Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Nghiên cứu phân loại khả năng phân hủy ddt và sinh laccase của chủng nấm sợi phân lập từ đất ô nhiễm hỗn hợp thuốc trừ sâu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (581 KB, 20 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

----------------///----------------

Đào Thị Ngọc Ánh

NGHIÊN CỨU PHÂN LOẠI, KHẢ NĂNG PHÂN HỦY DDT
VÀ SINH LACCASE CỦA CHỦNG NẤM SỢI PHÂN LẬP TỪ ĐẤT
Ô NHIỄM HỖN HỢP THUỐC TRỪ SÂU

LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC

Thái Nguyên - 2009

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

----------------///----------------

Đào Thị Ngọc Ánh

NGHIÊN CỨU PHÂN LOẠI, KHẢ NĂNG PHÂN HỦY
DDT VÀ SINH LACCASE CỦA CHỦNG NẤM SỢI
PHÂN LẬP TỪ ĐẤT Ô NHIỄM HỖN HỢP THUỐC TRỪ SÂU


Chuyên ngành
Mã số

: Sinh học thực nghiệm
: 60.42.30

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS Đặng Thị Cẩm Hà

Thái Nguyên - 2009

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Lời Cảm Ơn !
Trong quá trình nghiên cứu vừa qua, tôi gửi lời cảm ơn chân thành và
sâu sắc đến sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của PGS.TS. Đặng Thị Cẩm Hà,
và các anh chị trong nhóm nghiên cứu Công nghệ sinh học xử lý khử độc các
chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy, phòng Công nghệ Sinh học Môi trường,
đặc biệt là Ths. Nguyên Bá Hữu, KS. Đàm Thúy Hằng, KS.Nguyễn Nguyên
Quang, KS. Nguyễn Quang Huy.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới Khoa sau đại học, Khoa Sinh-Kỹ
thuật nông nghiệp – Trường đại học Sư phạm – Đại Học Thái Nguyên và lãnh
đạo Viện Công nghệ sinh học, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, đã tận
tình dạy dỗ và tạo mọi điều kiện cho tôi hoàn thành khóa học và thực hiện
luận văn này.
Bên cạnh đó, tôi xin cảm ơn những người thân trong gia đình và bạn bè
đã tạo điều kiện động viên giúp đỡ tôi cả về vật chất và tinh thần để tôi có thể
hoàn thành bản luận văn này.


Hà Nội, ngày 25 tháng 10 năm 2009

Đào Thị Ngọc Ánh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

2,4-D

2,4,- dichlorophenoxyacetic acid

2,4,5-T

2,4,5-trichlorophenoxyacetic acid

2,3,7,8-TCDD

2,3,7,8-Tetraclorodibenzo-p-dioxin

ABTS

2,2'-azino-bis(3-ethylbenzthiazoline-6-sulphonic acid)

bp


Base pair

DDE

Dichlorodiphenyldichloroethylene

DDD

Dichlorodiphenyldichloroethane

DDT

Dichloro - Trichloroethane Diphenyl

DNA

Deoxyribonucleic acid

EC

Enzyme Commission

EPA

U.S. Environmental Protection Agency

HCH

Hexacyclohexan


Lac

Laccase

LB

Luria - Bertani

LiP

Lignin peroxidase

MnP

Manganese peroxidase

PAH

Polycyclic aromatic hydrocarbon

PCB

Polychlorinated biphenyl

PCR

Polymerase Chain Reaction

POP


Persistent Organic Pollutant

RBBR

Remazol brilliant blue R

RNA

Ribonucleic acid

rRNA

Ribosomal ribonucleic acid

X-gal

5-bromo-4-chloro-3-indodyl- β galactosidase

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Đào Thị Ngọc Ánh

Luận văn Thạc sĩ Sinh học

MỤC LỤC
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

PHẦN I TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1 ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC VÀ TÍNH CHẤT LÝ HÓA CỦA DDT
1.1 Cấu trúc của DDT
1.2 Tính chất lý hóa của DDT
2 ẢNH HƢỚNG ĐẾN MÔI TRƢỜNG VÀ SỨC KHỎE CON NGƢỜI
CỦA DDT
2.1 Ảnh hƣởng đến môi trƣờng
2.2 Ảnh hƣởng đến sức khỏe con ngƣời
3 TÌNH TRẠNG Ô NHIỄM DDT
3.1 Nguồn gốc phát sinh
3.2 Tình trạng ô nhiễm DDT trên thế giới
3.3 Tình trạng ô nhiễm DDT ở Việt Nam
4 CÁC PHƢƠNG PHÁP XỬ LÝ Ô NHIỄM DDT
4.1 Các phƣơng pháp cơ, hóa lý
4.1.1 Phương pháp chôn lấp, cô lập
4.1.2 Phương pháp đốt có xúc tác
4.1.3 Phương pháp phân hủy bằng kiềm nóng
4.2 Phƣơng pháp phân hủy sinh học
5 PHÂN HỦY SINH HỌC DDT
5.1 Khả năng phân hủy DDT bởi vi sinh vật
5.1.1 Loại clo bởi quá trình khử
5.1.2 Khoáng hoá DDT bởi nấm thủy phân lignin
5.1.3 Phân hủy DDT bởi vi khuẩn trong điều kiện hiếu khí
5.2 Các điều kiện môi trƣờng ảnh hƣởng đến phân hủy sinh học DDT và
các dẫn xuất của DDT
6 LACCASE
6.1 Định nghĩa
6.2 Cấu trúc phân tử của laccase
6.3 Cơ chế xúc tác của laccase
6.4 Tính chất hóa sinh của laccase

6.5 Sự phân bố và một số vi sinh vật sinh laccase
6.6 Gene mã hóa laccase
6.7 Ứng dụng của laccase
6.8 Lignin peroxidase và Mangan peroxidase
6.8.1 Lignin peroxidase
6.8.2. Mangan peroxidase
7 PHÂN LOẠI VI SINH VẬT
7.1 Phân loại theo phƣơng pháp truyền thống
7.2 Phân loại bằng phƣơng pháp xác định và so sánh trình tự gene mã hóa
18S Rrna
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1

1
4
6
6
6
6
7
7
9
11
11
13
14
16
16
16

17
17
18
20
20
21
22
23
26
27
27
28
30
32
33
34
36
37
37
38
39
39
39




Đào Thị Ngọc Ánh

Luận văn Thạc sĩ Sinh học


7.2.1 Một số phương pháp phân loại bằng sinh học phân tử
7.2.2 Phân loại dựa vào trình tự gene mã hoá 18S rRNA
PHẦN II VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1 VẬT LIỆU
1.1 Nguyên liệu
1.2 Hóa chất
1.3 Thiết bị
1.4. Môi trƣờng nuôi cấy
2 PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học của các chủng nấm sợi
2.2 Sàng lọc khả năng sinh Lac, LiP, MnP
2.3 Nghiên cứu khả năng phân hủy DDT của chủng FNA1
2.4 Phƣơng pháp xác định hoạt tính enzyme
2.4.1 Xác định hoạt tính laccase
2.4.2 Xác định hoạt tính LiP
2.4.3 Xác định hoạt tính MnP
2.5 Khảo sát các điều kiện môi trƣờng ảnh hƣởng đến khả năng phát triển
và sinh laccase của chủng FNA1
2.6 Xác định một số tính chất hóa sinh của laccase thô
2.7 Phân loại nấm sợi dựa vào xác định và so sánh trình tự gen mã hóa
18S rRNA
2.7.1 Tách DNA tổng số từ nấm sợi
2.7.2 Nhân đoạn gen bằng kỹ thuật PCR
2.7.3 Gắn sản phẩm PCR vào vectơ và biến nạp vào E.coli
2.7.4 Tách chiết DNA plasmid
2.7.5 Kiểm tra plasmit mang sản phẩm PCR mong muốn
2.7.6 Điện di kiểm tra DNA tổng số
2.6.8 Xây dựng cây phát sinh chủng loại
2.6.7 Xác định trình tự đoạn gene mã hóa 16S rRNA

PHẦN 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
1 MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI KHUẨN LẠC VÀ CUỐNG SINH
BÀO TỬ CỦA CÁC CHỦNG FNA1, FNA2, FNA3
2 SÀNG LỌC KHẢ NĂNG SINH TỔNG HỢP Lac, LiP, MnP
3 KHẢ NĂNG PHÂN HỦY DDT CỦA CHỦNG FNA1
4 CÁC ĐIỀU KIỆN MÔI TRƢỜNG ẢNH HƢỞNG ĐẾN KHẢ NĂNG
SINH TRƢỞNG VÀ SINH TỔNG HỢP LACCASE CỦA CHỦNG FNA1
4.1 Ảnh hưởng của nhiệt độ, pH môi trường nuôi cấy, nồng độ NaCl
4.1.1 Ảnh hưởng của nhiệt độ
4.1.2 Ảnh hưởng của pH môi trường nuôi cấy
4.1.3 Ảnh hưởng của nồng độ NaCl
4.2 Ảnh hưởng của nồng độ DDT và nồng độ glucose
4.2.1 Ảnh hưởng của nồng độ DDT
4.2.2 Ảnh hưởng của nồng độ glucose
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2

39
40
42
42
42
42
42
43
45
45
45
45

46
46
47
47
48
49
50
50
51
53
53
54
55
55
55
56
56
57
59
64
64
64
65
67
68
68
69





Đào Thị Ngọc Ánh

Luận văn Thạc sĩ Sinh học

4.3 Ảnh hưởng của các chất cảm ứng
4.3.1 Guaiacol, veratyl alcohol, CuSO4
4.3.2 Các chất ô nhiễm khác
4.4 Ảnh hưởng của chất hoạt động bề mặt
4.5 Ảnh hưởng của nguồn carbon, nitơ và môi trường thay thế
4.5.1 Ảnh hưởng của nguồn carbon
4.5.2 Ảnh hưởng của nguồn nitơ
4.5.3 Ảnh hưởng của môi trường thay thế
5 MỘT SỐ TÍNH CHẤT CỦA LACCASE THÔ
5.1 pH tối ưu và độ bền pH
5.1.1 pH tối ưu
5.1.2 Độ bền pH
5.2 Nhiệt độ thích hợp cho hoạt động của laccase và độ bền nhiệt
5.2.1 Nhiệt độ thích hợp cho hoạt động của laccase
5.2.2 Độ bền nhiệt
6 PHÂN LOẠI CHỦNG NẤM SỢI FNA1 BẰNG PHƢƠNG PHÁP SO
SÁNH TRÌNH TỰ ĐOẠN GEN MÃ HÓA 18S rRNA
6.1 Tách chiết DNA tổng số
6.2 Nhân đoạn gen 18S rRNA bằng kỹ thuật PCR
6.3 Tách dòng gen 18S rRNA trong vectơ pTZ57R/T
6.4 So sánh trình tự đoạn gen mã hóa 18S rRNA của chủng FNA1
KẾT LUẬN
KIẾN NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3

71
71
72
74
76
76
78
80
81
81
81
83
84
84
85
86
86
87
88
91
94
95
96
103





Đào Thị Ngọc Ánh

Luận văn Thạc sĩ Sinh học

MỞ ĐẦU
DDT (Dichloro - Trichloroethane Diphenyl) là một trong những thuốc
trừ sâu tổng hợp đƣợc biết đến nhiều nhất. DDT đƣợc tổng hợp đầu tiên vào
năm 1874, nhƣng thuộc tính thuốc trừ sâu của DDT thì cho đến 1939 mới
đƣợc khám phá. Vào những năm đầu của Chiến tranh Thế giới thứ II, DDT
đƣợc sử dụng với lƣợng lớn để kiểm soát muỗi truyền bệnh sốt rét, bệnh sốt
phát ban, và các bệnh do côn trùng khác trong cả quân đội lẫn dân cƣ. DDT
trở thành loại thuốc trừ sâu phổ biến sử dụng trong nông nghiệp. Chúng có
mặt ở khắp mọi nơi, trong không khí, đất, nƣớc do một lƣợng lớn đã đƣợc giải
phóng ra khi phun trên các cánh đồng và rừng để diệt muỗi và côn trùng.
Ngày nay DDT đã bị cấm sử dụng do tính độc của nó nhƣ có khả năng
gây ung thƣ tiềm tàng, gây đột biến và gây ô nhiễm môi trƣờng nghiêm trọng.
Để bảo vệ môi trƣờng và sức khỏe con ngƣời, cần phải xử lý khử độc DDT
trong môi trƣờng đất cũng nhƣ trong các môi trƣờng khác. DDT ở trong đất
có thể giảm đi do sự bay hơi, sự xói mòn đất, sự hấp thu của động vật, thực
vật và sự phân hủy sinh học của các vi sinh vật có sẵn trong đất nhƣng với
thời gian tƣơng đối lâu.
Trên thế giới cũng nhƣ ở Việt Nam, đã có một số phƣơng pháp khử độc
khác nhau đƣợc nghiên cứu và áp dụng. Trong đó phƣơng pháp xử lý sinh học
nhờ các vi sinh vật và hệ enzyme do chúng tiết ra là một hƣớng đi mới có
nhiều triển vọng. Hệ enzyme sử dụng trong xử lý sinh học chủ yếu là các
enzyme ngoại bào, chúng có khả năng phá vỡ các liên kết trong các hợp chất
hữu cơ hoặc xúc tác chuyển hóa chúng thành các chất ít độc hơn và các dạng

dễ bị phân hủy hơn. Nhóm enzyme có vai trò lớn trong quá trình phân hủy
DDT cũng nhƣ các chất thuộc POPs khác gồm có laccase (Lac), mangan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4




Đào Thị Ngọc Ánh

Luận văn Thạc sĩ Sinh học

peroxidase (MnP) và lignin peroxidase (LiP), trong đó laccase có vai trò quan
trọng và đang bắt đầu đƣợc quan tâm nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam.
Tại Nhóm nghiên cứu Công nghệ sinh học xử lý khử độc các chất ô
nhiễm hữu cơ khó phân hủy (Persistent Organic Pollutants – POPs), phòng
Công nghệ Sinh học Môi trƣờng, Viện CNSH, Viện Khoa học và Công nghệ
Việt Nam đã có những nghiên cứu bƣớc đầu về khả năng phân hủy DDT,
DDD, DDE và sinh enzyme ngoại bào Lac, MnP, LiP [4,5,6]. Để làm rõ bản
chất sinh học và khả năng sinh enzyme của các chủng nấm sợi phân lập từ đất
ô nhiễm DDT phục vụ cho các nghiên cứu ứng dụng enzyme ngoại bào vào
xử lý các chất ô nhiễm khó phân hủy POPs, chúng tôi đã thực hiện đề tài với
tên là: “Nghiên cứu phân loại, khả năng phân hủy DDT và sinh laccase
của chủng nấm sợi phân lập từ đất ô nhiễm hỗn hợp thuốc trừ sâu”.
Nội dung bao gồm:
1. Phân loại và định tên chủng nấm sợi dựa vào đặc điểm hình thái và
trình tự đoạn gene mã hoá 18S rRNA.
2. Nghiên cứu khả năng phân hủy DDT của chủng nấm sợi FNA1.
3. Nghiên cứu khả năng sinh laccase của chủng nấm sợi FNA1.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5




Đào Thị Ngọc Ánh

Luận văn Thạc sĩ Sinh học

PHẦN I TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1 ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC VÀ TÍNH CHẤT LÝ HÓA CỦA DDT
1.1 Cấu trúc của DDT
DDT là một trong các thuốc diệt côn trùng, chúng là một nhóm các hợp
chất hữu cơ có hai vòng thơm và có chứa Clo, bao gồm 14 hợp chất hữu cơ,
trong đó: 71% là p,p,- DDT, 14.9% là o,p,- DDT, 0.3%p,p,- DDD, 0.1% là
o,p,-DDD, 4% là p,p,- DDE, 0.1% là o,p,-DDE, sản phẩm khác là 3.5% (Hình
1.1).

p-p DDT

p-p DDE

p-p DDD

o-p DDT

o-p DDE


o-p DDD

Hình 1.1. Công thức cấu tạo của một số đồng phân DDT

1.2 Tính chất lý hóa của DDT
Tất cả các đồng phân của DDT đều là dạng tinh thể màu trắng, không
mùi, không vị, có công thức tổng quát là C14H9Cl5, khối lƣợng phân tử là
354.5. Nhiệt độ nóng chảy khoảng 108.5 - 1090C, áp suất bay hơi là 2.53 x10 5

Pa (1.9 x10 -7mmHg) tại 200C. DDT tan ít trong nƣớc (1g/l) nhƣng có khả

năng giữ nƣớc, tan tốt trong các hợp chất hữu cơ đặc biệt là mỡ động vật. Khả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6




Đào Thị Ngọc Ánh

Luận văn Thạc sĩ Sinh học

năng hoà tan của DDT trong nƣớc là thấp (hệ số hấp phụ cao) nên DDT có xu
hƣớng bị hấp phụ trong cặn bùn, đất đá, trầm tích. Điều này có vai trò đặc biệt
trong phân hủy sinh học DDT. Một số đặc tính cơ bản của DDT và các đồng
phân đƣợc trình bày ở phụ lục 1 [59].

2 ẢNH HƢỚNG ĐẾN MÔI TRƢỜNG VÀ SỨC KHỎE CON NGƢỜI

CỦA DDT
2.1 Ảnh hƣởng đến môi trƣờng
DDT [ 1,1,1-trichloro-2,2-bis-(p-chlorophenyl)ethane] đã đƣợc tổng
hợp vào năm 1874, nhƣng mãi đến 1930, Bác sĩ Paul Muller (Thụy Sĩ ) mới
xác nhận DDT là một hóa chất hữu hiệu trong việc trừ sâu rầy và từ đó đƣợc
xem nhƣ là một thần dƣợc và không biết có ảnh hƣởng nguy hại đến con
ngƣời. Khám phá trên mang lại cho ông giải Nobel về y khoa năm 1948 và
DDT đã đƣợc sử dụng rộng rãi khắp thế giới cho việc khử trùng và kiểm soát
mầm mống gây bệnh sốt rét. Nhƣng chỉ hai thập niên sau đó, một số chuyên
gia thế giới đã khám phá ra tác hại của DDT trên môi trƣờng và sức khỏe
ngƣời dân. Do đó, tại Hoa Kỳ từ năm 1972 DDT đã bị cấm sử dụng hẳn. DDT
bị nhiễm vào môi trƣờng không khí, nƣớc, đất trong suốt quá trình sử dụng,
DDT có mặt ở nhiều vị trí ô nhiễm khác nhau, sau đó có thể tiếp tục bị lan
truyền và gây ô nhiễm môi trƣờng. Đặc biệt trong đất, nó giữ nƣớc thành các
phần tử rắn và trở thành dạng bền vững (EPA 1986) và đƣợc EPA Hoa Kỳ
xếp vào danh sách các loại hóa chất phải kiểm soát vì có nguy cơ tạo ra ung
thƣ cho ngƣời và động vật [59]. DDT, DDE (1,1-dichloro-2,2-bis(pchlrophenyl)ethylene), DDD (1,1-dichloro-2,2-bis(p-chlrophenyl)ethylene)
cũng có thể đƣợc thải vào không khí khi chúng bay hơi từ đất và nƣớc nhiễm
độc. Một lƣợng lớn DDT đã đƣợc thải vào môi trƣờng nhƣ đi vào không khí,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7




Đào Thị Ngọc Ánh

Luận văn Thạc sĩ Sinh học


đất và nƣớc thông qua quá trình tƣới, phun trên các diện tích sản xuất nông
nghiệp và rừng để diệt côn trùng và muỗi [59].DDT và các đồng phân bị
ngấm vào mạch nƣớc ngầm khi nó đƣợc sử dụng để diệt côn trùng ở gần các
cửa sông .v.v. Trong đất, DDT có thể suy giảm nhờ quá trình bốc hơi, quá
trình quang phân và quá trình phân hủy sinh học (hiếu khí và kị khí) nhƣng
những quá trình này xảy ra rất chậm tạo ra sản phẩm là DDD và DDE có độ
bền tƣơng tự nhƣ DDT. DDD cũng đƣợc sử dụng nhƣ là một loại thuốc trừ
sâu, còn DDE chỉ đƣợc tìm thấy trong môi trƣờng nhiễm bẩn do sự phân hủy
sinh học của DDT.
Quá trình bốc hơi, phân hủy DDT, DDD, DDE có thể đƣợc lặp lại
nhiều lần và kết quả là DDT, DDD, DDE đƣợc tìm thấy ở cả những nơi rất xa.
Những hợp chất hóa học này có thể đƣợc phát hiện ở đầm lầy, tuyết và động
vật ở vùng Bắc Cực & Nam Cực, rất xa so với nơi chúng đƣợc sử dụng, DDT,
DDD, DDE cuối cùng ở trong đất một thời gian dài, hầu hết bị phân hủy chậm
thành DDD và DDE thƣờng là bởi hoạt động của các vi sinh vật. Chu kỳ bán
hủy của những hợp chất này trong khí quyển khi bay hơi đƣợc ƣớc tính 1,5- 3
ngày. DDT ở trong đất phụ thuộc vào nhiều yếu tố: nhiệt độ, loại đất, độ ẩm
v.v. ở những vùng nhiệt đới DDT bay hơi dễ hơn và vi sinh vật cũng phân
hủy nó nhanh hơn. DDT ở đất ẩm bị phân hủy nhanh hơn ở đất khô. Chúng
làm giảm giá trị của đất và khi bị phân hủy DDT đƣợc chuyển thành DDE
trong cả điều kiện hiếu khí và kị khí. Những hợp chất này có thể bốc hơi trong
không khí hoặc lắng đọng lại ở các vị trí khác nhau và có độc tính rất cao.
Chúng ở sâu trong đất, thấm qua đất và vào các mạch nƣớc ngầm. Trên bề
mặt nƣớc, DDT sẽ liên kết các phần tử ở trong nƣớc, lắng xuống và có thể
lắng đọng trong các trầm tích.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8





Đào Thị Ngọc Ánh

Luận văn Thạc sĩ Sinh học

Gần đây DDT là một trong 12 hoá chất đƣợc các nhà khoa học thế giới
xếp vào hạng chất ô nhiễm khó phân hủy (POPs). Năm 1998, đại diện của hơn
92 quốc gia trên thế giới đã tụ họp tại Montreal đã bàn thảo về các biện pháp
nhằm cấm sản xuất và sử dụng các hoá chất trên vì lý do tác hại của chúng do
sự tích luỹ lâu dài trong không khí, lòng đất và nguồn nƣớc, kết tụ vào các mô
động vật- nguồn thực phẩm chính của loài ngƣời [7]. DDT tích trữ một lƣợng
lớn ở trong cá và các động vật biển (ví dụ: hải cẩu, cá heo). Tính độc của
DDT đã đƣợc biết đến thông qua các nghiên cứu rất kỹ lƣỡng ở trên các vi
sinh vật, động vật không xƣơng sống ở dƣới nƣớc, cá, lƣỡng cƣ, động vật
không xƣơng sống ở trên cạn và các loài động vật có vú khác (chuột hang, thỏ
v.v.). Trong các động vật này, DDT đƣợc tìm thấy một lƣợng lớn trong các
mô mỡ và sẽ tiếp tục di chuyển đến những cơ quan khác. Ngƣỡng độc của
DDT và các đồng phân của nó đã xác định thông qua chỉ số LC50 (LC50 là
liều gây chết 50% mẫu sinh vật thí nghiệm) ở một số loài động vật thí nghiêm
là: LD50 ở lợn khoảng 1.000mg DDT/kg [12], LD50 ở thỏ là 300mg DDT/kg
và 4.000-5.000 mg DDD/kg [12]. DDT ở trong đất cũng có thể đƣợc hấp thụ
bởi một số thực vật hoặc trong cơ thể con ngƣời khi ăn các thực vật đó [57].

2.2 Ảnh hƣởng đến sức khỏe con ngƣời
Những nghiên cứu dịch tễ học đã chỉ ra đƣợc tác hại của DDT và các
hợp chất có liên quan tới một số loài và việc sử dụng nó đã bị cấm hoặc giảm
trên nhiều nƣớc do những hậu quả độc hại của nó. Nhƣng các số liệu về ảnh
hƣởng trên con ngƣời vẫn chƣa đƣợc biết đến nhiều. Các nghiên cứu về sự

ảnh hƣởng trên ngƣời đƣợc nghiên cứu trên các công nhân làm việc trong các
nhà máy có sản xuất DDT. Các nghiên cứu khác cũng cho những kết quả có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9




Đào Thị Ngọc Ánh

Luận văn Thạc sĩ Sinh học

giá trị nhƣng do những hạn chế của các nghiên cứu về dịch tễ học nên chƣa
xác định đƣợc những nguyên nhân gây bệnh từ chúng.
Con ngƣời bị nhiễm DDT thông qua nhiều cách khác nhau đó là phơi
nhiễm trực tiếp và gián tiếp. Phơi nhiễm trực tiếp, có thể xảy ra qua phổi hoặc
qua da. Nhiễm gián tiếp xảy ra khi ăn các thực phẩm nhƣ ngũ cốc, rau đậu đã
bị nhiễm DDT, cũng nhƣ tôm cá sống trong vùng bị ô nhiễm, DDT sẽ đi vào
cơ thể qua đƣờng tiêu hoa và tích tụ theo thời gian trong các mô mỡ và gan
của con ngƣời.
Nguồn lây nhiễm DDT chính là ở trong thịt, cá, gia cầm và các sản
phẩm từ sữa. Nếu ngƣời ăn các loại lƣơng thực thực phẩm đƣợc phun DDT và
ăn kéo dài thì có nhiều nguy cơ dẫn tới ngộ độc mãn tính, sinh con quái thai.
Mức độ tối thiểu mà con ngƣời có thể chịu đựng và không gây hại là 285
mg/kg. DDT có tác động rõ rệt lên hệ thống thần kinh ngoại biên, gây nên sự
rối loạn hệ thống thần kinh, ức chế các enzyme chức năng đòi hỏi sự dịch
chuyển các ion dẫn đến tê liệt. Những ngƣời bị nhiễm một lƣợng lớn gây ngộ
độc cấp tính, dễ bị kích động, bị rùng mình và gây tai biến mạch máu não.

Chúng cũng gây nên sự đổ mồ hôi, đau đầu, buồn nôn, chóng mặt. Những ảnh
hƣởng nhƣ trên cũng có thể xuất hiện khi hít DDT ở trong không khí hoặc hấp
thụ một lƣợng lớn qua da [59].
Đối với những ngƣời bị nhiễm DDT ở mức độ thấp (20 mg/ngày) - ví
dụ nhƣ những ngƣời làm việc trong các nhà máy sản xuất DDT, sẽ xuất hiện
những biến đổi nồng độ enzyme có trong gan và trong máu. Nhiều nghiên cứu
đã chỉ ra rằng DDT, DDE, DDD có thể gây bệnh ung thƣ, mà trƣớc tiên là
ung thƣ gan, cũng có thể là ung thƣ vú, ung thƣ tuỷ [59]. Những nghiên cứu
của Garabrant và cộng sự 1992 ở một nhóm công nhân của các nhà máy sản
xuất thuốc hóa học giữa năm 1948 đến năm 1971 đã phát hiện ra DDT có thể
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10




Đào Thị Ngọc Ánh

Luận văn Thạc sĩ Sinh học

gây ung thƣ tủy và dẫn đến tử vong vào năm 1953- 1988 [59]. Bên cạnh đó nó
cũng gây nên một số bệnh ung thƣ khác nhƣng vẫn chƣa đƣợc nghiên cứu kỹ
nhƣ: ung thƣ tuyến tiền liệt, ung thƣ tinh hoàn, ung thƣ máu, ung thƣ dạ con
v.v.
Trẻ con bú sữa mẹ hay sữa tƣơi bị nhiễm độc DDT trực tiếp qua sự
hiện diện của DDT trong sữa tƣơi hay gián tiếp vì thức ăn của ngƣời mẹ. Tệ
hại hơn nữa, nhiều bà mẹ đã bị sảy thai trong vùng ảnh hƣởng của DDT. Ở
nƣớc ta, đã có một số công trình nghiên cứu và rút ra nhận xét là tất cả các bà
mẹ dù có tiếp xúc hay không tiếp xúc trực tiếp với DDT đều có lƣợng DDT

trong sữa mẹ rất cao. Vì DDT xâm nhập vào cơ thể chủ yếu qua đƣờng tiêu
hóa, cao hơn rất nhiều lần so với liều lƣợng cho phép của OMS (0.05ppm),
của Liên Xô (0.14ppm) và của Hungari (0.13ppm) [53].

3 TÌNH TRẠNG Ô NHIỄM DDT
3.1 Nguồn gốc phát sinh
DDT (1,1,1-trichloro-2,2-bis (p-chlorophenyl) ethane) đã đƣợc tổng
hợp lần đầu tiên vào năm 1873 bởi nhà khoa học ngƣời Đức Othmar Ziedler.
Tuy nhiên, phải đến 1939 nhà hoá học Thuỵ Sỹ- Paul Hermann Muller mới
khám phá các đặc tính để diệt trừ côn trùng của DDT, chúng có thể phá huỷ
nhanh chóng hệ thần kinh của côn trùng. Năm 1948, Paul Muller đã đƣợc trao
giải thƣởng Nobel về sinh - y học về khám phá này. DDT có hiệu quả chống
lại rận, bọ chét, và muỗi mang các mầm bệnh sốt phát ban, dịch hạch, sốt rét,
và sốt vàng .v.v. DDT đã đƣợc dùng rất rộng rãi hơn 20 năm và đƣợc xem là
nhân tố chính trong việc gia tăng sản lƣợng lƣơng thực thế giới và ngăn chặn
bệnh tật từ côn trùng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11




Đào Thị Ngọc Ánh

Luận văn Thạc sĩ Sinh học

DDT đƣợc tạo thành từ phản ứng của trichloroethanol với chlorobenzen
(Hình 1.2). Tên thƣơng mại hoặc các tên khác của DDT bao gồm Anofex,
Cesarex,


Chlorophenothane,

Dadelo,

p,p-DDT,

dichlorodiphenyltrichloroethane, Dinocide, Didimac, Digmar, ENT 1506,
Genitox, Guesapon, Guesarol, Gexarex, Gyrol, Hildit, Ixodex, Kopsol,
Neocid, OMS 16, Micro DDT 75, Pentachlorin, Rukseam, R50 và Zerdane.

Hình 1.2. Tổng hợp DDT từ trichloroethanol và chlorobenzen

DDT là loại thuốc hóa học diệt côn trùng đƣợc sử dụng rộng rãi từ
chiến tranh thế giới lần thứ II trên khắp thế giới và hàng triệu tấn đƣợc sản
xuất, sử dụng trƣớc đây hiện đang còn lƣu giữ trong đất và sẽ tiếp tục phân
tán trong môi trƣờng. Một lƣợng lớn DDT đã đƣợc giải phóng vào không khí,
đất và nƣớc khi sử dụng để diệt côn trùng, muỗi ở các địa điểm nhạy cảm nhƣ
cửa sông [59].
Đầu năm 1960, nhà hoạt động ngƣời Mỹ Rachel Carson đã xuất bản
cuốn sách Silent Spring khẳng định DDT là nguyên nhân của bệnh ung thƣ và
nguy hại đến sinh sản của chim do làm mỏng lớp vỏ trứng. Cuốn sách đã gây
ra sự phản đối kịch liệt của công chúng và sự kiện này đã dẫn đến lệnh cấm
sử dụng DDT trong nông nghiệp ở Mỹ. Tiếp theo trong những năm 1970 và
1980, DDT đã bị cấm sử dụng trong nông nghiệp ở hầu hết các nƣớc phát
triển do ảnh hƣởng nguy hại của nó đối với môi trƣờng. Mặc dầu vậy, DDT
vẫn đƣợc sử dụng rộng rãi trong một số quốc gia đang phát triển.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12





Đào Thị Ngọc Ánh

Luận văn Thạc sĩ Sinh học

3.2 Tình trạng ô nhiễm DDT trên thế giới
Do tác hại của DDT trên môi trƣờng và sức khỏe ngƣời dân tại Hoa Kỳ
từ năm 1972 DDT đã bị cấm sử dụng hẳn. Tuy nhiên, đến nay hóa chất này
vẫn còn gây tác hại ở những vùng nông nghiệp đã sử dụng và những vùng
quanh nơi sản xuất ra DDT trƣớc đây. Hiện tại DDT vẫn còn ngƣng tụ nơi
thềm lục địa vùng Palos Verdas (ngoài khơi vùng biển Los Angeles) vì nhà
máy sản xuất ra DDT Montrose Chemical.co tại Torrance đã thải DDT vào hệ
thống cống rãnh thành phố vào năm 1971. Việc xử lý ô nhiễm DDT cho vùng
này ƣớc tính vào khoảng 300 triệu USD [7].
Cho đến nay ở Mỹ do lợi ích về kinh tế nên vẫn sản xuất DDT để xuất
cảng qua Phi châu và các nƣớc Á châu trong đó có Việt Nam. DDT là một
loại thuốc sát trùng công hiệu mạnh, đặc biệt quan trọng trong việc kiểm soát
bệnh sốt rét nên vẫn đƣợc sử dụng rộng rãi ở các nƣớc đang phát triển bất
chấp nguy cơ gây hại tiềm tàng và lâu dài của nó.
Sự tích tụ nhiều nhất của DDT và các hợp chất có liên quan ở biển phía
Tây của Trung Quốc. ở các bờ biển khác, lƣợng tích tụ của DDT cũng rất lớn
nhƣ: vịnh Bengal, biển Arabian, biển bắc Trung Quốc v.v.Từ năm 1980-1983,
có rất nhiều phân tích về sự tích tụ DDT ở trong các trầm tích biển ở EPA
[54]. Hàm lƣợng trung bình của DDT, DDE, DDD là: 0.1, 0.1, 0.2 g/kg
(trọng lƣợng khô). Hàm lƣợng DDT và các sản phẩm chuyển hóa của các mẫu
trầm tích đƣợc phân tích ở đáy sông ở vịnh River tại Washington: 0.1-234
g/kg. Sự tích trữ của DDT, DDE, DDD và tổng lƣợng DDT ở đáy trầm tích

từ sông San Joaquen và các nhánh sông của nó ở California-1992 lần lƣợt
là:1.4 - 115, 0.7 - 14, 0.4 - 39, 2.2 - 170 (ng/l) [45]. Trong đó Orestinba Creat
có hàm lƣợng DDT cao hơn hẳn so với các vị trí khác. Ở Canada, tổng lƣợng
DDT lắng đọng trên bề mặt trầm tích ở 8 hồ khác dọc ngang lục địa vào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13




Đào Thị Ngọc Ánh

Luận văn Thạc sĩ Sinh học

khoảng 9.7g/kg. Iwata et al (1993) đã thu thập và phân tích 68 ví dụ về hàm
lƣợng DDT ở nƣớc bề mặt từ một vài đại dƣơng (18 khu vực) đã nêu lên
những ảnh hƣởng chủ yếu do sự lắng đọng khí quyển từ tháng 4/1989-8/1990.
Nhiều nghiên cứu cũng cho thấy sự có mặt của DDT trong các mẫu
trầm tích với nồng độ cao do DDT đƣợc vận chuyển từ khu vực bị ô nhiễm
đến Bắc cực và Nam cực. Tổng lƣợng DDT ở đại dƣơng New Zealand và
Ross Iland, Antarctica giữa tháng 1 và tháng 3 (1990) là: 0.40 và 0.81 pg/m3
[14, 33]. Vùng Gulf của Mexico (1977) chứa trung bình 34pg/m3 DDT với tỉ
lệ 10-78pg/m3 [13]. Lƣợng DDT cao nhất đƣợc tìm thấy ở gần khu vực nơi
mà DDT vẫn đƣợc sử dụng, ví dụ ở bờ biển Arabian của ấn Độ. Các khu vực
mà lƣợng DDT trong không khí cao là eo biển Malacca, bờ biển phía nam
Trung Quốc, vịnh Mexico.

3.3 Tình trạng ô nhiễm DDT ở Việt Nam
DDT đƣợc dùng lần đầu tiên ở Việt Nam vào năm 1949 để phòng ngừa

bệnh sốt rét. Tuy nhiên, số lƣợng thuốc DDT đƣợc dùng chỉ có 315 tấn trong
năm 1961 và giảm xuống còn 22 tấn trong năm 1974. Từ năm 1957 đến 1990,
tổng số lƣợng thuốc DDT nhập cảng chỉ có 240.422 tấn. Mặc dù việc sử dụng
thuốc DDT đã bị cộng đồng quốc tế ngăn cấm từ năm 1992, việc nhập cảng
và sử dụng DDT ở Việt Nam vẫn tiếp tục cho đến năm 1994. Trong khoảng từ
năm 1992 đến năm 1994, số lƣợng thuốc DDT nhập cảng từ Nga lên đến
423.358 tấn Tuy không có số liệu chính xác về số lƣợng DDT đang đƣợc sử
dụng ở Việt Nam, nhƣng tin tức trong nƣớc cho biết thuốc này vẫn còn đang
đƣợc sử dụng rộng rãi đặc biệt ở vùng châu thổ sông Cửu Long vì là vùng có
nhiều sông rạch và nhiều muỗi mồng [8].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14




Đào Thị Ngọc Ánh

Luận văn Thạc sĩ Sinh học

Tại một kho dã chiến chứa DDT những năm 1967 – 1968 ở Hà Tĩnh
vẫn còn một lƣợng tồn dƣ lớn hóa chất này. Khối lƣợng thuốc DDT ở kho này
ƣớc tính khoảng 4- 5 tấn. Hiện nay số thuốc DDT đã nằm phơi lộ trên mặt
đất, một phần thuốc có thể bị phân hủy song phần lớn vẫn còn đó, chúng có
thể khuếch tán vào không khí gây ô nhiễm môi trƣờng và phân rã ngấm vào
đất và các mạch nƣớc ngầm gây ô nhiễm đất và nƣớc trong khu vực. Nghệ An
là một trong những tỉnh còn tồn lƣu một lƣợng tƣơng đối lớn hóa chất bảo vệ
thực vật, hiện tại tỉnh có 25 điểm tồn lƣu hóa chất chất bảo vệ thực, trong đó
mới có 5 điểm đƣợc xử lý. Phần lớn những điểm tồn lƣu hóa chất chất bảo vệ

thực đều nằm gần, hoặc nguy hiểm hơn là nằm lọt trong khu dân cƣ. Một kết
quả điều tra khác ở tỉnh Nghệ An cho thấy, DDT vẫn còn trong một nhà kho
từ năm 1965 đến năm 1985. Nồng độ của DDT thay đổi từ 3.38 đến 960.6
mg/kg trong các mẫu đất và từ 0.00012 đến 0.00168 mg/l trong các mẫu
nƣớc. Trong nhiều năm liên tiếp, mùi thuốc DDT nồng nặc bay xa đến 600
mét. Đã có 25 ngƣời chết vì ung thƣ, và 22 trƣờng hợp dị thai đƣợc ghi nhận
[8].
Do sự nguy hiểm của các chất POP nói chung và hóa chất bảo vệ thực
vật nói riêng đối với sức khỏe con ngƣời và môi trƣờng, các nƣớc trên thế
giới cũng nhƣ Việt Nam đã và đang tích cực tiến tới loại trừ và cấm sử dụng
hoàn toàn các chất POP. Cụ thể là Công ƣớc Stockholm về các chất hữu cơ ô
nhiễm khó phân hủy ra đời và 172 quốc gia đã tham gia ký kết, trong đó có
Việt Nam. Ở nƣớc ta công ƣớc Stockholm chính thức có hiệu lực kể từ ngày
14/5/2004. Tham gia công ƣớc này, Việt Nam sẽ xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật để quản lý an toàn hóa chất, giảm thiểu và tiến tới loại bỏ các
chất ô nhiễm hữu cơ khó phân huỷ. Đồng thời, phòng ngừa, kiểm soát và xử
lý an toàn đối với các chất này, tiến tới kiểm soát, xử lý và tiêu hủy hoàn toàn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15




Đào Thị Ngọc Ánh

Luận văn Thạc sĩ Sinh học

các kho thuốc bảo vệ thực vật, những hóa chất rất độc hại đã bị loại bỏ, còn
tồn lƣu.


4 CÁC PHƢƠNG PHÁP XỬ LÝ Ô NHIỄM DDT
DDT là chất có tính độc hại cao, bền vững cao đối với quá trình phân
hủy tự nhiên. Một khi đã phát thải vào môi trƣờng, chất này có thể tồn tại
trong thời gian dài và có thể di chuyển đi xa khỏi nguồn phát thải ban đầu nhờ
gió, nƣớc hay nhờ vào các loài động vật di cƣ. Ngoài ra DDT có thể đƣợc hấp
thụ dễ dàng vào các mô mỡ và tích tụ trong cơ thể của các sinh vật sống, nồng
độ chất này trở nên cao hơn theo chiều tăng của chuỗi thức ăn, đặc biệt là
trong các loài sinh vật lớn và sống lâu. Chính vì những tính chất này mà việc
loại bỏ, tiêu hủy DDT cũng nhƣ các chất bảo vệ thực vật trong danh mục cấm
khác ngày càng trở nên cần thiết và cấp bách không chỉ riêng ở nƣớc ta mà
còn là vấn đề quan tâm của nhiều nƣớc trên thế giới.
Tùy điều kiện địa hình, tính chất, quy mô của vùng ô nhiễm; tùy điều
kiện kinh phí để áp dụng các quy trình xử lý khác nhau, có thể xử dụng các
phƣơng pháp nhƣ phƣơng pháp hóa lý; phƣơng pháp bao vây, cô lập nguồn ô
nhiễm; hay phƣơng pháp sinh học v.v.
4.1 Các phƣơng pháp cơ, hóa lý
Có rất nhiều phƣơng pháp hóa lý đƣợc sử dụng để loại bỏ các chất ô
nhiễm khó phân hủy. Đối với ô nhiễm DDT thì các phƣơng pháp thƣờng đƣợc
sử dụng là chôn lấp, cô lập; phân hủy bằng kiềm nóng và phƣơng pháp đốt có
xúc tác.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16






×