Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Nguyên lý hoạt động của bộ phân tần Crossover

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (537.63 KB, 14 trang )

Nguyên lý hoạt động của bộ phân tần Crossover
Hầu hết các hệ thống loa truyền thống đều có bộ phân tần (crossover) để đảm bảo mỗi củ
loa chỉ hoạt động trong khoảng tần số phù hợp mà chúng được thiết kế. Bộ phân tần có
chức năng chia đúng tần số cho mỗi củ loa theo yêu cầu thiết kế của củ loa đó.

Nắm bắt rõ được nguyên lý hoạt động của Crossover sẽ giúp bạn cải thiện chất lượng âm
thanh đáng kể.
Nếu bộ giàn của bạn đã có phân tần chủ động hoặc phân tần bị động lắp sẵn rồi thì đôi khi bạn
chẳng để ý đến nó làm gì. Tuy nhiên, việc tìm hiểu cơ chế hoạt động của crossover cũng có
nhiều điều rất lý thú, nó giúp chúng ta nâng cao hiệu năng của hệ thống, đồng thời tránh được
những hư hại không đáng có cho bộ dàn. Dưới đây là một số điều bạn nên biết về crossover
khi sử dụng chúng trong bộ dàn:
Nguyên tắc phân tách kênh
Ngoại trừ nhà sản xuất loa Bose, rất nhiều hệ thống loa hiện nay sử dụng các củ loa không
đồng nhất về kích thước, dải tần thiết kế nhằm tái tạo đầy đủ các dải âm tần. Ví dụ: hệ thống
âm thanh trình diễn (PA: Public Address) đơn giản có thể gồm một củ bass/mid 12-inch hoặc
15-inch và đi kèm một củ treble kiểu kèn.
Những hệ thống âm thanh cỡ lớn hoặc hệ thống có thùng loa sub riêng biệt có thể chia thành
nhiều dải tần, trong đó các loa bass có thể đảm nhiệm dải tần từ 120Hz trở xuống. Điều này


giúp cho các củ loa hoạt động đúng với phạm vi dải tần thiết kế. Trong toàn bộ dải âm tần thì
năng lượng sóng âm tần số thấp (bass) lớn hơn đáng kể so với sóng âm tần số cao. Ví dụ với
một loa sub 1000W thì loa mid chỉ cần khoảng 200-300W và loa treble 50-100W.

Mạch phân tần là một thiết bị trong hệ thống âm thanh, với mục đích chuyển tải đúng dải tần
mong muốn tới củ loa tương ứng. Có hai loại mạch phân tần: chủ động và thụ động (lắp trong
thùng loa, thường gặp trong các loa hi-fi truyền thống). Phân tần thụ động được lắp giữa loa
và ampli, nghĩa là nó có nhiệm vụ chuyển tải toàn bộ năng lượng điện do ampli cung cấp cho
các loa. Trong hệ thống loa hai đường tiếng, dải tần được chia thành 2 phần: phần tần số cao
sẽ đi vào củ loa treble, phần tần số thấp đi vào củ loa mid/bass. Với hệ thống 3 đường tiếng, hệ


thống cũng có 2 củ loa bass và treble như hệ thống 2 đường tiếng nhưng sẽ có thêm một củ loa
phụ trách riêng cho phần mid và lúc này, bộ phân tần sẽ chia tín hiệu ra thành 3 dải tần riêng
biệt khác nhau.
Phân tần không chỉ cải thiện chất lượng âm thanh của bộ giàn, nó còn có tác dụng bảo vệ củ
loa treble khỏi các tần số thấp đi vào. Các củ loa mid và bass hầu như không bị hư hại do tác
động của tín hiệu âm thanh tần số cao, tuy nhiên chất lượng tái tạo âm thanh tổng thể thì bị
ảnh hưởng rõ rệt vì lúc này củ loa hoạt động với dải âm tần không đúng với thiết kế-chế tạo
ban đầu.
Phân tần thụ động (được tích hợp sẵn trong các dòng loa)
Bộ phân tần crossover là một tổ hợp các mạch lọc tín hiệu điện thụ động. Trước hết ta quan
niệm một bộ phân tần đơn giản nhất gồm các tụ điện, điện trở và cuộn các cuộn cảm.


Mạch phân tần crossover thường được tích hợp sẵn trong các dòng loa thùng hiện nay
Bộ phân tần thụ động thường lắp bên trong các thùng loa, do đó tất cả những gì người ta phải
làm là chọn một ampli thích hợp về công suất, trở kháng… để phối ghép với loa sao cho hợp
lý. Với một hệ thống loa 3 đường tiếng, củ loa bass sẽ nhận tín hiệu điện từ mạch lọc tần số
thấp (low-pass filter: chỉ cho các tần số thấp hơn điểm cắt đi qua), trong khi đó củ loa treble sẽ
nhận các tín hiệu có tần số cao high-pass filter. Mạch lọc phải được thiết kế cẩn thận, chính
xác để đạt được sự chuyển giao trơn tru giữa hai loại tín hiệu trên tại điểm cắt tần. Dải tần hoạt
động của củ loa trung thì lại nằm ở khoảng giữa cho nên củ loa này đòi hỏi phải có cả hai
mạch lọc ở trên để đảm bảo tín hiệu nhận được là ở dải trung. Kiểu kết hợp giữa low-pass
filter và high-pass filter thường hay gọi là band-pass filter. Về lý thuyết, hiện chưa có mạch
lọc nào có thể cắt tần hoàn hảo theo chiều thẳng đứng, trong khi đó các củ loa khác nhau lại
hoạt động chồng lấn ở một số vùng dải tần tiếp giáp, cho nên đòi hỏi cao nhất của bộ phân tần
là chuyển giao trơn tru các dải tần cho từng củ loa tương ứng.
Các dạng phân tần thụ động kể trên nhìn chung rất tiện dụng vì người sử dụng không phải can
thiệp vào chúng, đáng tin cậy, và trong phần lớn các trường hợp chúng có giá thành khá hợp
lý, ít nhất là cho các hệ thống có công suất nhỏ hoặc trung bình. Tuy vậy, khi hoạt động ở công
suất lớn, các thành phần của bộ phân tần thụ động trở nên rất cồng kềnh và đắt tiền do chúng

phải tải dòng điện thế lớn hơn. Ngoài ra, bản chất của bộ phân tần thụ động làm chúng tiêu phí
năng lượng hữu ích. Một phần công suất của amply luôn bị hấp thụ bởi mạch phân tần thụ


động thay vì được chuyển toàn bộ đến loa, do vậy, ta cần phải có amply công suất lớn hơn.
Ngoài ra, trừ trường hợp các củ loa trong hệ thống nhiều đường tiếng của chúng ta có cùng độ
nhạy (điều này hiếm khi đạt được), còn không thì củ loa có độ nhạy cao hơn luôn cần mức tín
hiệu nhỏ hơn. Do vậy, để các củ loa khi kết hợp lại có thể tái tạo phẳng được toàn bộ dải tần,
nhà thiết kế phải bỏ bớt một cách có chủ ý một phần công suất của amply bằng cách lắp thêm
thành phần trở kháng để làm suy hao bớt mức tín hiệu đến củ loa có độ nhạy cao.
Độ dốc phân tần
Bộ phân tần thụ động không thể đạt được độ dốc đáng kể tại điểm phân chia tần số nếu không
làm tiêu phí phần công suất và không sử dụng các linh kiện đắt tiền. Ví dụ: mạch lọc đơn giản
chỉ gồm trở và tụ chỉ đạt được độ dốc 6dB/octave, trong khi đó, sự kết hợp giữa tụ và cuộn
cảm có thể tạo được độ dốc phân tần là 12dB/octave. Để đạt được độ dốc lớn hơn, nhiều tầng
lọc phải được chồng lên nhau dẫn đến sự suy giảm nhiều hơn nữa hiệu suất của năng lượng
điện. Chỉ số dB/octave càng cao, đáp ứng của mạch càng có độ dốc cao. Phân tần có độ dốc
càng lớn thì các củ loa càng ít hoạt động chồng lấn tại vùng tần số gần tần số cắt, điều mà
chúng ta luôn mong muốn. Nguyên nhân là sự chồng lấn quá lớn có thể dẫn đến vấn đề về pha
do cả hai củ loa đều cố tái tạo tín hiệu khác nhau đôi chút tại cùng chồng lấn.
Do hiện nay các amply rẻ hơn nhiều (và thường nhẹ hơn) so với trước đây, công suất của
chúng không còn là vấn đề nghiêm trọng như trước, do vậy, các mạch phân tần thụ động có
thể rất hiệu quả trong các hệ thống có công suất đến vài kilowatts.
Phân tần chủ động (là thiết bị được sản xuất chuyên phân tần số cho hệ thống loa)
Khác với phân tần thụ động, bộ phân tần chủ động chia tách dải tần trước khi chuyển sang các
ampli. Mức tín hiệu dòng điện trong giai đoạn này không lớn nên phân tần chủ động không
phải chịu mức năng lượng đáng kể, do vậy không cần các linh kiện lớn, cầu kì. Tuy vậy, điều
này cũng đồng nghĩa với việc phải sử dụng các amply công suất cho mỗi khoảng tần số. Cụ
thể, với hệ thống 3 đường tiếng ta cần 3 amply công suất riêng biệt.



Hiện nay những bộ xử lý tín hiệu âm thanh dạng kỹ thuật số bao gồm các tính năng như
crossover, limiter, canh delay đang dần thay thế dạng analog…
Do mạch phân tần chủ động chỉ làm việc ở mức tín hiệu audio nhỏ, các mạch lọc có thể được
xây dựng và sử dụng các mạch điện tử tích cực thông thường tương tự như được sử dụng trong
các bộ lọc tần số equalizer, vốn cho phép có được sự linh động hơn rất nhiều trong thiết kế. Và
như vậy, thay vì phải tiêu phí năng lượng để chỉnh tín hiệu ra loa theo củ loa có độ nhạy thấp
nhất, tín hiệu ra của mạch phân tần chủ động có thể được điều chỉnh để có được sự cân bằng
tốt nhất giữa các củ loa. Điều này cho phép các nhà thiết kế lựa chọn củ loa dễ dàng hơn cũng
như thiết kế được các mạch lọc có độ dốc cao hơn nên giảm được lượng tín hiệu ngoài giới
hạn tần số hoạt động mà từng củ loa thường phải đảm nhận.
Bên cạnh đó, phân tần chủ động giảm nguy cơ gây hư hỏng cho loa treble. Trong trường hợp
amply hoạt động ở ngưỡng xảy ra hiện tượng “clipping” – đây là trường hợp tín hiệu ra lớn
hơn mức tối đa mà amply kiểm soát được, các sóng âm tần số thấp thông thường trở nên có
dạng gần như sóng vuông chứa các các mức cao của các hài âm tần số cao. Sóng âm tần số
thấp chứa các hài âm tần số cao này sẽ vượt qua mạch phân tần và đến loa treble tương tự như
các tín hiệu tần số cao khác. Nếu có đủ năng lượng cao hoặc đủ thời gian, chúng có thể gây
nóng cho cuộn dây của loa treble và gây cháy chúng.
Với bộ phân tần chủ động, do nằm trước amply nên các phần quá tải của phần bass sẽ vẫn
được đưa sang amply của loa bass và đến loa bass. Loa mid và loa treble vẫn nhận được tín


hiệu “sạch” từ các amply của chúng.
Loa siêu trầm trong các hệ thống âm thanh loại nhỏ
Khi các thùng loa mid/treble được tăng cường bởi các thùng loa sub riêng (loa siêu trầm) thì
các thùng bass này thường có sẵn mạch phân tần để đưa các tín hiệu có tần số cao hơn một
mức nhất định (ví dụ 120Hz) đến loa chính còn phần thấp hơn đến phần amply của loa sub.
Mạch phân tần trong loa chính sẽ chia tín hiệu cho củ loa bass/mid và củ loa treble. Thông
thường, ta không cần điều chỉnh đáp ứng tần số ở dải trầm cho loa chính vì mạch phân tần
trong loa siêu trầm đã làm việc này. Một lợi điểm phụ là chúng ta có thể dễ dàng hơn trong

việc điều khiển phần trung âm còn lại. Tuy vậy, không phải loa siêu trầm nào cũng có mạch
lọc cho loa chính, một số chỉ đơn thuần cho tín hiệu đi qua mà không lọc, trong trường hợp
này, loa chính thường được trang bị mạch cắt âm ở tần số thấp.
Do nhiều loa siêu trầm được thiết kế để dùng đơn lẻ, do vậy tín hiệu cho chúng thường được
tổng hợp thành mono, tuy vậy, tín hiệu được cho qua để đến loa chính vẫn được giữ nguyên ở
dạng stereo. Đồng thời, loa siêu trầm cũng thường có phần chỉnh âm lượng cho riêng chúng để
đảm bảo phần âm thanh trầm được cân bằng với toàn bộ dải âm còn lại. Điều này là cần thiết
do lượng tiếng bass phụ thuộc vào tính chất âm học của phòng nghe và vào vị trí đặt loa siêu
trầm. Việc sử dụng phân tần thụ động tích hợp trong loa siêu trầm hoặc dùng phân tần thụ
động với amply công suất riêng biệt cho loa siêu trầm đều có thể đạt được cùng một hiệu quả
như nhau. Nhìn chung, với các hệ thống nhỏ và trung bình thì phương pháp tích hợp phân tần
thụ động vào loa là tiện lợi nhất cho dù ta phải cấp nguồn riêng biệt cho từng thùng loa.
Bảo vệ củ loa
Do loa có những giới hạn cả về cơ khí cũng như về nhiệt độ mà nếu bị vượt qua sẽ làm hỏng
loa nên cần có những cơ cấu bảo vệ. Với hệ thống dùng phân tần thụ động, có thể dùng một số
mẹo đơn giản như: mắc một bóng đèn điện thế thấp nối tiếp với loa treble (loa dễ hư hỏng
nhất), khi đó, tín hiệu quá lớn sẽ đốt nóng dây tóc của bóng đèn và làm trở kháng của nó tăng
lên, kết quả làm giảm lượng tín hiệu cấp vào loa treble. Tuy vậy, với hệ thống dùng phân tần
chủ động, ta có thể dễ dàng thiết kế bộ phận giới hạn âm lượng để ngăn không cho amply phải
hoạt động ở chế độ “clipping”. Các loa chủ động này vốn gồm mọi thứ được tích hợp trong


thùng loa (có thể được lắp thêm các thiết bị theo dõi nhiệt độ ở amply và khi nhiệt độ tăng đến
giới hạn nguy hiểm do quá tải, chúng sẽ giảm công suất hoặc tắt amply để bảo vệ hệ thống).
Hầu hết các hệ thống không đòi hỏi chúng ta phải biết chúng sử dụng loại phân tần nào, nhưng
chúng ta sẽ có thể sử dụng chúng một cách hiệu quả hơn nếu chúng ta hiểu được sự khác nhau
giữa hệ thống thụ động và chủ động đặc biệt là về vấn đề bảo vệ các củ loa.

Một dạng mạch phân tần thụ động được tích hợp sẵn trong loa
Thông thường ta thường nghe thấy nói về mạch phân tần dạng chủ động và dạng bị động.

Mạch phân tần chủ động nằm trước amply công suất, chúng chia tín hiệu âm thanh thành
nhiều dải riêng biệt, mỗi dải được chuyển đến một amply công suấtriêng. Mạch phân tần thụ
động trái lại nằm sau amply công suất và nằm trước loa. Do nằm sau amply công suất nên
mạch phân tần phải hoạt động ở mức tín hiệu đã được khuếch đại và chính vì thế các linh kiện
phải có công suất lớn và mạch phân tần thụ động thường được tích hợp trong loa. Ngoài ra


còn một dạng mạch phân tần nữa là dạng mạch phân tần thụ động hoạt động ở mức tín hiệu
thấp chưa được khuếch đại nhằm tận dụng ưu điểm của hai mạch phân tần ở trên. Tuy vậy,
mạch phân tần dạng này không được sử dụng phổ biến như hai loại trên. Trong phần này,
chúng ta chỉ tập trung nói về mạch phân tần chủ động.
Trước khi đi sâu vào cấu tạo của mạch phân tần, ta cùng xem qua về những chiếc loa một
chút. Nếu ta có một chiếc loa lý tưởng, có thể thể hiện được giải âm tần từ 20Hz-20kHz (dải
âm tần mà tai người nghe được), ta sẽ không phải bận tâm đến việc dùng bộ phân tần và chắc
cũng không cần quan tâm đến cấu tạo và nguyên lý hoạt động của chúng. Tuy vậy, hiện tại,
gần như không có một chiếc loa nào có thể đáp ứng được yêu cầu như vậy (ngay cả những
chiếc loa được xem là toàn dải tốt nhất cũng thường chỉ đáp ứng được tốt trong phạm vi hẹp
hơn nhiều: thường là 100Hz-10kHz).
Tại sao những chiếc loa lại không thể thực hiện được công việc tưởng chừng đơn giản như
vậy? Lý do nằm ở chỗ để thể hiện được những âm thanh ở tần số thấp (thường từ trung trầm
trở xuống) những chiếc loa cần có màng loa đủ lớn để di chuyển được một lượng không khí
lớn (do âm trầm có bước sóng rất dài). Trái lại, để tái hiện tốt âm thanh ở tần số cao (từ trung
cao trở lên), các loa lại đòi hỏi phải có màng loa đủ nhỏ để có thể di chuyển nhanh, đáp ứng
được tốc độ theo đúng tần số rung lớn. Chính do hai yêu cầu hoàn toàn trái ngược trên mà các
loa hầu như không thể đáp ứng cùng lúc được dải tần cao và thấp. Và do vậy, chúng ta cần
phải sử nhiều loa khác nhau để phối hợp với nhau trong việc tái hiện lại toàn bộ dải tần âm
thanh mong muốn. Đây chính là nguyên nhân khiến cho việc sử dụng mạch phân tần hiện nay
gần như không thể tránh khỏi.
Quay trở lại với chiếc “hộp đen” của chúng ta. Nếu có dịp mở một chiếc loa và nhìn vào mạch
phân tần thông thường, ta thường thấy có 3 loại linh kiện chính sau: tụ điện, cuộn cảm và điện

trở. Các linh kiện này được lắp với nhau theo một cách rất phức tạp tạo nên một mạch điện mà
ta thường gọi là mạch phân tần. Vậy nguyên tắc hoạt động của mỗi loại linh kiện trong mạch
phân tần như thế nào sẽ từng bước được xem xét dưới đây:
Điện trở: Điện trở là một loại linh kiện tạo nên một sự cản trở nhất định đến dòng điện chạy
qua chúng, do vậy dòng điện sau khi qua khỏi điện trở sẽ bị giảm điện thế. Khi được lắp trước
loa, điện trở sẽ làm cho loa kêu nhỏ hơn. Do tính chất như thế, điện trở thường được dùng để


điều chỉnh mức độ tiếng lớn nhỏ cho các loa. Chúng chỉ làm giảm mức tín hiệu âm thanh vào
loa chứ không làm thay đổi dải tần của âm thanh.

Những chip điện trở sẽ hạn chế sự tăng đột ngột của dòng điện, hạn chế hư hỏng thiết bị
Cuộn cảm: Cuộn cảm là một cuộn dây, chúng có thể được quấn trên lõi sắt hoặc không có lõi
gì (lõi không khí). Không như điện trở, cuộn cảm là một linh kiện có sự cản trở rất lớn với
những tín hiệu ở tần số cao nhưng gần như không cản trở những tín hiệu ở tần số thấp (trong
thực tế các cuộn cảm vẫn có điện trở thuần và do vậy cũng có thêm tác dụng như một điện trở
nhỏ tuy không đáng kể). Tùy theo trị số (tính bằng Henry) mà cuộn cảm có tác dụng lọc bỏ tín
hiệu từ một tần số nào đấy trở lên. Với cùng một độ lớn, cuộn cảm được quấn trên lõi sắt
thường có số vòng dây ít hơn cuộn cảm lõi không khí. Tuy vậy, các cuộn cảm lõi sắt thường
dễ bị bão hòa ở mức tín hiệu lớn và tạo ra hiện tượng méo âm.


Cuộn cảm hạn chế những tín hiệu tần số cao và giảm sự méo tiếng của âm thanh
Tụ điện: Có tác dụng trái ngược với cuộn cảm với dải tần âm thanh, tụ điện gây cản trở rất lớn
đến tín hiệu âm thanh ở tần số thấp. Tùy theo trị số (tính bằng Farad) mà tụ điện có tác dụng
lọc tín hiệu từ một tần số nào đó trở xuống.


Tụ điện thì có tính năng ngược lại với cuộn cảm, đó là hạn chế tín hiệu âm thanh ở tần số thấp



Ta hãy cùng xem xét một trường hợp cơ bản và rất thông dụng đó là trường hợp ta dùng 2
chiếc loa (một thể hiện dải trung – trầm, một thể hiện dải trung cao – cao) trong một thùng loa.
Trong trường hợp này, tuy mạch phân tần có thể được cấu tạo rất phức tạp và vẫn được chúng
ta quen gọi là mạch phân tần nhưng nếu xem xét kỹ, ta sẽ thấy chúng được cấu tạo từ 2 mạch
cơ bản: mạch lọc thông thấp (lowpass) và mạch lọc thông cao (highpass). Hai mạch lọc này
được mắc song song với nhau sau amply.
Mạch lọc thông thấp là mạch lọc loại bỏ phần âm thanh ở tần số cao trong khi vẫn duy trì
không thay đổi dải âm ở tần số thấp. Cuộn cảm được đề cập ở trên có tác dụng lọc tần số cao
và không thay đổi tần số thấp nên ta có thể hình dung là nếu được nối theo một cách thích hợp
thì nó sẽ là một bộ phận chính trong mạch lọc thông thấp.
Mạch lọc thông cao thì ngược lại, chúng loại bỏ các tín hiệu có tần số thấp và cho các tín hiệu
có tần số cao đi qua. Và một lần nữa ta thấy đây chính là trường hợp của tụ điện. Mạch lọc
thông cao cơ bản chỉ bao gồm một tụ điện mà thôi.
Trong trường hợp phức tạp hơn một chút, loa thùng của chúng ta có thể có 3 củ loa, mỗi chiếc
đảm nhận thể hiện âm thanh ở trong một dải nhất định. Trong trường hợp này, ngoài sự hiện
diện của một mạch lọc thông cao và một mạch lọc thông thấp, ta còn thấy một mạch lọc gọi là
“bandpass”. Mạch lọc này cho các tín hiệu phần tiếng trung đi qua còn phần tiếng treble và
tiếng bass được loại bỏ.
Về cấu tạo, mạch lọc bandpass chính là sự kết hợp theo một cách phù hơp của một mạch lọc
thông thấp với một mạch lọc thông cao. Tương tự ta có thể có tới 2 mạch lọc bandpass để chia
nhỏ thêm dải tần hoạt động của mỗi loa nhưng thông thường ta hiếm khi thấy một thùng loa
dùng nhiều hơn 4 loa (hoạt động ở 4 dải tần riêng biệt) do độ phức tạp của mạch phân tần đòi
hỏi quá nhiều linh kiện. Đồng thời, khi dùng ba loa phụ trách ba dải riêng biệt thì gần như mỗi
loa đã đáp ứng tốt dải tần của riêng chúng mà không cần chia nhỏ thêm nữa.
Khi nhắc đến mạch phân tần, ta không thể không nhắc đến tần số cắt. Tần số cắt là tần số,
trong trường hợp lý tưởng, phân chia phạm vi hoạt động của hai loa. Loa trung trầm sẽ phụ
trách dải tần số dưới tần số cắt, loa treble sẽ đảm trách tín hiệu từ tần số cắt trở lên.
Một khái niệm nữa là bậc của phân tần và độ dốc phân tần. Trong thực tế, hiện nay, việc có



được điểm dừng cho loa đúng tại tần số cắt là không thể thực hiện được. Các loa đều phải hoạt
động vượt qua ranh giới được quy định bởi tần số cắt. Khi vượt qua ranh giới này, mạch phân
tần làm cho âm thanh phát ra từ chiếc loa giảm độ lớn từ từ. Tùy theo bậc phân tần mà tốc độ
giảm độ lớn nhanh hay chậm được tính bằng dB/octave. Trong đó 1 octave là một khoảng tần
số lớn hơn hoặc nhỏ hơn nhau 2 lần (ví dụ từ 1kHz lên đến 2kHz là 1 octave hay từ 200Hz đến
400Hz là tăng 1 octave còn từ 200Hz đến 100Hz là giảm một octave). Như vậy, giả sử 2 chiếc
loa có độ nhạy như nhau là 90dB, tần số cắt là 1kHz và công suất ra loa 1w, ta sẽ có bảng
tương quan giữa tần số và độ lớn của âm thanh phát ra từ loa như sau:
Độ dốc Tần số
dB/octave 1kHz 2kHz 4kHz 8kHz
6 90 84 78 72
12 90 78 66 54
18 90 72 54 36
Độ lớn âm thanh của loa bass ở mức tín hiệu 1w/m (dB)
Độ dốc Tần số
dB/octave 1kHz 500Hz 250Hz 125Hz
6 90 84 78 72
12 90 78 66 54
18 90 72 54 36
Độ lớn âm thanh của loa treble ở mức tín hiệu 1w/m (dB)
Như vậy, độ dốc phân tần càng lớn thì loa càng ít phải hoạt động ngoài vùng làm việc được
quy định bởi phân tần. Do vậy, nguy cơ méo tiếng được giảm đi đáng kể. Với mạch phân tần
bậc 1 thì độ dốc là 6dB/octave, phân tần bậc hai có độ dốc là 12dB/octave, bậc 3 là
18dB/octave và cứ tiếp tục như vậy.
Bây giờ ta bắt đầu xem cách bố trí các linh kiện trong một phân tần là như thế nào. Bắt đầu từ
phân tần bậc 1. Phân tần một có cấu tạo rất đơn giản, chỉ gồm có 1 mạch lọc thông thấp và
một mạch lọc thông cao. Mạch lọc thông thấp chỉ gồm có một cuộn cảm để loại bỏ tín hiệu tần
số cao đi vào loa bass . Trái lại, mạch lọc thông cao chỉ dùng 1 tụ điện để loại bỏ âm thanh tần
số thấp vào loa treble.



Mạch phân tần bậc 2 sử dụng nhiều linh kiện hơn so với bậc 1. Với mạch lọc thông thấp, thay
vì chỉ sử dụng một cuộn cảm mắc nối tiếp với loa như mạch phân tần bậc một, có thêm một tụ
điện mắc song song với loa. cuộn cảm ngăn không cho các tín hiệu ở tần số cao đến loa, nếu
vẫn chưa triệt để thì những tín hiệu tần số cao nào lọt qua được cuộn cảm sẽ được dẫn qua tụ
xuống đường mass. Tương tự như vậy, mạch lọc thông cao sẽ sử dụng thêm một cuộn cảm
mắc song song với loa treble để dẫn những tín hiệu tần số thấp nào vượt qua được tụ điện
xuống đường mass.
Và như vậy chắc chúng ta cũng có thể hình dung ra mạch phân tần bậc 3 sẽ có thêm một linh
kiện nữa. Với mạch lọc thông thấp sẽ có thêm một cuộn cảm nữa mắc nối tiếp với loa sau
cuộn cảm và tụ như trong mạch bậc 2 và như thế tác dụng lọc tần số cao lại được tăng thêm.
Với mạch lọc thông cao sẽ có thêm một tụ.
Với mạch phân tần bậc 4 thì thực chất ta có thể hiểu như mắc 2 mạch phân tần bậc 2 chồng lên
nhau và tác dụng lọc lại được tăng lên.
Đến lúc này ta đã hiểu được cơ bản phần nào về mạch phân tần thụ động trong một chiếc loa,
ta cũng biết được khả năng lọc của chúng có được từ đâu. Hy vọng là sau loạt bài này, chúng
ta có thể tự tin hơn trong việc sửa chữa, thay thế linh kiện cho mạch phân tần đang có ở nhà
hoặc xa hơn nữa là thiết kế một mạch phân tần cho riêng mình



×