phổ thông: Cá Nâu
3.69.
Tên địa phương: Cá Nâu, Cá Nầu.
•
Phân bố
-
Trên thế giới: Theo tài liệu FAO (1998), cá Nâu sống cùng các rạn san hô ở biển và
phân bố cả ở nước ngọt, lợ và mặn. Chúng sống ở độ sâu từ 1- 4m, nhiệt độ phân bố
20- 280C. Trên thế giới chúng thường phân bố ở Ấn Độ, Ôxtrâylia, XriLanca,
Malaixia, Philippin, Thái Lan, Cămpuchia và Trung Quốc [41; 55].
-
Ở Việt Nam: Cá Nâu phân bố chủ yếu ở Vịnh Bắc Bộ, Nam Trung Bộ và Nam Bộ.
Cá Nâu thường sống ở các bãi đá ngầm, bến cảng, các vịnh tự nhiên, vùng rừng ngập
mặn ven biển, vùng cửa sông và cả vùng hạ lưu các con suối [5; 19].
3.70.
Ở Thừa Thiên Huế, cá Nâu có mặt ở tất cả hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai,
Lăng Cô, vùng ven biển và cửa sông. Cá có sản lượng lớn ở các địa phương có cửa sông
thông ra biển như: Vinh Hiền (cửa Tư Hiền); Thuận An. Chúng có đặc tính phân bố theo bầy
đàn, sống nơi có giá thể như các hốc, rễ cây trong các ao, đầm, sông, bãi triều và những
vùng nước lợ, mặn [19].
3.15.
3.16. Hình 1: Bản đồ phân bố của cá nâu (Scatophagus argus) trên thế giới [55].
3.71.
2.1.2.
Đặc điểm hình thái, cấu tạo
3.72. Cá Nâu- Scatophagus argus có thân ngắn, cao và rất dẹp bên, nhìn ngang gần
như tròn. Viền trước vây lưng dốc đứng xuống và có vết lõm sau mắt. Đầu nhỏ và
3.73.
ngắn. Miệng trước nhỏ, rạch nằm ngang, ngắn, không kéo dài tới viền trước
mắt. Trên hàm có răng
nhỏ,
giữa.Mắt lớn vừa
mịn. Rãnh sau môi trên gián
đoạn ở
nằm trên
3.74. đường ngang kẻ từ góc miệng và gần như cách đều giữa mõm và điểm cuối nắp
mang. Khoảng cách 2 mắt cong lồi và tương đương 1,5 lần đường hình mắt [19].
3.17.
3.75.
3.76. Hình 2: Cá nâu (Scatophagus argus)
3.77.
Lỗ mũi trước tròn, dẹt. Cạnh trước xương lệ có răng cưa, xương nắp mang có
một gai. Màng mang hẹp và liền với eo. Rìa tia vây lưng và vây hậu môn gần như thẳng
đứng. Viền đuôi thẳng đứng hoặc hơi lồi. Khởi điểm vây lưng nằm ngang phần cuối nắp
mang, gai cứng nhọn, gai thứ IV, V và VI dài hơn các gai khác. Trước gốc vây lưng có một
gai không cử động được, có hướng về phía đầu. Khởi điểm của vây hậu môn dưới phần gai
cứng sau của tia vây lưng [19].
3.78.
Vẩy lược nhỏ, phủ khắp thân,
vây
lưng và vây
đầu,
gốc vây
hậu môn,
đuôi.
3.79. Đường bên hoàn toàn, từ lỗ mang cong lên phía lưng sau đó chạy vào giữa cán đuôi.
Lưng có màu xanh nhạt, bụng trắng. Thân có các đốm tròn màu nâu lớn nhỏ, kích thước
không giống nhau, sắp xếp xen kẽ trên cơ thể. Các đốm này nhạt dần về phía bụng. Rìa vây
lưng đen thẫm, màng vây nhạt. Tia phân nhánh vây lưng, vây hậu môn và vây đuôi có vân
đen nhạt [5].
2.1.3.
3.80.
Đặc điểm sinh trưởng
Theo Dương Thị Nga (2008) cấu trúc nhóm tuổi của cá nâu gồm 5 nhóm:
nhóm tuổi 0+ chiếm 13,2% quần đàn, cá có chiều dài dao động từ 56 - 85 mm và khối lượng
tương ứng từ 14 - 58g; nhóm tuổi 1+ chiếm 20,2% quần đàn, cá có chiều dài dao động từ 92
- 145 mm và khối lượng tương ứng 70 - 265 g; nhóm tuổi 2+ chiếm 31,7% quần đoàn, cá có
chiều dài từ 143 - 200 mm và khối lượng tương ứng 270 - 745g; nhóm tuổi 3+ chiếm 29,3%
quần đoàn, chiều dài từ 194 - 222 mm và khối lượng tương ứng 577 - 977g; nhóm tuổi 4+
chiếm 5,6% quần đàn, chiều dài từ 225 - 240 mm và khối lượng tương ứng là 780 - 1240g
[19].
3.81.
Tốc độ tăng trưởng về chiều dài của cá nâu cao nhất trong năm đầu đạt
97,7mm, năm thứ 2 tăng thêm 50,8mm (56,1%), năm thứ 3 tăng thêm 43,2mm (47,9%) và
năm thứ 4 tăng thêm 28,6mm (31,6%). Như vậy, vào năm đầu của vòng đời cá tăng trưởng
nhanh về chiều dài, sau đó tốc độ tăng trưởng của cá theo chiều dài chậm dần. Trong cùng
một nhóm tuổi, tốc độ sinh trưởng của cá ở các nhóm tuổi khác nhau cũng đồng đều nhưng
có sự chênh lệch giữa con đực và con cái. Từ một đến hai năm tuổi con đực có tốc độ tăng
trưởng nhanh hơn con cái. Sang tuổi 3 và 4 tốc độ tăng trưởng của con cái lại nhanh hơn con
đực [19]. Phương trình tương quan giữa chiều dài và khối lượng thể hiện qua phương trình
hàm mũ của R.J.H Beverton-S.J Holt (1956): W = 0,0571 x L3,1453.
3.82.
Phương trình sinh trưởng Von Bertalanffy (1954) về chiều dài và khối lượng
của cá nâu [19]:
3.83.
Về chiều dài:
Lt = 328,9 [1 - e -0,25(t+0,88)]
3.84.
Về khối lượng:
Wt = 2641,1 [1 - e -0,038(t+0,017)] 3,1453 .
2.1.4.
3.85.
Đặc điểm dinh dưỡng
Thành phần thức
ăn
của
gồm 28 loại đại
diện cho 6 nhóm
cá Nâu rất đa
dạng,
3.86. khác nhau (3 ngành Tảo và 2 ngành động vật không xương sống và mùn bã hữu cơ).
Trong đó, ngành Tảo Silic - Bacillariophycophyta chiếm ưu thế về thành phần giống (15
giống), ngành Tảo Lam - Cyanophyta có 3 đại diện và ngành Tảo Đỏ - Rhodophycophyta có
1 đại diện. Trong thành phần thức ăn của cá Nâu còn gặp các đại diện của 2 ngành động vật
không xương sống là ngành Giun đốt - Annelida và ngành Chân khớp - Arthropoda với mỗi
ngành 4 đại diện [19; 34].
3.87.
Cá Nâu ít chọn lọc thức ăn mà sử dụng nhiều loại thức ăn khác nhau có trong
thuỷ vực. Thành phần thức ăn gồm cả thực vật lẫn động vật. Trong số những loài thức ăn
phân tích được trong ống tiêu hóa, các ngành tảo chiếm ưu thế hơn về số lượng với 61,54 %,
còn động vật chỉ chiếm 38,46 %. Điều đó cho thấy, cá Nâu thích ăn thực vật hơn động vật
[19].
3.88.
Các loại thức ăn như: Oscillatoria, Achnanthes, Polysiphonia, Amphora,
Codonelliae, Cocconeis, Nitzschia,... có mặt nhiều và tần số bắt gặp khá cao trong ống tiêu
hoá của những cá thể thuộc các nhóm kích thước khác nhau. Có thể nói đây là những loại
thức ăn ưa thích của cá Nâu. Một số loại thức ăn chỉ bắt gặp ở nhóm cá kích thước nhỏ,
không thấy ở nhóm kích thước lớn như Phronimidae, Lycaeopsidae. Ngược lại, các đại diện
như: Daphniiae, Stephanopyxis lại không thấy có mặt trong ống tiêu hoá của nhóm kích
thước nhỏ. Có lẽ, thành phần thức ăn cá Nâu còn phụ thuộc vào từng thời kỳ khác nhau
trong quá trình phát triển cá thể [19; 34; 28].
2.1.5.
Đặc điểm sinh sản
3.89.
• Xác định giới tính
3.90.
Trong cùng một quần đàn cá Nâu thành thục, kích cỡ cá cái thường lớn hơn cá
đực. Cá cái nhỏ nhất thành thục có chiều dài 10,3 cm tương đương với khối lượng 40,5 g.
Trong quần đàn cá Nâu thì tỉ lệ cá cái cao hơn cá đực. Cá Nâu là loài cá khó xác định giới
tính bằng các đặc điểm hình thái bên ngoài. Tuy nhiên, có thể xác định bằng phương pháp
giải phẫu để quan sát tuyến sinh dục. Khi quan sát chúng ta có thể thấy được một vài đặc
điểm như (i) Cá cái có tuyến sinh dục phát triển thường bụng có kích thước to hơn kích
thước bụng cá đực; (ii) nhìn ngang thân cá đực thường ốm và thon dài hơn cá cái; (iii)
xương trán cá đực phát triển, nhô cao hơn con cái và đây cũng là kết quả nghiên cứu của
Barry và Fast (1992) [28; 41].
•
Sức sinh sản
3.91.
Sức sinh sản tuyệt đối và tương đối phụ thuộc chủ yếu vào hệ số thành thục và
kích thước của cá. Cá có hệ số thành thục càng cao thì có sức sinh sản tuyệt đối càng lớn,
đồng thời những cá có kích thước càng lớn thì sức sinh sản tương đối càng cao. Sức sinh sản
tuyệt đối của cá Nâu rất cao, trung bình 519.547 ± 237.776 trứng/cá thể (dao động từ
215.000 - 1.073.733 trứng/cá cái) và sức sinh sản tương đối 1.915.579 ± 880.509 trứng/kg cá
cái (dao động từ 891.505 - 3.365.934 trứng/kg cá cái) cho cá có khối lượng trung bình 294 ±
119 g/con. Sức sinh sản cá Nâu cao hơn đối với một số loài cá biển như cá Đối đất (Liza
Subviridsis) 7.500-27.000 trứng/cá cái (Mohsin and Ambak, 1996) và cá Chẽm (Lates
calcarifer Bloch, 1790) 8.658 - 42.487 trứng/cá cái (P.Kungvankij và ctv., 1986) [28].
•
Mùa vụ sinh sản
3.92.
Mùa vù sinh sản của cá tự nhiên vào tháng 4- 5 và tháng 7- 8 hàng năm. Hệ số
thành thục trung bình quần thể theo tháng cao nhất đạt 16,4% và hệ số thành thục cá thể lớn
nhất đạt 27,2% [28]. Theo kết quả điều tra phỏng vấn người dân ven biển Thừa Thiên Huế
thì cá Nâu giống thường xuất hiện vào khoảng tháng 5- 7 và 9-12 âm lịch hàng năm [19;
34].
2.2.
Tình hình nghiên cứu cá nâu- Scatophagus argus
2.2.1.
3.93.
Nghiên cứu về phân loại, thành phần loài của cá nâu
Cá Nâu đã được mô tả bởi các tác giả như: Mai Đình Yên (1992); Khóa định
loại của FAO; Nguyễn Văn Hảo, Ngô Sỹ Vân (2005) trong "Cá nước ngọt Việt Nam", tập 3;
sách đỏ Việt Nam (1992), phần động vật. về phân loại, Cá Nâu Scatophagus argus
(Linnaeus, 1766) là loài duy nhất trong bốn loài thuộc họ Scatophagidae, bộ cá Vược
Perciformes phân bố ở ven biển Việt Nam [5; 38; 55].
3.94.
Họ cá Nâu - Scatophagiidae là một họ cá nhỏ thuộc bộ cá Vược Perciformes.
Phân bố trên các vùng biển từ Ấn Độ đến Tây Thái Bình Dương. Họ cá Nâu có bốn loài
(Hình 3). Ở một số địa phương cá Nâu còn có tên gọi khác như: Cá Nầu, cá nú, cá hói.
Chúng
thường phân bố ở vùng nước lợ và vùng cửa sông, là loài ăn thực vật
3.95. (rong, tảo) phân hữu cơ và xác thối.
Scatophagus argus Linnaeus, 1766
3.96.
Selenotocapapuensis Fraser
Brunner, 1938
Scatophagus tetracanthus Lacepede, 1802 Selenotoca multifasciata
Richardson, 1846 Hình 3: Một số loài thuộc họ cá Nâu - Scatopagiidae
[55].
2.2.2. Nghiên cứu đặc điểm sinh học dinh dưỡng của cá nâu Nguyễn Thanh Phương
và ctv (2004) nghiên cứu đặc điểm sinh học dinh dưỡng cá nâu phân bố tại huyện
Ngọc Hiển, Tỉnh Cà Mau. Kết quả khảo sát về đặc điểm hình thái cơ quan dinh
dưỡng của cá nâu cho thấy cá có miệng nhỏ; rạch miệng nằm ngang và ngắn; môi co
duỗi được; răng nhỏ và mịn; cá có bốn đôi cung mang và mỗi cung mang có hai hàng
lược mang; màng mang hẹp và liền với eo mang; thực quản cá nhỏ và ngắn; dạ dày
nhỏ, vách mỏng, mặt trong có nhiều nếp gấp; ruột nhỏ, vách mỏng và cuộn tròn. Tỷ
lệ giữa chiều dài ruột và chiều dài thân cá là 2,88, cho thấy rằng cá nâu có thuộc tính
ăn tạp. Kết quả phân tích thành phần thức ăn trong dạ dày và ruột cá nâu cho thấy
thức ăn mùn bã hữu cơ chiếm 97,75%, các loài tảo chiếm 2,25%. Trong các loài tảo
cá nâu sử dụng, các loài Coscinodiscus, Nitzchia, Lygbia, Closteria và Navícula
chiếm ưu thế. Khi phân tích phát hiện thấy ở đầu ống tiêu hóa các tế bào tảo chứa đầy
nguyên sinh chất nhưng khi phân tích ở phần ruột sau thì hầu hết chỉ còn vỏ tảo; đối
với các loài tảo sợi thì trật tự sắp xếp của các tế bào tảo bị biến đổi và hầu như lực
liên kết giữa chúng hết sức lỏng lẻo điều này cho thấy thành phần thực vật được cá
tiêu hóa tốt [27].
3.97.
Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Trịnh và ctv (1996) thì cá nâu ăn tạp
thiên về thực vật, trong đó tảo lục Enteromophar và Chaetomophar có tần suất xuất hiện và
khối lượng lớn trong ống tiêu hóa. Thức ăn tự nhiên của cá phụ thuộc rất nhiều yếu tố, trong
đó các yếu tố có tính chất quyết định như cấu trúc ống tiêu hóa, thức ăn trong môi trường và
giai đoạn phát triển của cá. Trên cơ sở giải phẩu hình thái cấu tạo ống tiêu hóa và kết quả
của các tác giả nghiên cứu trong và ngoài nước có thể khẳng định cá nâu là loài ăn tạp thiên
về thực vật [27].
3.98. Nguyễn thị Thư (2004) nghiên cứu đặc điểm sinh học dinh dưỡng cá nâu phân
bố tại đầm phá Tam Giang - Thừa Thiên Huế. Kết quả cho thấy, ở tất cả các nhóm kích
thước cá nâu khác nhau tỷ lệ chiều dài ruột so với chiều dài thân (RGL) RGL < 1 (thể hiện
tập tính ăn thịt) đều không bắt gặp ở một cá thể nào. Từ đó có thể kết luận cá Nâu không
phải là loài ăn thịt. Ở nhóm cá có kích thước 2 - 5 cm tỷ lệ giữa chiều dài ruột và chiều dài
thân có sự biến động khá lớn. Trong khi tần số xuất hiện tỷ lệ RGL nằm trong khoảng từ 1
đến 3 (thể hiện tính ăn tạp) chiếm 74,07% thì tần số xuất hiện tỷ lệ RGL > 3 chỉ chiếm
25,93%. Như vậy, ở nhóm cá có kích thước 2 - 5 cm, cá ăn tạp là chủ yếu, chỉ một số ít là ăn
tạp thiên về thực vật. Đối với nhóm cá có kích thước 5 - 10 cm, tỷ lệ RGL đã có sự thay đổi
khá rõ, tần số xuất hiện tỷ lệ RGL nằm trong khoảng từ 1 đến 3 cho tí nh ăn tạp chiếm
43,33%, tần số xuất hiện RGL >3 thể hiện tính ăn tạp thiên về thực vật chiếm 56,67%.
Nhóm có kích thước lớn hơn 10 cm, sự thay đổi tỷ lệ RGL càng thể hiện rõ nét hơn. Tần số
xuất hiện RGL > 3 thể hiện tính ăn tạp thiên về thực vật chiếm 64%, tần số xuất hiện tỷ lệ
RGL nằm trong khoảng từ 1 đến 3 cho tính ăn tạp chiếm chiếm 36%. Qua kết nghiên cứu, có
thể kết luận rằng, khi kích thước tăng dần, cá Nâu chuyển dần từ tập tính ăn tạp sang ăn tạp
thiên về thực vật [34]. Cá Nâu ít chọn lọc thức ăn mà sử dụng nhiều loại thức ăn khác nhau
có trong thuỷ vực. Thành phần thức ăn
Trong số những
3.99.
gồmcả
thực
vật lẫn động
vật.
loại thức ăn phân tích
được, các ngành tảo chiếm ưu thế hơn về số lượng, còn động vật và
mùn bã hữu cơ chỉ chiếm một phần nhỏ. Điều đó cho thấy, cá Nâu thích ăn thực vật hơn
động vật. Thành phần thức ăn của cá Nâu rất đa dạng, gồm 19 loại đại diện cho 6 nhóm khác
nhau (4 ngành Tảo và 2 ngành động
vật
không
xương
sống và mùn bã
hữu cơ).Trong đó,
3.100. ngành Tảo Silic - Bacillariophycophyta chiếm ưu thế về thành phần (11 chi), ngành
Tảo Lam - Cyanophyta có 1 chi, Ngành Tảo Lục - Chlorophyta có 2 chi và ngành Tảo
3.101. Đỏ - Rhodophycophyta có 2 chi. Trong thành phần thức ăn của cá Nâu còn gặp các
đại diện của 2 ngành động vật không xương sống là ngành Giun đốt - Annelida với đại diện
là lớp giun nhiều tơ và và ngành Chân khớp - Arthropoda đại diện là nhóm giáp xác chân
chèo Copepoda [19; 34].
2.2.3.
Nghiên cứu đặc điểm sinh sản và kỹ thuật sản xuất giống cá nâu
3.102. Barry T.P. (1991) nghiên cứu tạo tinh cho cá nâu bằng 17á- Methytestosterone
trước khi sử dụng LHRHa. Cá đực trưởng thành có chiều dài 12 cm, khối lượng 100450 g;
cá được đánh bắt ở vùng biển phía nam đảo Panay của Philipines. Tiến hành thực hiện các
thí nghiệm. Thí nghiệm 1: Mẫu cá dùng để sản xuất tinh chia làm 4 nhóm (i) đối chứng
(không sử dụng hormone); (ii) sử dụng LHRHa với lượng 10pg; (iii) sử dụng 17áMethytestosterone với lượng 1mg và (iv) 1 mg 17á- Methytestosterone + 10pg LHRHa; mỗi
nhóm thí nghiệm có 4 cá thể. Thí nghiệm 2: Đánh giá ảnh hưởng của hormone HCG lên sự
tạo tinh của cá với liều lượng 5 và 10 IU/g; mẫu cá được chia làm 3 nhóm (i) tiêm HCG với
lượng 5 IU/g, (ii) tiêm HCG với lượng 10 IU/g và (iii) đối chứng chỉ tiêm nước muối sinh
lý; liều sơ bộ tiêm 1/3 lượng thuốc vào chiều tối và liều quyết định tiêm 2/3 lượng thuốc vào
lúc 12 giờ sau đó. Kết quả cho thấy tỷ lệ tạo tinh thu được giữa các nhóm cá ở thí nghiệm 1:
(i) đối chứng (không sử dụng hormone) 36,4%; (ii) 10pg LHRHa 38,1%; (iii) 1 mg 17áMethytestosterone 14,3% và (iv) 1mg 17á- Methytestosterone + 10pg LHRHa 25,0%. Tuy
nhiên, sự sai khác này không có ý nghĩa về mặt thống kê (p>0,05). Ở thí nghiệm 2 lô đối
chứng có tỷ lệ tạo tinh 33,3%; lô HCG 5 IU/g đạt 17,5% và lô HCG 10 IU/g đạt 21,4%. Như
vậy, có thể kết luận HCG hầu như không có tác dụng trong sự kích thích chín và tạo tinh của
cá nâu [40].
3.103. Yi Ta Shao và ctv (2004) nghiên cứu sự lưỡng tính của cá nâu qua tổ chức tế
bào học của tuyến sinh dục. Xác định sự phát triển giới tính ở cá nâu được thực hiện trong 2
năm (1999-2000), cá ban đầu được nuôi trong ao có độ mặn 22%0 sau khi đạt kích thước
thành thục đem chia làm 3 nhóm (i) bố trí vào tháng 9 năm 1999 gồm 9 cá thể; (ii) bố trí vào
tháng giêng năm 2000 với 13 cá thể; (iii) bố trí vào tháng 8 năm 2000. Cá được cho ăn thức
ăn công nghiệp. Các chỉ tiêu theo dõi gồm sự lưỡng tính của tuyến sinh dục và hệ số thành
thục của cá. Kết quả cho thấy, ở nhóm 1 và 2 tuyến sinh dục có sự phân tính đực cái rõ ràng,
trong khi đó ở nhóm 3 có xuất hiện cá lưỡng tính.
3.104. Không có sự phát triển của tuyến sinh dục và tế bào trứng ở cá cái ngay cả trong
những tháng trùng với mùa vụ sinh sản tự nhiên của cá. Như vậy, mật độ nuôi cao, thức ăn
thiếu dinh dưỡng và sự thay đổi độ mặn có ảnh hưởng tới sự phát triển sinh dục của cá [53].
Mẫu lưỡng tính được tìm thấy ở cá thể có khối lượng lớn hơn cá thể đực nhưng lại bé hơn cá
thể cái; tuyến sinh dục lưỡng tính không thể hiện rõ ràng giữa tinh sào và noãn sào. Tinh sào
chỉ thể hiện rõ ở pha sinh tinh không thể hiện ở pha noãn bào hóa. Tất cả các mẫu lưỡng tính
cá đều có chiều dài trong khoảng từ 15-17,5 cm; ở giai đoạn 1-1,5 tuổi trong vòng đời cá
nâu [53].
3.105. Nguyễn Thanh Phương và ctv (2004) nghiên cứu đặc điểm sinh học sinh sản cá
nâu phân bố tại huyện Ngọc Hiển, Tỉnh Cà Mau. Kết quả cho thấy, cá nâu thuộc nhóm cá
khó xác định giới tính bằng các đặc điểm hình thái bên ngoài. Tuy nhiên, đến mùa vụ sinh
sản có thể phân biệt được đực cái bằng các đặc điểm như (i) cá cái có tuyến
3.106. sinh dục phát triển, thường có bụng to hơn cá đực; (ii) nhìn ngang thân cá đực thường
ốm và thon dài hơn cá cái; (iii) xương trán cá đực phát triển và nhô cao hơn con cái và đặc
điểm này phù hợp với nghiên cứu của Barry và Fast (1992) [28; 41].
3.107.Cá có hai thời điểm mà hệ số thành thục cao là các tháng 4, 5 và 7, 8. Hệ số
thành thục trung bình của quần thể cao nhất đạt 16,4% và hệ số thành thục cá thể lớn nhất
đạt 27,2%. Như vậy, có thể xác định mùa vụ sinh sản chính của cá nâu vào khoảng tháng 4,
5 và 7, 8 hàng năm. Sức sinh sản tương đối và tuyệt đối của cá phụ thuộc vào hệ số thành
thục và kích cỡ cá, trong quần đoàn cá nâu thành thục thì cỡ cá cái thường lớn hơn cá đực.
Cá có hệ số thành thục càng cao thì sức sinh sản tuyệt đối càng lớn, đồng thời ở những cá
thể càng lớn thì sức sinh sản càng cao. Sức sinh sản tuyệt đối của cá nâu rất cao, trung bình
519.547 ± 237.766 trứng/cá cái (dao động từ 215.0001.073.733 trứng/cá cái) và sức
sinh
sản tuyệt đối của
cá từ
1.915.579 ± 880.509
3.108. trứng/cá cái (dao động từ 891.505 - 3.365.934 trứng/cá cái) [28].
3.109. Lý văn Khánh và ctv (2010) nghiên cứu kích thích sinh sản cá nâu
(Scatophagus argus) bằng hormone Ovaprim; LHRH-a và HCG với các liều lượng khác
nhau. Cá bố mẹ thành thục có khối lượng 80-400 g/con đánh bắt từ nguồn tự nhiên. Cá được
tiêm ovaprim với các liều 0,5; 1,0 và 1,5 mL/kg; LHRH-a với các liều 50; 100 và 150 pg/kg
kết hợp với domperidon 5 mg/kg và HCG với các liều 1.000; 1.500 và 2.000 Ul/kg. Mỗi liều
của từng loại kích dục tố được tiêm cho 15 cặp cá. Cá được tiêm 2 lần, liều sơ
3.110.
bộ bằng 1/3 tổng liều và sau 24 giờ tiêm liều quyết định bằng 2/3 còn lại. Kết
quả cho thấy tỷ lệ rụng trứng của cá dao động từ 33,3-93,3%, với hormone ovaprim 1,0
mL/kg cho tỷ lệ cá rụng trứng cao nhất (93,3%). Sức sinh sản tương đối của cá dao động từ
1.150.345-3.115.541 trứng/kg. Thời gian hiệu ứng dao động từ 12,0 - 32,0 giờ. Tỷ lệ thụ
tinh của cá ở liều tiêm 1 mL/kg ovaprim đạt 76,5% khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05)
so
với các liều còn lại. Tỷ lệ nở của cá ở các nghiệm thức dao động 30,9
3.111. 69,5%, cao nhất ở nghiệm thức 1 mL/kg ovaprim. Tóm lại, có thể sử dụng ovaprim
với liều 0,5-1,5 mL/kg hay LHRH-a với liều 50-100 pg/kg để kích thích sinh sản cá nâu
[14].
2.2.4.
Nghiên cứu nuôi thương phẩm cá nâu
3.112. Nguyễn Hữu Khánh và ctv (2007) đã thử nghiệm nuôi cá dìa (Siganus
guttatus), cá kình (Siganus oramin) kết hợp với cá nâu (Scatophagus argus) và cá đối
(Mugil cephalus) ở đầm phá Tam Giang - Cầu Hai, Tỉnh Thừa Thiên Huế. Nghiên cứu tiến
hành với 2 mô hình. Mô hình 1 “Nuôi cá dìa kết hợp với cá nâu và cá đối” được tiến hành
với 3 thí nghiệm ở các mật độ thả cá dìa khác nhau; thí nghiệm 1: cá dìa 0,5 con/m 2 + cá nâu
0,2 con/m2 + cá đối 0,2 con/m2; thí nghiệm 2: cá dìa 1 con/m 2 + cá nâu 0,2 con/m2 + cá đối
0,2 con/m2 và thí nghiệm 3: cá dìa 1,5 con/m 2 + cá nâu 0,2 con/m2 + cá đối 0,2 con/m2. Kích
cỡ cá thả: cá dìa 30g/con, cá nâu 40g/con và cá đối 10g/con. Kết quả của mô hình cho thấy,
cá có tốc độ tăng trưởng tương đối nhanh, sau thời gian 4 tháng nuôi cỡ cá nâu thu hoạch
dao động từ 137-143g/con, tỷ lệ sống của cá đạt 49,6-60,7%. Sự thay đổi mật độ nuôi của cá
dìa trong các thí nghiệm không làm ảnh hưởng đến tăng trưởng của cá nâu và cá đối. Năng
suất của mô hình đạt được từ 1.051 - 2.036 kg/ha, doanh thu trung bình đạt 19,2-33,25 triệu
đồng/ao (2000 m2) và lợi nhuận của mô hình đạt 5,88 - 6,78 triệu đồng [12].
3.113. Mô hình 2 “Nuôi cá kình kết hợp với cá nâu và cá đối” được tiến hành với 2
thí nghiệm ở các mật độ thả cá dìa khác nhau; thí nghiệm 1: cá kình 5 con/m 2 + cá nâu 0,2
con/m2 + cá đối 0,2 con/m2; thí nghiệm 2: cá kình 10 con/m 2 + cá nâu 0,2 con/m2 + cá đối
0,2 con/m2. Kích cỡ cá thả: cá kình 6,73g/con, cá nâu 40g/con và cá đối 10g/con. Kết quả
của mô hình cho thấy, cá có tốc độ tăng trưởng tương đối nhanh, sau thời gian 4 tháng nuôi
cỡ cá nâu thu hoạch dao động từ 136,67-143,33g/con, tỷ lệ sống của cá đạt 42,3-52,0%. Sự
thay đổi mật độ nuôi của cá kình trong các thí nghiệm không làm ảnh hưởng đến tăng trưởng
của cá nâu và cá đối, điều này có thể kết luận cá nâu sinh trưởng tốt trong ao nuôi cá kình.
Năng suất của mô hình đạt được từ 1.265 - 1.830 kg/ha, doanh thu trung bình đạt 16,5-21,63
triệu đồng/ao (2000 m2) và lợi nhuận của mô hình đạt 3,00 - 4,22 triệu đồng [12].
3.114. Lý Văn Khánh và ctv (2010) nghiên cứu ương nuôi cá nâu (Scatophagus
argus) từ giai đoạn cá hương lên cá giống ở các mức độ mặn khác nhau (0%o; 5%o; 10%o;
15%o; 20%o; 25% và 30%). Cá giống thí nghiệm được lấy từ nguồn cá sinh sản nhân tạo có
khối lượng trung bình 0,14 g/con (cá 1 tháng tuổi) ương với mật độ 25 con/bể 50 lít. Cá
được cho ăn thức ăn công nghiệp có hàm lượng đạm 35%, bể nuôi được sục khí liên tục. Kết
quả cho thấy, sau 1 tháng ương, cá nâu ương ở độ mặn 5% tăng trưởng tốt nhất với khối
lượng trung bình 0,91 g/con, tốc độ tăng trưởng đạt 0,026 g/ngày và tốc độ tăng trưởng đặc
trưng 6,22 %/ngày, khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức khác. Cá
tăng trưởng chậm ở nghiệm thức 0%. Tỷ lệ sống trung bình cao nhất ở nghiệm thức 5%
(92,8%) khác biệt không có ý nghĩa với nghiệm thức 10% (85,5%) nhưng khác biệt có ý
nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức độ mặn còn lại và thấp nhất vẫn là nghiệm
thức 0% (55,1%). Kết quả cho thấy cá nâu rất rộng muối và độ mặn tốt nhất cho tăng trưởng
và tỷ lệ sống là 5% [13].
3.115. Nguyễn Quốc Hùng (2010) nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ lên tốc độ sinh
trưởng và tỷ lệ sống của cá nâu (Scatophagus argus Linnaeus, 1766). Đề tại thực hiện tại Xã
Hương Phong, huyện Hương Trà, Tỉnh Thừa Thiên Huế; thí nghiệm bố trí với các mức mật
độ 5, 10 và 15 con/m2; trong các giai có thể tích 2 m 3 cắm tại đầm phá Tam Giang; kích cỡ
cá thả (2-3 cm, 5,2g); tiến hành nuôi trong thời gian 80 ngày. Kết quả cho thấy, tỷ lệ sống
cao ở các mật độ 10 con/m 2 (92,78%) và 5 con/m2 (92,58%). Thấp nhất ở nghiệm thức mật
độ 15 con/m2 (90,1%). Thời gian đầu của thí nghiệm hiện tượng cá chết xảy ra ở cả ba mức
mật độ, nguyên nhân chết ở thời kỳ này là do xuất hiện các đợt không khí lạnh, tỷ lệ chết
đồng đều ở cả ba mức mật độ, nhưng càng về sau tỷ lệ chết có xu hướng tăng ở nghiệm thức
mật độ 15 con/m2. Tuy nhiên, tỷ lệ sống ở các mức mật độ sai khác có ý nghĩa thống kê (p
<0.05). Như vậy, các mức mật độ nuôi không ảnh hưởng tới tỷ lệ sống của cá [10].
3.116. Cá đạt chiều dài trung bình 5,53 cm; khối lượng trung bình 11,17g. Tốc độ
tăng trưởng khối lượng đạt 0,116 g/ngày đối ở mật độ 5 con/m 2; ở mật độ 10 con/m2 đạt
0,118 g/ngày và mật độ 15 con/m 2 có tốc độ tăng trưởng thấp nhất chỉ đạt 0,071 g/con. Qua
phân tích phương sai (ANOVA) cho kết quả tăng trưởng giữa các nghiệm thức mật độ sai
khác có ý nghĩa (p<0,05). Như vậy, các mức mật độ có ảnh hưởng tới tăng trưởng của cá
Nâu [10].
3.117. 2.3. Tình hình khai thác và nuôi cá nâu ở Thừa Thiên Huế
2.3.1.
3.118.
Tình hình khai thác cá nâu ở Thừa Thiên Huế
Hiện nay, sản
Thừa
phẩm
cá nâu trên
Thiên Huế chủ yếu là từ
khai
thị
trường
3.119. thác tự nhiên. Phương tiện khai thác cá nâu chủ yếu là nghề đáy. Ngoài ra, còn có các
phương tiện khai thác khác như giã cào, rê trôi, lừ... Tuy nhiên, qua điều tra ngư dân những
năm gần đây sản lượng cá nâu khai thác được rất ít [19]. Kích thước và sản lượng khai thác
cá nâu phụ thuộc vào mùa vụ, nhóm kích thước lớn hơn 150mm tương ứng với nhóm tuổi
2+, 3+, 4+ chiếm tỷ lệ tương đối cao và đa số đều có trứng. Sản lượng cao nhất vào các
tháng 5, tháng 6 và thấp ở các tháng 11, 12, 1 và 2. Theo ngư dân trong vài năm trở lại đây,
sản lượng cá nâu bị suy giảm nghiêm trọng, chỉ đạt 1-2 kg/lần đánh bắt, thậm chí có khi
không có [19].
3.120. Theo Dương Thị Nga (2008) khi thu mẫu cá nâu ở khu vực đầm phá Tam Giang
cho thấy cá nâu khai thác hiện nay có kích thước nhỏ (nhóm tuổi 1+ và 2+ chiếm 56,8%), rất
ít những cá thể có kích thước lớn, thậm chí còn bắt gặp những cá thể có kích thướccòn
nhỏ (nhóm 0+
3.121.
rất
chiếm 10,7% so với tổng số cá thể). Đây là những
con còn non, chưa đến tuổi thành thục sinh dục, cho chất lượng thương phẩm
không cao, mặt
khác những
trọng cho quần
đàn
cá thể
này là nguồn
bổ sung
quan
bố mẹ
3.122. trong thời gian tới cũng bị ngư dân khai thác triệt để, do đó nguy cơ cạn kiệt nguồn
lợi loài cá này ở vùng đầm phá Tam Giang rất cao. Cần có những giải pháp thiết thực để bảo
tồn và phát triển nguồn gen quý hiếm này [19].
2.3.2.
Nuôi cá nâu ở Thừa Thiên Huế
3.123. Nuôi cá nâu ở đầm phá Tam Giang đã có từ nhiều năm nay, cá được nuôi với
các hình thức chính quảng canh, bán thâm canh trong lồng và nuôi xen ghép trong ao nuôi
tôm sú. Nguồn giống cá nâu chủ yếu được thu từ nguồn tự nhiên, cá nâu hiện diện trong ao
nuôi tôm như những đối tượng nuôi phụ nhằm cải tạo môi trường ao nuôi, hiện nay đã có
một số ngư dân nuôi đơn cá nâu trong lồng nhưng kỹ thuật nuôi còn đơn giản, thức ăn chủ
yếu dựa vào nguồn rong (Gracilaria sp, Enteromophar sp) tự
3.124. nhiên, thời gian nuôi cá từ 12 cho đến 18 tháng, sản lượng cá thu được không cao
[19].
3.125. Việc sinh sản nhân tạo cá nâu chưa được nghiên cứu, chưa tiến hành thử
nghiệm sản xuất giống nên cần ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật để sản xuất giống,
nâng cao năng suất trong nuôi cá nâu và hình thành một số vùng nuôi loài đặc sản có giá trị
kinh tế này nhằm tạo điều kiện cho người dân địa phương phát triển kinh tế, góp phần bảo
vệ nguồn lợi cá nâu [19].
2.5. Tình hình nghiên cứu và sử dụng thức ăn trong nuôi thủy sản
2.4.1.
Thức ăn giàu protein sử dụng trong nuôi trồng thủy sản
3.126. Có hai nhóm thức ăn giàu protein là nhóm có nguồn gốc thực vật và nhóm
nguồn gốc động vật. Nhóm thức ăn protein nguồn gốc thực vật có hai nhóm nhỏ:
-
Nhóm thức ăn có 20 - 30% protein thô, trong nhóm này có bã rượu, bã bia, bã mạch
nha,... hàm lượng protein 25 - 27%, chất lượng protein thấp, thiếu lysine, xơ tương
đối cao (12 - 15%) [21].
-
Nhóm thức ăn chứa 30 - 45% protein, trong nhóm này có các loại khô dầu lạc, khô
dầu bông, khô dầu lanh, khô dầu lang, khô đậu tương, khô hướng dương, khô cải
dầu,... Hàm lượng protein của các loại khô dầu này từ 42 - 46%. Chất lượng protein
cao hơn nhóm thức ăn trên. Tuy nhiên, khô dầu lanh và khô dầu bông nghèo lysine,
khô dầu lạc nghèo acid amin chứa S, chỉ có khô đậu tương là có chất lượng khá hoàn
toàn. Tỷ lệ xơ của nhóm thức ăn này thấp hơn nhóm trên (9 - 11%), riêng khô đậu
tương rất thấp (5%). Chất béo của nhóm khô dầu phụ thuộc vào cách lấy dầu, nếu lấy
dầu bằng cách ép thì chất béo của sản phẩm còn 6 - 8%, còn chiết dầu bằng dung môi
hữu cơ thì chất béo chỉ còn 1 - 2% [21].
2.4.1.1.
Đặc điểm dinh dưỡng của một số loại khô dầu
3.127. Khô đậu tương: chứa 42-48% protein, giàu lysine (2,45%) nhưng hạn chế
methionine và cystine, Ca, P, và vitamin B. Khẩu phần nuôi cá O. niloticus có thể thay hoàn
toàn bột cá bằng khô đậu tương nếu bổ sung thêm 0,25% methionine [21].
3.128. Khô dầu bông: chứa 40- 45% protein, nghèo methionine, cystine, lysine, Ca,
P, giàu vitamin Bi, chứa 0,003 - 0,2% gossypol là chất độc gây ức chế enzym tiêu hoá và
làm giảm độ ngon của khô dầu bông [21].
3.129. Khô dầu lạc: chứa 45- 50% protein, nghèo lysine, methionine, cystine, dự trữ trong
điều kiện nóng ẩm sẽ sản sinh mycotoxin, đặc biệt là aflatoxin. Cá rất nhạy cảm
3.130. với độc tố aílatoxin, liều gây độc ở cá là 1 ppb, trong khi ở gà con > 50 ppb, lợn con
> 50 ppb, và bê > 200 ppb [21].
3.131. Khô dầu cải dầu: protein giống khô dầu đậu tương, chứa glucozit làm giảm
sinh trưởng của cá. Glucozit bền đối với nhiệt.
3.132. Khô dầu hướng dương: chứa 35- 40% protein, không chứa chất độc, xơ cao
(16%).
3.133. Khô dầu vừng: có 40% protein, giàu methionine, arginine và leucine, nhưng
thiếu lysine. Chứa acid phytic dễ kết hợp với chất khác như acid amin, vi khoáng... tạo thành
phytat không hoà tan, không hấp thu được, làm mất cân đối acid amin và vi khoáng khẩu
phần [21].
3.134. Bảng 1: Thành phần dinh dưỡng của nhóm thức ăn giàu protein nguồn gốc thực
vật
3.19.
3.20.
3.21.
3.22.
3.18. Thành phần
Khô tư 3.25.
Khôbôn 3.26.
Khô dừa
Khô lạc
dầu
3.24.
3.27.
ơng 88
3.28. Vật chất khô (%)
3.30.g 91
3.31. 90
3.32. 89
3.29.
3.34. 45- 3.35. 41 3.36. 21.5 3.37. 45-48
3.33. Protein (%)
3.38. Lipid (%)
3.39.48 1.9 3.40. 1.4
3.41. 1.6
3.42. 1.1
3.43. Dẫn xuất không đạm
3.44. 28. 3.45. 29.1 3.46. 43.9
3.47. (%)
5
3.48. Khoáng (%)
3.49. 6.2 3.50. 6.5
3.51. 7.0
3.52. 4.5
3.53. Năng lượng thô
3.54. 17. 3.55. 17.9 3.56. 16.1
3.57. (MJ/kg)
5
3.58. Năng lượng tiêu hóa
3.59. 13. 3.60. 9.1
3.61. 3.62. (MJ/kg)
3.63. [Nguồn: Lê Đức Ngoan và ctv,5 2008].
3.64.
3.135.
2.4.I.2.
Đặc điểm của một số thức ăn giàu protein nguồn gốc động vật Nhóm thức
ăn giàu protein nguồn gốc động vật gồm có bột thịt, bột thịt xương, bột máu, bột cá, phụ
phẩm sữa,... Thành phần dinh dưỡng của một số loại thức ăn (Bảng 2).
3.65. Bảng 2: Thành phần dinh dưỡng của nhóm thức ăn giàu protein nguồn gốc
động vật
3.68.
3.69. Khoáng (%)
3.67. Prot
3.66. Thức ăn
Lipid
ein (%)
3.73. Na
3.74. P
(%)
3.75. Bột thịt
3.76. 53
3.77. 10
3.78. 8,0
3.79. 4,03
3.83.
10,0
3.80. Bột thịt xương
3.81. 51
3.82. 10
3.84. 5,07
3.85. Bột máu
3.88. 0,3
3.86. 80
3.87. 2
3.89. 0,22
3.93. 3.94. 3.90. Bột cá
3.91. 50
3.92. 4
3.96. 65
3.98. 3.99. 3.95.
3.97. 1
3.101. 70
3.103. 3.104. 3.100.
3.102. 1
3.105. Sữa : Bột sữa
3.106. 34
3.107. 1
3.108. 1,2
3.109. 1,0
khử3.110.
mỡ Váng sữa
3.111. 14
3.112. 1
3.113. 0,9
3.114. 0,8
(whey)
3.116. 493.117. 3.115. Bột
tôm
3.118.
3.119.
74 603.120. Phụ phẩm gia
3.121.
3.122. 153.123.
3.124.
cầm Bột lông vũ thuỷ 3.126.
65 8020 3.125.
3.127.
3.128.
3.129.
phân
85
3.130.
3.136.
3.137.
Bột cá: nguồn cung cấp protein tốt nhất cho các đối tượng nuôi thủy sản,
hàm lượng protein thô biến động từ 50% đến 70% phụ thuộc vào nguồn cá, cách chế biến.
Bột cá chứa đầy đủ các acid amin cần thiết cho động vật thủy sản, giàu lysine (7,8% CP),
methionine (3,5% CP), methionine+cystine (4,7% CP), tryptophan (1,3% CP), threonine
(4,9% CP). Đặc biệt, trong thành phần lipid của bột cá có nhiều acid béo cao phân tử không
no (HUFA). Trong bột cá có hàm lượng vitamin A và D cao và thích hợp cho việc bổ sung
vitamin A trong thức ăn. Bột cá làm cho thức ăn trở nên có mùi hấp dẫn và tăng tính ngon
miệng của thức ăn. Hàm lượng khoáng trong bột cá luôn lớn hơn
khoáng được
động
vật
thủy
16% và là nguồn
sản sử dụng hiệu quả.
3.138. Năng lượng thô của bột cá từ 4100 - 4200 kcal/kg. Ngoài ra, một số nghiên cứu cho
thấy trong bột cá có chứa chất kích thích sinh trưởng, đây là nguyên nhân chính khi thay thế
bột cá bằng các nguồn protein động vật khác kết quả không hoàn toàn đạt được như sử dụng
bột cá. Bột cá được chia làm hai loại: bột cá nhạt và bột cá mặn. Trong chế biến thức ăn cho
động vật thủy sản chỉ sử dụng bột cá nhạt (độ muối <5%o). Bột cá thường được làm từ cá
trích, cá mòi và cá cơm. Chất lượng bột cá phụ thuộc vào loài, độ tươi của nguyên liệu,
phương thức chế biến và bảo quản. Có hai phương pháp chế biến bột cá:
-
Chế biến ẩm: Cá tươi đem hầm hơi sau đó ép để tách nước và dầu, bã được
3.139. sấy khô nghiền thành bột, làm bền bột bằng các chất chống oxy hoá. Dịch ép được
chiết mỡ, cô đặc rồi cho thêm vào bột để bổ sung vitamin và protein hoà tan.
-
Chế biến khô: Cá sau khi nấu chín (hoặc hầm chín) rồi làm khô không tách mỡ. Bột
cá cũng có thể chế biến theo phương pháp chiết bằng dung môi. Bột cá chế biến theo
phương pháp này rất giàu protein (80%) và ít mỡ [21].
3.140. Cá ủ ướp (fish silage): Đây là cách bảo quản bằng phương pháp lên men sinh
học trong môi trường axít. Cá hay phụ phẩm cá được chặt nhỏ, trộn với bột sắn và rỉ mật
theo tỷ lệ 5 kg cá + 3 kg bột sắn + 2 kg rỉ mật. Có thể thay bột sắn bằng bột gạo, bột ngô,
bột các loại khoai củ hoặc chỉ cần ủ với rỉ mật. Có điều kiện thêm axít hữu
3.141. cơ như aicd formic hay chế phẩm lên men lactobacillus. Cá đã băm
nhỏ đặt vào các thùng nhựa ủ kín, thỉnh thoảng khuấy đều. Trong quá
trình ủ, acid lactic được hình thành, pH xuống dưới 4,5 nhờ vậy, sản phẩm
được bảo quản vài tháng không hư
3.142.
hỏng. Cá ủ
ướp
có hàm
lượng protein từ
với vật
chất
khô,
tuỳ theo
30 - 50% so
3.143. nguyên liệu đem ủ và có nhiều acid amin quý như lysine, methionine [21].
3.144.
Bột tôm: phụ phẩm của nhà máy chế biến tôm đông lạnh bao gồm đầu
tôm và vỏ tôm. Hàm lượng protein 30-40%, chứa đầy đủ các acid amin thiết yếu, tuy nhiên,
methionine acid amin là một giới hạn. Bột đầu tôm có thể thay 20-30% bột cá và không nên
bổ sung quá 15% trong khẩu phần ăn của tôm. Bột đầu tôm là nguồn cung cấp acid béo
không no (DHA, EPA), cholesterol, asthaxanthin, khoáng và chứa cả chất dẫn dụ. Ngoài ra,
bột đầu tôm giàu chitin (15-23%) là chất cần thiết cho quá trình hình thành vỏ của
Mục
3.145.
đích bổ sung
bột đầu tôm vào thức ăn nhằm cải
thiện mùi vị hấp
dẫn của
thức ăn. Chất
đầu
động
phụ
tôm rất biến
tôm.
lượng
của
bột
3.146. thuộc vào nguyên liệu, phương thức chế biến và bảo quản [21].
3.147. Bột lông vũ thuỷ phân: Hàm lượng protein cao tới 80-85% nhưng không cân
đối acid amin (nghèo lysine, histidine và tryptophan). Thành phần protein chủ yếu là keratin
nên tỷ lệ tiêu hóa rất thấp (khoảng 50%). Bột lông vũ thủy phân có thể thay 30% bột cá
trong khẩu phần cá rô phi và cá trê [21].
3.148. Bột thịt: bao gồm phế phụ phẩm lò mổ gồm tất cả những phần không dùng
làm thức ăn cho
trong
người như:
dạ
ruột già, gân, móng,
thức
ăn
dày, móng và lông.
3.149. Hàm lượng dinh dưỡng biến đổi nhiều tuỳ theo nguồn phụ phẩm, protein từ 30-60%,
lipit 8-11%, Ca 4,5-5% và P 8-10%. Nhìn chung, giá trị protein của cả hai loại bột này đều
không cao, hàm lượng methionin thấp nên hiệu quả sử dụng thấp khi làm thức ăn cho động
vật thuỷ sản. Hàm lượng bột thịt xương được đề nghị sử dụng trong thức ăn cho tôm không
quá 15% [11].
3.150.
Bột máu: có hàm lượng protein cao tới 85-90%, rất giàu lysine (9-11%), tuy
nhiên thiếu Isoleusine và Methionin. Khả năng tiêu hóa bột máu của động vật thuỷ sản thấp,
tỷ
lệ tiêu hoá protein biến
động từ 40-80% tuỳ theo phương pháp sấy.
3.151. Protein và acid amin trong bột máu dễ bị phân hủy trong quá trình sấy. Bột máu rất
dễ bị hư trong quá trình tồn trữ. Hàm lượng bột máu phối trộn trong khẩu phần ăn cho tôm
không nên quá 10% [21].
2.3.2.
Tình hình nghiên cứu về dinh dưỡng và thức ăn cá biển
2
5