Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

GIỚI THIỆU CHUNG về CỘNG ĐỒNG KINH tế ASEAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.59 KB, 17 trang )

CHỦ ĐỀ 7: “VIỆT NAM VỚI CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN”

1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN(AEC)
a. Khái quát chung
ASEAN là một khu vực kinh tế năng động có:
- 10 thành viên: Thá Lan,
- Diện tích: 4.435.670 km2
- Dân số: hơn 600 triệu người
- GDP: 1.850.855 triệu USD
- Tổng giá trị thương mại: 2.042.788 triệu USD
- Tổng giá trị đầu tư: 74.081 triệu USD
- Các đối tác thương mại chính: Trung Quốc, EU, Nhật, Mỹ, Hàn Quốc, Ấn
Độ,…
1.2. Lịch sử hình thành và mục tiêu của AEC
ASEAN là một thị trường rộng lớn với dân số hơn 600 triệu người, chiếm
khoảng 8,8% dân số thế giới; tổng thu nhập quốc nội (GDP) năm 2013 đạt khoảng
2.400 tỷ USD, năm 2014 đạt khoảng 2,505 tỷ USD và tổng kim ngạch xuất khẩu
hàng năm khoảng 1.000 tỷ USD. ASEAN là nền kinh tế lớn thứ 10 của thế giới.
Với mục tiêu xóa bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan giữa các nước
thành viên ASEAN để thúc đẩy hợp tác và hội nhập kinh tế trong khu vực, từ năm
1992, ASEAN đã quyết định thành lập Khu vực Thương mại tự do ASEAN
(AFTA). Sự ra đời của AFTA được đặt trong bối cảnh Khu vực Thương mại tự do
Bắc Mỹ (NAFTA) được thành lập ở Châu Mỹ và Cộng đồng Châu Âu được hình
thành ở Châu Âu. Khi đó, AFTA chủ yếu tập trung vào tự do hóa trong lĩnh vực
thương mại hàng hóa để hình thành một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất
của khu vực.
Theo lộ trình tự do hóa thương mại của AFTA, từ ngày 01 tháng 01 năm
2010, các nước ASEAN đã cơ bản hoàn thành việc cắt giảm thuế quan, trong đó
99,65% số dòng thuế của các nước ASEAN-6 đã được xóa bỏ thuế quan và
98,86% số dòng thuế của các nước ASEAN-4 (gồm Cam-pu-chia, Lào, Mi-an-ma
và Việt Nam) đã được giảm về mức 0-5%. Đây là kết quả nổi bật và là dấu mốc


quan trọng trong hợp tác ASEAN.
Nhận thức được tầm quan trọng của liên kết kinh tế giữa các nền kinh tế
khu vực nhằm đối phó với những thách thức trong Thiên niên kỷ mới, tại Hội nghị


Cấp cao ASEAN lần thứ 8 ở Phnôm Pênh vào tháng 11 năm 2002, ASEAN xác
định trọng tâm của hợp tác kinh tế trong khối với việc xây dựng ý tưởng về Cộng
đồng Kinh tế ASEAN. Tuyên bố Bali tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 9
(tháng 10 năm 2003) đã thông qua ý tưởng trên và khẳng định quyết tâm xây dựng
AEC vào năm 2020. Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 12 (tháng 01 năm 2007
tại Phi-líp-pin), các Nhà Lãnh đạo đã ký Tuyên bố Cebu về việc đẩy nhanh việc
xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 trên ba trụ cột: kinh tế, chính trị- an
ninh và văn hóa- xã hội, trong đó trụ cột kinh tế có vai trò trọng tâm với tiêu chí
hình thành AEC. Các Nhà Lãnh đạo cũng đã thông qua Kế hoạch Tổng thể xây
dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC Blueprint).
Ngày 31-12-2015, cộng đồng kinh tế ASEAN chính thức được thành lập.
Việc thành lập chính thức Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào cuối năm 2015
sẽ đánh dấu một mốc quan trọng nỗ lực của ASEAN trong việc hoàn thành các
mục tiêu của một khu vực hội nhập, thể hiện ở "Một Tầm nhìn, Một Bản sắc, Một
Cộng đồng" mới.
Về bản chất, AEC được hiểu như một khuôn khổ hội nhập kinh tế với mức
độ sâu sắc hơn giữa các thành viên. AEC tiếp nối những thành tựu của AFTA với
sự phát triển đáng kể về phạm vi và mức độ tự do hóa. Theo đó, hàng hóa, dịch vụ,
vốn, đầu tư và lao động kỹ năng sẽ được lưu chuyển tự do hơn giữa 10 nước thành
viên.
1.3. Mục tiêu của AEC
Với những bản chất nêu trên,AEC hướng tới với 4 mục tiêu chính,đó là:
- Một thị trường đơn nhất và cơ sở sản xuất chung, được xây dựng thông
qua: Tự do lưu chuyển hàng hoá; Tự do lưu chuyển dịch vụ; Tự do lưu
chuyển đầu tư; Tự do lưu chuyển vốn và Tự do lưu chuyển lao động có tay

nghề.
-

Một khu vực kinh tế cạnh tranh, được xây dựng thông qua các khuôn khổ
chính sách về cạnh tranh, bảo hộ người tiêu dùng, quyền sở hữu trí tuệ, phát
triển cơ sở hạ tầng, thuế quan và thương mại điện tử.

-

Phát triển kinh tế cân bằng, được thực hiện thông qua các kế hoạch phát
triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) và thực hiện sáng kiến hội nhập
nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN

-

Hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, được thực hiện thông qua việc tham vấn
chặt chẽ trong đàm phán đối tác và trong tiến trình tham gia vào mạng lưới
cung cấp toàn cầu (WTO).

1.4. Đặc trưng và nội dung thực hiện AEC.


1.4.1. Thị trường và cơ sở sản xuất chung
Xây dựng một thị trường đơn nhất và một không gian sản xuất chung: Việc
thực hiện hoá cộng đồng kinh tế ASEAN thành một thị trường và cơ sở sản xuất
thống nhất, theo đó góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của ASEAN. AEC sẽ
hỗ trợ hội nhập kinh tế của các khu vực ưu tiên, đồng thời cho phép tự do chu
chuyển nguồn nhân lực có trình độ cao/tài năng trong kinh doanh. Một thị trường
và cơ sở sản xuất thống nhất ASEAN bao gồm năm yếu tố cơ bản: chu chuyển tự
do hàng hoá, dịch vụ, lao động có tay nghề, chu chuyển tự do hơn nữa các dòng

vốn và dòng đầu tư. Hàng rào thuế quan và hàng rào phi thuế quan sẽ từng bước bị
xoá bỏ. Các nhà đầu tư ASEAN sẽ được tự do đầu tư vào tất cả mọi lĩnh vực trong
khu vực. Các chuyên gia và lao động có tay nghề sẽ được luân chuyển tự do trong
khu vực. Những thủ tục hải quan và thương mại khi đã được tiêu chuẩn hoá hài
hoà và dịch vụ thống nhất sẽ thúc đẩy phát triển mạng lưới sản xuất toàn cầu đáp
ứng yêu cầu đối với chuỗi cung ứng toàn cầu. Thị trường và cơ sở sản xuất thống
nhất mang lại lợi ích cho các ngành công nghiệp ưu tiên tham gia hội nhập như:
nông nghiệp, chăm sóc sức khoẻ, cao su, dệt may và thời trang du lịch, ngành
công nghiệp gỗ và các dịch vụ logistics khác…
1.4.2. Khu vực kinh tế cạnh tranh
Xây dựng một khu vực kinh tế mang tính cạnh tranh: Cộng đồng kinh tế ASEAN
hướng tới mục tiêu tạo dựng một khu vực kinh tế có năng lực cạnh tranh cao,
thịnh vượng và ổn định, theo đó khu vực này sẽ ưu tiên 6 yếu tố chủ chốt là: chính
sách cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng, quyền sở hữu trí tuệ, phát triển cơ sở hạ
tầng, hệ thống thuế khoá và thương mại điện tử. ASEAN cam kết thúc đẩy văn hoá
cạnh tranh công bằng thông qua việc ban hành các chính sách và luật cạnh tranh,
đảm bảo sân chơi bình đẳng trong ASEAN và hiệu quả kinh tế khu vực ngày càng
cao.
1.4.3. Về phát triển kinh tế công bằng
Phát triên kinh tế công bằng: Mục đích của hiệp định khung AEC đối với sự
phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là thúc đẩy năng lực cạnh tranh của
khu vực này bằng cách lợi thế hoá phương pháp tiếp cận thông tin, tài chính, kỹ
năng, phát triển nguồn nhân lực và công nghệ. Những động lực này là để lấp đầy
khoảng cách giữa các quốc gia thành viên ASEAN, thúc đẩy hội nhập kinh tế của
Cambodia, Lào, Myanma, Việt Nam, cho phép các nước thành viên cùng hướng
tới một mục tiêu chung và đảm bảo tất cả các quốc gia này đều có được lợi ích
công bằng trong quá trình hội nhập kinh tế.
1.4.4. Về hội nhập với kinh tế toàn cầu
Đẩy mạnh hội nhập kinh tế toàn cầu: Với thị trường tương tác lẫn nhau và các
ngành công nghiệp hội nhập, có thể nói ASEAN hiện đang hoạt động trong một

môi trường toàn cầu hoá ngày càng cao. Do đó, không chỉ dừng lại ở AEC mà
ASEAN còn phải xem xét tất cả các quy định trên thế giới để hình thành chính
sách cho chính mình, như chấp thuận các tiêu chuẩn và kinh nghiệm sản xuất,
phân phối quốc tế tối ưu nhất. Đây sẽ là động lực chính cho phép ASEAN có thể
cạnh tranh thành công với thị trường toàn cầu, đạt được mục đích sản xuất trở


thành nơi cung ứng quan trọng cho thị trường quốc tế, đồng thời đảm bảo thị
trường ASEAN có sức hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài.
1.5. Cơ hội và thách thức của AEC.
1.5.1. Cơ hội:
Trước hết đó là cơ hội mở rộng thị trường trong nội khối với khu vực kinh
tế hơn 600 triệu dân và GDP hàng năm đạt gần 3000 tỷ USD. Hàng rào thuế quan
được loại bỏ, các hàng rào phi thuế được cắt giảm sẽ giúp hàng hóa, dịch vụ, vốn,
lao động lưu chuyển thông thoáng hơn, tạo tiền đề nâng cao sức mạnh kinh tế của
khu vực ASEAN. Thị trường khu vực được liên kết là điều kiện thuận lợi để các
doanh nghiệp giảm chi phí nhập khẩu, hạ giá thành sản phẩm, mở rộng thị trường
xuất khẩu.
Thứ hai, AEC cũng là khu vực giao thoa của nhiều Hiệp định thương mại
song phương và khu vực. Các doanh nghiệp sẽ có cơ hội tiếp cận các thị trường
rộng lớn như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ô-xtơ-rây-li-a, Niu Di-lân và Ấn
Độ thông qua các FTA ASEAN+1 và Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực
(RCEP).
Thứ ba, tự do hóa dịch vụ trong AEC là cơ hội để các ngành dịch vụ của
Việt Nam phát huy tiềm năng và lợi thế phát triển như dịch vụ du lịch, vận tải
hàng không, logistics. Đồng thời, thị trường dịch vụ mở cửa sẽ tăng sức ép cạnh
tranh trong các ngành dịch vụ giữa các nước ASEAN, góp phần buộc các doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ của Việt Nam phải nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh
của mình.
Thứ tư, những nỗ lực của ASEAN về tự do hóa đầu tư thông qua Hiệp định

Đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA) sẽ làm tăng tính hấp dẫn của thị trường ASEAN
đối với các nhà đầu tư trong khối cũng như từ các nước đối tác. Đây là cơ hội để
tăng cường thu hút các luồng đầu tư có chất lượng, phù hợp với nhu cầu phát triển
đất nước. Đồng thời tạo thêm cơ hội để các doanh nghiệp có năng lực đẩy mạnh
đầu tư ra các nước ASEAN.
Thứ năm, AEC cũng tạo cơ hội để các doanh nghiệp cải thiện năng lực cạnh
tranh nhờ giảm chi phí đầu tư máy móc thiết bị, nguyên liệu đầu vào, giảm chi phí
giao dịch nhờ các giải pháp thuận lợi hoá thương mại... Các doanh nghiệp cũng có
thêm cơ hội tuyển dụng lao động có trình độ chuyên môn, kỹ năng từ các nước


ASEAN để bổ sung vào nguồn lực sẵn có, khắc phục tình trạng thiếu lao động
trình độ cao hiện nay.
Thứ sáu, AEC là cơ hội để các nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam tham gia
hiệu quả hơn vào chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu, tái cấu trúc nền kinh tế và
đổi mới mô hình tăng trường, góp phần thực hiện các mục tiêu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
1.5.2. Thách thức.
Thứ nhất, thách thức về khả năng hoàn thành các biện pháp AEC đúng thời
hạn và khả năng thực hiện cam kết của các nước theo Kế hoạch tổng thể Xây dựng
AEC. Trên thực tế, hiện nay, một số nước đang gặp khó khăn trong việc thực thi
các biện pháp AEC như chậm phê chuẩn các hiệp định/ nghị định thư ASEAN đã
ký kết; chậm hài hòa các sáng kiến khu vực với các quy định và luật pháp trong
nước; khó khăn trong giải quyết những tồn tại trong nước để thực thi các cam kết
khu vực và các cam kết cụ thể của từng nước.
Thứ hai, thách thức trong việc nâng cao nhận thức của xã hội và cộng đồng
doanh nghiệp về AEC. Theo báo cáo của Ban Thư ký ASEAN thực hiện năm
2012, có tới 76% người dân không hiểu rõ về AEC và cũng chỉ có 55% doanh
nghiệp có hiểu biết cơ bản về ASEAN.
Thứ ba, thách thức đến từ sự gia tăng các liên kết thương mại khu vực và thế

giới. Nhiều thành viên ASEAN đang tham gia ngày càng nhiều hơn và sâu hơn
vào các khuôn khổ hợp tác kinh tế, thương mại ở khu vực và thế giới. Xu hướng
này, trong chừng mực nhất định đã khiến các thành viên ASEAN phân tán nguồn
lực và sự tập trung để thực hiện các mục tiêu AEC.
Thứ tư, các nước thành viên mới, bao gồm Việt Nam, Cam-pu-chia, Lào và
My-an-ma sẽ phải đối mặt với sức ép cạnh tranh cao hơn từ hàng hoá ASEAN sau
2015. Từ 2015 – 2018, các nước này sẽ phải đưa toàn bộ các mặt hàng trong danh
mục nhạy cảm về 0%. Hầu hết các mặt hàng này là các sản phẩm được hưởng mức
bảo hộ cao thời gian qua. Nếu không có sự cải thiện về năng lực cạnh tranh, một
số ngành trong đó sẽ bị tác động khi thuế bảo hộ phải dỡ bỏ.
Thứ năm, thị trường lao động từng bước mở cửa cho phép lao động có kỹ năng
của ASEAN dịch chuyển thuận lợi hơn giữa các nước. Trước mắt, yếu tố này sẽ
tạo điều kiện cho các nước trình độ phát triển kém hơn bổ sung sự thiếu hụt lao
động chuyên môn cao. Tuy nhiên, về lâu dài Việt Nam phải nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực trên cơ sở cải cách hệ thống giáo dục, đào tạo nghề trong nước


nhằm nâng cao chất lượng lao động cả về chuyên môn, ngoại ngữ, sức khoẻ và kỹ
năng sống.
2. Việt Nam trong quá trình gia nhập AEC.
2.1.

Vị trí của Việt Nam trong nền kinh tế AEC.

Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) đã bắt đầu hoạt động và việc nhận diện
được vị trí, vị thế của Việt Nam trong AEC là rất cần thiết.
- Việt Nam có diện tích thứ 4 (sau Indonesia, Myanmar, Thái Lan); dân số
đứng thứ 3 (sau Indonesia, Philippines), mật độ dân số đạt 277 người/km 2 (đứng
thứ 3 sau Singapore, Philippines) và GDP năm 2015 đạt khoảng 193,4 tỷ USD
(đứng thứ 6 sau Indonesia, Thái Lan, Malaysia, Singapore và Philippines).

- Việt Nam có tỷ trọng kinh tế thực (gồm 2 nhóm ngành sản xuất vật chất là
nông, lâm nghiệp - thủy sản và công nghiệp - xây dựng) trong GDP đạt trên 50%,
(sau Brunei, Campuchia, Indonesia, Lào), cao hơn Singapore, Malaysia,
Philippines, Thái Lan. Điều này có một phần do Việt Nam đang tiến hành công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, để chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang cấp độ cao
hơn.
- Kinh tế Việt Nam có độ mở khá cao, tỷ lệ xuất khẩu/GDP lớn và tăng nhanh
(từ dưới 50% năm 2002 lên 83,9% năm 2015), cao thứ 2 sau Singapore. Xuất khẩu
bình quân đầu người thuộc loại tương đối cao (chỉ sau Singapore, Malaysia, Thái
Lan, Brunei.
- Dung lượng thị trường trong nước lớn (xấp xỉ 150 tỷ USD), nhưng chất
lượng thị trường thấp; một số hàng hóa, dịch vụ giá cả chưa theo giá thị trường..
- Tuy nhiên, vị thế của Việt Nam còn thấp về một số mặt quan trọng.
+Mật độ dân số của Việt Nam thuộc loại cao. Đây là một hạn chế cho nhiều
chỉ tiêu bình quân đầu người, đặc biệt tạo ra những gánh nặng về hạ tầng cơ sở, về
nhiều chỉ tiêu xã hội (y tế, giáo dục, nhà ở...).
+Tỷ lệ dân số thành thị của Việt Nam thuộc loại thấp (chỉ cao hơn
Campuchia, Đông Timor, Myanmar), thấp hơn cả Lào, thấp xa so với Thái Lan
(47%), Indonesia (50%), Philippines (63%), Malaysia (71%), Brunei (76%),
Singapore (100%). Đây là một trong những tiêu chí của một nước công nghiệp mà
Việt Nam còn đạt thấp; điều quan trọng hơn là phương thức đô thị hóa (ly nông


bất ly hương) và chất lượng đô thị hóa (cơ sở hạ tầng, phong cách sống công
nghiệp...).
+Việt Nam có tốc độ tăng giá tiêu dùng bình quân năm thời kỳ 2010-2015 cao
nhất trong khu vực. Tuy nhiên đó chủ yếu do CPI năm 2011 cao (18,13%), còn
năm 2014 và 2015, CPI của Việt Nam thuộc loại thấp nhất trong hơn một thập kỷ
qua và thuộc loại thấp so với các nước, kể cả các nước có nền kinh tế phát triển, có
nhiều năm phát triển kinh tế thị trường.

+Tốc độ tăng GDP bình quân năm trong giai đoạn 2011 - 2015 của Việt Nam
còn thấp hơn cả các nước như Đông Timor, Lào, Campuchia... Mặc dù năm 2014
và năm 2015 đã cao lên, nhưng tính bình quân giai đoạn 2011 - 2015 lại thấp hơn
5 năm trước đó, đồng thời thấp hơn yêu cầu chống tụt hậu xa hơn và dự kiến
không đạt được mục tiêu cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại
vào năm 2020. GDP bình quân đầu người tăng khá, nhưng khoảng cách mức tuyệt
đối so với các nước vẫn còn lớn và doãng ra.
-Xếp hạng của Việt Nam trên thế giới về năng lực cạnh tranh còn thấp khá xa
so với 5 nước đầu trong ASEAN.
-Chất lượng tăng trưởng kinh tế còn thấp so với nhiều nước, khi tỷ trọng đóng
góp vào tốc độ tăng trưởng GDP của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) còn
thấp. Trước thực trạng của nền kinh tế như vậy, Việc Nam đang nỗ lực bằng mọi
cách để phấn đấu đưa tỷ trọng đóng góp của TFP (năng suất các nhân tố tổng hợp)
bình quân 5 năm lên đến 33,39% - vượt mục tiêu của kế hoạch 5 năm. Dẫu vậy,
hiệu quả đầu tư lại rất thấp, khi hệ số ICOR (hiệu quả sử dụng vốn đầu tư) năm
2015 lên tới 6,88 lần và bình quân giai đoạn 2011-2015 là 6,91 lần - tuy thấp hơn
mức 6,96 lần của thời kỳ 2006 - 2010, nhưng cao hơn nhiều so với hệ số 4,88 lần
của thời kỳ 2001-2005. Hệ số này trong thời kỳ 2011 - 2013 của Trung Quốc là
6,4 lần, Malaysia là 5,4 lần, Indonesia là 4,64 lần, Philippines là 4,1 lần và Lào là
2,59 lần.
2.2. Tiến trình thực hiện AEC của Việt Nam.
Chủ động và tích cực hội nhập khu vực ASEAN luôn là chính sách nhất quán
của Việt Nam trong những năm qua, điều này được thể hiện qua việc ASEAN luôn
là đối tác quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Cùng với Hoa Kỳ và liên minh châu
Âu (EU), ASEAN là thị trường xuất khẩu hàng hóa quan trọng của các doanh
nghiệp Việt Nam.
Trong vòng 1 thập kỷ qua, kim ngạch thương mại Việt Nam và ASEAN đã
tăng gần 4 lần, từ khoảng 9 tỷ USD năm 2003 lên đến gần 40 tỷ USD vào năm



2013. Những năm gần đây, ASEAN liên tục thuộc nhóm các thị trường xuất khẩu
hàng đầu của Việt Nam.
Việt Nam còn dẫn đầu đưa dòng thuế về 0%. Theo thống kê, cho đến nay
khoảng 90% dòng thuế Việt Nam đã về 0% và từ nay đến 2018, Việt Nam đưa tiếp
7% các dòng thuế về 0%. Điều này cho thấy mặc dù trong bối cảnh còn nhiều khó
khăn và sự chênh lệch giữa Việt Nam và 6 thành viên cũ của ASEAN còn khá lớn,
nhưng với nỗ lực, quyết tâm hội nhập sâu vào kinh tế khu vực và thế giới, Việt
Nam đã khắc phục khó khăn, phấn đấu đạt tỉ lệ cao… và được các nước ASEAN
khác đánh giá cao.
Bên cạnh đó, hải quan điện tử là một nội dung quan trọng đang được thực hiện
nhằm các mục tiêu trên. Việc thực hiện thủ tục hải quan điện tử ở Việt Nam về cơ
bản đã đạt được các mục tiêu như rút ngắn thời gian thông quan, và giảm các yêu
cầu về các giấy tờ kê khai. Việt Nam cũng đang xây dựng chương trình Một cửa
quốc gia (Vietnam's National Single Window - VNSW) nhằm tạo thuận lợi tối đa
cho thương mại.
Ngoài ra, Việt Nam cũng đang nỗ lực đơn giản hoá hệ thống các giấy phép,
giấy chứng nhận bao gồm giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu, giấy chứng nhận xuất
xứ (C/O), giấy chứng nhận vệ sinh kiểm dịch, giấy chứng nhận an toàn thực phẩm.
Các nỗ lực này thể hiện qua hệ thống eCoSys (hệ thống quản lý và cấp chứng
nhận xuất xứ điện tử) cũng như việc cấp phép nhập khẩu tự động. Hướng tới tự do
hóa dịch vụ, Việt Nam đã tiến hành sửa đổi một số Luật liên quan như Luật đầu
tư, Luật Thương mại, Luật doanh nghiệp và ban hành nhiều Nghị định, văn bản
hướng dẫn các Luật này.
Để thực hiện trụ cột 2 là AEC, Việt Nam đã sửa đổi và ban hành mới các
chính sách để thực hiện các cam kết trong từng ngành cụ thể, điển hình là trong
các ngành dịch vụ phân phối, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, viễn thông để
phù hợp với các cam kết trong hiệp định khung ASEAN về dịch vụ(AFAS).
Đối với các ngành ưu tiên gồm y tế, du lịch, logistics, e-ASEAN (thương mại
điện tử) và hàng không, Việt Nam cũng đã tuân thủ nghiêm túc các cam kết và tích
cực tham gia vào các hiệp định liên quan. Hiện tại, Việt Nam được đánh giá là một

trong những nước có Luật cạnh tranh khá toàn diện áp dụng cho cả nền kinh tế và
có các cơ quan giám sát thực hiện luật này cùng với Indonesia, Singapore và Thái
Lan...
2.3. Những cơ hội và thách thức của Việt Nam khi gia nhập AEC.
2.3.1. Cơ hội.
- Các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tiếp cận với một thị trường mở, bình
đẳng và rộng lớn qua việc cắt giảm thuế và các hàng rào phi thuế quan


+ Từ lâu ASEAN đã đẩy mạnh các nỗ lực chuẩn bị cho AEC thông qua việc
gỡ bỏ các rào cản chính về thuế quan, tự do hoa slinhx vực dịch vujvaf nới lỏng
các quy định về đầu tư nước ngoài. Đến cuối tháng 3/2013, ASEAN đã hoàn thành
80% các giải pháp được nêu trong kế hoạch xây dựng AEC trên tất cả các lĩnh
vực.
+ Để biến AEC thành một thị trường chung,các nước thành viên phải cam
kết cắt giảm các luồng thuế của hầu hêt các loại hàng hóa Nhập khẩu.Chẳng hạn
như ở Viêt Nam, chúng ta đã giảm thuế nhập khẩu cho hơn 10000 đồng thuế
xuống mức 0-5% theo ATIGA chiếm khoảng 98% số dòng thuế trong biểu thuế.
Chẳng những thế với việc hợp tác giữa AEC với các nước như Trung Quốc, Nhật
Bản, Hàn quốc,..làm cho thương mại giữa các nước có liên quan thay đổi. Theo
một điều tra cho thấy , có 71% DNNVV cho biết đều tham gia mạng sản xuất
Đông Á, gần 70% DNNVV có bạn hàng trong khu vực.
+ Với việc xóa bỏ các hàng rào phi thuế quan, tạo ra một sân chơi sòng
phẳng trong Khu vực, thúc đẩy quá trình dịch chuyển vốn, lao động, đầu tư, công
nghệ giữa các nước là một cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam: Việc hầu hết hàng
rào phi thuế quan được gỡ bỏ sẽ giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam chú trọng
hơn đến việc đáp ứng các hàng rào phí thuế còn lại mà đa số các nước trên thế giới
sử dụng, không bị phân tâm và tốn thời gian cũng như công sức để thỏa mãn các
điều kiện của từng quốc gia thành viên.
- Các cơ hội khi AEC mở ra sự tự do cho quá trình luân chuyển hàng hóa,

dịch vụ, vốn và con người
+ Đối với việc tự do hóa lưu thông hàng hóa.
Như đã nói ở trên, hoạt động thương mại giữa các quốc gia được thúc đẩy,
tạo ra các động lực cho các doang nghiệp sản xuất cũng như Xuất Nhập khẩu ở
trong nước. ASEAN hiện nay là một trong những thị trường chủ yếu của Việt
Nam
+ Đối với việc tự do hóa dịch vụ
Mục tiêu của AEC cũng hướng tới tự do lưu chuyển dịch vụ trong và ngoài
khối. Một khi AEC được hình thành, nó sẽ tạo ra một cơ hội cho các phân ngành
dịch vụ Việt Nam như du lịch, vận tải, tài chính, ngân hàng mở rộng mạng lưới
hoạt động ra toàn bộ thị trường ASEAN với chi phí thấp hơn nhiều.
+ Đối với việc tự do hóa luồng vốn


ASEAN đang là một địa chi thu hút đầu tư mạnh trên thế giới và đã tăng lên
8% vào năm 2013. Điều này cũng đã làm giảm khoảng cách về thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào ASEAN so với Trung Quốc giảm mạnh. Trong quá trình đó,
Việt Nam đang thể hiện một phần nào sự hấp dẫn đó khi xuất hiện những tập đoàn
lớn đầu tư vào như Samsung..
+ Đối với việc tự do hóa lực lượng lao động.
Doanh nghiệp Việt Nam có thể tuyển dụng các lao động giá rẻ ở Lào,
Campuchia hay có thể tiếp cận các lao động tay nghề cao của Singapore, Thái Lan
nhằm phục vụ cho mục tiêu của mình. Hơn nữa, với việc tự do hóa di chuyển giữa
các nước tạo ra những cơ hội cho các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ cũng như
du lịch lượng khách hàng tiềm năng dồi dào trong khu vực.
- Cơ hội mở rộng và đẩy mạnh xuất khẩu.
+ Tăng trưởng xuất khẩu.
ASEAN hiện là đối tác thương mại quan trọng hàng đầu của Việt Nam và là
động lực giúp nền kinh tế nước ta duy trì tốc độ tăng trưởng và xuất khẩu trong
nhiều năm qua, vượt trên cả EU, Nhật Bản, Trung Quốc hay Mỹ. Thuận lợi hóa

thương mại trong khu vực sẽ là cơ hội lớn cho Việt Nam để hình thành nên hiệu
ứng “tạo thêm thương mại”, tức là làm tăng thêm khối lượng trao đổi thương mại
của Việt Nam với các nước trong AEC.
+ Thay đổi cơ cấu sản phẩm xuất khẩu theo chiều hướng tích cực.
Trong thời gian qua, cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN đang
chuyển biến theo chiều hướng tích cực, được nâng cao cả về chất lượng và giá trị.
Ngoài những mặt hàng nông sản và nguyên liệu như gạo, cà phê, cao su, dầu thô
có hàm lượng chế tác thấp, Việt Nam đã xuất khẩu nhiều mặt hàng tiêu dùng, hàng
công nghiệp như linh kiện điện tử, dệt may, nông sản chế biến, mỹ phẩm với giá
trị cao và ổn định.Việt Nam cùng với các nước ASEAN khác cùng gia nhập các
câu lạc bộ các nước xuất khẩu lớn nhất trên thế giới về gạo, cao su, cà phê, hạt
điều, dệt may...
+ Mở rộng thị phần của hàng hóa Việt Nam trong các thị trường có liên quan.
Thể hiện rõ nhất là tại các nước ASEAN, Hàn Quoosc và Nhật Bản. Trên
thực tế thị phần của hàng hóa Việt Nam trên các thị trường này đã tăng đột biến và
giữ được sức tăng ổn định ngay sau khi các nước FTA có hiệu lực. Các doanh
nghiệp của Việt Nam ngày càng chủ động và tích cực hơn trong việc tận dụng các


ưu đãi về thuế trong các FTA.Tỷ lệ hàng hóa được hưởng ưu đãi của Việt
Nam( đáp ứng được yêu cầu về xuất xứ) cao so với các đối tác trong khu vực và
luôn có xu hướng tăng lên qua các năm thực hiện.
+ Tăng năng lực cạnh tranh cho hàng xuất khẩu Việt Nam.
Khi AEC được thành lập, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có thị trường rộng
lớn hơn. Bởi doanh nghiệp Việt Nam không chỉ hướng vào sản xuất nội địa mà sẽ
hướng ra thị trường chung, thị trường mà ASEAN đã có FTA như: Hàn Quốc,
Nhật Bản và Trung Quốc. Thêm vào đó khi thuế suất giảm xuống còn 0%, các
doanh nghiệp Việt Nam sẽ có điều kiện giảm chi phí, hạ giá thành hầng xuất
khẩu, góp phần gia tăng năng lực cạnh tranh. Bên cạnh đó, theo quy đinh của
ASEAN các sản phẩm sản xuất có tỷ lệ “nội khối” được xem là sản phẩm vùng

ASEAN, sẽ được hưởng các ưu đãi khi xuất khẩu sang các thị trường khu vực
ASEAN đã có FTA. Đây cũng là cơ hội để Việt Nam tận dụng các ưu đãi nhằm
gia tăng năng lực cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu trong nước sang thị trường
khu vực.
3.2-Thách thức.
a) Bất lợi khi xóa bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan giữa các nướn
thành viên.
Tính đến tháng 7-2013, Việt Nam đã giảm thuế nhập khẩu cho hơn 10000 dòng
thuế xuống mức 0-5% theo ATIGA, chiếm khoảng 98% số dòng thuế trong biểu
thuế. Với mức giảm thuế sâu như vậy, trong tương lai , hàng hóa của các nước
ASEAN sẽ tràn ngập thị trường Việt Nam, dẫn đến việc cải thiện tình trạng nhập
siêu của Việt Nam với các nước ASEAN càng trơ nên khó khăn hơn.
b) Nhận thức và hiểu biết về AEC của các doanh nghiệp Việt Nam thấp.
Các doanh nghiệp Việt Nam có hiểu biết và nhận thức rất hạn chế về AEC.
Cụ thể: có 76% số doanh nghiệp được điều tra không biết về AEC và 94% doanh
nghiệp không biết về Biểu đánh giá thực hiện AEC (AEC Scorecard). Các doanh
nghiệp được hỏi cũng không hiểu rõ những cơ hội cũng như thách thức đối với
Việt Nam nói chung và với các doanh nghiệp nói riêng khi Việt Nam gia tham gia
vào AEC 2015. Có đến 63% doanh nghiệp cho rằng AEC không có ảnh hưởng
hoặc ảnh hưởng rất ít đến việc kinh doanh của mình. Đây là tỷ lệ lớn nhất trong số
các quốc gia ASEAN.
Những nhận thức còn hạn chế như vậy sẽ khiến doanh nghiệp gặp khó khăn
trong việc tận dụng được các ưu đãi và cơ hội đến từ AEC (như ưu đãi về thuế
quan, về thủ tục hải quan, sự công nhận lẫn nhau đối với một số ngành, các ngành


được ưu tiên trong ASEAN...). Ví dụ: hiện nay mới chỉ 25% doanh nghiệp trong
nước tận dụng lợi ích trong việc sử dụng ưu đãi thuế quan theo C/O form D(1).
Điều này còn dẫn tới việc doanh nghiệp không nhận thức, không lường trước
được những khó khăn và sức ép cạnh tranh khi Việt Nam mở cửa. Từ đó, không

có những chuẩn bị cần thiết và kịp thời để ít nhất giữ vững được vị thế trên sân
nhà.
c) Các khó khăn về lợi thế so sánh của doanh nghiệp Việt Nam.
Lợi thế so sánh của các nước trong khu vực là gần giống nhau, đó là một khó
khăn không chỉ của riêng các doanh nghiệp Việt Nam mà còn của các doanh
nghiệp trong khu vực ASEAN. Bởi vì, giả sử chúng ta mạnh về lao động, nước
khác mạnh về công nghệ, thì khi AEC mở ra 2 yếu tố đó phối kết với nhau sẽ tạo
ra một lợi thế rất mạnh. Tuy nhiên, thực trạng hiện nay là ta mạnh về lao động cấp
thấp, nước bạn cũng mạnh về lao động cấp thấp, ta dựa chủ yếu vào tài nguyên,
nước bạn cũng sống nhờ vào tài nguyên. Điều đó vô hình chung làm phản tác
dụng của AEC; thay vì các nước hỗ trợ, bổ sung cho nhau thì phải cạnh tranh nhau
vì dựa vào các yếu tố quá giống nhau thì phải cạnh tranh nhau vì dựa vào các yếu
tố quá giống nhau để tồn tại và phát triển.
Một điều đáng buồn là mặc dù chúng ta liên tục cố gắng để cải thiện các lợi thế
so sánh truyền thống cũng như chuyển đổi dần sang các lợi thế so sánh mới, tuy
nhiên quá trình đó chưa đáp tương xứng được nhu cầu.
c) Sự cạnh tranh từ các nước trong khu vực về xuất khẩu.
-Việc bãi bỏ thuế quan, hàng rào phí thuế quan, thúc đẩy quá trình lưu
chuyển vốn, lao động tự do, kích thích đầu tư vừa là một cơ hội, lại là thách thức
cho các doanh nghiệp Việt Nam. Giờ đây, tại thị trường trong nước hàng nội sẽ
phải cạnh tranh sòng phẳng với hàng ngoại, tương tự như thế, các ngành tài chính,
dịch vụ,... sẽ gặp phải sự cạnh tranh khốc liệt hơn. Qua đó các doanh nghiệp
không có khả năng cạnh tranh sẽ phải thu hẹp sản xuất hay đóng cửa. Đó là một
vấn đề lớn đối với chúng ta hiện nay.
-Hàng hóa ở các nước thành viên ASEAN sẽ có mức thuế ưu đãi như nhau, khi
đó sức cạnh tranh sẽ tập trung vào chất lượng và giá trị gia tăng của sản phẩm.
Trong khi đó, với thiết bị công nghệ hiện nay, sản phẩm của doanh nghiệp Việt
Nam khó có thể cạnh tranh với sản phẩm xuất khẩu với các nước trong khối.
- Ngoài các lý do khách quan như trình độ kỹ thuật còn thấp, thiếu nguyên liệu
đầu tư vào, thiếu lao động có tay nghề thì chính sự hiểu biết không nắm bắt và



hiểu rõ luật pháp từ đó thiếu chuẩn bị, thiếu các chuẩn bị trung và dài hạn làm cho
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp VN vẫn chưa có chỗ đứng trên thị trường
thế giới.
e) Sự cạnh tranh của các hàng hóa nhập khẩu.
-HIện nay tại các thành phố lớn của Việt Nam như Hà Nội, Đà Nẵng, tp Hồ
Chí Minh,các sản phẩm có nguồn gốc từ ASEAN xuất hiện ngày càng nhiều. Đây
cũng là nguy cơ khiến Việt Nam trở thành vùng trũng tiêu thụ hàng hóa của các
nước trong khu vực. Hàng hóa của ASEAN được người tiêu dùng mua nhiều. Ưu
thế của các mặt hàng này là giá bán rất rẻ, chỉ bằng ½ hay 2/3 so với sản phẩm
cùng loại bán trong cửa hàng và siêu thị của Việt Nam.
-Bên cạnh đó, khi Việt Nam cam kết giảm thuế suất đối với các sản phẩm nhập
khẩu từ các nước đối tác này. Khi một nền kinh tế chưa chuẩn bị đầy đủ trước
những đối thủ cạnh tranh trong điều kiện các hàng rào thuế quan đã sớm bị dỡ bỏ,
sẽ dẫn đến những tổn thất về kinh tế trong cuộc cạnh tranh không cân sức, đồng
thời còn gây sức ép đối với nền nông nghiệp non trẻ của Việt Nam.
f) Các vấn đề khác.
-Nguồn lao động.
Số người làm việc chủ yếu ở nông thôn chiếm khoảng 70,15%. Điều này có
nghĩa là lực lượng lao động Việt Nam trình độ học vấn, tay nghề còn thấp. Đây là
một điều đáng báo động vì lao động Việt Nam tuy nhiều nhưng không tinh, do đó
khi AEC đi vào hoạt động lao động Việt Nam khó có thể cạnh tranh với các lao
động có tay nghề cao hay lao động cùng trình độ nhưng giá rẻ hơn. Từ đó lao động
nội có thể bị lao động ngoại lấy đi một lượng đáng kể công việc tại thị trường Việt
Nam cũng như khó mà đáp ứng các yêu cầu để có thể xuất khẩu sang nước khác.
Ngoài ra AEC mở ra cơ hội tự do di chuyển của lực lượng lao động nhưng là lực
lượng lao động có tay nghề, do đó nếu như không có các biện pháp nhằm nâng cao
chất lượng lao động, chúng ta sẽ đối mặt với thực tế là: Nguồn lao động ngoại
nhập cạnh tranh, giành việc lao động với nội địa ngay tại thị trường Việt Nam

trong khi Việt Nam không thể xuất khẩu lao động sang thị trường nước bạn do các
tiêu chuẩn về tay nghề không đảm bảo, xảy ra hiện tượng chảy máu chất xám,...
-Các yêu cầu về kỹ thuật, chất lượng.
Về vấn đề kỹ thuật, các doanh nghệp trong khối sẽ dần dần chuyển từ cạnh
tranh về giá sang cạnh tranh phi giá, như cạnh ranh về mẫu mã, cạnh tranh về kỹ


thuật,... Ngoài ra, việc tiếp thu các kỹ thuật, phương thức làm việc mới cũng là
một điều bắt buộc khi chúng ta hội nhập trong sân chơi này.Do đó, với trình độ kỹ
thuật vẫn còn thấp kém thì đây là một vấn đề mà Nhà nước và các doanh nghiệp
quan tâm.
Vấn đề về chất lượng, khi các hàng rào thuế quan và phi thuế quan được gỡ bỏ,
đa số các quốc gia đã sử dụng các yếu tố về chất lượng sản phẩm để bảo vệ hanngf
hóa trong nước.
4. Giải pháp cho các doanh nghiệp Việt Nam.
4.1-Về vấn đề đổi mới nền kinh tế và nâng cao nhận thức, hiểu biết cho các
doanh nghiệp Việt Nam.
a) Về mặt Chính phủ.
-Thực hiện đổi mới kinh tế:
+ Để tham gia hiệu quả vào lộ trình AEC, một trong những yếu tố quan trọng nhất
là Việt Nam cần nỗ lực trong việc cải cách các quy chế trong nước như đơn giản
hóa các thủ tục hành chính, hệ thống hóa và điều chỉnh các điều chỉnh các điều
luật không có hiệu quả hay có sự mâu thuẫn.
+ Bên cạnh việc thực hiện đúng, đủ và thực hiện các cam kết, Chính phủ Việt
Nam cần có sự hỗ trợ đối với các doanh nghiệp, giảm thiểu các chi phí giao dịch
kinh doanh thông qua việc cắt giảm chi phí đầu vào sản xuất và cung ứng dịch với
thời gian ngắn nhất.
Tăng cường hiệu quả cung ứng đầu vào cho sản xuất và dịch vụ, đặc biệt là các
ngành dịch vụ cung ứng đầu vào cho sản xuất như giao thông vận tải, điện lực,
viễn thông, tài chính và ngân hàng để toàn bộ nền kinh tế có được đầu vào sản

xuất với chi phí thấp hơn và chất lượng cao hơn.
Thúc đẩy cơ sở hạ tầng thông qua kêu gọi đầu tư và tài trợ để phát triển đồng
bộ mạng lưới vận tải, thông tin giao dịch an toàn giữa các thành viên thế giới.
a) Về phía doanh nghiệp.
Để tận dụng với hiệu quả cao nhất những cơ hội mà AEC mang lại, các
doanh nghiệp phải thường xuyên nâng cao chất lượng với sức cạnh tranh của hàng
xuất khẩu, đặc biệt là các tiêu chí về quy tắc xuất xứ để được hưởng các ưu thuế
quan.
Có thể nhìn thấy doanh nghiệp Việt Nam đang gặp rất nhiều khó khăn về trình
độ khoa học công nghệ, nguồn nhân lực, cũng như kinh nghiệm chinh chiến trên


trường quốc tế còn hạn chê. Vì vây, để khắc phục những nhược điểm này, không
có cách nào khác là doanh nghiệp phải chủ động tìm hiểu, naanng cao công nghệ
ngay từ bây giờ.
Doanh nghiệp cần chú trọng tăng tỷ trọng nội địa hóa, giảm phụ thuộc vào các
nhà cung cấp nước ngoài.
Tỷ lệ nội địa thấp có nghĩa là các nhà đầu tư phải nhập khẩu nhiều hơn các
nguyên vật liệu và linh phụ kiện. Hậu quả là chi phí sản xuất ở Việt Nam trở nên
kém cạnh tranh hơn. Do đó tăng tỷ lệ nội địa hóa là một yêu cầu bức bách để giữ
tính cạnh tranh của sản phẩm.
Xây dựng chiến lược liên kết nội khối, giữa các doanh nghiệp cùng ngành nghề
hoặc chuỗi liên kết với nhau để tạo ra chuỗi sản xuất đủ khả năng nhận những đơn
hàng lớn từ nước ngoài, chủ động cập nhật thông tin về cam kết của các bên và
tích cực so sánh, tận dụng các lợi ích của các hiệp định thương mại tự do.
4.2. -Vấn đề về lợi thế so sánh, nâng cao khả năng cạnh tranh của các
doanh nghiệp Việt Nam.
a) Thay đổi về lợi thế so sánh.
-Xây dựng đội ngũ lao động có tay nghề, kỹ thuật cao bằng cách liên kết với các
đối tác nước ngoài, cũng như đổi mới chương trình giảng dạy tại các cơ sở day

nghề, trường Đại học,..
-Áp dụng các phương pháp lao động mới, các máy móc, thiết bị mới, quy trình
làm việc mới để giảm hao phí tài nguyên, giải phóng con người khổi lao động
chân tay.
-Chủ động nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh, cải thiện chất lượng, mẫu
mã sản phẩm để naanng cao cạnh tranh và xây dựng thương hiệu hình ảnh của
doanh nghiệp.
-Đặc biệt, đối với các doanh nghiệp trong khối nông, thủy sản,chúng ta cần
quan tâm và đầu tư đúng mực nhiều hơn nữa, phỉa xây dựng các chính sách bao
tiêu, dự đoán thị trường nông thủy sản.
b) Nâng cao cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam.
Đây là vấn đề quan trọng, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước, tư nhân hoạt
động trong 12 lĩnh vực ưu tiên của tiến trinh AEC. Cần tập trung cải thiện bộ máy
điều hành, nâng cao trình độ sản xuất-kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước,
đồng thời tạo điều kiện thuận lợi và ưu đãi cho các doanh nghiệp tư nhân để có thể
cạnh tranh với các doanh nghiệp trong khối ASEAN, bên cạnh đó nên có các
chính sách khuyến khích các doanh nghiệp trong nước đầu tư cho nghiên cứu phát


triển hơn, bởi điều đó sẽ mang lại chuyển giao công nghệ tốt hơn từ đó cạnh tranh
cao hơn.
-Về ngắn hạn: Các doanh nghiệp cần tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu sang
ASEAN những mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu. Các
doanh nghiệp cũng cần tận dụng bảng thỏa thuận các ưu đãi thuế suất thuế nhập
khẩu với Lào, bản thỏa thuận thúc đẩy thương mại song phương với Campuchia,
cũng như lợi thế của hàng Việt Nam tại 2 thị trường này với thị trường Myanmar
để đẩy mạnh xuất khẩu.
-Về dài hạn: Các doanh nghiệp Việt Nam và hiệp hội ngành hàng , nhất là các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu cần chủ động trong việc nâng cao năng lực kinh
doanh phù hợp với điều kiện và môi trường của AEC. Các doanh nghiệp Việt Nam

phải chủ động xây dựng các chiến lược kinh doanh, phát triển sản xuất, đồng thời
cũng phải khai thác tối đa thế mạnh của mình, tận dụng những ưu thế về thuế quan
cũng như chủ động đón đầu với sức ép cạnh tranh, ngoài ra cũng dần dần dịch
chuyển từ cạnh tranh về giá sang cạnh tranh phi giá: cạnh tranh về dịch vụ, cạnh
tranh về chất lượng,cạnh tranh về mẫu mã,...
III-KẾT LUẬN.
Đối với Việt Nam, AEC mở ra cơ hoi quý báu để chúng ta nhanh chóng bắt
kịp với xu thế và trình độ phát triển kinh tế của khu vực và thế giới. Tuy nhiên
AEC cũng đặt ra cho vô vàn thách thức mà nếu không nghiên cứu kỹ, chúng ta sẽ
khó đón đầu ccasc lợi ích mà AEC amng lại.
Mặc dù AEC đem lại một thị trường hấp dẫn cho các doanh nghiệp Việt Nam,
tuy nhiên cũng còn rất nhiều thử thách đang ở phía trước. Nế chúng ta chuẩn bị
tốt, AEC sẽ làm bước đệm tối ưu để thực hiện hóa ước mơ vươn ra biển lớn của
doanh nghiệp Việt Nam, còn nếu không, doanh nghiệp Việt Nam sẽ chịu một thất
bại đau đớn, đó là thua thiệt về cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài ngay
trên thị trường bản địa.
Do đó, chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam cần tận dụng cơ hội, vượt qua
thách thức trong qáu trình tận dụng AEC, hội nhập sâu rộng hơn nữa nhằm nâng
cao vai trò của mình trong quá trình phát triển và hoàn thiện ASEAN, nhằm đảm
bảo quyền lợi cho chúng ta, cũng như các nước thành viên trong khu vực.




×