Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Ý thức xã hội (môn Triết học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (276.94 KB, 53 trang )

Chương 7
Ý THỨC XÃ HỘI

I. Khái niệm tồn tại xã hội, ý thức xã hội.
1. Khái niệm tồn tại xã hội và các yếu tố cơ bản hợp thành tồn tại xã hội.
a) Khái niệm tồn tại xã hội.
Tồn tại xã hội là phạm trù tiết học dùng để chỉ toàn bộ đời sống vật chất và
điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.
Trong những quan hệ xã hội vật chất có hai loại quan hệ cơ bản: quan hệ giữa
người với tự nhiên và quan hệ vật chất giữa người với người. Nghiên cứu tồn tại xã
hội là nghiên cứu đời sống vật chất của xã hội và những quan hệ vật chất giữa
người với người trước hết và chủ yếu là lao động sống của con người trong sản
xuất, lưu thông, phân phối và tiêu dùng của cải vật chất, để đáp ứng các nhu cầu
vật chất của con người như ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh, v.v... Đây là
quá trình duy trì sự tồn tại của các cá thể người, đồng thời tái sản xuất và không
ngừng mở rộng quan hệ vật chất của xã hội. Khi nói về vấn đề này, V.I. Lênin
viết: “Việc anh sống, anh hoạt động kinh tế, anh sinh con đẻ cái và anh chế tạo ra
các sản phẩm, anh trao đổi sản phẩm, làm nảy sinh ra một chuỗi tất yếu khách
quan gồm những biến cố, những sự phát triển, không phụ thuộc vào ý thức xã hội
của anh và ý thức này không bao giờ bao quát được toàn vẹn cái chuỗi đó” (V.I.
Lenin, toàn tập, Nxb. Tiến Bộ, Mátxcơva, 1977, tập 4, tr.403).
Như vậy, phạm trù tồn tại xã hội bao quát toàn bộ hoạt động vật chất, các
quan hệ vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.
b) Các yếu tố cơ bản hợp thành tồn tại xã hội và vai trò quyết đònh của
phương thức sản xuất trong tồn tại xã hội.
Tồn tại xã hội bao gồm các yếu tố cơ bản là: phương thức sản xuất vật chất;
môi trường tự nhiên của đời sống xã hội (hoàn cảnh đòa lý, đòa quyển, khí quyển,
thủy quyển, trí quyển v.v...) và điều kiện dân số (số lượng dân số, mật độ dân số,
sự tăng giảm dân số...). Trong đó, phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản



nhất, giữ vai trò quyết đònh nhất đối với tồn tại xã hội và sự phát triển của ý thức
xã hội.
2. Khái niệm ý thức xã hội và kết cấu cơ bản của ý thức xã hội.
a) Khái niệm ý thức xã hội.
Ý thức xã hội là phạm trù triết học dùng để chỉ toàn bộ đời sống tinh thần của
xã hội. Nó bao gồm những quan điểm, tư tưởng, lý luận cùng những tình cảm, xúc
cảm, kinh nghiệm, truyền thống... của cộng đồng xã hội trong những giai đoạn lòch
sử nhất đònh.
Cần phân biệt sự khác nhau tương đối giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân. Ý
thức xã hội được thể hiện thông qua ý thức cá nhân. Ý thức cá nhân là thế giới tinh
thần của mỗi con người riêng biệt, cụ thể sống trong xã hội. Ý thức cá nhân thể
hiện ý thức xã hội nhưng không thể hiện một cách đầy đủ, hoàn toàn nội dung của
ý thức xã hội. Mỗi cá nhân bao giờ cũng thuộc về một giai cấp nhất đònh, sống
trong điều kiện hoàn cảnh sống khác nhau. Vì vậy, khi thể hiện ý thức xã hội, ý
thức cá nhân đồng thời thể hiện ý thức giai cấp, ý thức dân tộc với tất cả dấu ấn
phong phú của riêng mình. Ý thức xã hội bao gồm những hiện tượng tinh thần,
những hình thái khác nhau phản ánh tồn tại xã hội bằng những phương thức khác
nhau. Ý thức xã hội biểu hiện thông qua ý thức cá nhân nhưng không phải là tổng
số các ý thức cá nhân gộp lại. Ý thức xã hội và ý thức cá nhân tồn tại trong mối
liên hệ hữu cơ, biện chứng với nhau, thâm nhập vào nhau và làm phong phú nhau.
Trong đó, ý thức xã hội là nền tảng cho sự phát triển của ý thức cá nhân, còn ý
thức cá nhân là điều kiện cho sự phát triển đa dạng và phong phú của ý thức xã
hội.
b) Kết cấu cơ bản của ý thức xã hội.
Tùy thuộc vào đối tượng, phạm vi, trình độ và cấp độ của sự phản ánh người
ta chia ý thức xã hội thành ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận; Tâm lý xã
hội và hệ tư tưởng.
 Ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận.
- Ý thức xã hội thông thường là những tri thức, những quan niệm của con
2



người được hình thành và phản ánh một cách sinh động, trực tiếp đời sống sinh hoạt
hàng ngày của con người. Đây là những tri thức kinh nghiệm, chúng chưa được hệ
thống hóa, khái quát hóa, nhưng chúng là kho tàng tư liệu khoa học phong phú, quý
giá để từ đó có thể xây dựng nên các lý thuyết khoa học.
- Ý thức lý luận là những tri thức khoa học, những quan điểm, tư tưởng phản
ánh một cách khái quát, sâu sắc, chính xác hiện thực xã hội khách quan, được thể
hiện bằng các khái niệm, phạm trù, quy luật và các học thuyết xã hội.
 Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.
- Tâm lý xã hội bao gồm toàn bộ tình cảm, xúc cảm, kinh nghiệm, thói quen,
tập quán v.v... của con người, của một bộ phận xã hội hoặc của toàn xã hội, được
hình thành tự phát dưới tác động trực tiếp của đời sống hàng ngày của họ và phản
ánh đời sống đó.
Tâm lý xã hội có đặc điểm là: Nó phản ánh một cách trực tiếp hoàn cảnh xã
hội; nó nông cạn vì chưa vạch ra đầy đủ, rõ ràng, sâu sắc bản chất các mối quan hệ
xã hội của con người, nhưng nó lại hết sức phong phú. Tâm lý xã hội tác động
thường xuyên đến hành vi con người và tồn tại dai dẳng trong ý thức. Trong các xã
hội có giai cấp, do các giai cấp có điều kiện hoàn cảnh sống khác nhau, do vậy tâm
lý xã hội mang tính giai cấp, thể hiện ở chỗ, các giai cấp có tình cảm, tâm trạng,
thói quen... riêng, có thiện cảm hay ác cảm với giai cấp này hay giai cấp khác.
Ngoài ra, tâm lý xã hội còn mang đặc điểm của tâm lý dân tộc như thò hiếu, tập
quán truyền thống v.v... được hình thành, phát triển lâu dài trong lòch sử các dân
tộc.
- Hệ tư tưởng là những tư tưởng, quan niệm của một giai cấp đã được hệ thống
hóa thành lý luận, thành các học thuyết xã hội. Các học thuyết này phản ánh gián
tiếp hoàn cảnh xã hội thông qua tư duy khoa học, phản ánh một cách tự giác và sâu
sắc lợi ích giai cấp, là vũ khí đấu tranh giai cấp của một giai cấp hay lực lượng xã
hội.
Hệ tư tưởng có đặc điểm là: Nó là trình độ cao của ý thức xã hội, nó được

hình thành khi con người nhận thức sâu sắc hơn về những điều kiện sinh hoạt vật
chất của mình. Khác với tâm lý xã hội chỉ phản ánh hiện tượng xã hội, hệ tư tưởng

3


có khả năng đi sâu, phản ánh mối liên hệ bản chất của các mối quan hệ xã hội. Hệ
tư tưởng là hệ thống nhận thức, lý luận về tồn tại xã hội. Nó là hệ thống những
quan điểm, tư tưởng (chính trò, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo, v.v...). Đây
là kết quả khái quát hóa những kinh nghiệm xã hội. Hệ tư tưởng hình thành một
cách tự giác, là kết quả tư duy khoa học của các nhà tư tưởng của những giai cấp
nhất đònh và được truyền bá trong xã hội.
Hệ tư tưởng có hai loại là hệ tư tưởng khoa học và hệ tư tưởng không khoa
học. Hệ tư tưởng khoa học thì phản ánh chính xác, khách quan các mối quan hệ vật
chất của xã hội, còn hệ tư tưởng không khoa học thì ngược lại, phản ánh một cách
sai lầm, hư ảo hoặc xuyên tạc các mối quan hệ vật chất của xã hội.
- Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng đây là hai trình độ, hai phương thức phản ánh
khác nhau của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội. Giữa chúng có mối quan hệ tác
động qua lại với nhau, tâm lý xã hội, tạo điều kiện thuận lợi hay gây trở ngại khó
khăn cho sự hình thành, sự truyền bá, sự tiếp thu của con người đối với một hệ tư
tưởng nhất đònh. Ngược lại, hệ tư tưởng khoa học thúc đẩy tâm lý xã hội phát triển
theo chiều hướng đúng đắn, lành mạnh có lợi cho toàn bộ xã hội, còn hệ tư tưởng
không khoa học thì kích thích những yếu tố tiêu cực của tâm lý xã hội phát triển.
Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng là hai giai đoạn thấp và cao của ý thức xã hội,
nhưng tâm lý xã hội không trực tiếp sinh ra hệ tư tưởng. Bởi vì, hệ tư tưởng ngoài
việc phản ánh tồn tại xã hội trực tiếp, nó còn mang yếu tố kế thừa lòch sử trong sự
phát triển. Bất kỳ tư tưởng nào khi phản ánh các mối quan hệ đương thời thì đồng
thời cũng kế thừa những học thuyết xã hội, những tư tưởng đã tồn tại trước đó. Như
vậy, hệ tư tưởng xã hội liên hệ hữu cơ với tâm lý xã hội, chòu sự tác động của tâm
lý xã hội.

3. Tính giai cấp của ý thức xã hội.
Trong các xã hội có giai cấp, do các giai cấp có điều kiện sinh hoạt vật chất
và lợi ích khác nhau cho nên ý thức xã hội mang tính giai cấp, thể hiện ở chỗ, ý
thức xã hội của các giai cấp có nội dung và hình thức phát triển khác nhau, thậm
chí đối lập nhau.
Tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện ở cả hai cấp độ, trình độ của nó là

4


tâm lý xã hội và hệ tư tưởng. Ở trình độ tâm lý xã hội, mỗi giai cấp đều có tình
cảm, tâm trạng, thói quen riêng, có thiện cảm hay ác cảm với giai cấp này hoặc
giai cấp khác. Ở trình độ hệ tư tưởng tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện ở chỗ
các giai cấp đối kháng (trong xã hội có giai cấp) bao giờ cũng có quan điểm, tư
tưởng và hệ tư tưởng đối lập nhau. Hệ tư tưởng của giai cấp bóc lột thống trò ra sức
bảo vệ quyền lợi, đòa vò, lợi ích của nó, còn hệ tư tưởng của giai cấp bò trò, bò bóc
lột thì thể hiện nguyện vọng và lợi ích của quần chúng lao động chống lại xã hội
người bóc lột người, xây dựng một xã hội công bằng không có áp bức bóc lột.
Theo quan điểm duy vật lòch sử, những tư tưởng thống trò của một thời đại bao
giờ cũng là tư tưởng của giai cấp thống trò về kinh tế và chính trò của thời đại đó.
Các giai cấp bò trò do bò tước đoạt tư liệu sản xuất, phải chòu áp bức về vật chất vì
thế nên không tránh khỏi bò áp bức về tinh thần, không tránh khỏi chòu ảnh hưởng
tư tưởng của giai cấp thống trò. Nhưng ngược lại, giai cấp thống trò cũng chòu ảnh
hưởng tư tưởng của giai cấp bò trò. Khi lòch sử có sự biến động, cuộc đấu tranh cách
mạng phát triển mạnh, thường có một số người xuất thân từ giai cấp thống trò đã từ
bỏ lợi ích giai cấp mình chuyển hẳn sang giai cấp cách mạng, tiếp thu tư tưởng và
phục vụ giai cấp cách mạng. Thậm chí có người trở thành nhà tư tưởng, trở thành
lãnh tụ của giai cấp cách mạng.
II. Quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
1. Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết đònh.

Công lao to lớn của C.Mác và Ph.Ăngghen là phát triển chủ nghóa duy vật
đến đỉnh cao, xây dựng quan điểm duy vật về lòch sử và lần đầu tiên các ông đã
giải quyết khoa học vấn đề sự hình thành và phát triển của ý thức xã hội.
Các ông đã chứng minh rằng, đời sống tinh thần của xã hội hình thành và phát
triển trên cơ sở của đời sống vật chất, vì vậy không thể tìm nguồn gốc của các hiện
tượng tinh thần của xã hội trong bản thân đời sống tinh thần mà phải tìm nó trong
đời sống vật chất của xã hội, trước hết là trong quan hệ kinh tế giữa người với
người. Khi quan hệ kinh tế biến đổi thì tất cả các tư tưởng xã hội như chính trò, đạo
đức, triết học, nghệ thuật v.v... sẽ biến đổi theo, tồn tại xã hội như thế nào thì ý
thức xã hội như thế ấy.

5


Vai trò quyết đònh của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội thể hiện ở các mặt
sau:
- Tồn tại xã hội quyết đònh sự ra đời, bản chất của ý thức xã hội. Tồn tại xã
hội là toàn bộ đời sống vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.
Nó tồn tại khách quan ở bên ngoài và độc lập với ý thức của con người và ý thức
xã hội. Ý thức của con người nói riêng, ý thức xã hội nói chung không phải là cái
gì khác, mà chính là cái phản ánh tồn tại xã hội. Không những thế tồn tại xã hội
còn quyết đònh bản chất của ý thức xã hội.
- Tồn tại xã hội không chỉ là nguồn gốc của ý thức xã hội, quyết đònh bản chất
của ý thức xã hội mà nó còn quyết đònh nội dung, tính chất của ý thức xã hội và xét
đến cùng nó quy đònh cả khuynh hướng vận động phát triển của xã hội. Tư tưởng
không có lòch sử của riêng mình; tư tưởng chỉ là sự phản ánh trong ý thức xã hội sự
vận động và phát triển của tồn tại xã hội.
- Tồn tại xã hội quyết đònh sự biến đổi của ý thức xã hội, mỗi khi tồn tại xã
hội thay đổi (nhất là phương thức sản xuất thay đổi) thì ý thức xã hội (những quan
điểm chính trò, đạo đức, triết học, nghệ thuật, v.v...) sớm muộn cũng sẽ thay đổi

theo. Ở mỗi thời kỳ lòch sử khác nhau chúng ta thấy có các quan niệm, tư tưởng xã
hội khác nhau chính là do những điều kiện khác nhau của đời sống vật chất quyết
đònh.
- Phương thức sản xuất vật chất quyết đònh phương thức sản xuất đời sống tinh
thần của xã hội.
Như vậy, “không phải ý thức của con người quyết đònh tồn tại của họ; trái lại,
tồn tại xã hội của họ quyết đònh ý thức của họ”. Nhưng tồn tại xã hội quyết đònh ý
thức xã hội không phải một cách giản đơn, trực tiếp mà thường thông qua các khâu
trung gian. Không phải bất cứ tư tưởng, quan niệm, lý luận hình thái ý thức xã hội
nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ kinh tế của thời đại, mà chỉ
khi nào xét đến cùng, chúng ta mới thấy rõ những mối quan hệ kinh tế được phản
ánh bằng cách này hay cách khác trong các tư tưởng ấy. Cho nên, đòi hỏi chúng ta
phải có thái độ biện chứng khi xem xét sự phản ánh tồn tại xã hội của ý thức xã
hội.

6


2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội và vai trò của ý thức xã hội đối
với tồn tại xã hội.
a) Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.
Quan điểm duy vật về lòch sử không chỉ khẳng đònh vai trò quyết đònh của tồn
tại xã hội đối với ý thức xã hội, ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội, phụ
thuộc vào tồn tại xã hội, mà còn nhấn mạnh tính độc lập tương đối của ý thức xã
hội tác động tích cực tới tồn tại xã hội. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
biểu hiện ở những điểm sau:
 Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội.
Lòch sử xã hội cho thấy, khi một xã hội cũ đã mất đi, thậm chí mất đi từ rất
lâu rồi, nhưng ý thức xã hội do xã hội đó sinh ra vẫn còn tồn tại dai dẳng và khi
một xã hội mới ra đời thì ý thức xã hội mới chưa ra đời hoàn chỉnh ngay để phản

ánh tồn tại xã hội mới đó.
Sở dó ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội là do những nguyên
nhân sau đây:
- Thứ nhất, ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội, do vậy nó chỉ biến
đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội. Mặt khác, tồn tại xã hội biến đổi
thường diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội có thể phản ánh không kòp và trở
nên lạc hậu.
- Thứ hai, trong lónh vực tâm lý xã hội, do sức mạnh của truyền thống, thói
quen, của tập quán được tạo ra qua nhiều thế hệ có một sức ỳ ghê gớm, tạo thành
tính lạc hậu, bảo thủ của một số hình thức ý thức xã hội.
- Thứ ba, ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, tập đoàn người,
giai cấp nhất đònh trong xã hội. Vì vậy, những tư tưởng cũ, lạc hậu vẫn được các
giai cấp, lực lượng xã hội phản tiến bộ tìm cách lưu giữ truyền bá nhằm chống lại
các lực lượng xã hội tiến bộ để bảo vệ lợi ích giai cấp của mình.
 Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội.
Trong khi khẳng đònh tính lạc hậu của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội,
7


triết học Mác đồng thời thừa nhận rằng, trong những điều kiện nhất đònh, tư tưởng
tiến bộ và tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã
hội, hướng dẫn, tổ chức, chỉ đạo cho hoạt động của con người, hướng những hoạt
động đó vào việc giải quyết những nhiệm vụ mới của sự phát triển chín muồi của
đời sống vật chất xã hội đặt ra.
Khi thừa nhận tư tưởng tiên tiến có thể phản ánh vượt trước so với sự phát
triển của tồn tại xã hội, điều đó không có nghóa là ý thức xã hội, trong trường hợp
này, không còn bò tồn tại xã hội quyết đònh nữa, mà chứng tỏ rằng, tính tích cực
sáng tạo của ý thức xã hội đã phản ánh được chính xác, sâu sắc quy luật phát triển
khách quan của tồn tại xã hội để hướng dẫn, tổ chức, chỉ đạo cho hoạt động của
con người phù hợp với quy luật phát triển khách quan đó.

 Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình.
Ý thức xã hội tồn tại trong những hình thái khác nhau như: ý thức chính trò, ý
thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức khoa học, ý thức thẩm mỹ, ý thức tôn
giáo... Tất cả các hình thái ý thức xã hội cụ thể này, một mặt đều phản ánh tồn tại
xã hội trực tiếp, mặt khác đều có tính kế thừa trong sự phát triển của nó. Kế thừa
là một trong những tính quy luật phát triển nội tại của bản thân ý thức xã hội. Nếu
không có sự kế thừa thì tư tưởng, lý luận, khoa học không thể phát triển được. Tuy
nhiên, kế thừa phải có “lọc bỏ”, kế thừa thừa và lọc bỏ là hai mặt của cùng một
quá trình phát triển của ý thức xã hội. Ví dụ, Chủ nghóa Mác đã kế thừa và phát
triển những tinh hoa tư tưởng của loài người mà trực tiếp là triết học cổ điển Đức,
kinh tế học chính trò cổ điển Anh và chủ nghóa xã hội không tưởng Pháp.
Quán triệt quan điểm “Kế thừa là một trong những tính quy luật phát triển nội
tại của ý thức xã hội” điều này giúp chúng ta hiểu rõ và giải thích đúng đắn các
hiện tượng xã hội phức tạp như: tại sao một nước có trình độ phát triển kém về kinh
tế nhưng lại có trình độ phát triển tương đối cao về tư tưởng. Ví dụ: Nước Đức ở
giai đoạn đầu thế kỷ XIX có nền kinh tế kém phát triển hơn so với nước Anh và
nước Pháp nhưng lại có trình độ phát triển cao hơn về triết học, lý luận hay như
nước Pháp vào thế kỷ XVIII có nền kinh tế phát triển kém hơn nước Anh nhưng tư
tưởng thì lại tiên tiến hơn nước Anh, v.v...
Ở trong các xã hội có giai cấp, tính chất kế thừa của ý thức xã hội thường gắn
8


với tính chất giai cấp của nó. Các giai cấp khác nhau sẽ kế thừa những nội dung ý
thức khác nhau của các thời đại trước. Thông thường các giai cấp tiến bộ, cách
mạng sẽ kế thừa, tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của thời đại trước để lại, còn
những giai cấp lỗi thời, phản cách mạng sẽ tiếp thu, khôi phục những tư tưởng lỗi
thời, những lý thuyết xã hội phản tiến bộ của thời đại trước để phục vụ cho lợi ích
của giai cấp mình. Vì vậy, khi tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp về lónh vực ý thức,
chúng ta không được quên một nhiệm vụ quan trọng là phải vạch ra được tính chất

phản khoa học, phản tiến bộ của các trào lưu tư tưởng phản động, lỗi thời và phải
chỉ ra được nguồn gốc lý luận của chúng trong lòch sử.
 Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội.
Một trong những biểu hiện của tính độc lập tương đối của ý thức xã hội đó là
các hình thái ý thức xã hội luôn tác động qua lại ảnh hưởng nhau, thúc đẩy nhau
phát triển. Đây là một quy luật phát triển của ý thức xã hội. Mặc dù mỗi hình thái
ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội theo một cách thức và phương pháp riêng,
điều này làm cho sự phản ánh của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội trở nên hết
sức sinh động, phong phú và đa dạng. Các hình thái ý thức xã hội khi phản ánh tồn
tại xã hội, chúng không vận động một cách riêng biệt, giữa chúng luôn có sự tác
động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau, xâm nhập vào nhau và cùng tác động trở lại tồn
tại xã hội. Sự tác động qua lại của các hình thái ý thức xã hội làm cho mỗi hình
thái ý thức xã hội có những mặt, những tính chất không thể giải thích được một
cách trực tiếp bằng tồn tại xã hội hay bằng các điều kiện vật chất của xã hội.
Trong lòch sử phát triển của xã hội cho thấy, ở mỗi thời kỳ lòch sử, tùy theo hoàn
cảnh lòch sử cụ thể, sẽ có những hình thái ý thức xã hội nào đó nổi lên hàng đầu và
có tác động chi phối mạnh mẽ đến các hình thái ý thức xã hội khác. Ví dụ như: vai
trò của triết học và nghệ thuật ở thời kỳ cổ Hy Lạp, hay vai trò của tôn giáo ở Tây
Âu thời kỳ trung cổ, v.v...
Trong sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội thì ý thức chính trò
có vai trò quan trọng đặc biệt, nó tác động và chi phối một cách trực tiếp hay gián
tiếp đến các hình thái ý thức xã hội khác. Bởi vì, trong các xã hội có giai cấp đối
kháng, do giai cấp thống trò nắm quyền thống trò về kinh tế nên đồng thời cũng
thống trò về đời sống tinh thần, ý thức chính trò của giai cấp đó sẽ trở thành hệ tư
tưởng chi phối toàn bộ đời sông xã hội.
9


 Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội.
Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội là biểu hiện quan

trọng nhất của tính độc lập của ý thức xã hội.
Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại được diễn ra theo hai
hướng: Nếu ý thức xã hội tiến bộ, phù hợp với quy luật phát triển khách quan của
đời sống xã hội thì nó thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển. Ngược lại, nếu ý thức xã
hội lạc hậu, phản động thì nó tác động kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội.
b) Vai trò của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội.
Triết học duy vật Mác-xít đã xây dựng nên bức tranh sinh động, phong phú và
phức tạp về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Trong đó,
triết học duy vật Mác-xít khẳng đònh, tồn tại xã hội giữ vai trò quyết đònh đối với
sự ra đời, với bản chất của ý thức xã hội; quyết đònh nội dung, tính chất và sự biến
đổi của ý thức xã hội; Chính phương thức sản xuất vật chất quyết đònh phương thức
sản xuất tinh thần của xã hội. Mặc dù vậy, ý thức xã hội lại có tính độc lập tương
đối và có vai trò tác động tích cực trở lại đối với tồn tại xã hội. Nó có thể thúc đẩy
hoặc kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội: Tính chất và hiệu quả tác động trở
lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội phụ thuộc vào hoàn cảnh lòch sử - cụ
thể, vào phương thức sản xuất mà từ đó tư tưởng được sinh ra và phát triển, vào vai
trò lòch sử của giai cấp chủ thể mang tư tưởng, vào trình độ phù hợp của tư tưởng
đối với hiện thực, vào mức độ ảnh hưởng, thâm nhập của ý thức, tư tưởng ấy trong
quần chúng nhân dân.
Như vậy, nguyên lý của chủ nghóa duy vật lòch sử về tính độc lập tương đối,
về vai trò tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội đã chỉ ra bức
tranh phức tạp của lòch sử phát triển của ý thức xã hội và của đời sống tinh thần
của xã hội. Nó bác bỏ quan điểm duy tâm tuyệt đối hóa vai trò của ý thức xã hội,
bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường (hay chủ nghóa duy vật kinh tế) phủ nhận tác
động tích cực của ý thức xã hội trong đời sống xã hội.
III.Xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội Việt Nam hiện nay.
1. Công cuộc xây dựng chủ nghóa xã hội và tính tất yếu của việc xây dựng
nền tảng tinh thần của xã hội Việt Nam hiện nay.
10



a) Công cuộc xây dựng chủ nghóa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Trong Cương lónh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghóa xã
hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta xác đònh:
“Đi lên chủ nghóa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng
đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tòch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế
phát triển của lòch sử.
Xã hội xã hội chủ nghóa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế
phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù
hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng
đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau càng phát triển; có nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghóa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do
Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghò và hợp tác với các nước trên thế
giới”. (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb. Chính trò Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.70).
Có thể nói, “đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh giữa
cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lónh vực về đời
sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát
triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen” (Đảng Cộng sản Việt Nam,
sđd, tr.70) nhằm đạt “mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là
xây dựng cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghóa xã hội với kiến trúc thượng tầng
về chính trò, tư tưởng văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã
hội chủ nghóa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc” (Đảng Cộng sản Việt Nam, sđd,
tr.71).
Như vậy, mục tiêu xây dựng chủ nghóa xã hội ở nước ta hiện nay, ngoài việc
tạo lập cơ sở vật chất và nền tảng kinh tế của chủ nghóa xã hội, chúng ta còn đồng
thời phải tạo lập nền tảng tinh thần của xã hội Việt Nam hiện nay.
b) Tính tất yếu của việc xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội Việt Nam

hiện nay.

11


 Ý thức Việt Nam truyền thống - những mặt mạnh và hạn chế trong quá trình đổi
mới hiện nay.
- Thế giới quan hỗn hợp không phân biệt rõ ràng Duy vật hay Duy tâm, trong
đó phổ biến là Duy tâm mang nặng màu sắc tôn giáo tín ngưỡng dân gian là khá
phổ biến.
- Trong một thời kỳ lòch sử lâu dài có sự kết hợp phức tạp giữa Nho giáo, Phật
giáo và Đạo giáo; kết hợp ba đạo với cách suy nghó dân gian, phù hợp với tư duy
người Việt để quan niệm về thế giới, về con người và sự vận động biến đổi của các
sự vật, hiện tượng.
- Tư tưởng nổi bật là độc lập dân tộc và quốc gia có chủ quyền.
- Tinh thần yêu nước, giàu lòng vò tha, giàu lòng thương người, trọng lẽ phải...
- Có sự phát triển rực rỡ về tri thức quân sự, y học, nhưng nghèo về tri thức
kinh tế, luật pháp; yếu về phương pháp tư duy...
Từ đó, tất yếu phải hình thành ý thức xã hội mới - nền tảng tinh thần của xã
hội Việt Nam hiện nay.
 Ý thức mới - những đặc điểm và sự hình thành của nó ở Việt Nam hiện nay.
- “Ý thức mới là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng, lý luận, quan niệm, tình
cảm, tâm trạng - mà hạt nhân là hệ thống lý luận của học thuyết Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh phản ánh khách quan tồn tại xã hội. Đại diện cho lợi ích căn
bản của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, phục vụ công
cuộc tạo lập phương thức mới nhằm từng bước phát triển con người tự do, toàn
diện”.
- Trong đònh nghóa trên đã đề cập đến toàn bộ cấu trúc của ý thức xã hội bao
gồm ý thức lý luận và ý thức thông thường; tâm lý xã hội và hệ tư tưởng. Trong đó
hạt nhân của nó là hệ thống lý luận của Chủ nghóa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí

Minh.
 Đặc điểm của ý thức mới.
- Thứ nhất, ý thức mới là sự thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, giữa tính
12


cách mạng với khoa học. Trong đó cốt lõi của nó là phép biện chứng duy vật mácxít.
- Thứ hai, ý thức mới lấy chủ nghóa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
hạt nhân, nhận thức khoa học và khách quan các quy luật vận động của hiện thực
khách quan, do vậy nó có tác dụng to lớn trong sự phát triển xã hội.
- Thứ ba, ý thức mới có sự thống nhất về chính trò, tư tưởng và lợi ích của mỗi
thành viên trong cộng đồng xã hội, cũng như toàn xã hội tạo thành một động lực to
lớn để thúc đẩy xã hội phát triển.
- Thứ tư, ý thức mới là sự kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc với sự tiếp
thu tinh hoa của nhân loại.
- Thứ năm, ý thức mới mang bản chất tự giác.
Một bộ phận quan trọng của nó là Chủ nghóa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh đã được hình thành phát triển trong cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống
lại sự thống trò của giai cấp tư sản và trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Để
cho toàn bộ ý thức mới và bộ phận nền tảng này trở thành cái phổ biến, chủ đạo
trong đời sông tinh thần của xã hội, trong nội dung là một quá trình chứ không phải
tự phát hình thành.
2. Một số vấn đề cơ bản của việc xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội
Việt Nam hiện nay.
- Kết hợp giữa truyền thống và hiện đại trong việc xây dựng nền tảng tinh
thần của xã hội Việt Nam hiện nay.
- Phát huy tinh thần khoa học và cách mạng của Chủ nghóa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới.
- Kế thừa và phát huy các giá trò tinh hoa trong lòch sử tư tưởng Việt Nam.
- Tiếp thu và phát huy các giá trò tư tưởng tiến bộ của nhân loại.

- Khắc phục những hạn chế và tác động tiêu cực của tư tưởng tâm lý tiểu nông
trong sự nghiệp công nghiệp hóa và phát triển kinh tế thò trường đònh hướng xã hội

13


chủ nghóa trong thời kỳ đổi mới hiện nay.

Chương 8

TRIẾT HỌC VỀ CON NGƯỜI
Con người là gì? Nguồn gốc, bản chất, số phận của con người? Cuộc sống con
người có ý nghóa gì? Con người có vai trò như thế nào trong thế giới xung quanh
nó? Giữa con người và thế giới cần phải thiết lập mối quan hệ như thế nào để cùng
tồn tại và phát triển? v.v... Đó là những câu hỏi mà nhiều trường phái triết học phải
giải quyết.
Trên cơ sở kế thừa có phê phán, chọn lọc các quan niệm về con người trong
lòch sử triết học và tổng kết các thành tựu của các khoa học chuyên ngành; xuất
phát từ con người trong hoàn cảnh lòch sử cụ thể, từ con người trong hoạt động thực
tiễn; đồng thời cũng xuất phát từ con người và cuối cùng quay trở về với con người
mà triết học Mác-Lênin đã giải quyết các vấn đề trên, và góp phần không nhỏ vào
dòng tư tưởng nhân văn của nhân loại. Mục đích cao nhất của học thuyết mác-xít
khi nghiên cứu con người là tìm ra con đường hiện thực giải phóng con người để
con người được phát triển một cách toàn diện. Lý luận triết học Mác-Lênin nói
chung, quan niệm duy vật mác-xít về lòch sử nói riêng, là biểu hiện khoa học tư
tưởng nhân văn của Chủ nghóa Mác-Lênin. Nhờ đó, chủ nghóa nhân đạo đã có cơ
sở lý luận để biến đổi về chất, trở thành chủ nghóa nhân đạo triệt để, cách mạng,
phù hợp với nhu cầu giải phóng và phát triển con người trong thời đại mới.

14



I. Khái lược các quan điểm triết học về con người trong lòch sử.
1. Quan điểm về con người trong triết học phương Đông.
Một trong những vấn đề trọng tâm của triết học phương Đông là vấn đề con
người. Triết học phương Đông khi bàn về con người, thường đi sâu vào các vấn đề
về nguồn gốc, bản chất con người,... để tìm ra con đường, phương pháp giải phóng
con người.
a) Quan điểm về con người trong triết học Ấn Độ.
• Triết học Ấn Độ rất phong phú, huyền bí với Kinh Vêđa, Kinh Upanishad,
đạo Jaina, đạo Phật và các trào lưu triết học mang tính hệ thống, chặt chẽ như: triết
học Lôkayatta, Vaisêsika, Nyaya, Yôga, Vêđanta... đã có những tư tưởng triết học
rất khác nhau về con người. Điểm nổi bật của quan điểm về con người trong triết
học Ấn Độ là luôn hướng về đời sống tâm linh, cố gắng đi tìm thực chất bản chất
con người và chỉ ra con đường giải phóng cho con người.
• Về vấn đề con người và giải phóng con người đã được các nhà triết học Ấn
Độ bàn luận một cách khá rộng rãi ngay từ thời Cổ đại.
- Kinh Vêđa cho rằng, con người và muôn vật đều do Đấng duy nhất đó là
Thượng đế hay Phạm Thiên tạo ra. Kinh Upanishad lại cho rằng, con người bao
gồm thể xác và linh hồn. Linh hồn sốâng của con người (Atman) chỉ là sự biểu hiện,
là bộ phận của “tinh thần tối cao” (Brahman). Thể xác của con người chỉ là cái “vỏ
bọc” của linh hồn, là nơi trú ngụ tạm thời của linh hồn bất tử.
- Phật giáo cho rằng, bản chất thế giới là “không”. “Không” vừa tónh lặng,
trống rỗng lại vừa xáo động và nhân đôi, từ đây sinh ra vạn vật và con người. Con
người là “tự kỉ nhân quả” mà thành chứ không phải do Thượng đế hay Brahman
sinh ra. Con người được cấu tạo bởi ngũ uẩn (sắc, thụ, tưởng, hành, thức) đó là sự
phối hợp của danh (tinh thần) và sắc (vật chất). Thế giới là “vô thường” còn con
người là “vô ngã”, nhưng vì do con người “vô minh” nên đã không hiểu được điều
đó. Do vậy mà “đời là bể khổ”. Để thoát khổ thì con người phải đạt đến Niết bàn
bằng cách diệt trừ dục vọng, khắc phục vô minh, từ bỏ tham, sân, si. Muốn vậy con

người phải tự giác thực hiện “bát chánh đạo”, “tam học”, “lục độ”, phải hiểu biết
“tứ diệu đế” v.v...
15


Triết học Taina cho rằng, con người gồm có thể xác nhất thời và linh hồn bất
tử, cũng như vật chất, linh hồn không do ai tạo ra và tồn tại mãi mãi. Linh hồn có
thể thâm nhập vào được tất cả và hiểu biết được mọi cái. Thể xác nhất thời của
con người là nơi giam hãm linh hồn và hạn chế những khả năng vô tận của linh
hồn. Để giải phóng cho linh hồn con người thoát khỏi hạn chế bởi những ham
muốn, nhục dục của thân xác thì con người phải dốc lòng tu luyện đạo đức như
không sát sinh, không bạo lực, v.v...
- Triết học Mimansa quan niệm, con người bao gồm thể xác và linh hồn. Linh
hồn con người là hiện thân của tinh thần thế giới vónh cửu. Để giải thoát linh hồn
khỏi sự ràng buộc của thân xác thì con người cần phải làm tròn các nghóa vụ, bổn
phận xã hội theo các tiêu chuẩn đẳng cấp của mình đã đặt ra và dốc lòng thực hiện
mọi nghi thức của Kinh Vêđa.
- Triết học Vedanta quan niệm, linh hồn con người là hiện thân của tinh thần
vũ trụ tối cao (Brahman) trong thể xác. Để giải thoát cho linh hồn con người khỏi
thể xác để trở về hòa nhập với tinh thần vũ trụ tối cao, con người cần phải hết lòng
tu luyện, suy tư, chiêm nghiệm nội tâm, thực nghiệm tâm linh để nhận ra chân bản
của mình, khi đó linh hồn cá thể sẽ trở về hòa nhập với linh hồn vũ trụ.
- Triết học Yoga quan niệm, con người gồm thể xác và linh hồn. Linh hồn cá
thể có thể siêu thoát khỏi thể xác để đạt đến tuệ giác. Để đạt được điều này, triết
học Yoga đã đưa ra một hệ thống lý luận về phương pháp tập luyện nhằm phát huy
năng lực của con người vượt lên trên những năng lực hiện có, nhằm tự luyện để đạt
đến sự giải thoát tinh thần khỏi thể xác.
- Bên cạnh các quan điểm duy tâm nói trên, phái Lôkayata đã có quan điểm
duy vật khi cho rằng, bốn yếu tố (đất, nước, lửa, gió) là bản nguyên vật chất từ đó
sinh ra thế giới vạn vật và con người. Kể cả ý thức, lý tính và các giác quan của

con người cũng xuất hiện do sự kết hợp của các nguyên tử mà thành. Con người là
thân thể có ý thức, lý trí là thuộc tính của thân thể, tinh thần và lý trí của con người
không tồn tại tách rời thân thể. Sau khi con người chết, các nguyên tử sẽ tan ra
thành các nguyên tố. Tuy còn thô sơ, mộc mạc, nhưng quan điểm duy vật này đã
thể hiện tư tưởng tiến bộ về con người trong triết học phương Đông.
b) Quan điểm về con người trong triết học Trung Quốc.
16


• Quá trình tồn tại, phát triển của quan điểm về con người trong triết học
Trung Quốc rất phong phú, đa dạng và phức tạp. Các quan điểm về con người
nhiều khi mâu thuẫn, xung đột hết sức gay gắt. Nhưng nhìn chung, các trường phái
triết học đều lấy con người làm trung tâm và mục tiêu của nhận thức, đồng thời đề
cao tính nhân văn, khẳng đònh giá trò tồn tại tích cực của con người đối với chính
bản thân mình và đối với thế giới bên ngoài.
- Triết học Nho giáo cho rằng, Trời là một lực lượng thần bí đã sinh ra con
người và vạn vật, con người cũng như vạn vật chòu sự chi phối của mệnh trời. Khi
bàn về con người, trước hết Nho giáo bàn về tính người. Tại sao con người ta sống
trong xã hội lại có quan niệm, suy nghó, lối sông khác nhau? Nho giáo cho rằng sự
khác nhau ấy là do tính người (nhân tính). Tính ở đây được hiểu là ý thức, tư tưởng,
tình cảm của con người. Quan niệm về tính người của các nhà tư tưởng trong trường
phái Nho giáo rất khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Khổng Tử cho rằng, “tính
tương cận, tập tương viễn”, tức là con người ta khi mới sinh ra bản tính gần nhau
khi lớn lên, do phong tục tập quán xã hội nên xa nhau. Mạnh Tử lại cho rằng, bản
tính con người là thiện. Tuân Tử thì cho rằng bản tính con người là ác, v.v... Mặc
dù quan niệm rất khác nhau nhưng họ đều thống nhất là cần phải giáo dục tính
thiện, giáo dục đạo làm người cho con người. Đạo làm người là việc làm của con
người nhân luân - con người sống trong xã hội cần phải có quan điểm, hành vi như
thế nào cho phù hợp với xã hội. Theo các nhà tư tưởng của Nho giáo, con người ta
sông phải có cương, thường, trung, hiếu - cương là tam cương, thường là ngũ

thường, trong tam cương, ngũ thường chứa đựng năm yếu tố đạo đức là: nhân,
nghóa, lễ, trí, tín. Như vậy, đạo làm người phải có bảy yếu tố đạo đức là: nhân,
nghóa, lễ, trí, tín, trung và hiếu.
- Mặc Tử, người sáng lập ra phái Mặc gia, chống lại thuyết “thiên mệnh”, vì
ông cho rằng, không hề có số mệnh quyết đònh và chi phối con người. Chính hành
vi của con người mới là nguyên nhân gây nên họa, phúc, thành bại trong cuộc sống
của họ. Nếu con người nỗ lực làm việc, tiết kiệm tiền của thì có thể làm cho cuộc
sống no đủ; ngược lại, nếu không gắng sức làm việc thì nghèo đói. Mặt khác, Mặc
Tử lại thừa nhận ý chí của Trời và cùng với Trời là Quỷ thần là mực thước cao
nhất, là khuôn phép của hành vi con người. Nếu thuận theo ý Trời, con người sẽ
được giàu sang, trường thọ. Nếu sai ý Trời và Quỷ thần, con người sẽ bò Trời khiến
cho sống không được trọn đời. Để thuận theo ý Trời, con người phải thực hành
17


“kiêm ái” - yêu thương tất cả như nhau, không phân biệt giàu, nghèo, thân sơ, quý
tiện... “kiêm ái” chính là nhân nghóa. Để thực hiện “kiêm ái” cần phải theo nguyên
tắc “thượng đồng” - là sự thống nhất tư tưởng và hành động của mọi người trong xã
hội.
- Hàn Phi, đại biểu tiêu biểu của trường phái Pháp gia, xuất phát từ học
thuyết về Đạo và Lý - quan điểm duy vật về giới tự nhiên - ông cho rằng, Đạo là
nguyên lý căn bản, là quy luật phổ biến của sự hình thành mọi sự vật, hiện tượng.
Đạo tồn tại vónh viễn không thay đổi. Lý là phạm trù thể hiện mặt chất lượng của
quy luật riêng của các sự vật, hiện tượng; mỗi sự vật, hiện tượng đều có cái lý của
nó; lý của sự vật, hiện tượng cụ thể là bất thường, luôn biến đổi và phát triển. Do
vậy, để đạt được kết quả trong hành động, con người phải “tuân theo Đạo và Lý” tức là con người vừa phải hành động tuân theo quy luật khách quan của sự vật,
đồng thời tuân theo cái lý biến hóa của nó. Trong tự nhiên không có ý chí tối cao, ý
muốn chủ quan của con người không thể thay đổi được quy luật khách quan. Vận
mệnh của con người là do con người tự quyết đònh lấy. Không có gì có thể chứng
minh được Quỷ thần là có thật. Trong cuộc sống, vì con người ta gặp tai nạn, rủi ro

không giải quyết được nên mới tin vào Quỷ thần. Nếu con người không sinh bệnh
tật thì không bò trừng phạt, ra sức làm ra nhiều của cải thì Quỷ thần không làm rối
loạn được tinh thần con người. Ông cho rằng, con người ta sinh ra vốn đã có sẵn
lòng tham dục, tự tư, tự lợi, đó là bản tính tự nhiên. Tất cả các quan hệ xã hội
(quan hệ tình cảm, đạo đức, cha con, anh em, bạn bè...) đều được xây dựng trên cơ
sở tính toán lợi ích cá nhân. Vì thế, kẻ thống trò phải căn cứ vào tâm lý “tránh hại,
cầu lợi”, “cá nhân vò kỷ” của con người mà đề ra thưởng phạt (pháp luật) nhằm
duy trì trật tự xã hội.
- Lão Tử, người sáng lập trường phái triết học Đạo gia ở Trung Quốc, trong
học thuyết vô vi của mình, ông cho rằng, theo đạo vô vi người ta có ba của báu
phải giữ gìn, bảo vệ: một là trí ái, hai là tiết kiệm, ba là không dám đứng trước
thiên hạ. Từ đó, ông rút ra quan điểm cơ bản trong nghệ thuật sống của con người,
khi con người còn sống, phải có đức tính: Từ ái, cần kiệm, khiêm nhường, khoan
dung, tri túc và kiến vi. Trong trò nước theo đạo vô vi, ông kêu gọi đưa cuộc sống
con người và xã hội trở về trạng thái tự nhiên, nguyên thủy, chất phác, không ham
muốn, không dục vọng, không có thể chế, pháp luật, không bò ràng buộc bởi truyền
thống đạo đức, không có tri thức văn hóa, kỹ thuật. Theo bản tính tự nhiên mọi
18


người tự làm những việc mà mỗi người cần phải làm một cách tự nhiên. Cái cốt lõi
trong học thuyết vô vi chính là nghệ thuật sống của con người trong sự hòa nhập
với tự nhiên, thuận theo bản tính tự nhiên của con người.
• Tóm lại, triết học Trung Quốc khi bàn về con người đã đưa ra nhiều quan
điểm hết sức phong phú, đa dạng và sâu sắc; nhiều khi mâu thuẫn hết sức gay gắt,
điều đó phản ánh cuộc đấu tranh giữa chủ nghóa duy vật vô thần tiến bộ với quan
niệm duy tâm, tôn giáo. Nhưng cách trình bày nhiều khi chồng chéo nhau, xâm
nhập nhau, lọc bỏ, tiếp thu lẫn nhau. Do vậy, khó phân biệt thành trường phái, xu
hướng khác nhau. Một trong những tư tưởng độc đáo về con người của triết học
Trung Quốc là tư tưởng “thiên nhân hợp nhất”, đề cao con người nhưng không

tuyệt đối hóa con người chủ trương giữ gìn sự cân bằng, ổn đònh các mối quan hệ tự
nhiên - xã hội; quan hệ giữa con người với con người. Khi bàn về con người, các
nhà triết học Trung Quốc chỉ quan tâm đến các vấn đề như: “tính người”, “tâm
người” v.v... Nghóa là chỉ bàn đến các phẩm chất tinh thần, ý thức, tâm lý, tư tưởng
của con người. Chính vì vậy mà các tư tưởng triết học về xã hội - nhân văn đặc biệt
phát triển, còn tư tưởng triết học về tự nhiên thì lại đơn giản nghèo nàn.
2. Quan điểm về con người trong triết học phương Tây trước Mác.
Điểm nổi bật của triết học phương Tây là tập trung mọi cố gắng để nghiên
cứu con người, làm tăng thêm sức mạnh để nghiên cứu và chinh phục thế giới
khách quan. Do đó, triết học phương Tây tập trung nghiên cứu con người một cách
khá toàn diện và đặc biệt đề cao con người, coi “con người là trung tâm của vũ trụ”
là “thước đo của vạn vật”; chú ý đến những phẩm chất khoa học và tự do của con
người. Quan điểm về con người trong triết học phương Tây thể hiện rõ nét qua các
thời kỳ: thời kỳ cổ đại, thời trung cổ, thời phục hưng và cận đại, thời cổ điển Đức;
với hai khuynh hướng duy vật và duy tâm. Chúng ta có thể lược khảo các quan
điểm về con người trong triết học phương Tây qua các giai đoạn và các khuynh
hướng trên.
a) Thời kỳ cổ đại.
• Tiêu biểu cho quan điểm về con người ở phương Tây thời kỳ cổ đại là tư
tưởng về con người của các nhà triết học Hy Lạp - La Mã cổ đại. Triết học Hy Lạp
- La Mã cổ đại rất đa dạng và phong phú, đã đề cập đến mọi vấn đề, trong đó có
19


vấn đề con người. Về vấn đề con người, triết học Hy Lạp - La Mã cổ đại đã đưa ra
rất nhiều quan điểm khác nhau, song đều khẳng đònh con người là “tinh hoa cao
quý nhất của tạo hóa”; Prôtago coi “con người là thước đo của tất thảy mọi vật”,
hay Xôcrát quan niệm: “Triết học là sự tự ý thức của con người về chính bản thân
mình”. Đồng thời, triết học Hy Lạp - La Mã cổ đại còn luôn đề cập đến những vấn
đề thiết thực của cuộc sống con người như: con người là gì? Cuộc đời và số phận

con người như thế nào? Coi đây là những vấn đề trung tâm của sự phản tư triết học.
• Xuất phát từ quan điểm cho rằng, thế giới do một hay một số chất tạo nên,
các nhà triết học duy vật thời kỳ này cho rằng; con người cũng được bắt nguồn từ
một hay một số chất nào đó. Theo Talét, chất đó là nước; Anaximen: không khí;
Hêraclít: lửa; Xênôphan: đất và nước v.v... Tiêu biểu cho các quan điểm duy vật
thời kỳ này là quan điểm của các nhà triết học: Empêđôclơ, Lơxíp và Đêmôcrít.
- Nhà triết học Empêđôclơ cho rằng, thế giới được cấu thành từ lửa, không
khí, đất và nước. Bốn yếu tố này kết hợp với nhau sinh ra vạn vật và con người.
Mọi sự sống đều có lý tính, nhưng trong đó con người là sự sống có lý tính cao
nhất, là sinh vật thông minh nhất có đôi tay để thực hiện lý tính của mình.
- Lơxíp và Đêmôcrít lại quan niệm bản nguyên của thế giới là nguyên tử. Các
nguyên tử kết hợp với nhau sinh ra vạn vật và con người. Đặc biệt, Đêmôcrít - đại
biểu lớn nhất của chủ nghóa duy vật thời cổ đại - Với quan niệm duy vật, ông có
những quan điểm có giá trò khi bàn về con người. Ông cho rằng, sự sốâng và con
người trên trái đất không phải do thần thánh tạo ra, mà là kết quả biến đổi lâu dài
của giới tự nhiên. Tất cả mọi sự vật được cấu tạo bởi nguyên tử và khoảng không;
linh hồn con người được cấu tạo từ các nguyên tử hình cầu, đây là loại nguyên tử
nhỏ nhất, nhưng vận động với tốc độ lớn nhất. Sự vận động của các nguyên tử hình
cầu giống như sự vận dộng của các nguyên tử lửa; chính sự vận động của các
nguyên tử hình cầu đã sinh ra nhiệt, vì thế mà trong các cơ thể sống mới có nhiệt
độ, nơi cư ngụ của linh hồn là trái tim, sự sống và cái chết là khác nhau về số lượng
của nguyên tử hình cầu.
• Đối lập với quan điểm các nhà triết học duy vật, các nhà triết học theo chủ
nghóa duy tâm truy tìm nguồn gốc, bản chất của con người từ những lực lượng siêu
nhiên thần bí. Tiêu biểu là Xôcrát và Platôn.

20


- Theo Xôcrát, thế giới do thần thánh tạo ra và an bài, con người không nên

tìm hiểu về thế giới, làm như thế là xúc phạm đến thần thánh. Con người hãy tìm
hiểu về chính bản thân mình. Xôcrát đã lấy con người làm trung tâm và đối tượng
nghiên cứu trong triết học của mình; theo ông, triết học không phải là cái gì khác
hơn là sự nhận thức của con người về chính bản thân mình. Vì thế, ông đã đưa ra
lời kêu gọi nổi tiếng: “con người, hãy nhận thức chính mình”. Trên cơ sở nhận thức
bản thân, con người mới nhận thức được cái thiện, cái ác. Ông đặc biệt đề cao vai
trò của tri thức; ông cho rằng, tri thức là nền tảng của đạo đức, tri thức sẽ giúp con
người sống hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách của mình.
- Platôn cho rằng; ý niệm có trước tất cả, là nguồn gốc của tất cả. Ý niệm tồn
tại vónh viễn, bất biến. Con người bao gồm thể xác và linh hồn, thể xác chỉ là nơi
trú ngụ tạm thời của linh hồn, là nhà tù của linh hồn. Con người chết đi, linh hồn
bất tử được giải thoát khỏi thể xác và trở về với thế giới ý niệm. Toàn bộ sự hiểu
biết của con người chỉ là sự “hồi tưởng” của linh hồn bất tử về “thế giới ý niệm”.
Linh hồn được chia thành nhiều loại, mỗi loại linh hồn tương ứng với một tầng lớp
người trong xã hội theo đòa vò sang, hèn, giàu, nghèo và vò trí của tầng lớp người đó
trong xã hội. Linh hồn được cấu tạo từ ba bộ phận: lý tính, ý chí và nhục dục.
Trong đó, phần lý tính là cơ sở của sự thông thái; phần ý chí là cơ sở của lòng dũng
cảm, còn phần nhục dục là cơ sở sự điều độ, chế ngự sự nhục dục.
- Hêracơlít cho rằng, lửa là nguồn gốc sản sinh ra vũ trụ, vạn vật và con
người, cũng như sản sinh ra linh hồn con người. Theo ông, trong con người luôn có
hai mặt đối lập là lửa và cái ẩn ướt, nếu ở người nào có nhiều lửa thì là người tốt
và tâm hồn của họ khô ráo, sạch sẽ. Ngược lại, ở người nào có nhiều yếu tố ẩm ướt
thì đó là người xấu. Logos của con người chính là yếu tố lửa chứa đựng trong đó.
- Asixtốt đứng trên lập trường nhò nguyên luận để xem xét mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức, giữa cơ thể và linh hồn. Ông quan niệm “con người là một động
vật chính trò, nếu suốt đời không quan hệ với những người xung quanh thì chẳng
khác gì động vật với thượng đế”.
b) Thời kỳ trung cổ
• Triết học phương Tây thời kỳ trung cổ là triết học kinh viện, với đặc điểm
chủ yếu là: phục tùng thần học, theo chủ nghóa duy tâm, phương pháp luận siêu

21


hình. Trong điều kiện này, khoa học bò đình trệ, triết học hoặc là làm đầy tớ cho
thần học hoặc trở thành triết học kinh viện. Trong triết học phương Tây thời kỳ
trung cổ, chủ nghóa duy tâm, tôn giáo xem con người không tồn tại độc lập mà luôn
phụ thuộc vào Thượng đế. Chính Thượng đế sinh ra và tạo ra các hoàn cảnh để con
người tồn tại và phát triển. Mỗi khi cuộc sống con người gặp khó khăn, con người
cho rằng đó là do Chúa Trời trừng phạt tội “tổ tông” của mình. Thượng đế là chân
lý tối cao sắp đặt số phận, đẳng cấp cho con người, nếu người nào vượt lên trên
đẳng cấp là tội lỗi. Chính quyền nhà vua cũng là do “ý của Chúa Trời” sắp đặt,
thân xác con người phải phục tùng nhà vua, còn quyền lực tối cao bao hàm tất cả
thì thuộc về giáo hội. Ngay cả triết học là tri thức của con người về thế giới khách
quan và về chính bản thân con người, trong điều kiện này cũng bò phụ thuộc vào
thần học, phải dựa vào sự anh minh của Thượng đế. Và, triết học có nhiệm vụ làm
“đầy tớ cho thần học”. Do vậy, triết học thời kỳ này hoàn toàn bất lực trong việc
giải thoát con người. Con người trở nên nhỏ bé, yếu ớt, bất lực trong cuộc sống;
nhưng lại phải an ủi và bằng lòng với kiếp sống tạm bợ, nhất thời trên trần thế, để
đi đến hạnh phúc vónh cửu ở “thế giới bên kia”. Hậu quả là con người bò thủ tiêu ý
chí đấu tranh vượt qua mọi gian khổ để tự giải thoát mình.
• Tiêu biểu cho tư tưởng ở thời kỳ này là quan điểm của Tômát Đacanh và
Ôguytxtanh. Tômát Đacanh cho rằng, giới tự nhiên và con người là do Chúa Trời
sáng tạo ra từ hư vô. Mọi cái hoàn thiện trong thế giới là do sự quyết đònh thông
minh của Chúa Trời. Chúa Trời là mục đích tối cao, là quy luật vónh cửu đứng trên
mọi cái quyết đònh mọi cái. Con người chỉ là hình ảnh của Chúa Trời và linh hồn
bất tử là bản chất của nó. Vò trí, vai trò, số phận, đẳng cấp của con người chỉ là sự
chuẩn bò cho cuộc sống tương lai của thế giới bên kia, thế giới của “vương quốc
giàu có ở trên trời”.
- gugtxtanh cho rằng, Chúa Trời là lực lượng siêu nhiên, có sức mạnh vạn
năng đã sáng tạo ra giới tự nhiên và con người, đồng thời quyết đònh số phận của

chúng. Ý chí của con người là tự do, nhưng chỉ trong giới hạn tiền đònh của Thượng
đế. Ông khuyên con người hãy coi thường cuộc sống vật chất nơi trần thế, bởi cuộc
sông nơi trần thế chỉ là tạm thời và tội lỗi; con người chỉ là người khách bộ hành
chốc lát trên trái đất, còn cuộc sống “ở bên kia” mới là vónh cửu và hạnh phúc.
c) Thời kỳ phục hưng và cận đại
22


• Đây là thời kỳ hình thành phương thức sản xuất tư bản chủ nghóa, hình thành
những dân tộc tư sản ở Châu Âu. Trong thời kỳ này, khoa học nói chung và triết
học nói riêng có những bước tiến bộ nhảy vọt. Đây còn là thời kỳ phục hưng lại
con người theo tinh thần nhân đạo tư sản mà từ lâu đã bò chế độ phong kiến chà
đạp và bò Thiên Chúa giáo làm cho tối tăm, ngu dốt, mất nhân tính. Trong điều
kiện này, các nhà khoa học đã bày tỏ khá rõ quan niệm của mình về con người và
việc giải phóng con người. Các tư tưởng đề cao con người, coi “con người là thước
đo của tất thảy mọi vật” và coi “triết học là sự tự ý thức của con người về chính
bản thân mình” đã có ảnh hưởng lớn đến quan niệm về con người trong thời kỳ
này. Triết học thời kỳ này còn gắn liền với vấn đề con người và giải phóng con
người. Vấn đề quan hệ giữa con người và thế giới trở thành trung tâm của các quan
niệm triết học.
- Ở Italia, các nhà tư tưởng đưa ra khẩu hiệu “con người hãy thờ phụng chính
bản thân mình, hãy chiêm ngưỡng vẻ đẹp của chính mình”; thuật ngữ “nhân đạo”
vốn có từ thời cổ đại nay trở thành phạm trù trung tâm của triết học; Trong quan
điểm của các nhà triết học Brunô, Galilê, Tômát Morơ, Tomô Campanenl, v.v...
thể hiện rõ khuynh hướng đề cao vai trò của trí tuệ, tự do và bình đẳng.
- Ở Anh, Hốpxơ coi con người là một thể thống nhất giữa tính tự nhiên và tính
xã hội. Bản chất con người là ích kỷ, vì con người ta ai cũng có nhu cầu, lợi ích,
khát vọng riêng - đó chính là nguyên nhân gây ra cái ác. Ông viết: “con người là
một động vật độc ác và ranh ma hơn cả chó sói, gấu và rắn”.
- Ở Pháp, Rútxô cho rằng, lòch sử loài người là kết quả hoạt động của chính

bản thân con người, không tuân theo ý muốn chủ quan của bất kỳ thế lực nào cả.
Điđơrô quan niệm, con người được cấu tạo bởi sự thống nhất hữu cơ của linh hồn
và thể xác. Trong đó, linh hồn lại là một tổng thể các hiện tượng tâm lý, bản thân
nó cũng là đặc tính vật chất, nếu không có cơ thể con người thì linh hồn con người
không là gì cả; còn cơ thể con người lại là khí quan vật chất của tư duy, ý thức và
mọi quá trình tâm lý ở con người.
- Ở Hà Lan, Xpinôda quan niệm, giới tự nhiên là thực thể duy nhất tồn tại
theo chính mình, còn con người là sản phẩm của giới tự nhiên. Nhiệm vụ của triết
học là giúp con người có trí tuệ, nhờ đó con người mới nhận thức và hành động
theo giới tự nhiên và hành động theo những lý tưởng đạo đức cao đẹp, v.v...
23


- Phanxít Bêcơn cho rằng, giới tự nhiên là nguồn gốc còn thể xác con người,
còn linh hồn của con người là thực thể của thể xác. Ông chia linh hồn thành ba
dạng: linh hồn thực vật, linh hồn động vật (thuộc về linh hồn cảm tính) và linh hồn
lý tính. Linh hồn lý tính có nguồn gốc từ Thượng đế, đó là một khả năng kỳ diệu do
Thượng đế ban cho con người, do đó nó mang tính chất thần thánh. Vì linh hồn có
hai dạng cảm tính và lý tính cho nên con người một mặt gần gũi với động vật, mặt
khác lại là một cái gì đó rất siêu phàm. Bên cạnh các hoạt động chính trò, khoa
học, nghệ thuật... Con người còn cần đến tôn giáo để vượt qua những lúc mềm yếu,
bất lực, đem lại niềm tin cho con người.
- Rêne Đềcáctơ cho rằng, con người cấu tạo từ linh hồn và thể xác, linh hồn
và thể xác là hai yếu tố hoàn toàn tách biệt nhau, nhưng cả hai lại xuất phát từ hai
thực thể là tư duy và mang tính cũng hoàn toàn tách biệt. Linh hồn là bất tử, khi
con người ta chết đi, thân xác bò phân hủy, linh hồn sẽ thoát khỏi thể xác, cơ thể
con người chỉ là nơi trú ngụ tạm thời của linh hồn bất tử mà thôi.
Những tư tưởng triết học trên đây về con người, không chỉ có một sự ảnh
hưởng tích cực đến sự phát triển tư tưởng về con người trong triết học sau này, mà
còn có ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều cuộc cách mạng nổ ra ở Châu Âu và trên toàn

thế giới.
d) Thời kỳ cổ điển Đức
Triết học cổ điển Đức với thành tựu to lớn của nó, đã đánh dấu một bước phát
triển mới về chất của tư tưởng loài người trong tiến trình lòch sử. Một trong những
đặc điểm quan trọng của triết học cổ điển Đức là đề cao vai trò tích cực của hoạt
động con người. Con người được coi là chủ thể, đồng thời là sản phẩm hoạt động
của chính mình. Tuy vậy, triết học cổ điển Đức đã sai lầm khi thần thánh hóa ý
thức của con người, biến ý thức của con người thành một lực lượng siêu nhiên, thần
bí.
- I. Cantơ cho rằng, nhiệm vụ của triết học phải đem lại cho con người một cơ
sở thế giới quan mới, phải vạch ra được các nguyên tắc cơ bản trong cuộc sống con
người; phải xác đònh được bản chất con người là gì? phải giải quyết những vấn đề
mà cuộc sống của con người đặt ra cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Theo
ông, con người là chủ thể của nhận thức và hành động, là một nhân tố có vò trí quan
24


trọng trong thế giới. Mọi nhận thức, mọi việc làm của con người, phải được xuất
phát từ con người và phải vì hạnh phúc của con người.
- Hêghen trong hệ thống triết học của mình, ông đã lấy “tinh thần tuyệt đối”
để làm cơ sở giải thích vấn đề tự nhiên và xã hội. Theo ông, con người cũng như
các sự vật, hiện tượng xung quanh ta đều là hiện thân của “tinh thần tuyệt đối”, là
kết quả “tha hóa” của tinh thần tuyệt đối mà ra. “Tinh thần tuyệt đối” luôn trong
tình trạng vận động, biến đổi. Thông qua sự vận động, biến đổi của “tinh thần tuyệt
đối”, thế giới vật chất và tinh thần của con người được biểu hiện ra. Ông cho rằng,
con người vừa là chủ thể, đồng thời lại là kết quả của quá trình hoạt động của
mình. Tư duy và trí tuệ của con người chỉ có thể hình thành và phát triển để đạt
đến “tuyệt đối” trong quá trình nhận thức và cải tạo thế giới, biến cái tự nhiên từ
cái đối lập với con người, trở thành cái của mình và đồng nhất với mình, đây là
phương thức để đạt đến “tinh thần thế giới”.

- L. Phoiơbắc, trong hệ thống triết học của mình, ông đã lấy con người làm
đối tượng và trung tâm của triết học. Theo ông, nghiên cứu khoa học tự nhiên cũng
là để phục vụ cho nghiên cứu con người, để tạo cho con người một cuộc sống hạnh
phúc thực sự trên trần gian. Ông cho rằng, con người là sản phẩm của tự nhiên, là
kết quả phát triển của tự nhiên. Giữa con người và tự nhiên nằm trong thể thống
nhất hữu cơ không thể tách rời; vì con người là sản phẩm tất yếu và cao nhất của tự
nhiên, còn giới tự nhiên là “thân thể vô cơ” không thể thiếu trong đời sống con
người. Con người sống phải dựa vào tự nhiên để thỏa mãn các nhu cầu của mình
như ăn, mặc, ở v.v... Ngược lại, chính những cái đó đã ảnh hưởng đến tâm tư, tình
cảm, đam mê, khát vọng của con người cá nhân cũng mang bản tính cộng đồng,
quan hệ giữa con người và con người chỉ có một quan hệ duy nhất là quan hệ tình
yêu. Ông coi đó là bản tính vốn có của con người, là cái thiêng liêng nhất, đáng
được tôn trọng, đáng được tôn thờ như một niềm tin tôn giáo. Quan niệm của ông
đã đem lại cho nhân loại một cái nhìn mới mẻ về chính bản thân mình, khi cho
rằng, con người cũng như xã hội loài người là một thực thể, một bộ phận của thế
giới tự nhiên, là kết quả phát triển lâu dài của giới tự nhiên đem lại. Tuy nhiên,
ông vẫn chưa thấy được vai trò của xã hội trong sự tác động đến con người và sự
phát triển của xã hội loài người.
3. Quan niệm về con người trong một số trào lưu triết học ngoài mácxít
25


×