Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tiểu luận cao học KTQT hội nhập kinh tế quốc tế và những thách thức đối với việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.66 KB, 32 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Toàn cầu hoá kinh tế là xu thế tất yếu biểu hiện sự phát triển nhảy vọt
của lực lượng sản suất do phân công lao động quốc tế diễn ra ngày càng sâu
rộng trên phạm vi toàn cầu dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công
nghệ và tích tụ tập trung tư bản dẫn tới hình thành nền kinh tế thống nhất. Sự
hợp nhất về kinh tế giữa các quốc gia tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến nền
kinh tế chính trị của các nước nói riêng và của thế giới nói chung. Đó là sự
phát triển vượt bậc của nền kinh tế thế giới với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao,
cơ cấu kinh tế có nhiều sự thay đổi. Sự ra đời của các tổ chức kinh tế thế giới
như WTO, EU, AFTA...và nhiều tam giác phát triển khác cũng là do toàn cầu
hoá đem lại. Theo xu thế chung của thế giới, Việt Nam đã và đang từng bước
cố gắng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đây không phải là một mục tiêu
nhiệm vụ nhất thời mà là vấn đề mang tính chất sống còn đối với nền kinh tế
Việt Nam hiện nay cũng như sau này. Bởi một nứoc mà đi ngược với xu
hướng chung của thời đại sẽ trở nên lạc hậu và bị cô lập, sớm hay muộn nước
đó sẽ bị loại bỏ trên đấu trường quốc tế. Hơn thế nữa, một nước đang phát
triển, lại vừa trải qua chiến tranh tàn khốc, ác liệt...thì việc chủ động hội nhập
kinh tế với khu vực và thế giới thì lại càng cần thiết hơn bao giờ hết. Trong
quá trình hội nhập, với nội lực dồi dào sẵn có cùng với ngoại lực sẽ tạo ra thời
cơ phát triển kinh tế. Việt Nam sẽ mở rộng được thị trường xuất nhập khẩu,
thu hút được vốn đầu tư nước ngoài, tiếp thu được khoa học công nghệ tiên
tiến, những kinh nghiệm quý báu của các nước kinh tế phát triển và tạo được
môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, một vấn đề bao giờ
cũng có hai mặt đối lập. Hội nhập kinh tế quốc tế mang đến cho Việt Nam rất
nhiều thời cơ thuận lợi nhưng cũng đem lại không ít khó khăn thử thách.
Nhưng theo chủ trương của Đảng: “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các
nước “, chúng ta sẽ khắc phục những khó khăn để hoàn thành sứ mệnh. Hội
nhập kinh tế quốc tế là tất yếu khách quan đối với Việt Nam. Em xin chọn đề
tài: "Hội nhập kinh tế quốc tế và những thách thức đối với Việt Nam". Đây
là đề tài rất sâu rộng, mang tính thời sự. Đã có rất nhiều nhà kinh tế đề cập
đến vấn đề này.



NỘI DUNG
1


I. Một số vấn đề lí luận về hội nhập kinh tế quốc tế:
1. Khái niệm:
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gắn bó một cách hữu cơ nền kinh tế
quốc gia với nền kinh tế thế giới góp phần khai thác các nguồn lực bên trong
một cách có hiệu quả.
Hội nhập kinh tế theo quan niệm đơn giản nhất và phổ biến trên thế giới,
là việc các nền kinh tế gắn kết lại với nhau. Theo cách hiểu này, hội nhập kinh
tế đã diễn ra từ hàng ngàn năm nay và hội nhập kinh tế với quy mô toàn cầu
đã diễn ra từ cách đây hai nghìn năm khi đế quốc La Mã xâm chiếm thế giới
và mở mang mạng lưới giao thông, thúc đẩy lưu thông hàng hóa trong toàn bộ
lãnh địa chiếm đóng rộng lớn của họ và áp đặt đồng tiền của họ cho toàn bộ
các nơi.
Hội nhập kinh tế, hiểu theo một cách chặt chẽ hơn, là việc gắn kết mang
tính thể chế giữa các nền kinh tế lại với nhau. Khái niệm này được Béla
Balassa đề xuất từ thập niên 1960 và được chấp nhận chủ yếu trong giới học
thuật và lập chính sách. Nói rõ hơn, hội nhập kinh tế là quá trình chủ động
thực hiện đồng thời hai việc: một mặt, gắn nền kinh tế và thị trường từng
nước với thị trường khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực thực hiện mở
cửa và thúc đẩy tự do hóa nền kinh tế quốc dân; và mặt khác, gia nhập và góp
phần xây dựng các thể chế kinh tế khu vực và toàn cầu.
Trong các giáo trình nhập môn về kinh tế học quốc tê, hội nhập kinh tế
thường được cho là có sáu cấp độ: khu vực/hiệp định thương mại ưu đãi, khu
vực/hiệp định thương mại tự do, liên minh thuế quan, thị trường chung, liên
minh kinh tế tiền tệ, và hội nhập toàn diện. Tuy nhiên trong thực tế, các cấp
độ hội nhập có thể nhiều hơn và đa dạng hơn.

Hội nhập kinh tế có thể là song phương - tức là giữa hai nền kinh tế,
hoặc khu vực - tức là giữa một nhóm nền kinh tế, hoặc đa phương - tức là có
quy mô toàn thế giới giống như những gì mà Tổ chức Thương mại Thế giới
đang hướng tới.
2. Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế:
2.1. Thực chất của Hội nhập kinh tế quốc tế:
HNKTT thực chất là việc các nước tìm kiếm một số điều kiện, kể cả
dành cho nhau những ưu đãi, tạo ra sự công bằng trong hợp tác kinh tế nhằm
khai thác khả năng của nhau và vận dụng nguồn lực để phát triểm kinh tế.
Ở phạm vi quốc gia hội nhập kinh tế quốc tế là thực hiện mở cửa nền
kinh tế phát triển kinh tế quốc gia gắn liền với kinh tế khu vực và thế giới,
tham gia sâu rộng vào các hoạt động kinh tế quốc tế và các tổ chức kinh tế,
thương mại đa phương.

2


Hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu xuất phát từ những nguyên nhân
khách quan do sự tác động của xu thé toàn cầu hóa và khu vực hóa vì vậy mỗi
nước không thể tồn tại va phát triển một cách riêng rẽ, đứng ngoài xu thế
chung, đồng thời do lực lượng sản xuất phát triển đã vướt ra khỏi phạm vi
một quốc gia trở thành LLSX quốc tế thúc đẩy phân công lai động quốc tế lôi
kéo các quốc gia vào guồng máy lao đông xã hội chung từng bước phải hội
nhập, khoa học kỹ thuật cũng ngày càng phát triển vừa tạo những điều kiện
vừa tạo ra những áp lực buộc các nước phải có sự liên kết với bên ngoài để
tận dụng lợi thế của mình và tranh thủ cơ hội phát triển từ những thành tựu
chung của nhân loại đã đạt được, bên cạnh đó còn do sự thay đổi trong xu thế
ngoại giao và nhu cầu hòa bình, ổn định để phát triển của mọi quốc gia, thay
đối đầu bằng đối thoại.
Nguyên nhân chủ quan: Mọi quốc gia trên thế giới đều ở vào tình trạng

thiếu nguộn lực cho phát triển kinh tế trong thời đại mới do đó tj mình không
thể giải quyết được yêu cầu phát triển và do nhu cầu phát triển tránh tịt hậu
các nước đều tìm cách hội nhập vào xu thế chung hội nhập kinh tế quốc tế là
cuộc cạnh tranh gay gắt phức tạp để gióp phần vào việc phát triển kinh tế của
đất nước, từ đó tạo điều kiện củng cố ăn ninh quốc phòng, giữ vững độc lập,
bản sắc dân tộc…
2.2. Nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế:
Bất kì một quốc gia nào khi tham gia vào các tổ chức kinh tế trong khu
vực cũng như trên thế giới đều phải tuân thủ theo những nguyên tắc của các tổ
chức đó nói riêng và nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế nói chung. Sau
đây là một số nguyên tắc cơ bản của hội nhập:
Không phân biệt đối xử giữa các quốc gia; tiếp cận thị trường các nước,
cạnh tranh công bằng, áp dụng các hành động khẩn cấp trong trường hợp cần
thiết, dành ưu đãi cho các nước đang và chậm phát triển. Đối với từng tổ chức
có nguyên tắc cụ thể riêng biệt.
2.3. Nội dung và tác động của hội nhập kinh tế quốc tế (chủ yếu là nội
dung hội nhập WTO):
Mục tiêu của hội nhập kinh tế quốc tế là tự do hóa thương mại và đầu tư
vì vậy các nước phải dần dỡ bỏ hang rào cản trở trong quan hệ thương mại
thực hiện lien kết kinh tế quốc tế, với mỗi quốc gia đó là việc Chính phủ thực
hiện ký kết các hiệp định thương mại song phương va đa phương, tham gia
vào các tổ chức và liên kết kinh tế quốc tế
Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế là mở cửa thị trường cho nhau,
thực hiện thuận lợi hoá, tự do hoá thương mại và đầu tư:

3


- Về thương mại hàng hoá: các nước cam kết bãi bỏ hàng rào phi thuế
quan như QUOTA, giấy phép xuất khẩu..., biểu thuế nhập khẩu được giữ hiện

hành và giảm dần theo lịch trình thoả thuận...
- Về thương mại dịch vụ, các nước mở cửa thị trường cho nhau với cả
bốn phương thức: cung cấp qua biên giới, sử dụng dịch vụ ngoài lãnh thổ,
thông qua liên doanh, hiện diện
- Về thị trường đầu tư: không áp dụng đối với đầu tư nước ngoài yêu cầu
về tỉ lệ nội địa hoá, cân bằng xuất nhập khẩu và hạn chế tiếp cận nguồn ngoại
tệ, khuyến khích tự do hoá đầu tư...
Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế bao hàm tự do hóa thương mại, tự
do hóa lưu chuyển của các yếu tố khác tham gia vào quá trình sản xuất kinh
doanh như vốn , công nghệ, công nhân, thực thi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ,
thực hiện các biện pháp thuận lợi hóa thương mại và đầu tư như đơn giả hóa,
hiện đại hóa các thủ tục hải quan, thủ tục hành chính, thuận lợi hóa và tự do
hóa việc đi lại của doanh nhân; xây dựng các tiêu chuẩn thống nhất và hợp
chuẩn, giải quyết các tranh chấp thương mại theo quy định quốc tế.
Cần phân biệt hội nhập kinh tế quốc tế với hợp tác kinh tế quốc tế, hợp
tác kinh tế quốc tế là các hoạt động nhằm giảm bớt sự phân biệt đói xử thì quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế bao gồm các hoạt động hướng tới hủy bỏ một
số hình thức phân biệt đối xử, hội nhập kinh tế quốc tế là giai đoạn phát triển
cao của hợp tác kinh tế quốc tế và phân công lao động quốc tế
Trong hội nhập kinh tế quốc tế các chính phủ cần ký kết và thực hiện các
cam kết sau: Cam kết dành các ưu đãi cho các đối tác; cam kết về mức độ và
tiến trình mở cửa thị trường nội địa; cam kết về mức độ và tiến trình giảm
thuế quan, từng bước dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan nhằm thực hiện tự do hóa
thương mại và đầu tư. Cam kết thực hiện các nguyên tắc không phân biệt đối
xử; cam kết sự minh bạch chính sách, luật pháp lien quan đến thương mại và
đầu tư, tuy nhiên tùy vào mỗi quốc gia mà tiến trình thực hiện các cam kết có
sự khác nhau. Bản thân mỗi quốc gia khi tham gia HNKTQT phải tiến hành
những cải cách kinh tế xã hội nhất là cải cách hệ thống doanh nghiệp nội địa
nâng cao nguồn lực chính trị kinh tế; đào tạo chuẩn bị nguồn nhân lực cho
HNKT.

3. Vai trò của Hội Nhập kinh tế quốc tế đối với Việt nam.
Trong thời đại ngày nay, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế đã và đang là
một trong những vấn đề thời sự đối với hầu hết các nước. Nước nào đóng cửa
với thế giới đi ngược xu thế chung của thời đại, khó tránh khỏi rơi vào lạc hậu
Trái lại, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế tuy có phải trả giá nhất định
song đó là yêu cầu tất yếu đối với sự phát triển của mỗi nước. Bởi những tiến
bộ trên lĩnh vực khoa học công nghệ, đặc bietj là công nghệ truyển thong và
4


tin học thì giữa các quốc gia ngày càng có mối lien kết chặt chẽ, nhất là trên
lĩnh vực kinh tế. Xu hướng toàn cầu hóa được thể hiện rõ ở sự phát triển vượt
bậc của nền kinh tế thế giới.
Về thương mại: trao đổi buôn bán trênt hị trường thế giới ngày càng gia
tăng. Từ sau chiến tranh thế giới thứ II, giá trị trao đổi buôn bán trên thị
trường toàn cầu đã tăng 12 lần. Cơ cấu kinh tế có sự thay đổi đáng kể. Công
nghiệp nhường chỗ cho dịch vụ.
Về Tài chính: số lượng vốn trên thị trường chứng khoán thế giới đã tăng
gấp 3 lần trong 10 năm qua. Sự ra đời và ngày càng lớn mạnh của các tổ chức
kinh tế quốc tế là một phần của quốc tế hóa. Nó góp phần thúc đẩy nên kinh
tế của các nước phát triển mạnh hơn nữa.
Tuy nhiên trong xu thế toàn cầu hóa các nước giàu luôn có những lợi thế về
lực lượng vật chất và kinh nghiệm quản lý. Còn các nước nghèo có nền kinh tế
yếu kém dễ bị thua thiệt, thường phải trả giá đắt trong quá trình hội nhập.
Là một nước ngèo trên thế giới, sau mấy chục năm bị chiến tranh chống
phá, Việt Nam bắt đầu thực hiện chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung
sang cơ chế thị trường, từ một nền kinh tế tự túc nghèo nàn bứt đầu mở cửa
tiếp xúc với nền kinh tế thị trường rộng lớn đầy rẫy những sức ép, khó khăn.
Nhưng không vì thế mà chúng ta bỏ cuộc. Trái lại đứng trước xu thế phát
triển tất yếu nhận thức được những cơ hội và thách thức mà hội nhập đem lại,

Việt Nam một bộ phận của cộng đồng quốc tế không thể khước từ hội nhập,
chỉ có hội nhập Việt Nam mới khai thác hết những nội lực sẵn có của mình
để tạo ra những thuận lợi để phát triển kinh tế.
Chính vì vậy mà đại hội Đảng VII của Đảng cộng sản Việt Nam năm
1991 đã đề ra đường lối chiến lược “ Thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa
quan hệ quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại” đến đại hội Đảng VIII
nghị quyết trung ương 4 đã đề ra nhiệm vụ “ giữ vững độc lâp tự chủ, đi đôi
với tranh thủ tối đa nguồn lực từ bên ngoài, xây dựng một nên kinh tế mới,
hội nhập với khu vực và thế giới”
4. Thời cơ và thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam trong quá
trình hội nhập:
Với một nước có nền kinh tế thấp kém như việt nam thì hội nhập quốc
tế đem lại rất nhiều cơ hội nhưng cũng không ít những thách thức.
4.1. Thời cơ đối với nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập:
Tham gia vào các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực sẽ tạo điều kiện
cho Việt Nam phát triển một cách nhanh chóng. Những cơ hội của hội nhập
đem lại mà Việt Nam tận dụng được một cách triệt để sẽ làm bàn đạo để nền
kinh tế sớm sánh vai với các cường quốc năm châu.

5


Thứ nhất: Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần mở rộng thị trường xuất
nhập khẩu của Việt Nam:
Với quan điểm và nguyên tắc rõ ràng, việt nam đẩy nhanh quá trình hội
nhập. đường lối ở tầm vĩ mô không thể tránh khỏi đối với sự phát triển của
quá trình tham gia toàn cầu hoá thực tế có ý nghĩa rất lớn đối với sự nghiệp
đổi mới, hội nhập của việt nam. từ nhận thức này trong những năm qua việt
nam đã có bước chuyển đổi lớn trong chính sách phát triển kinh tế đối ngoại.
các chính sách này đều theo hướng tự do hoá, tất nhiên ở các tầng lớp khác

nhau phụ thuộc vào thực lực của mỗi lĩnh vực.
Nội dung của hội nhập là mở cửa thị trường cho nhau, vì vậy, khi Việt
Nam gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế sẽ mở rộng quan hệ bạn hàng. Cùng
với việc được hưởng ưu đãi về thuế quan, xoá bỏ hàng rào phi thuế quan và
các chế độ đãi ngộ khác đã tạo điều kiện cho hàng hoá của Việt Nam thâm
nhập thị trường thế giới. Chỉ tính trong phạm vi khu vực mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA) kim ngạch xuất khẩu của ta sang các nước thành viên cũng
đã tăng đáng kể. Năm 1990, Việt Nam đã xuất khẩu sang ASEAN đạt 348,6
triệu USD, nhưng đến năm 1998 đạt 2349 triệu USD. Nếu thực hiện đầy đủ
các cam kết trong AFTA thì đến năm 2006 hàng công nghiệp chế biến có xuất
xứ từ nước ta sẽ được tiêu thụ trên tất cả các thị trường các nước ASEAN.
Nếu sau 2000 nước ta gia nhập WTO thì sẽ được hưởng ưu đãi dành cho nước
đang phát triển theo quy chế tối huệ quốc trong quan hệ với 132 nước thành
viên của tổ chức này. Do vậy, hàng của ta sẽ xuất khẩu vào các nước đó dễ
dàng hơn. Đối với các nước EU cũng vậy, tiềm năng mở rộng thị trường hàng
hoá Việt Nam tại các nước đó là rất lớn. Dĩ nhiên nước ta có bán được hàng ra
bên ngoài hay không còn phụ thuộc vào chất lượng, giá cả, mẫu mã...hay nói
cách khác là sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam ra sao? Nếu hàng hoá
Việt Nam có mẫu mã đẹp, chất lượng tốt, giá thành rẻ...thì việc chiếm lĩnh thị
trường thế giới là tất yếu. Nhưng do hiện nay nước ta còn thiếu vốn, khoa học
kĩ thuật chưa được cải tiến đồng bộ, do đó chất lượng hàng hoá chưa cao, giá
thành chưa rẻ, mặc dù có được hưởng những ưu đãi về thuế.
Thứ 2: Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần tăng thu hút đầu tư nước
ngoài, viện trợ phát triển chính thức và giải quyết vấn đề nợ quốc tế:
Tham gia toàn cầu hóa chính là tranh thủ các điều kiện quốc tế để tranh
thủ tiềm năng nước nhà, phục vụ cho việc nâng cao đời sống nhân dân. việt
nam là nước có tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng chưa được khai thác
hiệu quả. với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú không chỉ tạo ta điều
kiện cho việc phát triển các ngành khai thác chế biến mà còn thu hút đầu tư
của các công ty nước ngoài. trên cơ sở các nguồn tài nguyên thiên nhiên có


6


sẵn, Việt nam có thể xác lập cơ cấu ngành kinh tế với những sản phẩm có tính
cạnh tranh đáp ứng được nhu cầu trị trường thế giới.
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài: Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là cơ
hội để thị trường nước ta được mở rộng, điều này sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư.
Họ sẽ mang vốn và công nghệ vào nước ta sử dụng lao động và tài nguyên
sẵn có của nước ta làm ra sản phẩm tiêu thụ trên thị trường khu vực và thế
giới với các ưu đãi mà nước ta có cơ hội mở rộng thị trường, kéo theo cơ hội
thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đây cũng là cơ hội để doanh nghiệp trong
nước huy động và sử dụng vốn có hiệu quả hơn. Hiện nay đã có trên 70 nước
và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư vào Việt Nam, trong đó có nhều công ty và
tập đoàn lớn, có công nghệ tiên tiến. Điều này góp phần làm chuyển dịch cơ
cấu kinh tế trong nước theo hướng công nghiệp, phát triển lực lượng sản xuất
và tạo nên công ăn việc làm. Tuy nhiên kể từ giữa năm 1997 đến nay, do tác
động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
nước ta có hướng suy giảm. Tuy vậy, kim ngạch xuất khẩu của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn tăng nhanh. Nếu như năm 1991 đạt 52
triệu USD thì năm 1997 là 1790 triệu USD.
Viện trợ phát triển ODA: Tiến hành bình thường hoá quan hệ tài chính
của Việt Nam, các nước tài trợ và các thể chế tài chính tiền tệ quốc tế đã tháo
gỡ từ năm 1992 đã đem lại những kết quả đáng khích lệ, góp phần quan trọng
vào việc xây dựng và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng. Tính đến 1999, tổng
số vốn viện trợ phát triển cam kết đã đạt 13,04 tỉ USD. Tuy nhiên, vấn đề
quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA còn bộc lộ nhiều yếu kém, nhất là tình
trạng giải ngân chậm và việc nâng cao hiêu quả của việc sử dụng nguồn vốn
ODA.
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần giải quyết tốt vấn đề nợ Việt

Nam: Trong những năm qua nhờ phát triển tốt mối quan hệ đối ngoại song
phương và đa phương, các khoản nợ nước ngoài cũ của Việt Nam về cơ bản
đã được giải quyết thông qua câu lạc bộ Paris, London và đàm phán song
phương. Điều đó góp phần ổn định cán cân thu chi ngân sách, tập trung nguồn
lực cho các chương trình phát triển kinh tế xã hội trong nước.
Thứ 3: Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo điều kiện cho ta tiếp
thu khoa học công nghệ tiên tiến, đào tạo cán bộ quản lý và cán bộ kinh
doanh:
Trong điều kiện nền kinh tế thế giới đang quá độ sang nền kinh tế trí tuệ,
khoa học và công nghệ phát triển mạnh trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp,
chi phối mọi lĩnh vực kinh tế xã hội nhưng cũng không thể thay thế vai trò
của nguồn lực lao động. hơn nữa, bản thân nguồn lực lao động còn là nhân tố

7


sáng tạo ra công nghệ thiết bị mới và sử dụng chúng trong quá trình phát triển
kinh tế.
Trên thực tiễn nhiều công ty nước ngoài vào việt nam, một trong những
lý do quan trọng là tận dụng nguồn lực lao động dồi dào, rẻ và có khả năng
tiếp thu công nghệ mới của việt nam. theo đánh giá của các công ty nhật bản
khi phân tích lợi thế môi trường kinh doanh của các quốc gia asean, việt nam
đứng thứ 7 trong tổng số các quốc gia (10 quốc gia) lớn hơn lào, campuchia
và myanma
Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra cơ hội để nguồn lực của nước ta khai
thông giao lưu với thế giơí bên ngoài. việt nam đã xuất khẩu lao động qua các
hợp đồng gia công chế biến hàng xuất khẩu và nhập khẩu lao động kỹ thuật
công nghệ mới rất cần thiết. như vậy với lợi thế nhất định về nguồn lao động
cho phép lựa chọn dạng hình phù hợp tham gia vào hội nhập và qúa trình hội
nhập đã tạo điều kiện để nâng cao chất lượng nguồn lao động Việt nam.

Việt Nam gia nhập kinh tế quốc tế sẽ tranh thủ được kĩ thuật, công nghệ
tiên tiến của các nước đi trước để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện
đại hoá, tạo cơ sở vật chất kĩ thuật cho công cuộc xây dựng Chủ Nghĩa Xã
Hội. Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường để khai thông thị trường nước ta
với khu vực và thế giới, tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn và có hiệu quả .
Qua đó mà các kĩ thuật, công nghệ mới có điều kiện du nhập vào nước ta,
đồng thời tạo cơ hội để chúng ta lựa chọn kĩ thuật, công nghệ nước ngoài
nhằm phát triển năng lực kĩ thuật, công nghệ quốc gia. Trong cạnh tranh quốc
tế có thể công nghệ này là cũ đối với một số nước phát triển, nhưng lại là mới,
có hiệu quả tại một nước đang phát triển như Việt Nam. Do yêu cầu sử dụng
lao động của các công nghệ đó cao, có khả năng tạo nên nhiều việc làm mới.
Trong những năm qua, cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật, nhất là công nghệ
thông tin và viễn thông phát triển mạnh làm thay đổi bộ mặt kinh tế thế giới
và đã tạo điều kiện để Việt Nam tiếp cận và phát triển mới này. Sự xuất hiện
và đi vào hoạt động của nhiều khu công nghiệp mới và hiện đại như Hà Nội,
TP Hồ Chí Minh, Vĩnh Phúc, Đồng Nai, Bình Dương, Hải Phòng...và những
xí nghiệp liên doanh trong ngành công nghệ dầu khí đã chứng minh điều đó.
Dĩ nhiên ngoài việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài để tạo cơ hội tiếp nhận tiến
bộ kĩ thuật và công nghệ, nước ta vẫn có thể sử dụng ngoại tệ có được nhờ
xuất khẩu để nhập công nghệ mới về phục vụ các nhu cầu sản xuất kinh
doanh. Song vì nước ta còn nghèo, dự trữ ngoại tệ rất hạn hẹp, kinh nghiệm
tiếp cận thị trường bên ngoài chưa nhiều, trình độ thẩm định công nghệ lại
kém và khả năng quản lý sản xuất kinh doanh với công nghệ cao còn yếu cho
nên còn đường thích hợp hơn với nước ta hiện nay là tiếp tục đổi mới cơ chế
và chính sách, tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn để lấy lại nhịp độ gia tăng thu
8


hút đầu tư trực tiếp như những năm trước, qua đó tiếp nhân và chuyển giao
công nghệ có hiệu quả hơn.

Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần không nhỏ vào công tác đào tạo
và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trong nhiều lĩnh vực. Phần lớn cán bộ khoa học
kĩ thuật, cán bộ quản lý, các nhà kinh doanh đã được đào tạo ở trong và ngoài
nước. Bởi mỗi khi liên doanh hay liên kết hay được đầu tư từ nước ngoài thì
từ người lao động đến các nhà quản ký đều được đào tạo tay nghề, trình độ
chuyên môn được nâng cao. Chỉ tính riêng trong các công trình đầu tư nước
ngoài đã có khoảng 30 vạn lao động trực tiếp, 600 cán bộ quản lý và 25000
cán bộ khoa học kĩ thuật đã được đào tạo. Trong lĩnh vực xuất khẩu lao động
tính đến năm 1999 Việt Nam đã đưa 7 vạn người đi lao động ở nước ngoài.
Thứ 4: Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần duy trì hoà bình ổn định, tạo
dựng môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế, nâng cao vị trí Việt Nam trên
trường quốc tế. Đây là thành tựu lớn nhất sau hơn một thập niên triển khai các
hoạt động hội nhập. Việt nam đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
trong điều kiện đất nước hoà bình, chính trị - xã hội ổn định. đây là cơ hội rất
quan trọng để tập trung phát triển kinh tế, mở rộng quan hệ đối ngoại.
Trước đây, Việt Nam chỉ có quan hệ chủ yếu với Liên Xô và các nước
Đông Âu, nay đã thiết lập được quan hệ ngoại giao với 166 quốc gia trên thế
giới. Với chủ trương coi trọng các mối quan hệ với các nước láng giềng và
trong khu vực Châu á Thái Bình Dương. Chúng ta đã bình thường hoá hoàn
toàn quan hệ với Trung Quốc và các quốc gia trong khu vực Đông Nam á.
Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng góp phần thực hiện mục tiêu xây
dựng môi trường quốc tế hoà bình, ổn định nhằm tạo thuận lợi cho công cuộc
xây dựng và phát triển đất nước. Ngoài ra đối với Mĩ chúng ta đã thiết lập
quan hệ ngoại giao vào năm 1955. Tháng 7 Việt Nam, Mĩ đã kí kết hiệp định
thương mại, đánh dấu một mốc quan trọng trong tiến trình bình thường hoá
nối quan hệ kinh tế giữa hai nước. Với sự đổi mới phát triển hơn 17 năm qua
Việt nam đã thu được kết quả rất đáng tự hào, sau gần hai thập kỷ tăng trưởng
GDP đã tăng lên gấp 2 lần, từ nước nhập khẩu lương thực trở thành nước có
mức xuất khẩu gạo lớn. năm 2002 xuất khẩu gạo của Việt nam đạt 3,5 triệu
tấn, năm 2001-3,55 triệu tấn, năm 2002-3,25 triệu tấn, việt nam trở thành

nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới
Cùng với mức đó, đời sống vật chất và văn hoá tinh thần của nhân dân
được cải thiện. thành qủa này tạo ra niềm tin vững chắc của toàn dân vào sự
nghiệp đổi mới.
Thứ 5: Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội mở rộng giao lưu các nguồn
lực nước ta với các nước: Với dân số khoảng 80 triệu người, nguồn nhân lực
nước ta khá dồi dào. Nhưng nếu chúng ta không hội nhập quốc tế thì việc sử
9


dụng nhân lực trong nước sẽ bị lãng phí và kém hiệu quả. Hội nhập kinh tế
quốc tế sẽ tạo cơ hội để nguồn nhân lực của nước ta khai thông, giao lưu với
các nước. Ta có thể thông qua hội nhập để xuất khẩu lao động hoặc có thể sử
dụng lao động thông qua các hợp đồng gia công chế biến hàng xuất khẩu.
Đồng thời tạo cơ hội để nhập khẩu lao động kĩ thuật cao, các công nghệ mới,
các phát minh sáng chế mà ta chưa có.
Cơ hội chỉ phát huy tác dụng khi chúng ta biết nắm bắt lấy nó. nhận thức
một cách đúng đắn và đầy đủ các cơ hội để khai thác triệt để sẽ giúp cho nền
kinh tế việt nam phát triển. khi nền kinh tế việt nam phát triển hơn bên cạnh
các thuận lợi chung cho mọi thành phần kinh tế.
4.2 Thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế:
Mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đưa lại những lợi ích mà còn
đặt nước ta trước nhiều thử thách. Nếu chúng ta không có biện pháp ứng phó
tốt thì sự thua thiệt về kinh tế và xã hội có thể rất lớn. Ngược lại, nếu chúng ta
có chiến lược thông minh, chính sách không khéo thì sẽ hạn chế được thua
thiệt, dành được lợi ích nhiều hơn cho đất nước.
Tham gia hội nhập kinh tế thế giới mở ra những cơ hội tăng trưởng kinh
tế cho nước ta. Việc trở thành thành viên WTO sẽ tạo ra các công cụ để nâng
cao lợi ích kinh tế của các nước thành viên thông qua việc tham gia vào các

cuộc đàm phán thương mại đa biên. Tuy nhiên không ít thách thức đối với
tăng trưởng kinh tế khi VN hội nhập kinh tế thế giới. Những thách thức đó đe
dọa sự phát triển cao và bền vững nền kinh tế.
Trong những năm qua VN có nỗ lực lớn trong tăng trưởng kinh tế, GDP
thời kỳ 1991-2000 đã tăng bình quân hàng năm là 7,4%, thời kỳ 2001-2003
tăng 7,1%, năm 2002 – 7%, có tốc độ tăng trưởng cao đứng thứ 2 sau Trung
Quốc. Nông nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng khá, từ 1986 đến nay, tăng trưởng
trung bình 5,5%. So với một số nước Indonesia 2,3%, Philippines 2,6%, Thái
Lan 1,9%, Malaysia 3,2%. Từ 2001-2003, nông nghiệp VN tăng bình quân
5%. Công nghiệp tăng bình quân trong 10 năm qua 12,8-13%, 2001-2003
tăng 14,6%.
Tham gia hội nhập kinh tế thế giới mở ra những cơ hội tăng trưởng kinh
tế cho nước ta. Việc trở thành thành viên WTO sẽ tạo ra các công cụ để nâng
cao lợi ích kinh tế của các nước thành viên thông qua việc tham gia vào các
cuộc đàm phán thương mại đa biên.
Tuy nhiên không ít thách thức đối với tăng trưởng kinh tế khi VN hội
nhập kinh tế thế giới. Những thách thức đó đe dọa sự phát triển cao và bền
vững nền kinh tế. Sau đây là một số thách thức :
Thứ nhất: VN trở thành thị trường tiêu thụ hàng nước ngoài
10


Nhiều công trình khoa học cho thấy việc mở cửa thương mại nhiều hơn đã
dẫn đến tốc độ tăng trưởng dài hạn cao hơn, loại bỏ sự mất cân đối, nhờ đó mà
nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, của sản phẩm và mở rộng thị
trường tiêu thụ sản phẩm. Những nước mất cân đối thương mại cao có mức
tăng năng suất thấp hơn so với những nước mất cân đối thương mại ít hơn.
Hội nhập kinh tế thế giới cho phép mở rộng thị trường, trong khi khả
năng mở rộng thị trường hàng hóa của nước ta ra khu vực và thế giới còn hạn
chế và phải đối đầu, cạnh tranh gay gắt với các nước có trình độ phát triển cao

hơn ở khu vực Đông Nam Á, đặc biệt là với các nước ASEAN và Trung
Quốc. Hơn nữa, những sản phẩm hàng hóa của ta phần lớn đồng dạng với các
quốc gia này. Phải nói rằng trong hội nhập, hàng hoá của VN rất khó mở rộng
chiếm lĩnh được thị trường mà ngược lại chúng ta trở thành thị trường tiêu thụ
hàng hóa của các nước. Năm 2002 cả nước nhập siêu trên 5 tỷ USD.
Công nghiệp chủ yếu là gia công, phần lớn sản phẩm các ngành được sản
xuất ra trên cơ sở tiêu thụ các nguyên phụ liệu, linh kiện, chi tiết, bán sản
phẩm của các nước. Do thiếu các ngành công nghiệp phụ trợ nên đa số các
công ty làm hàng xuất khẩu đều phải nhập khẩu nguyên liệu. Vì vậy hàm
lượng nội địa VN trong hàng xuất khẩu rất thấp. Có thể nói chính sách nội địa
hóa của ta chưa thỏa đáng. Chính sách đó ảnh hưởng quan trọng đến sự phát
triển các ngành liên quan và hỗ trợ, các ngành này phát triển rất ít và rất chậm
trong thời gian qua và phải nhập phụ tùng linh kiện từ bên ngoài, do đó làm
tăng giá thành sản phẩm, làm cho sản phẩm của VN đắt hơn Thái Lan và các
nước trong khu vực, giảm khả năng cạnh tranh.
Điển hình là ngành dệt may da giầy của ta, ngành dệt may được đánh giá
là xuất khẩu lớn nhưng nguyên phụ liệu gồm hóa chất, thuốc nhuộm, bông,
xơ, sợi phải nhập do đó tuy kim ngạch xuất khẩu cao song giá trị gia tăng lại
thấp, chỉ chiếm khoảng 25-30%.
Ngành công nghiệp điện tử VN cũng tương tự như vậy. Sản phẩm chủ
yếu của ngành điện tử VN là nhóm sản phẩm nghe nhìn, chiếm tỷ lệ rất thấp
10% trong doanh số của ngành điện tử, trong nhóm này VN chỉ tự túc được
màn hình TV, còn lại là nhập, là thị trường tiêu thụ. Sản phẩm điện tử của VN
chủ yếu là sản phẩm lắp ráp, mà chi phí lắp ráp của VN lại cao, 6-7 USD/TV,
8-9 USD/TV.
Ngành ô tô xe máy nước ta cũng là thị trường tiêu thụ chi tiết, phụ tùng ô
tô xe máy của các nước. Chính sách nội địa hóa của VN chưa được coi trọng.
Chẳng hạn chính sách nội địa hóa của Thái Lan đòi hỏi 60% vào năm thứ 5
trong ngành ô tô xe máy, trong khi VN đòi hỏi có 5%. Trong ngành công
nghiệp ô tô sau 10 năm nước ta có nhiều hãng ô tô nổi tiếng thế giới đầu tư,

đến nay tỷ lệ nội địa hóa của các doanh nghiệp ô tô nước ta mới đạt 2-10%
11


đưa đến giá thành của ô tô sản xuất trong nước cao hơn khu vực khá lớn là do
tỷ lệ nội địa hóa quá thấp. Bài học Thái Lan cho thấy họ rất coi trọng tỷ lệ nội
địa hóa, chỉ có 15 nhà máy lắp ráp nhưng có đến 1.800 nhà máy cung ứng,
riêng trong lĩnh vực ô tô từ chỗ từng bước nội địa hóa phụ tùng, nay Thái Lan
đã xuất khẩu cả ô tô với linh kiện phụ tùng được sản xuất tại chỗ.
Có thể nói chính sách nội địa hóa của ta chưa thỏa đáng. Chính sách đó
ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển các ngành liên quan và hỗ trợ, các
ngành này phát triển rất ít và rất chậm trong thời gian qua và phải nhập phụ
tùng linh kiện từ bên ngoài, do đó làm tăng giá thành sản phẩm, làm cho sản
phẩm của VN đắt hơn Thái Lan và các nước trong khu vực, giảm khả năng
cạnh tranh.
Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế quốc tế trong hầu hết mọi lĩnh
vực kinh tế của VN, chi phí sản xuất đều rất cao. Giá cả sản phẩm công
nghiệp “đầu vào” nguyên liệu, vật tư, điện, nước, chất đốt, xăng dầu cho sản
xuất còn cao, chi phí cơ sơ hạ tầng, dịch vụ của VN cao đưa đến giá thành
nhiều sản phẩm VN cao hơn giá thị trường quốc tế, cao hơn các đối thủ cạnh
tranh, dẫn tới không xuất khẩu được hoặc phải chịu lỗ. Đánh giá mới nhất của
Diễn đàn kinh tế thế giới, năng lực cạnh tranh của VN đã tụt xuống đến 17
hạng. Năng lực cạnh tranh của VN từ vị trí 60/102 nền kinh tế năm 2003 tụt
xuống hàng 77/104 năm 2004. Sự tụt hạng của VN diễn ra trong cả 3 lĩnh vực
chính dùng làm tiêu chí xếp hạng là chất lượng môi trường kinh tế vĩ mô, tình
trạng của các định chế quốc gia và sự sẵn sàng tiếp cận công nghệ cao. Một
trong 2 tiêu chí dẫn đến tụt hạng là chỉ số xếp hạng công nghệ, sau chỉ số xếp
hạng về tham nhũng và bộ máy hành chính kém hiệu quả.
Để tồn tại trong cạnh tranh hàng hóa nhằm tránh đưa nước ta trở thành
thị trường tiêu thụ hàng hoá nước ngoài, Nhà nước cần phải có những biện

pháp tích cực, trước hết cần phải tăng tỷ lệ nội địa hóa, nâng cao công nghệ
sản xuất, tiếp đến chống tham nhũng, chống độc quyền nâng giá các sản phẩm
đầu vào (xăng dầu, điện, nước, bưu điện, hàng không, vận chuyển, sắt thép
…) của các tổng công ty nhà nước độc quyền và các công ty xuyên quốc gia
độc quyền, đưa ra luật chống độc quyền và chống bán phá giá nhằm đảm bảo
giá hàng hóa của nước ta ngang với gía các nước trong khu vực.
Thứ 2: Bảo hộ của các nước nhập khẩu
Lương thực, gạo VN là những sản phẩm xuất khẩu chủ lực còn phải
đương đầu với sự bảo hộ của các nước nhập khẩu sản phẩm. Đứng trước sự
hội nhập kinh tế thế giới, Nhà nước có can thiệp vào quá trình không. Lý
thuyết về hội nhập cho rằng trong môi trường thương mại toàn cầu, sự phồn
vinh của một quốc gia sẽ tối đa hóa nhờ tối thiểu hóa sự bảo hộ đối với thị
trường trong nước. Hội nhập phá bỏ hàng rào thuế quan. Song chính phủ các
12


nước bảo vệ lợi ích các công ty tập đoàn của mình bằng cách dùng hàng rào
phi thuế quan như các rào cản kỹ thuật, rào cản trách nhiệm xã hội SA 8000
(bảo vệ môi trường, cấm sử dụng lao động trẻ em…) chống bán phá giá, ngăn
cản hàng hóa bên ngoài. Có thể thấy răng áp dụng rào cản phi thuế quan và
những tranh cãi xung quanh nó sẽ là vấn đề xảy ra thường xuyên trong thương
mại toàn cầu. WB cũng khuyến cáo về việc gia tăng các hàng rào thương mại
phi thuế quan tại các nước công nghiệp khi VN trở thành đối thủ quan trọng.
Phó tổng giám đốc WTO có nói cần thấy rằng cho dù WTO đã có những quy
định chặt chẽ song vẫn có một số nước vi phạm. Như vậy có thể đi đến kết
luận chính phủ đưa ra những bàn tay hữu hình cũng như vô hình để bảo hộ.
Trong thời đại ngày nay sản phẩm ở những nước đang phát triển tiêu thụ
có nhiều khó khăn còn là do các nước phát triển tạo ra một sân chơi không
công bằng nhất là trong nông nghiệp. Ngành nông nghiệp của Mỹ, châu Au và
Nhật Bản vẫn được bảo hộ chặt chẽ. Chương trình phát triển sản phẩm nông

nghiệp và nông thôn luôn gặp phải sự cản trở lớn từ chính sách bảo hộ nông
nghiệp, của chính phủ nước giàu . Các nước công nghiệp phát triển hiện dành
350 tỷ USD để trợ cấp cho nông dân nước mình, lớn gấp 7 lần số tiền dành
cho viện trợ quốc tế. Tổng số tiền trợ cấp cho nông nghiệp chiếm gần ½ ngân
sách hàng năm của EU. Ngoài ra các nước như Indonesia, Malaysia, Hàn
Quốc.. đều có trợ giá bán với giá thấp phân bón và thuốc trừ sâu.
Ở VN Mỹ kiện VN bán phá giá cá Basa và con tôm vào thị trường Mỹ là
sự bảo hộ của chính phủ đối với ngành nông nghiệp Mỹ.
Việc bảo hộ nông sản của các nước tác động quan trọng đến xóa đói
giảm nghèo ở VN, vì nông nghiệp có trách nhiệm nặng nề tạo việc làm và
nguồn sống cho phần lớn người nghèo chủ yếu là nông dân cả nước.
Cần có chính sách bảo hộ hỗ trợ các nhà sản xuất trong nước khi hội
nhập WTO, không thể để cho người sản xuất kinh doanh tự bơi trước sự bảo
hộ của chính phủ các nước. Cần dành một phần ngân sách đầu tư cho xây
dựng cơ sở hạ tầng, đảm bảo chi phí đầu vào thấp và có lãi cho nguời sản
xuất, hỗ trợ các cơ sở sản xuất doanh nghiệp tiếp cận với nguồn vốn vay tín
dụng, hỗ trợ tiếp cận thị trường (cung cấp thông tin về thị trường, giá cả, nhu
cầu khách hàng cho người sản xuất), hỗ trợ giảm các chi phí hạ tầng như dịch
vụ cảng, bưu điện, miễn giảm thuế và chống bán phá để bảo vệ hàng sản xuất
trong nước
Thứ 3: VN trở thành bãi thải công nghệ
Xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa theo chiều hướng là các nước công
nghiệp phát triển sẽ chiếm giữ quyền độc tôn sản xuất và làm chủ các sản
phẩm công nghệ kỹ thuật cao, các nước đang phát triển sẽ chịu lép vế, sản
xuất các mặt hàng chiếm nhiều lao động, giá trị thấp, tốn nhiều nguyên liệu
13


hơn. Các nước công nghiệp phát triển sẽ tìm cách chuyển giao toàn bộ những
công nghệ cũ, lạc hậu, gây ô nhiễm sang các nước đang phát triển, những

công nghệ này phù hợp với tiềm năng kinh tế và nhân lực của các nước đang
phát triển. Mặt khác, do giá trị tiền công cao và ô nhiễm nên một số sản phẩm
và công nghệ không cần giữ bí mật, tốn nhiều lao động và ô nhiễm môi
trường.. được chuyển giao cho các nước có giá lao động rẻ hơn, đó là việc mà
Hàn Quốc, Nhật, Mỹ, Đức… đang làm với các nước Đông Nam Á, trong đó
có Việt Nam.
Thực tiễn trong khu vực thu hút đầu tư FDI của nhiều nước trên thế giới
cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài chỉ chuyển sang nước nhận đầu tư các
máy móc thiết bị và công nghệ thế hệ thứ hai và thứ ba. Việt Nam cũng như
nhiều nước đang phát triển, đang lo ngại bị biến thành bãi thải công nghệ cho
các nước phát triển, đặc biệt là những thiết bị đã qua sử dụng.
Một nghiên cứu mới đây về chất lượng công nghệ chuyển giao vào VN
cho thấy, trên 727 thiết bị và 3 dây chuyền sản xuất nhập khẩu trong 42 xí
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì có 76% thiết bị được sản xuất từ những
năm 1950-1960, 50% là các máy móc đã qua sử dụng. Những con số đó cho
thấy chất lượng thấp của công nghệ nhập khẩu. Mặt bằng chung về trình độ
công nghệ và trang thiết bị của VN lạc hậu từ 2-3 thế hệ so với các nước công
nghiệp phát triển, tỷ lệ trang thiết bị kỹ thuật cũ, công nghệ lạc hậu và trung
bình chiếm 60-70%.
Lợi ích của khoa học công nghệ ngày càng nổi lên là một trong những
yếu tố có tính chất quan trọng nhất ảnh hưởng đên khả năng cạnh tranh của
sản phẩm, tác động đến triển vọng tăng trưởng. Đầu tư cho nghiên cứu khoa
học công nghiệp và nông nghiệp đem lại hiệu quả rất lớn. Ở VN đầu tư cho
khoa học công nghệ đã tác động đến tăng trưởng kinh tế. Thực vậy nghiên
cứu triển khai nông nghiệp đã đem lại lãi gấp chục lần từ phát triển nông
nghiệp (chẳng hạn trong nông nghiệp từ 20-40% tăng trưởng nông nghiệp ở
các nước châu Á.). Trong giai đoạn 1985-1989 dựa vào công nghệ có sẵn từ
trước chưa được khai thác đã đóng góp lớn cho phát triển nông nghiệp, chiếm
đến 55,5% phần tăng sản lượng nông nghiệp. Trong giai đoạn 1990-1999,
công nghệ không thêm gì nhiều nên công nghệ chỉ góp thêm 5,4% phần tăng

sản lượng nông nghiệp. Theo Viện chính sách lương thực quốc tế, trong giai
đoạn 1985-1990 tác động của khoa học công nghệ đóng góp gần 63% mức
tăng sản lượng lúa của VN. Giai đoạn 1991-1995 phần đóng góp của khoa
học công nghệ trong mức tăng sản lượng lúa giảm xuống 29,2%, trong giai
đoạn 1996-2000 chỉ còn 22,8%. Tuy nhiên đầu tư cho nghiên cứu khoa học
nông nghiệp ở nước ta ngày càng ít ỏi. Trong ngành công nghiệp, theo đánh
giá của Quỹ phát triển tự động hóa quốc gia Bộ công nghiệp, đổi mới công
14


nghệ đã đóng góp khoảng 30-40% tăng trưởng GDP toàn ngành. Tuy vậy việc
đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp hiện còn rất chậm.
Mức đóng góp của khoa học công nghệ ngày càng giảm thể hiện rõ sự
đầu tư yếu kém cho khoa học công nghệ nước ta. Đầu tư cho khoa học công
nghệ và đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp VN rất thấp, chi phí
đổi mới công nghệ chỉ khoảng 0,2-0,3% doanh thu, trong khi ở An Độ là 5%,
Hàn Quốc là 10%. Ngân sách nhà nước dành cho KH-CN năm 2002 khoảng
3.000 tỷ đồng, chiếm 2% tổng ngân sách nhà nước, tỷ lệ khá nhỏ.
Cần phải tập trung cho khoa học công nghệ, coi khoa học công nghệ là
một mũi đột phá trong phát triển kinh tế, đầu tư cho khoa học là hướng rút
ngắn cho giai đoạn phát triển theo chiều sâu. Xã hội hóa hoạt động nghiên
cứu khoa học và công nghệ, xóa bỏ bao cấp trong lĩnh vực khoa học công
nghệ không có nghĩa là nhà nước không đầu tư vào khoa học công nghệ, nhà
nước cần tăng đầu tư vào những lĩnh vực, những hướng ưu tiên, đừng để cho
cơ chế thị trường chi phối 100% hoạt động khoa học công nghệ. Trước mắt
cần tăng ngân sách đầu tư cho khoa học công nghệ, nâng tỷ lệ chi ngân sách
cho khoa học công nghệ lên trên 5-10% tổng chi ngân sách, đồng thời khuyến
khích các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ
Thứ 4: Chảy máu chất xám
VN thiếu trầm trọng nguồn lao động chuyên môn kỹ thuật, tỷ lệ người có

chuyên môn kỹ thuật trong tổng dân số từ 15 tuổi trở lên đạt 8,1% năm 2000 là
rất thấp (ở các nước trong khu vực là 49-50%), 9,5% số người trong độ tuổi lao
động và 11,7% LLLĐ. Năm 2001 lao động không có chuyên môn kỹ thuật
chiếm đến 26,7% lao động. Đây là một tồn tại và thách thức lớn đối với nước ta.
Song chúng ta có một tiềm năng lớn nguồn chất xám. Lực lượng cán bộ
khoa học kỹ thuật từ đại học trở lên của VN đến cuối năm 2002 là 1.300.000
người, trong đó tiến sĩ chiếm 10%, tập trung nhiều nhất ở Hà Nội 19,2%,
TP.HCM 14%. VN có khoảng 300.000 Việt kiều có trình độ đại học trở lên,
trong đó có rất nhiều nhà khoa học hàng đầu trong nhiều lĩnh vực là người
gốc Việt đang làm việc trong những tập đoàn kinh tế lớn của thế giới. Hiện có
khoảng 10.000 học sinh VN học ở nước ngoài, hàng năm chi tiêu cho sinh
hoạt và học tập mất khoảng 200 triệu USD. VN dã không khai thác được
nguồn chất xám đó do cơ chế chính sách còn nhiều điều bất cập (lương, điều
kiện làm việc, đòi hỏi khoa học đáp ứng ngay yêu cầu của thực tiễn, nhà khoa
học bị cơ chế hành chính trói buộc, thủ tục thanh quyết toán…). Các công ty
nước ngoài tại VN đã đa dạng hóa phương thức thu hút nhân tài: trao học
bổng hỗ trợ sinh viên năm cuối, đào tạo nghề miễn phí, tuyển chọn các sinh
viên giỏi gửi đi đào tạo thêm ở nước ngoài.

15


Cán bộ khoa học kỹ thuật chạy từ cơ quan nhà nước sang các cơ quan
nước ngoài, các sinh viên tốt nghiệp giỏi là nguồn tuyển dụng của các công ty
nước ngoài, trí thức Việt kiều không về nước làm việc, học sinh đi học nước
ngoài học xong ở lại nước sở tại làm việc không về nước. Hiện tượng chảy
máu chất xám là rõ ràng.
Nhà nước cần điều chỉnh chính sách theo hướng tạo những điều kiện làm
việc thuận lợi cho các nhà khoa học, tạo chỗ ở cho gia đình, học tập cho con
cái và chăm sóc y tế, phương tiện đi lại làm việc nghĩa là cần có một chính

sách xã hội tiến bộ ( như một số nước châu Au và Bắc Au) và có chế độ lương
tương xứng, bên cạnh đó cần có những biện pháp chống tham nhũng, chống
làm giàu từ đất đai và buôn lậu.
Thứ 5: Tỷ lệ đói nghèo cao, chênh lệch thu nhập tăng
Tỷ lệ hộ nghèo tại VN đã giảm từ trên 70% vào giữa thập niên 1980, còn
37% năm 2000 xuống còn 29% năm 2002. LHQ xếp các nước có GDP đầu
người trước đây thấp hơn 500 USD/người/năm và hiện nay thấp hơn 750
USD/người /năm là nước nghèo (VN chưa đến 500 USD/người). So với
chuẩn nghèo LHQ quy định, thì tỷ lệ đói nghèo của ta còn cao và việc xóa
nghèo còn phải tiếp tục.
UNDP lưu ý về một số lĩnh vực mà VN phải phấn đấu hơn nữa, đó là tỷ
lệ người suy dinh dưỡng 18%, trung bình của khu vực là 10%, tỷ lệ đói nghèo
ở các vùng nông thôn vẫn còn cao, chiếm tới 90% người nghèo của cả nước.
Tốc độ giảm nghèo đang chững lại: Trong giai đoạn 1993-1998 VN đã
giảm được 20% tỷ lệ nghèo từ 57% xuống còn 37%, giai đoạn 1998-2002
mức giảm chỉ đạt được 8,1%. Thu nhập và mức sống thời kỳ 1999-2002 tăng
không bằng thời kỳ 1993-1998. Đáng lo ngại là nguy cơ tái nghèo còn ở mức
cao, sự phân hóa giàu nghèo đang tăng rất nhanh.
Chỉ số nghèo khổ tổng hợp HPI-1 là một thước đo đa chiều về tình trạng
nghèo khổ của các nước đang phát triển. Chỉ số này tính đến sự tước đoạt về
sự sống và kiến thức, xã hội bỏ rơi và thiếu các phương tiện kinh tế. Giá trị
HPI-1 của VN là 19,9% xếp thứ 39 trong 94 nước đang phát triển.
Khoảng cách giàu nghèo đang có xu hướng gia tăng. Thu nhập của nhóm
giàu năm 2001-2002 lớn gấp 8,1 lần so với nhóm nghèo, năm 1999 là 7,6 lần.
Để nhận biết sự bất bình đẳng giữa người giàu và người nghèo còn dùng
hệ số GINI có giá trị từ 0 đến 1. Hệ số bằng 0 là không có sự bất bình đẳng,
hệ số càng tiến đến 1 thì sự bất bình đẳng càng cao. Hệ số bất bình đẳng của
VN năm 1994 là 0,35, năm 2001-2002 là 0,42. Bất bình đẳng về thu nhập ở
VN có xu hướng tăng. Chỉ số GINI của VN là 36,2% cao hơn hẳn những
nước giàu nhất hiện nay như Na Uy 25,8%, Thụy Điển 25%, Nhật 24,9%.


16


Thách thức hiện nay nằm trong quá trình phân phối lợi ích của sự tăng
trưởng cho tất cả các vùng và tất cả các nhóm dân cư, tích cực thực hiện chính
sách an sinh xã hội và công bằng xã hội ở VN
Thứ 6: Nợ nước ngoài ngày càng tăng
Việc các nước phát triển cho vay đã làm cho gánh nặng nợ nần của nước
ta ngày càng tăng. Riêng các khoản nợ ngoại tệ mạnh đã vượt quá 35% GDP
năm 1996 và tiếp tục tăng, trong năm 2001 số nợ đến hạn phải trả bằng 7%
GDP và 11% giá trị xuất khẩu năm 2001. Theo dự báo của WB về công nợ
cho thấy nước ta có mức tăng đáng kể tỷ lệ nợ trong GDP, từ khoảng 36%
GDP năm 2002 lên đến 51% GDP năm 2007. Tài liệu “Định hướng chiến
lược để tiến tới phát triển bền vững-tháng 4 năm 2002” tính bình quân mỗi
đầu người VN hiện nợ 180 USD, bằng gần ½ số GDP/người/năm (484 USD).
Các chuyên gia kinh tế quốc tế có nhiều lời khuyên VN không vì được vay
với lãi suất thấp mà vay tràn lan không tính hiệu quả sẽ trở thành nước nợ nần
khó có khả năng thanh toán.
Kinh nghiệm phát triển trong 50 năm qua của các nước cho thấy rõ,
những nước tiến hành sự nghiệp phát triển dựa trên việc tăng cường và sử
dụng nguồn tiết kiệm trong nước là chủ yếu, đồng thời hạn chế đến mức tối
thiểu mức độ lệ thuộc vào vay nợ nước ngoài đã đạt được những kết quả phát
triển tốt đẹp và bền vững. Tỷ lệ tiết kiệm nội bộ nền kinh tế từ GDP năm
1998 Hàn Quốc đạt 43%, Malaysia đạt 45%, Thái Lan đạt 40,0%, năm 2001
Trung Quốc 39%, Hàn Quốc 34,2%, Singapore 49,9%, Malaysia 47%, Thái
Lan 32,8%. Trái lại, một số lớn các nước đang phát triển trông cậy vào viện
trợ tài chính vốn nước ngoài, đặc biệt là các khoản vay nợ vẫn nằm trong số
những nước kém phát triển nhất với tình trạng mất cân đối về tài chính và cơ
cấu, cũng như bị lệ thuộc khá nhiều vào nợ nước ngoài. Ở Việt Nam, chính

sách tài chính tiền tệ chưa đủ mạnh, tiết kiệm nội bộ của nền kinh tế chưa cao,
vẫn phải tăng cường vay nợ của IMF, WB…tỷ lệ tiết kiệm trong nước còn là
một vấn đề nhức nhối. Trước đây, nền kinh tế nước ta không có tích lũy, nhờ
có những biện pháp quan trọng trong quá trình đổi mới, tỷ lệ tiết kiệm trong
nước đã tăng lên tới khoảng 17% GDP năm 1997, khoảng 27% GDP năm
2000, 24,6% GDP năm 2001
Dự kiến tích lũy nội bộ nền kinh tế đạt trên 30% GDP năm 2010 là con số
còn khiêm tốn. Để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững cần phải tăng cường
tiết kiệm, tăng tỷ lệ tích lũy nội bộ từ GDP, phát huy năng lực nội sinh.
Thứ 7: Môi trường ngày càng bị ô nhiễm
Môi trường đang ngày càng xấu đi như thoái hóa môi trường đất, do lạm
dụng phân bón, thuốc trừ sâu, phát triển giống lúa cao sản làm cho đất bạc
mầu nhanh, xói mòn tài nguyên đất, làm giảm độ phì đất, môi trường nước bị
17


ô nhiễm do công nghiệp và sử dụng phân bón hóa chất trong nông nghiệp gây
ra, sự tàn phá rừng tự nhiên, xuống cấp chất lượng rừng, trong đó do sử dụng
phát triển thủy sản, bão, lụt, lũ, hạn hán, cháy rừng xẩy ra nghiêm trọng. Sâu
bệnh ngày càng phát triển theo chiều hướng khó kiểm soát. Sự phát triển
lương thực thực phẩm còn thiếu bền vững. Để phát triển nông nghiệp bền
vững không phải chỉ có bền vững về môi trường mà phải đảm bảo cả bền
vững về kinh tế, bền vững về xã hội. Vì mưu sinh người ta phải khai thác tài
nguyên một cách bừa bãi, gây ô nhiễm môi trường
Ngoài ra một số doanh nghiệp VN lấy danh nghĩa nhập phế liệu để về
tận dụng tái chế, thực chất nhập rác do phế liệu có lẫn tạp chất khó có thể loại
bỏ trong quá trình xử lý từ các nước phát triển, chủ yếu từ Mỹ với giá rẻ. Điều
đó biến môi trường sống VN thành bãi rác của các nước phát triển.
Thứ 8: Cơ cấu kinh tế không hợp lý
Các công ty xuyên quốc gia phát triển mạnh định ra chiến lược phát triển

kinh tế toàn cầu, hình thành hệ thống phân công lao động kiểu mới theo chiều
hướng là các nước công nghiệp phát triển sẽ chiếm giữ quyền độc tôn sản
xuất và làm chủ các sản phẩm công nghệ kỹ thuật cao, các nước đang phát
triển sẽ chịu “lép vế”, sản xuất các mặt hàng sử dụng nhiều lao động, giá trị
thấp, tốn nhiều nguyên liệu hơn, khai thác tài nguyên.
Trong những năm qua cơ cấu kinh tế nước ta đã chuyển dịch theo hướng
giảm tỷ trọng nông nghiệp , tăng tỷ trọng công nghiệp, năm 2002 tỷ trọng
nông lâm thủy chiếm 23%,công nghiệp và xây dựng chiếm 38,55%; dịch vụ
chiếm 38,46%. Sự chuyển dịch này khá chậm chạp. Tỷ trọng dịch vụ trong
GDP đã giảm trong 8 năm liên tục ngược với quy luật chung, các ngành dịch
vụ có tính chất động lực như giáo dục, khoa học công nghệ, tài chính tín dụng
tỷ trọng rất thấp. Chính sách nhà nước còn chú trọng nhiều về phát triển công
nghiệp, song mới là công nghiệp gia công, thiếu sự phát triển các ngành công
nghiệp hỗ trợ và liên quan, các ngành sản xuất tư liệu sản xuất. Hơn một nửa
nhóm hàng xuất khẩu, chủ yếu là xuất nguyên liệu thô, hàm lượng chất xám ít
và những mặt hàng công nghiệp tỷ lệ nội địa hóa thấp như dầu thô, gạo, than,
cao su, hạt điều, may mặc. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đó làm cho nền kinh
tế nước ta tăng trưởng không hiệu quả, kém bền vững, chất lượng tăng trưởng
thấp, khoảng cách giữa nước ta và các nước ngày càng doãng ra. Bài học quan
trọng nhất không những của các nước công nghiệp mà cả của VN là phải xây
dựng được một cơ cấu kinh tế hợp lý, một cơ cấu kinh tế phải tự sản xuất các
tư liệu sản xuất cung cấp cho toàn bộ nền kinh tế.
Cơ cấu kinh tế nước ta phải là một cơ cấu kinh tế của một nước gần 100
triệu dân, bao gồm cả những ngành kinh tế trí thức và những ngành kinh tế có

18


hàm lượng lao động cao, ngành công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ, ngành
sản xuất tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng.

Thứ 9: Khoảng cách phát triển doãng ra
Trong những năm qua VN có nỗ lực lớn trong tăng trưởng kinh tế, GDP
năm 2002 – 7%, có tốc độ tăng trưởng cao đứng thứ 2 sau Trung Quốc. Việc
chạy theo tốc độ bằng mọi giá làm cho chất lượng tăng trưởng chưa cao biểu
hiện hiệu quả kinh tế thấp, cạnh tranh yếu, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, tốc
độ giảm nghèo chững lại, chênh lệch thu nhập tăng và tài nguyên cạn kiệt, môi
trường bị ô nhiễm. Tình trạng chạy theo tốc độ tăng trưởng cao làm cho hiệu quả
phát triển kinh tế suy giảm đang diễn ra ở Trung Quốc cũng như VN.
Các ngành, địa phương chỉ quan tâm đến số lượng, tốc độ tăng trưởng
cao, mới có thể rút ngắn được khoảng cách giữa nước ta và các nước trong
khu vực. Thực tế tốc độ tăng cao hơn các nước trong khu vực nhưng khoảng
cách giữa VN và các nước ngày càng doãng ra. Nguy cơ tụt hậu ngày càng xa
so với trình độ của nhiều nước trong khu vực.
Thực vậy Trung Quốc trong hơn 20 năm liên tiếp với quy mô một đất
nước có dân số đông gấp 15 lần nước ta mà có tốc độ tăng trưởng bình quân
năm ở thập kỷ 1980-1990 là 10,3% và thập niên 1990-2000 là 10%.
Thái Lan sau những năm khó khăn do khủng hoảng tài chính năm 1997
nhờ quyết tâm cải cách năm 2003 đã đạt tốc độ 6,4%, dự kiến năm 2004 tăng
8%, năm 2005 tăng 10%.
Qua đó hệ số so sánh có xu hướng tăng lên, cũng có nghĩa là mức tụt hậu
của nền kinh tế VN so với Thái Lan càng ngày càng lớn, VN không những
không rút ngắn được mà ngày càng doãng ra.
Cần phải phấn đấu tăng trưởng với tốc độ cao nhưng phải bền vững.
Cần tái cấu trúc nền kinh tế, ngành công nghiệp, tập trung phát triển một
số ngành nhóm sản phẩm chủ lực mang hàm lượng khoa học cao. Chấm
dứt tình trạng đầu tư mù quáng vào một số ngành công nghiệp và dịch vụ
và loại bỏ tệ nạn xây dựng trùng lắp kém chất lượng, thất thoát lớn và
hiệu quả thấp của các địa phương.
Để thay lời kết luận, có thể đưa ra lời công bố của UNCTAD tại Hội
nghị LHQ về buôn bán và phát triển tại Luân Đôn hôm 28.5.2004, UNCTAD

đưa ra lời khẳng định tự do hóa thương mại không đem lại bất cứ lợi ích gì
cho các nước đang phát triển trong quá trình xoá nghèo. Thậm chí một số
nước nghèo mở cửa thị trường còn mạnh hơn các nước giàu , nhưng cái họ
nhận được là cán cân thương mại lại xấu đi. Lợi nhuận từ xuất khẩu chủ yếu
rơi vào tay các tập đoàn xuyên quốc gia hay các ông chủ địa phương mới nổi.
Tự do hóa thương mại không nên coi như là mục tiêu phải đạt được bằng mọi
cách để thúc ép mở cửa thị trường một cách vội vã, bởi hệ quả sẽ là sự phá
19


hoại quá trình CNH của các nước nghèo do các ngành CN thay thế nhập khẩu
bị sụp đổ trong cuộc cạnh tranh khốc liệt với hàng hóa của các nước giàu .
Như vậy là cần có sự chuẩn bị đầy đủ thích hợp để tham gia WTO nhằm
tránh được những tác hại như đã trình bầy trên tạo ra những cơ hội thuận lợi
cho nền kinh tế VN tăng trưởng cao và bền vững.
5. Điều kiện để Việt nam hội nhập kinh tế quốc tế:
Lợi thế cơ bản của nước ta khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế:
5.1. Vị trí địa lý thuận lợi:
Bản chất kinh tế của vị trí địa lý là địa tô chênh lệch, Vị trí địa lý thuận
lợi sẽ cho phép thu được địa tô chênh lệch cao và ngược lại, vị trí địa lý khó
khăn không thuận lợi chỉ đem lại địa tô chênh lệch thấp, vị trí địa lý thuận lợi
là lợi thế so sánh” là một yếu tố quan trọng để phát triển kinh tế.
Nước ta có một vị trí địa lý rất thuận lợi đó là:
Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa Đông Nam Á là nơi gặp
gỡ của những luồng gió xuất phát từ các trung tâm lớn bao quanh tạo nên tự
nhiên việt nam phong phú đa dạng. Điều này có tác động sâu sắc đến cơ cấu
quy mô và hướng phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam.
Việt Nam nằm ở rìa đông của bản đảo Đông Dương, trở thành một đầu
mối giao thong quan trọng từ Ấn Độ tới Thái Bình Dương. Vị trí này cho
phép nước ta có thể dễ dàng phát triển các kinh tế thương mại, văn hóa, khoa

học kĩ thuật với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Việt Nam năm trong khu vực đang diễn ra các hoạt động kinh tế sôi nổi
nhất thế giới. Điều này tạo môi trường thuận lợi để Việt Nam nâng cao năng
lực cạnh tranh, chủ động phát triển kinh tế. Việt Nam có điều kiện giao lưu
với những thị trường sôi động, học hỏi được những kinh nghiệm quý báu của
các “Con rồng châu á”.
5.2. Nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú:
Việt nam có nhiều lợi tài nguyên thiên nhiên, trong đó có nhiều loại có
giá trị kinh tế lớn nhưng chưa được khai thác hoặc khai thác ở mức độ thấp,
sử dụng chưa hợp lý. Đây là nguồn lực bên trong để phát triển kinh tế, đồng
thời là đối tượng đầu tư của Tư bản nước ngoài.
Tài nguyên nhân văn phong phú: bao gồm lực lượng lao động dồi dào
và những hệ thống giá trị do con người tạo ra trong quá trình phát triển lịch
sử của dân tộc. Đây là đối tượng đầu tư phát triển rất quan trọng của tư bản
nước ngoài.
Những lợi thế trên góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam hội
nhập với thế giới.

20


II. Thực trạng Hội nhập:
1. Con đường hội nhập:
Theo quan điểm của Đảng, Việt Nam tiến hành hội nhập từng bước dần
dần mở cửa thị trường với lộ trình hợp lý. Một lộ trình “quá nóng” về mức độ
%, thời hạn mở cửa của thị trường vượt quá khả năng chịu đựng của nền kinh
tế đã dẫn tới thua thiệt đổ vỡ hang loạt doanh nghiệp, vượt khỏi tầm kiểm soát
của nhà nước, kéo theo hậu quả khó lường. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa
là lộ trình càng dài càng tốt, bởi kéo dài quá trình hội nhập sẽ đi liền với duy
trì quá lâu chính sách bảo hộ bao cấp của nhà nước, gây tâm lý trì trệ, ỷ lại,

không dốc sức cải cách quản lý công nghệ, kéo dài tình trạng kém hiệu quả
yếu sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Xác định lộ trình hội nhập là rất quan trọng, đây không chỉ là xác định
thời gian mơt cửa thị trường trong nước mà còn là xác định mục tiêu nền kinh
tế nước ta: phát huy lợi thế so sánh, chiếm lĩnh thị phần ngày càng lớn trên
thương trường quốc tế, thâm nhập ngày càng nhiều vào thị trường các nước cả
về hang hóa và đầu tư dịch vụ.
Tháng 12/1987 Quốc hội nước ta thong qua luật dầu tư nước ngoài tạ
Việt Nam đã mở cuộc đàm phán để nối lại các mối quan hệ với quỹ tiền tệ
quốc tế và ngân hang tài chính thế giới đến tháng 10/1993 đã bình thường hóa
quan hệ tín dụng với hai tổ chức tài chính tiền tệ lớn nhất.
Tháng 7/1995 Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN và từ ngày
1/1/1996 bắt đầu thực hiện cam kết trong khuôn khổ khu vực mậu dịch tự
doASEAN tức AFTA cùng tháng 7/1995 công nghệ đã ký kết hiệp định
khung về hợp tác quốc tế, khoa học kỹ thuật và một số lĩnh vực khác với cộng
đồng châu Âu (EU), đồng thời bình thường hóa quan hệ với Mỹ, khoảng
tháng 3/1996 Việt Nam tham gia với tư cách thành viên sáng lập diễn đàn hợp
tác kinh tế Á – Âu , tháng 11/1998 Việt Nam trở thành thành viên chính thức
của diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái bình dương (APEC), tháng
7/2000 hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ đã được ký kết trước đó từ
cuối năm 1994, nhà nước ta đã gửi đơn xin gia nhập tổ chức thương mại thế
giới (WTO).
2. Quá trình gia nhập:
25/7/1995 Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN
15/12/1995 Việt Nam chính thức tham gia hiệp định AFTA bằng việc ký
kết nghị định thư tham gia hiệp đinh CEPT để thành lập khu vực mậu dịch tự
do ASEAN.
Việt Nam bắt đầu thực hiện hiệp định CEPT từ ngày 1/1/1996 và kết
thúc vào 1/1/2006.


21


Tại thời điểm gia nhập, Việt Nam đã đệ trình với các nước ASEAN bốn
danh mục cắt giảm thuế ngay, danh mục nông sản chưa chế biến và chế biến
nhạy cảm cao.
Những mặt hàng đưa vào thực hiện CEPT là những mặt hàng có thế
mạnh xuất khẩu cao của nước ta hoặc nhứng mặt hàng chưa có trao đổi mua
bán gì với ASEAN.
Những lợi ích và những bất cập đối với nước ta khi gia nhập ASEAN/
AFTA/ CEPT
Những đánh giá sơ bộ về thực trạng sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp trong nước nếu Việt Nam phải thực hiện cắt giảm thuế quan và bỏ các
rào cản phi thuế quan. Hiệu quả sản xuất trong nước còn thấp do sự lạc hậu
trong các thiết bị máy móc…Cơ chế kế hoạch hóa tập trung trong thời gian
dài trước đây đã tsoj cho các nhsf sản xuất trong nước có thói quen ỷ lại vảo
chính sách bảo hộ mậu dịch, ít quan tâm đến khả năng cạnh tranh, thị trường
tiêu thụ và vấn dề hiệu quả sản xuất. Các doanh nghiệp chưa có định hướng
cụ hể về biện pháp điều chỉnh sản xuất để tồn tại và phát triển trong môi
trường mở cửa không còn hàng rào bảo hộ. Nhiều doanh nghiệp không có
định hướng xuất khẩu một cách khả thi, kêa hoạch xuất khẩu thì chỉ là những
chi tiêu xuất khẩu dựa trên kế hoạch về sản lượng so sánh với dự kiến về kế
hoạch tiêu dung trong nướcmaf không có những phân tích so sánh cụ thể dựa
trên tiêu chí về giá thành, chất lượng, khả năng tiêu thụ. Tuy nhiên cũng có
một số ngành san xuất trong nước thật sự có tiềm năng cạnh tranh, một số
doanh nghiệp phần nào nắm được một số thay đổi trong môi trường kinh
doanh theo cơ chế thị trường, kịp thời đâu tư công nghệ mới. Đối với các
ngành này nếu được áp dụng nhãng biện pháp, định hướng đúng đắn và thích
hợp thì sẽ có khả năng phát triển sản xuất và xuất khẩu.
Với thực trạng phát triển hiện nay của các ngành sản xuất trong nước,

phương án thích hợp nhất để thực hiện AFTA/ CFPT cần được lựa chọn đối
với Việt nam lad Việt Nam sẽ thực hiền AFTA trong khuôn khổ các quy định
của CEPT đồng thời đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu phù hợp với các lợi thế so
sánh. Tuy nhiên vẫn tiếp tục duy trì bảo hộ có thời hạn hoặc theo những mức
độ khác nhau cho phần lớn các ngành của nền kinh tế quốc dân, để có thể đạt
được một trình độ phát triển nhất định trước khi mở cửa thị trường trong nước
theo CEPT, chỉ hạn chế sản xuất với một số ít các ngành mà Việt Nam không
có khả năng cạnh tranh.
Điều thuận lợi là hàng xuất khảu của Việt Nam khi nhập khẩu vào các
nước ASEAN sẽ được hưởng thuế xuất ưu đãi nhưng đây cũng là một vấn đề
có những thách thức riêng của nó. Bởi khi ta được hưởng ưu đãi thì cũng phải
dành ưu đãi về thuế suất cho bạn, khi đó nếu hàng hóa của ta chất lượng
22


không bằng bạn giá cao hơn thì các doanh nghiệp của ta rất dễ mất đi thì
trường trong nước.
2.1. Việt Nam hội nhập APEC
15/6/1996 Việt Nam đã làm đơn xin gia nhập diễn đamnf hợp tác kinh tế
châu á – Thái bình dương và 11/1998 đã trở thành thành viên chính thức của
tổ chức này, một tổ chức hiện gồm có 21 thành viên, trong đó bao gồm cả các
nền kinh tế phát triển, đang phát triển và chuyển đổi ( tử kinh tế tập trung
sang kinh tế thị trường). Mục tiêu của APEC cũng là phát triển bền vững
thông qua các chương trình thcs đẩy mở cửa sản xuất thuận lợi hóa thương
mại đầu tư hợp tác kinh tế kỹ thuật theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tự
nguyện công khai và không phân biệt đối sử giữa các thành viên cũng như các
đối tác không là thành viên. Các cam kết mang tính tự nguyện nhưng việc
thực hiện là bắt buộc, do tuyên bố ở cấp cao và hàng năm được đưa ra kiểm
điểm. Các vấn đề chính trị tuy được quan tâm nhưng thường được bàn một
cách không chính thức.

2.2. Việt nam là Liên minh Châu Âu (EU)
Trên lĩnh vực thương mại, Việt Nam và các nước thuộc liên minh Châu
Âu đã có mối quan hệ khá lâu dài song chúng được phát triển và mở rộng
trong những năm gần đây, sau khi Việt Nam và EU chính thức thiết lập quan
hệ ngoại dao 2/1990 quan hệ buôn bán hai chiều có bước phát triển khả quan,
kim ngạch xuất nhập khẩu gia tăng. Năm 1993 EU tăng gấp 10 lần QUOTA
nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam so với năm 1992. Trị giá kim ngạch 2
chiều giữa Việt nam và EU đạt 1 tỉ USD.
31/5/1995 Việt Nam và EU đã ký hiệp định khung hợp tác Việt Nam –
EU 17/7/1995 đã được ký chính thức ở Brucxen.
Khi tham gia ký hiệp định này Việt Nam được hưởng một số ưu đãi:
Hiệp định cho Việt Nam hưởng quy chế tối huệ quốc (MNF) đặc biệt là
quy chế ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) thường được dành cho các nước
đang phát triển, điều này có ý nghĩa thực tế lớn vì trong khi Việt Nam chưa
phải là thành viên của WTO, Việt nam vẫn được hưởng các quy chế ưu đãi
này. Sau đó hiệp định đưa ra một số biện pháp tạo điều kiện thuận lợi buôn
bán, thương thuyết với tổ chức mậu dịch thế giới.
Cải thiện Môi trường kĩ thuật Việt Nam thong qua việc tạo thuận lợi cho
Việt Nam tiếp nhận công nghệ EU.
Liên minh Châu Âu đang chuẩn bị mở một trung tâm thông tin thương
mại EU tại Việt Nam.
Các tỏ chức xúc tiến thương mại của các nước Châu Âu và đang có
nhiều dự án hợp tác với phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam lập các
trung tâm đào tạo nhà doanh nghiệp cho Việt Nam, tổ chức hôi trợ…đẩy
23


mạnh xúc tiến thương mại và đầu tư, cuối năm 1995 phòng công thương và
công nghiệp Việt nam đã ký 32 bản thỏa thuận với các tổ chức hữu quan ở
nước ngoài nhằm hợp tác đẩy mạnh, xúc tiến thương mại và đầu tư trong đó

có 8 bản thỏa thuận được ký với các tổ chức EU.
15/12/1992 Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam – EU đến
1/1993 bắt đầu có hiệu lực. Theo hiệp định này Việt nam xuất khẩu sang EU
151 chủng lợi mặt hàng, tổng số hạn ngạch theo hiệp định là 21298 tấn với
kim ngạch khoảng 450 triệu USD. Hiệp định hàng dệt may Việt nam – EU đã
tạo cho Việt Nam nhiều khả năng xuấ khảu sang EU hơn. Trong 3 năm qua,
kim ngạch hàng dệt may vào EU đã tăng từ 130 triệu USD năm 1992 lên 249
triệu USD năm 1993, 285 triệu USD năm 1994…
8/1995 Việt Nam và EU đã kí trao đổi thư điều chỉnh tăng hạn ngạch và
biên bản thỏa thuận về mở rộng thị trường hàng dệt may. Như vậy từ khi Việt
nam kí hiệp định dệt may Việt Nam - EU, Việt Nam chưa phải là thành viên
của tổ chức thương mại quốc tế vf do đó Việt nam vẫn phải chịu những hạn
ngạch thuế quan phi ưu đãi của EU, đây là những trở ngại lớn đối với xuất
khẩu của Việt nam vào thị trường EU từ thời điểm đó đến cuối năm 1995 sau
khi hiệp định khung hợp tác Việt Nam – EU được ký kết.
2.3 Quá trình hội nhập tổ chức thương mại thế giới WTO
12/1994 Việt nam gửi đơn xin gia nhập hiệp định chung về thương mại
và thuế quan (GATT) tiền than của tổ chức thương mại thế giới WTO năm
1995 Việt nam chính thức đề nghị gia nhập WTO
WTO là tổ chức thương mại quốc tế mang tính chất toàn cầu có mục
đích cơ bản là: thương lượng để thiết lập các luật lệ chung đảm bảo thong
thoáng cho thương mại cũng như cho các lĩnh vực hợp tác kinh tế quốc tế
khác và một môi trường kinh doanh có thể dự đoán được, theo dõi việc thực
hiện cam kết của các thành viên đảm bả tính công khai về thương mại và cac
luật lệ về hợp tác quốc tế WTO cho phép có sự phân biệt đối sử giữa các nước
thành viên và không phải thành viên.
Việc thực hiện các cam kết mang tính rang buộc pháp lý và nếu vi phạm
có thể bị trả đũa, các thành viên kém phát triển và đang phát triển được hưởng
một số ưu đãi nhưng mức độ và thưoif gian hưởng ưu đãi trong từng lĩnh vực
tủy thuộc vào kết quả đàm phán của từng nước với WTO.

Hiện nay Việt nam đã tiến hành nhiều phiên họp với nhóm cộng tác viên
về Việt nam gia nhập WTO tập trung vào việc minh bạch hóa, thương mại –
dịch vụ, sở hữu trí tuệ và đầu tư. Trong thời gian qua, một số thành viên của
WTO như EU, MĨ, Thụy sỹ…đã bắt đầu gửi đề nghị về đàm phán mở cửa thị
trường cho Việt Nam. 8/2000 vừa qua ta đã ký hiệp định thương mại với Hoa
Kỳ, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc nước ta gia nhập WTO.
24


3. Một số kết quả đạt được:
Trong tiến trình hội nhập Việt nam đã ký một số hiệp định khung Việt
Nam – EU, hiệp định buôn bán hàng dệt may Việt Nam – EU …tham gia một
số tổ chức kinh tế khu vực và thế giới như : ASEAN, APEC…đã đưa đến cho
Việt Nam những thành quả kinh tế rất cao.
Thông qua các hiệp ước song phương và đa phương đến nay nước ta đã
có quan hệ thương mại với 154 nước ở khắp các châu lục. Kim ngạch xuất
khẩu của nước ta tăng từ 677,8 Rup/USD năm 1986 lên 14,3 tỷ USD, từ chỗ
nhập siêu tương đối lớn vào cuối những năm 80 đến nay cán cân xuất nhập
khẩu gần đạt đến độ cân bằng. Từ chỗ rất ít mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu
trên 100 triệu USD đến chuối những năm 90 nước ta đã có những mặt hàng
xuất khẩu đạt trên 1 tỉ USD như dầu thô, gạo, hàng dệt may…
Thông qua các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới, hàng hóa Việt Nam
chiếm thị phần ngày càng lớn, tăng tính đổi mới để cạnh tranh của các doanh
nghiệp trong nước và thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài…
Chúng ta đẩy lùi được chính sách bao vậy, cấm vận của các thế lực thù
địch, tạo dựng được môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và
bỏ vệ tổ quốc, nâng cao vị thế của đất nước trên thế giới.
Nước ta khắc phục tính trạng khủng hoảng thị trường do Liên Xô và hệ
thống xã hội chủ nghĩa bị tan rã, đồng thời mở rộng thị trường nhập khẩu.
Thu hút được một nguồn vốn lớn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI

Tranh thủ được nguồn viện trợ phát triển chính thức ODA ngày càng lớn
và giảm đáng kể nợ nước ngoài.
Tiếp thu khoa học công nghệ, kĩ năng quản lý, góp phần đào tạo bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh.
Từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và của cả nền kinh tế
vào môi trường cạnh tranh, nhờ đó đã tạo tư duy làm ăn mới, thúc đẩy sự dịch
chuyển cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Kết hợp nội lực với ngoại lực hính thành sức mạnh tổng hợp góp phần
đưa đến những thành tựu kinh tế to lớn nhờ đó giúp chúng ta tiếp tục giữ
vững, củng cố nền kinh tế độc lập tự chủ giữ vững định hướng XHCN an ninh
quốc gia, bản sắc văn hóa dân tộc.
Một số thành tựu cụ thế:
Cho đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 170 quốc gia
Đã ký hiệp định thương mại song phương với gần 90 quốc gia,
Có quan hệ đầu tư với trên 70 nước và vùng lãnh thổ,
Tranh thủ nguồn tào trợ ODA của gần 50 nước và các định chế tài,
Đã gia nhập khu vực mậu dịch từ do ASEAN, diến đàn hợp tác Á – Âu
ASEM diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương APEC,
25


×