Tải bản đầy đủ (.docx) (73 trang)

Bước đầu nghiên cứu kỹ thuật nhân giống cây bương lông điện biên tại đoan hùng phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 73 trang )

1

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
---------------------------------------

NGUYỄN THỊ PHƯƠNG

“BƯỚC ĐẦU NGHIÊN CỨU KỸ THUẬT NHÂN GIỐNG CÂY
BƯƠNG LÔNG ĐIỆN BIÊN (DENDROCALAMUS GIGANTEUS)
TẠI ĐOAN HÙNG - PHÚ THỌ”

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo Chuyên ngành

Chính quy Lâm

Khoa Lớp

nghiệp Lâm

Khoá học

nghiệp K43 - LN

Giảng viên hướng dẫn

- N01 2011 2015
1. TS.


Nguyễn

Anh

Dũng
2. ThS. Đặng Thị Thu



2

Thái Nguyên, 2015


3

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài tốt nghiệp đại học: “ Bước đầu nghiên cứu kỹ thuật nhân
giống cây Bương lông điện biên tại Đoan Hùng - Phú Thọ" là
công trình nghiên cứu khoa học của bản thân tôi, công trình được thực hiện dưới sự
hướng dẫn của thầy T.S Nguyễn Anh Dũng và cô giáo Th.S Đặng Thị Thu Hà
trong thời gian từ 18/08/2014 đến ngày 28/12/2015. Những phần sử dụng tài liệu
tham khảo trong báo cáo đã được nêu rõ trong phần tài liệu tham khảo. Các số liệu
và kết quả nghiên cứu trình bày trong báo cáo là quá trình điều tra, theo dõi thực tế
thí nghiệm hoàn toàn trung thực, nếu có sai sót gì tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm
và chịu mọi hình thức kỉ luật của khoa và nhà tường đề ra.
Thái Nguyên, tháng 05 năm 2015
Xác nhận của giáo viên hướng dẫn

Sinh viên


Nguyễn Thị Phương

Xác nhận của giáo viên phản biện

LỜI CẢM ƠN

Được sự cho phép của khoa Lâm nghiệp trường Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên -Đại học Thái Nguyên Giám đốc trung tâm nghiên cứu khoa học vùng trung
tâm bắc bộ đã giúp tôi thực hiện đề tài “Bước đầu nghiên cứu kỹ thuật nhân giống
cây Bương lông điện biên tại Đoan Hùng - Phú Thọ”.
Để hoàn thành khoá luận này. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã
tận tình hướng dẫn, giảng dạy trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và rèn luyện
ở Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên. Xin chân thành cảm ơn thầy cô giáo
hướng dẫn TS. Nguyễn Anh Dũng và ThS. Đặng Thị Thu Hà đã tận tình, chu đáo


4

hướng dẫn tôi thực hiện khoá luận này.
Cảm ơn Ban lãnh đạo, cán bộ, công nhân viên trung tâm nghiên cứu khoa
học vùng trung tâm bắc bộ đã giúp đỡ tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình
thực tập.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh nhất.
Song do lần đầu mới làm quen với công tác nghiên cứu khoa học, tiếp cận với thực
tế sản xuất cũng như hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nên không thể tránh khỏi
những thiếu sót nhất định mà bản thân chưa thấy được. Tôi rất mong được sự góp ý
của quý Thầy, Cô giáo và các bạn đồng nghiệp để khoá luận được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 15 tháng 5 năm 2015

Sinh viên

Nguyên Thị Phương


5

CT

Công thức

DTTN

Diện tích tự nhiên

HC

Hom cành

IBA

P-indol butyric acid

KHLN

Khoa học lâm nghiệp

KS

Kỹ sư


LSNG

Lâm sản ngoài gỗ

NAA

a- naphthyl acetic acid

NN&PTNT Nông nghiệp và phát triển nông thôn
OTC

Ô tiêu chuẩn

QP 04TCN

Quy phạm 04 tiêu chuẩn ngành
MỤC LỤC


6

PHẦN 1
MỞ
ĐẦU
1.1.

Đặt vấn đề
Tre trúc là loại lâm sản quan trọng đứng thứ hai sau gỗ phân bố trong một số


trạng thái rừng tự nhiên vùng nhiệt đới và á nhiệt đới, hiện nay đã được gây trồng ở
khá nhiều nơi và có trên 200 loài tre trên cả nước. Đây là loại lâm sản ngoài gỗ có
giá trị kinh tế và có đặc điểm sinh trưởng nhanh và tái sinh mạnh, trồng một lần khai
thác nhiều lần nên luôn có nguồn thu hàng năm nếu trồng tre, do vậy còn được mệnh
danh là cây của người nghèo. Trong quá trình hội nhập quốc tế và hiện đại hóa thì
tre ngày nay lại trở thành những sản phẩm văn hóa có giá trị thẩm mỹ cao được
nhiều khách nước ngoài ưa thích, như những mặt hàng dùng để trang trí ở những nơi
sang trọng: đèn chụp bằng tre, đĩa đan bằng tre ...
Trong số các loài tre trong cả nước thì có cây Bương lông điện biên là một
trong số các loài cây đem lại lợi ích kinh tế cho người dân. Để có được lợi ích kinhtế
cao thì

biện pháp kỹ thuật nhân giống cũng rất

quan trọng

nhằm phát triển cây Bương lông điện biên cho năng suất, chất lượng cao cung cấp
nguyên liệu

cho sản xuất

công nghiệp.

Bương

lông điện biên

(Dendrocalamus giganteus), có tên gọi khác là Mạy púa mơi, Bương lớn, Bương lớn
điện biên. Là một trong những loài tre có kích thước lớn nhất ở Việt Nam, chiều cao
15 - 20 m, đường kính gốc 20 - 25 cm, có vách dày, chiều dài đốt từ 25 - 30 cm, ít

cành nhánh, chắc và bền có khả năng cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế
biến thay thế cho gỗ cho hiệu quả rất cao. Nhưng hiện nay, việc kinh doanh cây
Bương lông điện biên vẫn theo hướng quảng canh, dựa vào kinh nghiệm của người
dân địa phương nên năng suất không cao. Đặc biệt, việc phát triển mở rộng diện tích
trồng loài cây này rất khó khăn do nhân giống bằng gốc rất hạn chế về số lượng
giống, người dân chưa có được kỹ thuật nhân giống bằng phương pháp chiết cành


7

hoặc giâm
hom cành nên

số lượng giống cung cấp ra thị trường ít chưa đáp ứng được

nhu cầu nhân rộng mô hình. Mặt khác, người dân địa phương chỉ cho rằng trồng
bằng giống gốc mới cho năng suất, trong khi đó nhiều loài tre mọc cụm khác việc
nhân giống và trồng bằng giống cành đã đem lại hiệu quả kinh tế rất cao như: Luồng
(Dendrocalamus barbatus), Mai xanh (Dendrocalamus latiflorus)...
Như vậy, việc gây trồng Bương lông điện biên còn thiếu hướng dẫn kỹ thuật
nhân giống, loài này có khả năng đáp ứng số lượng giống lớn cho gây trồng nhân
rộng, nhưng chưa được quan tâm nghiên cứu. Xuất phát từ những lý do trên đề tài:
“Bước đầu nghiên cứu kỹ thuật nhân giống cây Bương lông điện biên tại Đoan
Hùng - Phú Thọ” được đặt ra là cần thiết, góp phần cơ sở khoa học và yêu cầu cấp
bách của thực tiễn sản xuất hiện nay.
1.2.

Mục tiêu nghiên cứu

Xác định được loại chất kích thích và nồng độ thích hợp nhất đến khả năng ra

rễ của hom Bương lông điện biên.
Xác định một số biện pháp kỹ thuật nhân giống như hom thân, hom gốc, hom
cành chét.
Đề xuất một số biện pháp kỹ thuật nhân giống Bương lông điện biên.
1.3.

Ý nghĩa của đề tài

1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
Nhằm giúp cho sinh viên nắm vững hơn những kiến thức đã học, đồng thời
được

trải nghiệm giữa lý thuyết và

thực tiễn để tiếp thu học hỏi nhiều

kinh nghiệm về đặc điểm, quá trình sinh trưởng phát triển cây Bương lông điện biên.
Quá trình thực hiện đề tài tạo cơ hội biết được phương pháp giải quyết vấn đề
khoa học , tiếp cận các phương pháp nghiên cứu ngoài hiện trường.
Làm quen với một số phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu
đề tài.
Nắm được các phương pháp nghiên cứu, bước đầu tiếp cận và áp dụng khoa


8

học tiến bộ vào nhân giống cây.
Học tập và hiểu biết thêm về kinh nghiệm, kỹ thuật nhân giống trong thực
tiễn tại địa bàn nghiên cứu.
Nắm được các phương pháp nghiên cứu, bước đầu tiếp cận và áp dụng khoa

học tiến bộ vào nhân giống cây.
1.3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn sản xuất
Xác định được một số biện pháp kỹ thuật nhân giống từ hom thân, hom
gốc, hom cành chét và một số biện pháp kỹ thuật nhân giống Bương lông
điện biên.


PHẦN 2
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1.

Cơ sở khoa học và pháp lý của đề tài

Tre trúc là tập hợp các loài thực vật thuộc họ Hoà thảo (Poaceae). Các loài
tre trúc rất phong phú, đa dạng, phân bố rộng khắp trên thế giới. Tre trúc dễ trồng,
sinh trưởng nhanh, sớm cho khai thác, dễ chế biến nên được sử dụng cho rất nhiều
mục đích khác nhau. Tre trúc có giá trị rất lớn đối với nền kinh tế quốc dân và đời
sống nhân dân, đặc biệt là nông dân nông thôn và miền núi.
Tre trúc thường có thân cứng như gỗ, song có đặc trưng là thân thường rỗng
trong ruột, có hệ thân ngầm và phân cành khá phức tạp và có hệ thống mo thân hoàn
hảo được sử dụng hiệu quả trong quá trình phân loại. Thân ngầm của tre trúc thường
phát triển trong đất thành mạng lưới hay chỉ phát triển thành một số đốt ngắn ở gốc
cây. Các đốt thân ngầm thường có nhiều rễ và chồi ngủ. Chồi ngủ sẽ mọc lên thành
thân khí sinh trên mặt đất hay phát triển thành thân ngầm mới. Tre trúc có 3 loài thân
ngầm chính là thân ngầm mọc cụm, thân ngầm mọc tản và thân ngầm kiểu hỗn hợp.
Kỹ thuật nhân giống, gây trồng, chế biến và tiêu thụ sản phẩm tre, trúc đã và
đang được quan tâm nghiên cứu và phát triển. Nhiều loài tre, trúc được nhân dân gây
trồng để phát triển kinh tế, đồng thời nâng cao độ che phủ, giảm xói mòn, chống sụt
lở vùng đầu nguồn, ven sông suối, cung cấp nguyên liệu cho chế biến, thúc đẩy phát
triển thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Đặc biệt,

dựng

nông thôn mới, việc

trong giai đoạn xây

phát triển vùng

nguyên liêu tre, trúc theo Quyết định số 11/2011/QĐ-TTg ngày 18 tháng 02 năm
2011

của Thủ tướng Chính

phủ cần được quan tâm nghiên

cứu theo

hướng phát triển bền vững.
Các nghiên cứu về cây Bương lông điện biên rất ít, đặc biệt là nghiên cứu về
biện pháp kỹ thuật lâm sinh, nhân giống và chế biến ... Chính vì vậy, đề tài nghiên
cứu được đặt ra là rất cần thiết, có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn.


2.2.

Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước

2.2.1.

Tình hình nghiên cứu trên thế giới


Tre có từ rất sớm cùng với nghiên cứu phân loại các loài thực vật, đầu tiên là
Luoreiro (1750) khi công bố các loài tre mới. Các loài tre trúc phân bố tự nhiên ở
các vùng nhiệt đới, á nhiệt đới và ôn đới, từ vùng thấp tới độ cao 4000 m (so với
mực nước biển), song tập trung chủ yếu ở vùng thấp tới đai cao trung bình (Nguyễn
Hoàng Nghĩa, 2005) [11]. Các loài tre trúc có thể mọc hoang dại hoặc được gây
trồng và có một đặc điểm nổi bật là có mặt ở rất nhiều các môi trường sống khác
nhau (Dransfield and Widjaja, 1995) [16]. Theo Rao and Rao (1995), cả thế giới có
khoảng 1.250 loài tre trúc của 75 chi, phân bố ở khắp các châu lục, trừ châu Âu.
Châu Á đặc biệt phong phú về số lượng và chủng loại tre trúc với khoảng 900 loài
của khoảng 65 chi (Rao and Rao 1995; 1999) [19], [20].
Ohnberger (1999) đã thống kê trên thế giới có 1.575 loài tre, thuộc 111 chi,
10 phân tông và 6 tông. Nhân giống tre được nhiều tác giả quan tâm và đề cập đến
như Banik (1979, 1985), Hassan (1977), R. Swarup & A. Gambhir (2008), Nautiyal
et al (2008) bằng nhiều phương pháp khác như bằng hạt, chiết, nuôi cấy mô, chồi
gốc. Theo Banik (1979) hạt B.tulda có tỷ lệ nảy mầm chỉ 24,78% và 5% cây con tồn
tại ở vườn ươm. Nhưng nhân giống bằng gốc đạt tỷ lệ cao hơn, chẳng hạn đạt 5% ở
Melocana baccifera, 9% ở B.tulda, 33% ở Oxytanentheranigrociliata, 40% ở
Dendrocalamus longispathus và 100% ở Bambusa vulgaris (Hassan, 1977) [18].
Phương pháp chiết tỷ lệ ra rễ ở các loài tre vách dày được áp dụng ở Băng la - đét đạt 45 - 56% ở các loài Bambusa vulgaris, B.polymorpha và D.giganteus
(Banik, 1985). A. Benton et al (2011) [15] nghiên cứu về phương pháp chiết (airlayering method) đối với tre cho rằng: đảm bảo ra rễ tốt ở trên cây trước khi cắt
xuống. Nhưng phương pháp này chỉ áp dụng ở những vùng có độ ẩm cao và bị hạn
chế ở phần dưới của cây và thường phần này không dùng làm vật liệu nhân giống.
Chồi gốc (cành chét) của các loài Bambusa balcooa, B.longispiculata,
B.tulda,

B.vulgaris,

Dendrocalamus


longispathus,

Melocana

baccifera,


Neohouzeaua dulloa và Oxytenathera nigrociliata đã được sử dụng để trồng rừng ở
Ân Độ tỷ lệ thành công đạt 44 - 76% khi trồng vào tháng 4, đạt 3 - 38% vào tháng 6
và chồi mầm một tuổi đạt tỷ lệ sống cao hơn cây 2 - 3 tuổi. Nhân giống bằng phương
pháp chiết thân đối với loài Bambusa longispiculata đạt tỷ lệ ra rễ 25% nhưng tỷ lệ
ra rễ tăng lên 54% khi có xử lý với hooc môn tăng trưởng IBA 200 ppm. Sử dụng
hooc môn IBA và NAA khi giâm hom thân (mỗi hom 1 đốt,
đạt

tỷ

lệ

ra rễ

gồm 2

mấu)

80% ở Bambusa

arundinacea, 70% ở Dendrocalamus strictus (S. Nautiyal et al 2008) [22].
Có 607 ha rừng tre của 9 loài (Dendrocalamus strictus, D.asper,
D.hamiltonii, Bambusa bambos, B.nutans, B.balcooa, Pseudooxytanthera, Guadua

angustifolia) được trồng bằng giống nuôi cấy mô. Điều này rất có lợi ích về mặt kinh
tế và có thể trồng rừng qui mô lớn. Công nghệ này đạt chất lượng tốt có thể triển
khai trồng rừng trên toàn quốc Ân độ (R. Swarup & Gambhir, 2008) [21].
Zhou Fangchun (2000) [23] với công trình "Selected works of Bamboo
research" đã nghiên cứu từ nhân giống đến canh tác, khai thác sử dụng tre trúc trong
đó có nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ, lượng mưa và độ ẩm đến quá trình phát
sinh, phát triển măng của nhiều loài tre trúc khác nhau ở Trung Quốc làm cơ sở cho
việc áp dụng biện pháp thâm canh thúc đẩy sinh măng trái vụ.
Fu Maoyi, Xiao Jianghua (1996) với “Cultivation & Utilization on Bamboos”
đã

xác định những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình phát sinh

măng, sinh trưởng và phát triển của thân khí sinh là: độ ẩm, nhiệt độ, dinh
dưỡng, cấu trúc rừng, biện pháp lâm sinh, sâu bệnh. Đây là những nhân tố cần phải
được quan tâm khi áp dụng các biện pháp thâm canh tăng năng xuất măng và thân
khí sinh [17]. Loài Dendrocalamus giganteus Munro được công bố năm 1868
(Munro, 1868), đây là một trong những loài tre lớn nhất của chi Dendrocalamus
cũng

như tre của thế giới. Loài tre này

đều có đường kính

thân từ 20 - 30 cm, cao từ 20 - 30 m, vách dày 2 - 2,5 cm, vỏ có màu xanh lục. Đây
cũng là loài tre có giá trị kinh tế cao ở Trung Quốc.


2.2.2.


Tình hình nghiên cứu trong nước

Nghiên cứu về kỹ thuật nhân giống, trồng, khai thác tre đã được quan tâm
nghiên

cứu khá sớm ở Việt Nam, từ những

năm 60 của thế kỷ 20 như:

Phạm Quang Độ (1963), Trồng và khai thác tre nứa trúc [5]. Nguyễn Tử Ưởng
(1965 - 1968), Nghiên cứu phương thức kinh doanh rừng Nứa lá nhỏ [12], Nguyễn
Thị Phi Anh (1967) , Kỹ thuật gây trồng Tre, Diễn ở Cầu Hai [1] .Trần Xuân Thiệp
(1976), Nghiên cứu thực nghiệm kinh doanh cây Vầu đắng tại Bắc Quang - Hà
Giang [14]. Lê Quang Liên (2001), “Nhân giống Luồng bằng chiết cành” [9].
Trần Xuân Thiệp (1976) đã đưa ra kết quả thực nghiệm kinh doanh rừng Vầu
đắng (Arundinaria sp ) tại Bắc Quang - Hà Tuyên [14]. Ngô Trí Lực (1971), trong
báo cáo bước đầu tìm hiểu một số đặc tính tự nhiên và kinh doanh rừng Nứa lá nhỏ
(Neohoazeana dullooa A.Camus) đã phân chia quá trình phát triển của cây nứa
thành các giai đoạn măng - non - trung niên - già sau đó là hiện tượng khuy chết của
nứa sau 20 - 30 năm [10].
Từ năm 1998, Phân viện nghiên cứu khoa học Lâm nghiệp Nam Bộ được
Cục Phát triển Lâm nghiệp cấp kinh phí để thí nghiệm trồng Tre tầu (Sinocalamus
latiflorus Munro) lấy măng. Đề tài đã tập hợp được một số kỹ thuật gây trồng, nhân
giống có thể áp dụng cho thực tiễn sản xuất (Đỗ Văn
Bản, 2005) [2].
Năm 2000, Lê Quang Liên và cộng sự đã thực hiện đề tài “Nghiên cứu kỹ
thuật trồng tre trúc để lấy măng” cho 2 loài Luồng (Dendrocalamus barbatus) và tre
Gầy (Dendrocalamus sp.), trong đó có khảo nghiệm 3 công thức bón phân NPK và
khẳng định muốn trồng tre trúc để lấy cây hay lấy măng có năng suất cao thì cần
phải trồng thâm canh, trong đó phân bón gồm phân chuồng kết hợp với phân hóa

học tổng hợp NPK có tác dụng nâng cao năng suất đến 2,5 lần [8].
Triệu Văn Hùng, Nguyễn Xuân Quát, Hoàng Chương (2002) trong “Kỹ thuật
trồng một số loài cây đặc sản rừng” đã giới thiệu kỹ thuật trồng cho 2 loài là Trúc
sào và Vầu đắng gồm: điều kiện gây trồng, nguồn giống, kỹ thuật gây trồng, chăm


sóc, khai thác và chế biến [7].
Nghiên cứu về đất trồng tre trúc nhìn chung còn ít, chủ yếu tập trung vào một
số loài rất phổ biến. Nguyễn Ngọc Bình (2001) với “Đặc điểm đất trồng rừng tre
Luồng và ảnh hưởng của các phương thức trồng rừng tre trúc Luồng đến đất” cho
biết: Luồng sinh trưởng tốt nơi đất chua pH(H2O): 4,8 - 5,9; pHKci:4,2
tầng

đất

mặt hàm lượng

-

5,0.



chất hữu cơ và N tổng số

tương quan rất chặt, hàm lượng K2O dễ tiêu trong đất tương quan tương đối chặt còn
hàm lượng P2O5 dễ tiêu lại tương quan không chặt với sinh trưởng về đường kính của
cây Luồng. Tác giả cho rằng nên trồng Luồng theo phương thức hỗn giao, thích hợp
nhất là hỗn giao với cây họ đậu như Keo để tránh cho đất bị suy thoái [3].
Nguyễn Văn Phong và các cộng sự (2008) đã đưa ra kết quả nghiên cứu

“Nhân giống Trúc sào (Phyllostachys edulis (Carr.) Houz. De Lehaie) bằng phương
pháp giâm hom thân ngầm tại tỉnh Cao Bằng” đã sử dụng 5 loại chất điều hòa sinh
trưởng là ABT1, NNA, 2,4 - D, Atonik, IBA với các nồng độ khác nhau, kết quả cho
thấy các chất điều hòa sinh trưởng có ảnh hưởng khác nhau đến tỷ lệ hình thành cây
măng và cây hom. Tỷ lệ hình thành cây hom có xử lý Atonik 25ppm đạt 57,2% là
cao nhất, các chất khác cho tỷ lệ từ 35,2% đến 42,9% [13].
Các nghiên

cứu trên đây là cơ sở để đề tài lựa chọn phương thức


phương pháp nhân giống phù hợp nhằm giảm giá thành, nâng cao hiệu quả trồng
rừng, phát triển vùng trồng Bương lông điện biên làm nguyên liệu cho công nghiệp
chế biến, đặc biệt trong giai đoạn 2012 - 2020.
Công trình nghiên cứu tổng hợp có nhiều nội dung khoa học đã được thực
hiện 5 năm liên tục từ 1976 - 1980, đó là đề tài nghiên cứu “Kỹ thuật trồng và kinh
doanh rừng luồng tập trung có năng suất cao, chất lượng tốt và bền vững” do Trần
Nguyên Giảng, chủ nhiệm Bộ môn Lâm học, Viện Khoa học Lâm nghiệp chủ trì, đã
được tổng kết và công bố vào năm 1981 với một số kết quả rất đáng lưu ý sau đây:
- Tạo giống luồng bằng hom thân thay thế giống gốc và chét.


-

Các phương thức trồng rừng luồng thuần loài và hỗn loài với các cây gỗ họ

-

Đậu bản địa có khả năng cố định N trong môi trường đất chua.
Kỹ thuật trồng rừng luồng trên đất xấu (trảng cỏ + cây bụi chịu hạn).


-

Kỹ thuật khai thác rừng luồng hợp lý, đảm bảo rừng bền vững...
Từ năm 1986 - 1990, Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Lâm sinh Cầu Hai

(Viện KHLN Việt Nam) thực hiện đề tài “Nghiên cứu di thực cây Luồng thanh hoá
ra vùng Trung tâm” do KS. Lê Quang Liên phụ trách, trong kết quả của đề tài, đáng
quan tâm là kỹ thuật tạo giống Luồng bằng hom cành. Từ những kết
diện

tích rừng Luồng

ở Thanh Hoá năm

quả

đó,

1973 chỉ có

15.160 ha, đến năm 1980 đã tăng lên 40.000 ha và đến năm 2006 toàn tỉnh Thanh
Hoá đã có tới 65.942 ha trong đó 61.049 ha là rừng Luồng thuần loài và 4.893 ha là
rừng Luồng hỗn loài với cây gỗ.
Nhận xét: hiện nay chưa có một công trình nghiên cứu nào về nhân giống
Bương lông điện biên. So với những nghiên cứu trong nước về nhân giống các loại
tre - trúc thì đề tài nhân giống Bương lông điện biên có những điểm giống là có sử
dụng thuốc kích thích ra rễ IBA để kích thích hom ra rễ. Nhưng những đề tài nghiên
cứu trong nước chủ yếu là nhân giống bằng giâm hom thân ngầm. Nhân giống bằng
hom thân ngầm thì hom nhanh ra măng chất lượng cây tốt hơn hom cành, nhưng số

lượng nhân giống hạn chế không được nhiều và khó sản xuất đại trà.
2.3.

Tình hình kinh tế xã hội khu vực nghiên cứu

2.3.1.

Điều

kiện tự nhiên
2.3.1.1 Vị trí
địa lý
Đoan Hùng là một huyện đồi núi trung du, nằm tại ngã ba ranh giới giữa tỉnh
Phú Thọ với hai tỉnh Yên Bái và Tuyên Quang. Diện tích tự nhiên của huyện Đoan
Hùng là 302,4 km2. Ranh giới hành chính của huyện được xác định như sau:
+ Phía Đông Nam giáp huyện Phù Ninh


+ Phía Nam giáp huyện Thanh Ba
+ Phía Tây Nam và phía Tây giáp huyện Hạ Hòa, đều là các huyện của tỉnh
Phú Thọ.
+ Phía Tây Bắc, Đoan Hùng giáp huyện Yên Bình của tỉnh Yên Bái.
+ Phía Bắc và phía Đông, huyện Đoan Hùng giáp các huyện của tỉnh Tuyên
Quang, kể từ Bắc sang Đông lần lượt là các huyện: Yên Sơn (phía Bắc) và Sơn
Dương (phía Đông). Trên phần phía Đông Bắc huyện có đoạn cuối của sông Chảy
(phần hạ du thủy điện Thác Bà), đổ nước vào sông Lô ngay tại
phần

lớn


ranh giới

đây. Men theo

với huyện Sơn Dương - Tuyên

Quang, là dòng sông Lô, một con sông lớn của hệ thống sông Hồng, nhưng ngã ba
sông Chảy - sông Lô lại nằm sâu trong lòng huyện.
2.3.1.2.

Địa hình

Với đặc trưng của vùng chuyển tiếp từ miền trung du và miền đồi núi cao,
huyện Đoan Hùng có tổng diện tích đất tự nhiên 30.244,47 ha. Trong đó, diện tích
đất gò đồi chiếm phần lớn diện tích. Địa bàn huyện Đoan Hùng nằm trên trục quốc
lộ 2 và quốc lộ 70, địa hình phức tạp đồi núi xen kẽ các cánh đồng lầy thụt. Huyện
có 27 xã và một thị trấn, gồm 14 dân tộc, trong đó dân tộc kinh chiếm phần lớn dân
số trong vùng.
Địa hình

của huyện khá phức tạp thấp dần từ Bắc xuống Nam, từ Tây

sang Đông độ dốc trung bình 3 - 5 o, có nhiều cánh đồng chua, lầy thụt, nằm ở các
khe dốc, có chiều dài từ Tây Bắc xuống Đông Nam là 31 km, chiều rộng từ Đông
sang Tây là 14 km. Sự thay đổi độ cao của các vùng trong huyện thấp dần về phía
sông Lô, sông Chảy, cụ thể địa hình được chia làm 3 tiểu vùng.
Tiểu vùng 1 (tiểu vùng thượng huyện) diện tích là 12.347 ha bao gồm 9 xã:
Bằng Luân, Minh Lương, Bằng Doãn, Quế Lâm, Phúc Lai, Đông Khê, Tây Cốc, Ca
Đình, Ngọc Quan) chiếm khoảng 41% tổng diện tích tự nhiên. Địa hình nơi đây có
nhiều núi cao, rừng tự nhiên suy kiệt, chủ yếu là rừng trồng, độ dốc trung bình 12 25o với dải gò đồi bát úp mấp mô có độ cao trung bình từ 50 - 100 m tạo nên khoảng



giữa là các thung lũng nhỏ hẹp thích hợp cho trồng rừng sản xuất, cây công nghiệp
và cây ăn quả.
Tiểu vùng 2 (tiểu vùng ven sông Lô, sông Chảy) có diện tích là 10.800 ha bao
gồm 13 xã (Chí Đám, Vân Du, Hùng Quan, Nghinh Xuyên, Phương Trung, Phong
Phú, Thị trấn Đoan Hùng, Hữu Đô, Phú Thứ, Đại Nghĩa, Hùng Long, Sóc Đăng, Vụ
Quang), chiếm 35,7 diện tích tự nhiên, là vùng chuyển tiếp có dạng núi thấp xen kẽ
các dải đồng bằng hẹp ven sông Lô, sông Chảy. Đất vùng ven sông nên chủ yếu là
đất phù sa cổ và 1 phần sình lầy, thích hợp cho trồng cây lương thực, rau màu, cây
công nghiệp ngắn ngày, chăn nuôi và cây ăn quả.
Tiểu vùng 3 (tiểu vùng hạ huyện) có diện tích là 7.097,47 ha, bao gồm 6 xã
(Minh Phú, Chân Mộng, Vân Đồn, Tiêu Sơn, Yên Kiện, Minh Tiến) chiếm khoảng
23,5% tổng diện tích tự nhiên, dạng núi thấp, xen kẽ vùng đồi bát úp có nhiều cánh
đồng dạng lòng chảo, có độ cao phổ biến từ 25 - 50 m, có ưu thế về chăn nuôi, trồng
cây công nghiệp dài ngày và cây nguyên liệu cho nhà máy giấy Bãi Bằng.
2.3.1.3.

Khí hậu

Đoan Hùng thuộc vùng trung du Bắc Bộ, chịu ảnh hưởng của nhiệt đới gió
mùa nóng ẩm, chia thành hai mùa rõ rệt: Mùa mưa lượng mưa cao, cường độ mạnh
chiếm khoảng 90% lượng mưa cả năm, trời nắng gắt đôi khi có
những đợt lốc xoáy cục bộ và mưa đá. Mùa khô ít mưa, có gió mùa Đông Bắc thổi
vào, trời rét, nhiệt độ thấp.
Đặc điểm chính về khí hậu thời tiết của huyện như sau:
-

Nhiệt độ: nhiệt độ trung bình năm từ 23 - 24°C, mùa nóng nhiệt độ từ 27 28°C, mùa lạnh nhiệt độ từ 15 - 16°C.


-

Chế độ mưa: lượng mưa trung bình 1780 mm/năm, phân bố theo mùa rõ rệt
mùa mưa kéo dài 7 tháng (tháng 5 - tháng 11).

-

Độ ẩm không khí: độ ẩm tương đối trung bình hằng năm là 85%, mùa mưa độ
ẩm cao có thể đạt tới 88%, độ ẩm thấp nhất là 24%.
2.3.1.4.
Thuỷ văn.


Huyện chịu ảnh hưởng chủ yếu của hệ thống sông Chảy và sông Lô.
Sông Lô chảy qua huyện từ xã Chí Đám tới xã Vụ Quang qua các xã: Chí Đám, thị
trấn Đoan Hùng, Sóc Đăng, Hữu Đô, Đại Nghĩa, Phú Thứ, Hùng Long, Vụ Quang,
với chiều dài 25km.
Sông Chảy có chiều dài qua huyện khoảng 22 km bắt đầu từ vùng tiếp giáp
Yên Bái là xã Đông Khê, Quế Lâm theo hướng Tây Bắc - Đông Nam qua các xã
Phương Trung, Nghinh Xuyên, Phong Phú, Hùng Quan, Thị trấn Đoan Hùng, Vân
Du, Chí Đám và đổ vào sông Lô tại Mom Cầy (Ngọc Trúc - Chí Đám).
Hai con sông này có lượng phù sa thấp hơn sông Hồng, nước chảy xiết, vào
mùa

mưa lũ hợp

lại gây nên những trận lụt lớn cho vùng,

lưu lượng


1.150m/s. Vì vậy công tác phòng hộ đê được cấp chính quyền và nhân dân trong
vùng rất coi trọng.
-

Ngòi: với 28 ngòi (ngòi Nạp Xuyên, ngòi Quế Lâm, ngòi Sống, ngòi Ruỗn,
ngòi Rằm ...), cứ bình quân 3,36 km2 lưu vực có 1 km ngòi dài tạo nên cho
huyện một hệ thống tưới tiêu phong phú, vừa để tiêu nước khi mưa lũ và đưa
nước lên các xã vùng thượng huyện vào mùa khô.
2.3.1.5.
Đặc điểm đất đai
Đoan Hùng có những nhóm đất chính sau:

-

Nhóm đất Feralít đỏ vàng phát triển trên đá phiến thạch sét: Đất có thành
phần cơ giới từ thịt nặng đến sét, tầng đất dày, thấm nước tốt, lượng

chất hữu cơ trung bình, lân dễ tiêu nghèo. Độ pH của đất thay đổi từ trung tính đến
chua ở các mức độ khác nhau. Loại đất này thích hợp với đất sản xuất nông lâm
nghiệp.
-

Nhóm đất Feralít đỏ vàng phát triển trên nền phù sa cổ: Đất có hàm lượng
chất hữu cơ và đạm tổng số nghèo, lân tổng số trung bình, lân dễ tiêu nghèo,
kali tổng số và trao đổi giàu và trung bình. Nhóm đất này thích hợp với đất
sản xuất nông lâm nghiệp.

-

Nhóm đất thung lũng do sản phẩm dốc tụ: Đất này được hình thành do sản



phẩm dốc tụ. Thành phần cơ giới của đất chủ yếu là thịt trung bình đến thịt
nặng. Hàm lượng chất hữu cơ và đạm tổng số khá, lân tổng số và lân dễ tiêu
nghèo, đất có độ pH chua và rất chua. Nhóm đất này chủ yếu sử dụng để gieo
trồng lúa nước và các loại cây màu.
-

Nhóm đất Feralít phát triển trên tầng đá mẹ sa thạch, phiến thạch, đất nghèo
dinh dưỡng, có thành phần cơ giới thịt nhẹ đến trung bình. Độ pH của đất
chua, hàm lượng chất hữu cơ và đạm tổng số nghèo, lân tổng số và lân dễ tiêu
trung bình, kali nghèo. Nhóm đất này thích hợp cho các loài cây công nghiệp
như: Chè...
- Nhóm đất phù sa sông suối, thành phần cơ giới từ thịt trung bình đến thịt

nặng. Đất có phản ứng trung tính, hàm lượng chất hữu cơ và đạm tổng số khá, lân
tổng số giàu và dễ tiêu, ka li tổng số và trao đổi nghèo. Nhóm đất này thích hợp với
một số cây ngắn ngày như: Ngô, Đậu tương...
2.3.2.
2.3.2.1.

Điều kiện kinh tế xã hội

Hiện trạng dân số, dân tộc, lao động và phân bố dân

a) Dân số
Năm 2010, dân số Đoan Hùng là 104.471 người; mật độ dân số bình quân
345,23 người/km2, dân số nông thôn chiếm 93,63% và dân số thành thị chiếm
6,37%. Số người trong độ tuổi lao động là 57.000 người, chiếm 54,56% tổng dân số
(trong đó lao động hoạt động trong khu vực kinh tế Nhà nước có 2,7 nghìn người,

chiếm 0,005% tổng số lao động). Cơ cấu dân số của huyện Đoan Hùng là dân số trẻ,
tỉ lệ người trong độ tuổi lao động, trẻ em ở độ tuổi đi học và chưa đi học lớn, chiếm
trên 80% tổng dân số toàn huyện.
b) Lao động
Trong giai đoạn 2010 - 2020 huyện sẽ phấn đấu tạo công ăn việc làm cho
người lao động, đưa thêm các ngành nghề mới vào sản xuất, xây dựng các trung tâm
đào tạo và hướng nghiệp, tạo thêm lực lượng lao động mới có tay nghề và trình độ
kỹ thuật cao. Công tác đào tạo, dạy nghề đã được các cấp, các ngành quan tâm. Các


trường, lớp, trung tâm dạy nghề phát triển dưới nhiều hình thức, dạy nghề ngắn hạn
phát triển mạnh. Thông qua việc thực hiện
tiêu và các

dự

án phát triển

các chương

trình, mục

kinh

tế

- xã hội,

chương trình quốc gia về giải quyết việc làm; trong giai đoạn từ 2010 - 2013 huyện
đã tạo việc làm mới và làm thêm cho gần 25.000 lao động với các nghề chính như

may mặc, thêu ren, sửa chữa cơ khí, điện dân dụng, tin học văn phòng, dược, chăn
nuôi, trồng trọt, ...
2.3.2.4.

Thực trạng phát triển cơ sở hạ tầng

a) Giao thông
-

Đường bộ: Đoan Hùng có mạng lưới giao thông phát triển, xuyên dọc huyện
có 2 tuyến đường quốc lộ 2 và quốc lộ 70. Trong đó, 12 xã có đường quốc lộ
đi qua và 16 xã có đường rải cấp phối. Đến nay có 28/28 xã, thị trấn trong
huyện có đường giao thông đến tận trung tâm xã, tạo thành mạng lưới nối liền
giữa các xã với trung tâm huyện và các trung tâm kinh tế trong vùng.

-

Đường thuỷ: có 2 hệ thống đường thuỷ quan trọng trong lưu thông hàng hoá
và các lâm đặc sản trong khu vực đó là sông Lô và sông Chảy.

b) Thủy lợi
Toàn huyện hiện có 70 km kênh mương; 14 trạm bơm với công suất tưới
1.400 ha và tiêu 450 ha. Hệ thống mương máng dẫn nước cũng thường xuyên được
đầu tư cải tạo và xây mới. Tổng diện tích đất được tưới có 3.200 ha, diện tích còn lại
vẫn còn phải chờ vào nước mưa nên thường xuyên ở trong tình trạng khô hạn. Do
địa hình của huyện chủ yếu là đồi, các cánh đồng nhỏ lẻ, phân tán, thung lũng hẹp
không bằng phẳng. Vì vậy, vấn đề thuỷ lợi của huyện chủ yếu là đắp đập, làm
mương, phải giữ nước phục vụ việc tưới cho sản xuất nông nghiệp theo phương thức
tự chảy. Đồng thời, hiệu quả sử dụng của các hồ đập còn ở mức thấp, cần tiếp tục
đầu tư nâng cấp và khai thác có hiệu quả hơn nữa các công trình thuỷ lợi nhằm đáp

ứng tốt hơn cho sản xuất nông nghiệp.
c) Hệ thống điện - nước


Hệ thống điện phục vụ đời sống và sản xuất kinh doanh của người dân trên
địa bàn huyện được cung cấp từ đường dây 35KV từ Thác Bà, đường dây 10KV sau
trạm trung gian Tây Cốc và trạm trung gian Thanh Ba 10KV. Đến nay, hệ thống lưới
điện trên địa bàn huyện khá hoàn chỉnh, tất cả các xã, thị trấn trong huyện đều có ít
nhất là 1 trạm biến áp, 100% số thôn được sử dụng điện lưới quốc gia (có 98% số hộ
và 100% số dân được dùng điện lưới quốc gia để phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt).
Toàn huyện có 5 nhà máy nước phục vụ sinh hoạt cho nhân dân, số hộ gia
đình được dùng nước sạch trên địa bàn huyện mới chỉ đạt khoảng 20%, số còn lại
nước sinh hoạt chủ yếu là giếng đào, một số hộ vùng cao dùng nước khe, suối để
phục vụ sinh hoạt và sản xuất.
d) Giáo dục
Toàn huyện có 4 trường trung học phổ thông với 112 lớp học; 56 trường
trung học cơ sở và tiểu học với 549 lớp học; có 29 nhà mẫu giáo với 144 lớp học.
Tổng số giáo viên các cấp học là 1.516 người, trong đó THPT là 116 người, THCS
là 544 người, tiểu học là 578 người và 278 giáo viên nhà trẻ mẫu giáo. e) Y tế
Trên địa bàn huyện có 1 bệnh viện, 28 trạm y tế cấp xã, thị trấn. Toàn huyện
có 174 cán bộ y bác sĩ, 162 giường bệnh, y tế dự phòng đã được chú trọng. Hàng
năm thực hiện tốt các chương trình y tế quốc gia như tiêm chủng mở rộng, hiến máu
nhân đạo... Công tác kế hoạch hóa gia đình ngày càng được quan tâm và đạt được
những thành quả khả quan. f) Văn hoá - thông tin
Hiện nay trên địa bàn huyện có đài phát thanh, truyền hình, 100% các xã đã
được phủ sóng truyền hình. Hệ thống thông tin liên lạc được thông suốt, tất cả các
xã, thị trấn trong huyện đã có điểm bưu điện văn hoá xã. Hàng năm vào những
ngày lễ lớn của đất nước phòng văn hoá đã tổ chức thực hiện tốt
hoạt động thông tin tuyên truyền.
2.4.


Nhận xét chung về địa bàn nghiên cứu

2.4.1.

Thuận lợi

Huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ có các tuyến giao thông quan trọng thuận


lợi cho việc giao lưu kinh tế - xã hội và du lịch.
Là vùng có nhiều các hoạt động nghiên cứu, thực nghiệm và chuyển giao
khoa học công nghệ trong lĩnh vực lâm nghiệp nên đã nhận được sự quan tâm đầu tư
của nhà nước.
Điều kiện khí hậu, địa hình, đất đai của khu vực trên tương đối thuận lợi và
phù hợp với nhiều loài cây trồng lâm, nông, công nghiệp. Đó là tiền đề để phát triển
ngành lâm nghiệp nói riêng và các ngành kinh tế khác nói chung.
Diện tích đất lâm nghiệp lớn, nhìn chung đất còn khá tốt, đất còn mang tính
chất đất rừng, nhiều nơi tầng đất dày, có hàm lượng chất hữu cơ cao thuận tiện cho
việc phát triển sản xuất lâm nghiệp trên địa bàn.
Nguồn lao động của khu vực khá dồi dào có thể huy động vào việc phát triển
lâm nghiệp cũng như các ngành khác.
2.4.2.

Khó khăn

Là một huyện

phát điểm từ nền kinh tế còn thấp, quá trình đào tạo


nguồn nhân lực chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển như hiện nay, nguồn lao động
có trình độ khoa học kỹ thuật còn thiếu.
Ở một số xã vùng sâu của huyện có địa hình dốc nên khó khăn cho công tác
xây dựng, quản lý và bảo vệ rừng cũng như triển khai các hoạt động sản xuất lâm
nghiệp trên địa bàn.
Khí hậu của huyện nhìn chung là thuận lợi, song có một số yếu tố hạn chế
như sương muối, gió hại, có các tháng khô hạn là những trở ngại cho các hoạt động
sản xuất lâm nghiệp trong khu vực.
Hệ thống cơ sở hạ tầng, kinh tế - xã hội ở một số xã còn thiếu và thấp kém.
Mạng lưới giao thông liên xã chưa được cải thiện đã ảnh hưởng không nhỏ đến phát
triển sản xuất và lưu thông hàng hóa, trong đó có sản phẩm từ rừng trồng sản xuất
của khu vực.
PHẦN 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


3.1.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cây Bương lông điện biên.
3.3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về:
-

Kỹ thuật chọn cây mẹ và cành chét

-


Thí nghiệm nhân giống bằng hom cành chét

-

Thí nghiệm nhân giống bằng giâm hom cành

3.2.
-

Địa điểm và thời gian tiến hành

Về địa điểm: Thí nghiệm được tiến hành tại Trung tâm khoa học lâm nghiệp
vùng trung tâm Bắc Bộ thuộc xã Chân Mộng, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú
Thọ.

-

Thời gian tiến hành từ ngày 18/08/2014 đến ngày 28/12/2015.

3.3.

Nội dung nghiên cứu và các chỉ tiêu theo dõi

3.3.1. Nghiên cứu kỹ thuật chọn cây mẹ và cành chét
3.3.2. Nghiên cứu kỹ thuật nhân giống bằng hom cành chét (chiết cành)
3.3.3. Nghiên cứu kỹ thuật nhân giống bằng giâm hom cành
3.3.4.

Đề xuất một số biện pháp kỹ thuật nhân giống Bương lông điện


biên
3.4.

Phương pháp nghiên cứu và các chỉ tiêu theo dõi

3.4.1.

Phương pháp bố trí thí nghiệm

Nghiên cứu bổ sung biện pháp nhân giống vô tính bằng 2 hình thức: (i) nhân
giống bằng chiết cành, (ii) nhân giống bằng giâm hom cành.
Bố trí thí nghiệm trên 2 cấp tuổi (1 tuổi, 2 tuổi) để lựa chọn tuổi cây giống và
cành chét,

mỗi cấp tuổi 15 cây, với 3 lần lặp/cấp tuổi. Thử nghiệm

phương pháp đốn ngọn cây tuổi 1 và tuổi 2 để tạo cành chét, mỗi cấp tuổi 15 cây,
với

3 lần lặp/cấp tuổi, xác định số lượng cành chét được

lượng chét có thể làm hom, thời gian tạo cành chét.

tạo ra và

số


Nghiên cứu biện pháp kỹ thuật tạo cây con: Áp dụng phương pháp thực
nghiệm và kế thừa các tài liệu, tư liệu có liên quan như: Kỹ thuật nhân giống Luồng

bằng cành chiết của kỹ sư Lê Quang Liên (1994). Quy phạm kỹ thuật trồng, chăm
sóc và khai thác măng tre Điềm trúc (QP 04TCN 69 - 2004 của Bộ NN&PTNT).
Nghiên cứu chọn giống, nhân giống và kỹ thuật gây trồng một số loài tre trúc có giá
trị kinh tế của TS. Hoàng Thanh Lộc (2005). Ngoài ra, nghiên cứu biện pháp kỹ
thuật nhân giống vô tính còn kế thừa có chọn lọc kiến thức bản địa của người dân
địa phương.
Sử dụng các loại thuốc kích thích thông dụng như: IBA có nồng độ 0,25%;
0,5%; 0,75%; 1% để sản xuất cây giống (chiết cành chét đến khi ra rễ cấp 2 sau đó
giâm trong vườn ươm, tiêu chuẩn cây trồng là có mầm và rễ cấp 2).
3.4.2. Phương pháp thu thập thông tin
3.4.2. LPhưongpháp kế thừa và chọn lọc số liệu
Kế thừa các tài liệu liên quan, báo cáo, đề tài, số liệu, bảng biểu, biểu đồ, bản
đồ, hình ảnh.....................
Kế thừa có chọn lọc các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về tre
trúc và Bương lông điện biên.
Kế thừa tài

liệu về điều kiện tự nhiên, kinh

tế - xã hội tại khu vực

nghiên cứu.
Các số liệu, tài liệu, quy trình, quy phạm, tiêu chuẩn có liên quan.
3.4.2.2. Phương pháp theo dõi
* Phương pháp lựa chọn cây mẹ và cành chét
Về tiêu chuẩn cây mẹ chọn làm giống: là cây bánh tẻ, thân xanh, khoảng 1 - 2
tuổi, không bị sâu bệnh, không thối mắt và không ra hoa. Cành bánh tẻ tuổi 1 - 2,
đường kính khoảng 1 cm, thon đều, đùi gà to.
Đề tài thí nghiệm với loại hom cành bánh tẻ 240 hom từ cây mẹ 1 tuổi, 240
hom từ cây mẹ 2 tuổi cho 1 lần lặp. Hom cành sinh trưởng tốt, không bị sâu bệnh.

Điều tra cây mẹ xem có bao nhiêu cành chét triển vọng và mắt ngủ triển vọng


trên 1 cây.
Cành chét triển vọng là những cành đùi gà có đường kính từ 1cm trở lên, ở
phần 2 bên cành đùi gà mỗi bên có 3 mắt ngủ và có rễ khí sinh xung quanh đùi gà,
cây mẹ không bị khuy, cành không sâu bệnh.
Mắt ngủ triển vọng là những mắt ngủ nằm ở các mấu của đốt Bương mỗi một
mấu có một mắt ngủ, mắt ngủ không bị thối, không sâu bệnh, còn non, khi con
người tác động bằng các biện pháp cơ giới như ngả cây, đốn ngọn thì những mắt ngủ
đấy mọc ra những cành chét.
* Phương pháp tạo hom cành chét
Cành chét là vật liệu chủ yếu trong quá trình tạo cây con Bương lông điện
biên bằng hom cành. Bương lông điện biên là loài rất ít cành nhánh để tạo hom
giống, vì vậy cần có các biện pháp kỹ thuật tạo cành chét, đề tài nghiên cứu đưa ra
một số phương pháp tạo cành chét.
Chất lượng cành chét tốt là những cành bánh tẻ ở tuổi 1 - 2 có đường kính
cành chét >1 cm, hai bên cành đùi gà mỗi bên có 3 mắt ngủ, mắt ngủ không bị thui,
có rễ khí sinh, cành không bị sâu bệnh, cây mẹ không bị khuy.
Chất lượng cành chét trung bình là những cành bánh tẻ ở tuổi 1 - 2 có đường
kính cành chét >1 cm, hai bên cành đùi gà mỗi bên có 2 hoặc 3 mắt ngủ, mắt ngủ
không bị thui, không có rễ khí sinh, cành không bị sâu bệnh, cây mẹ không bị khuy.
Chất lượng cành chét xấu là những cành quá non hoặc quá già có đường kính
cành chét <1 cm, hai bên cành đùi gà mỗi bên có 1 hoặc 2 mắt ngủ, mắt ngủ không
bị thui, không có rễ khí sinh, cành bị sâu bệnh, cây mẹ bị khuy.
- Thí nghiệm đốn ngọn cây mẹ tạo cành chét Bương lông điện biên
Từ cây mẹ Bương lông điện biên bằng cách đốn ngọn cây mẹ để lại phần
thân cao 15 m, vị trí đốn ở giữa lóng để không ảnh hưởng đến mắt thân.
- Thí nghiệm ngả thân cây mẹ tạo cành chét Bương lông điện biên
Áp dụng phương pháp kỹ thuật tạo giống Luồng theo tiêu chuẩn ngành 04

TCN 21-2000 Quy phạm kỹ thuật trồng và khai thác cây Luồng (Dendrocalamus


membranaceus Munro) có sử dụng phương pháp bập thân cây mẹ, chặt 2/3 đường
kính thân cây mẹ ở vị trí cách gốc 50 - 70 cm, vít cây nằm ngả và theo dõi cành chét
được tạo ra.
- Thí nghiệm nhân giống bằng chiết cành
Thí nghiệm

nhân giống bằng chiết cành được áp dụng đối với cây

Luồng thanh hóa và cây Bát độ rất có hiệu quả. Đề tài ứng dụng phương pháp chiết
cành của 2 loài cây này thử nghiệm đối với Bương lông điện biên có sử dụng hỗn
hợp ruột bầu có sử dụng thuốc kích thích và không sử dụng thuốc kích thích.
Kỹ thuật nhân giống bằng phương pháp chiết cành gồm 3 bước.
Bước 1: Chuẩn bị vật liệu, dụng cụ
Dao, kéo cắt cành, cưa nhỏ dùng để cưa, túi nilon để bó bầu
Bước 2: Tạo hỗn hợp
Và các vật liệu để bó bầu gồm có rơm và đất bùn. Tỷ lệ hỗn hợp 2 bùn + 1
rơm (rơm băm nhỏ khoảng 1 - 2 cm). Hỗn hợp này ta trộn lẫn chúng lại
vào với nhau rồi cho một ít nước sạch vào để có độ ẩm nhất định.
Vật liệu để bó hom sử dụng hỗn hợp bùn ao sạch hoặc bùn ao tự tạo trộn với
rơm băm nhỏ theo tỷ lệ 2 bùn : 1 rơm theo thể tích và bó bằng túi ni lông.
Bước 3: Tiến hành chiết
Dùng kéo cắt cành cắt bỏ lóng để lại 2 - 3 lóng trên cành. Nơi cành tiếp giáp
thân bỏ bớt những cành nhỏ hai bên và phía dưới cành chiết. Dùng dao, cưa tách
cành chiết 2/3 thân từ trên xuống (chỗ mắt tiếp giáp). Hỗ hợp bầu gồm rơm băm nhỏ
hoặc sơ dừa + đất + bùn + 1% lân.
Đề tài thí nghiệm chiết cành có sử dụng loại thuốc kích thích ra rễ IBA với
các nồng độ 0,25%; 0,5%; 0,75; 1%;

Sau khi bó cành chiết khoảng 10 - 15 ngày, kiểm tra thấy cành nào ra rễ khi
chuyển sang màu vàng có lông tơ cắt cành khỏi thân đem cấy vào bầu đất, dưỡng
cây con trong vườn ươm khi cây ra rễ thứ cấp thì đem đi trồng. Bầu đất gồm 90%
đất cát pha + 9% phân chuồng hoai + 1% Super lân. Đặt bầu thành luống tưới ẩm


×