Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Quản trị tri thức và vấn đề về công nghệ đặt ra với các doanh nghiệp Việt Nam.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.38 KB, 18 trang )

I. Giới thiệu chung:
Quản trị tri thức là một khái niệm mới đang có nhiều tranh luận. Có rất nhiều cách
tiếp cận và định nghĩa khác nhau tuỳ theo cách nhìn và phương thức của mỗi cá nhân
hay tổ chức. Chúng bao gồm có quản lý, việc học hỏi của cá nhân và tổ chức, giao
tiếp, công nghệ và các hệ thông’ thông tin, trí tuệ nhân tạo, tài sản tri thức,…Không
có một định nghĩa hay một cách tiếp cận thống nhất về quản trị tri thức nào cả, nhưng
lại có những nội dung có thể bao quát toàn bộ. Quản trị tri thức là một quá trình, một
công cụ quản lý hiệu quả nhằm chia sẻ, thu nhân, lưu giữ, lựa chọn, sáng tạo tri thức
và cung cấp đúng người, đúng nơi, đúng lúc nhằm nâng cao hiệu quả quyết định,
hiệu quả thực thi và khả năng thích ứng của tổ chức.
Nếu nhìn nhận tri thức trong phạm vi của tổ chức, chúng ta thấy bất cứ tổ chức nào
cũng đều tồn tại hai dạng tri thức là tri thức ẩn và tri thức hiện, chỉ có điều tổ chức có
biết mình đang nắm giữ những tri thức nào? Chúng nằm ở đâu? Ai nắm giữ? Và cách
thức sử dụng như thế nào để khai thác một cách hiệu quả tri thức nhằm phục vụ cho
quá trình sản xuất kinh doanh chính của tổ chức để tạo ra giá trị mà thôi. Câu hỏi đặt
ra là tại sao cần quản lý tri thức?và quản lý tri thức như thế nào?. “Tốt hơn, nhanh
hơn, rẻ hơn” chắc hẳn là mục tiêu theo đuổi của bất kỳ doanh nghiệp nào nếu muốn
tồn tại và phát triển trong thị trường cạnh tranh như ngày nay, khi mà khách hàng có
vô số sự lựa chọn và dễ dàng tìm kiếm nhà cung cấp khác chỉ trong khoảnh khắc một
cú click chuột.
Đã không ít doanh nghiệp rơi vào khủng hoảng khi cán bộ chủ chốt vầ marketing,
tài chính hoặc kỹ thuật rời bỏ doanh nghiệp. Doanh thu của một công ty đã mất 60%
khi một giám đốc khách hàng rời bỏ, phải mất 6 tháng sau với nhiều nỗ lực thì công
ty mới tạm ổn. Rất nhiều bí quyết công nghệ bị mất đi khi các cán bộ kỹ thuật lành
nghề ra đi, phải mất nhiều thời gian và công sức để tìm kiếm thông tin về một khách
hàng mà ta đã quan hệ từ lâu,…Phải chăng đó chính là nhu cầu cần kiến tạo tri thức
và quản lý hiệu quả nguồn tri thức. Trong doanh nghiệp, quản trị tri thức là rất quan
trọng, nó góp một phần không nhỏ trong sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp
đó. Ba yếu tố cơ bản trong quản lý tri thức cần chú trọng là con người, quá trình và
công nghệ, trong đó công nghệ không phải là đối tượng của quản trị tri thức mà chỉ
là công cụ cho con người áp dụng vào hoạt động quản trị tri thức. Do là công cụ quản


lý, hệ QTTT đòi hỏi phải có công nghệ và nhà tư vấn để khuyến cáo về cách thức
thực hiện đối với việc kiểm soát, phân ích và lập lưu đồ đối với tri thức.
Trong bối cảnh kinh tế khó khăn trên toàn cầu như hiện nay, có thể nhiều doanh
nghiệp chỉ chú trọng đến những vấn đề lớn như duy trì sản xuất - kinh doanh, cắt
giảm chi phí hay giữ chân người tài…, còn vấn đề quản trị tri thức thì để lại sau. Tuy
nhiên, chưa chắc đó là một quyết định khôn ngoan nhất, bởi vì công tác quản trị tri
thức có thể hỗ trợ ban lãnh đạo giải quyết những vấn đề nêu trên, thậm chí còn hơn
thế nữa. Việc sớm và kiên trì ứng dụng quản lý tri thức vào quản lý và họat động của
doanh nghiệp dù dù trong một thời gian ngắn ngủi đã mang lại những kết quả khích
lệ. Cuộc khảo sát của Reuters vào năm 2001 chỉ ra rằng 90% các công ty triển khai
các giải pháp quản lý tri thức đă có những quyết định tốt hơn, và 81% công ty cho
rằng họ nhận thấy sự gia tăng năng suất một cách rõ rệt (Malhotra, 2001).
Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin đã thay đổi hoàn toàn mọi công
việc. Nhưng, công nghệ không tạo ra yếu tố cạnh tranh cho doanh nghiệp. Các cuộc
chạy đua trong công nghệ làm biến mất yếu tố cạnh tranh của doanh nghiệp nào đó,sẽ
dẫn tới cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn.Trong thời đại công nghệ hiện nay thời
gian cho một cuộc chạy đua công nghệ như vậy ngày càng ngắn dần, do vậy, công
nghệ như yếu tố cạnh tranh lâu dài. Trong khi đó, công nghệ với hai lợi ích chính là
lưu trữ và truyền tải thông tin lại cho phép ta xây dựng một hệ thống lưu trữ và phân
phối thông tin hiệu quả. Công nghệ trở thành một nhân tố giúp lưu trữ, phân phối và
trao đổi tri thức hữu hiệu. Bằng cách kết hợp công nghệ với quản trị tri thức một cách
hiệu quả, công ty có thể tạo ra các yếu tố cạnh tranh mới, nâng cao khả năng cạnh
tranh lâu dài của mình. Bên cạnh đó, nhờ có công nghệ phát triển mà các công việc,
các quy trình được hoàn thành nhanh chóng và hiệu quả hơn. Vòng đời của sản
phẩm, từ lúc được nghiên cứu, sản xuất, tới khi bán ra và các dịch vụ hậu mãi cũng
do đó ngắn lại. Các sản phẩm cũng liên tục được nâng cấp và cải tiến, thị trường liên
tục thay đổi. Do vậy, thời gian cho ra sản phẩm trở thành một yếu tố sống còn đối với
công ty, các quyết định ngày càng phải được đưa ra nhanh chóng và chính xác hơn.
Công nghệ là một yếu tố không thể thiếu để giúp cho doanh nghiệp thu thập, lưu trữ,
truyền tải thông tin một cách vô cùng hiệu quả, nhưng để biến thông tin thành tri

thức, thành quyết định, thì lại cần đến con người và kiến thức, kinh nghiệm của họ.
Quản trị tri thức, với sự hỗ trợ của công nghệ, có thể giúp cho nhân viên của công ty
làm việc hiệu quả hơn, tự mình đưa ra những quyết định sáng suốt hơn, giảm bớt sai
lầm và thoả mãn yêu cầu của khách hàng đúng lúc nhất, v.v.
II. Quản trị tri thức và vấn đề về công nghệ đặt ra với các doanh nghiệp Việt
Nam:
1. Thực trạng:
Khái niệm quản trị tri thức đã có từ rất lâu nhưng để tổ chức thành một ngành
khoa học ứng dụng và thực hành thì chỉ mới hơn 10 năm nay. Nhiều tập đoàn nổi
tiếng trên thế giới cũng như các nước châu Á đã ứng dụng quản trị tri thức vào hoạt
động kinh doanh và đạt được những thành công bất ngờ như Coca-Cola, IBM,
Microsoft... Theo báo cáo khảo sát tình hình sơ bộ về tình hình áp dụng quản trị tri
thức của 12 quốc gia trong khu vực Châu Á, họ đã có các chính sách kinh tế tri thức
rõ ràng, trong đó nêu rất rõ chiến lược quốc gia, các ưu thế và các chỉ tiêu KDI để
đánh giá sự phát triển của nền kinh tế tri thức. Ở mức độ doanh nghiệp, các công ty
hàng đầu châu á như; Singapore Airline, LG, Samsung cũng đã áp dụng quản trị tri
thức rất thành công.
Một công ty triển khai công tác quản trị tri thức từ khá sớm đó là Công ty Kiểm
toán và Tư vấn Ernst&Young từ khá sớm. Năm 1993, Công ty thành lập Trung tâm
Tri thức Kinh doanh (The Center for Business Knowledge) nhằm chính thức hóa các
quy trình và thông lệ về quản trị tri thức ở Ernst&Young, cũng như tạo điều kiện cho
việc kiến tạo và chia sẻ nguồn vốn trí tuệ trong công ty trên quy mô toàn cầu. Cho
đến nay, Ernst&Young đã mười lần đoạt Giải thưởng Global MAKE Winner (Global
Most Admired Knowledge Enterprise Winner) dành cho doanh nghiệp triển khai thực
hiện công tác quản trị tri thức tốt nhất trên thế giới.Cơ sở hạ tầng cho quản trị tri thức
của Ernst&Young là mạng KnowledgeWeb (KWeb), bao gồm hơn 2.400 cơ sở dữ
liệu, địa chỉ web và 1,2 triệu các loại tài liệu lưu trữ. KWeb tạo điều kiện cho nhân
viên trong Công ty truy cập vào các nguồn dữ liệu nội bộ và bên ngoài, như tri thức
về các ngành nghề kinh doanh, về các công ty, các loại tin tức và thông tin toàn cầu,
tất cả đều nhằm một mục đích là phục vụ khách hàng nhanh hơn và hiệu quả hơn.

Tuy nhiên, khái niệm về quản trị tri thức ở Việt Nam còn khá mới mẻ, thậm chí
mơ hồ và chưa được nhiều người biết đến, chưa có nhiều doanh nghiệp quan tâm và
đầu tư nghiên cứu, chưa được nhận thức đúng đắn và coi trọng phát triển. Việc áp
dụng quản trị tri thức trong doanh nghiệp còn chập chững những bước đầu tiên, chưa
được nhận thức, áp dụng đầy đủ, đồng bộ và có hệ thồng; ứng dụng công nghệ vào
quản trị tri thức vẫn còn là một vấn đề mang tính chiến lược lâu dài và gặp nhiều khó
khăn trong thực tế. Nhắc đến quản trị tri thức ở Việt Nam, chúng ta biết, Công ty
TNHH Tâm Việt là thành viên đầu tiên ra đời. Trong thời gian đầu, công ty giữ vai
trò là đơn vị pháp nhân đứng ra ký kết và hợp tác với các doanh nghiệp, tổ chức khác
trong hoạt động đào tạo chủ yếu.Về công nghệ, VINNO, với các phần mềm quản lý
trong doanh nghiệp, có tính linh hoạt cao, . Không áp đặt quy trình mà cho phép tùy
chỉnh theo nhu cầu của từng doanh nghiệp, dễ sử dụng, không mất nhiều thời gian
đào tạo nhân viên, đã nhanh chóng phát triển phần mềm quản trị tri thức trong doanh
nghiệp thuộc phân hệ quản lý nội bộ cho phép bảo vệ và phát triển các nguồn tài
nguyên tri thức, lưu trữ và phát triển một cách có hệ thống các kinh nghiệm thực
hành, xây dựng văn hóa chia sẻ và tận dụng tri thức của tập thể
Với Việt Nam hiện nay tuy chưa xây dựng một chiến lược phát triển kinh tế tri
thức, giống như một số nước khác trong khu vực và trên thế giới, song một số văn
bản chính thức của đảng và Nhà nước ta đã khẳng định công cuộc công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nước ta rất coi trọng vận dụng các yếu tố của kinh tế tri thức. Trong
hoàn cảnh hội nhập quốc tế và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
việc phát triển một đội ngũ trí thức làm cơ sở cho việc dịch chuyển sang nền kinh tế
tri thức là một việc quan trọng và cấp bách. Mô hình QTTT hàm ý những tổ chức nào
có khả năng tốt nhất trong việc thu thập, lập chỉ mục, lưu trữ và phân tích tri thức đều
có ưu thế so với các đối thủ cạnh tranh.
2. Thuận lợi:
Bằng những nỗ lực rất lớn, trong những năm qua Việt Nam đã dành những khoản
đầu tư không nhỏ cho việc đổi mới công nghệ. tổng các nguồn vốn đầu tư vào nghiên
cứu khoa học và phát triển công nghệ chỉ đạt 1.787 tỷ đồng (2002). Trong số này,
DNCVĐTNN chiếm 53,1%, DNNN 41% và DN quốc doanh chỉ có 5.9%. Với nguồn

vốn này, mức đầu tư cho KHCN bình quân của DNNN cao gấp 23.3 lần DNNQD
nhưng chỉ bằng 70% của DNCVĐTNN. Trong tổng nguồn vốn đầu tư cho khoa học
và công nghệ, chỉ dành 143 tỷ đồng cho nhiệm vụ nghiên cứu nhưng đã tăng gấp 2.5
lần so với năm 2000. Nhờ đó, một số doanh nghiệp đã có được những trang thiết bị
hiện đại đạt mức trung bình và tiên tiến trên thế giới, việc phát triển công nghệ trong
quản trị tri thức cũng được đầu tư quan tâm và phát triển theo xu hướng của các nước
phát triển trên thế giới. Chính phủ đã xây dựng hàng loạt các mục tiêu về phát triển
công nghệ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Các mục tiêu đó
tập trung vào việc nâng cao trình độ công nghệ, cải thiện năng lực trong nước về
KHCN cũng như năng lực lựa chọn, tiếp thu, sửa đổi cho phù hợp và nắm vững công
nghệ nhập khẩu.
Bên cạnh các chính sách đầu tư của chính phủ, là một đất nước vừa mới gia nhập
WTO, với các điều kiện thuận lợi và các tiềm lực sẵn có, các doanh nghiệp nước
ngoài đã không bỏ qua lợi thế đầu tư vào Việt Nam, cùng với các khoa học kỹ thuật
tiên tiến trên thế giới, Việt Nam được tiếp cận gần gũi với công nghệ quản lý trong
doanh nghiệp, trong đó có quản trị tri thức – là xu hướng mới trong quản trị hiện nay
trên thế giới. Mặc dù mức đầu tư và quan tâm phát triển chưa được đồng đều và phổ
biến rộng khắp nhưng nó cho thấy những cơ hội để phát triển ở Việt Nam là không
nhỏ. Với nguồn nhân lực cần cù, sáng tạo, làm chỉ được khoa học, công nghệ mới,
hiện đại, đáp ứng được sự phát triển tăng tốc, dễ tiếp thui các công nghệ tiên tiến,
hiện đại, các doanh nghiệp có những thuận lợi không nhỏ trong việc thay đổi cơ cấu
làm việc từ quản trị con người sang quản trị tri thức, biến tri thức của cá nhân thành
tri thức chung của tập thể, tránh nạn chảy máu chất xám – là một thực tế đang diễn ra
hàng ngày trong nền kinh tế.
3. Khó khăn:
Do xuất phát điểm thấp, nhiều DNVN chưa có điều kiện tiếp xúc với các phương
thức quản lý kinh tế hiện đại. Nhiều DN vẫn còn quá coi trọng các nguồn lực truyền
thống như nguồn vốn, nguồn nguyên vật liệu…mà chưa chú ý tới nguồn lực “chất
xám”, công nghệ trong lĩnh vực này cũng chưa được đầu tư phát triển đúng mức.
Điều này khiến cho hàm lượng tri thức trong sản phẩm của các DNVN còn thấp,

không đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của cuộc sống hiện đại. Chính vì vậy đã
làm cho khả năng cạnh tranh của các DNVN còn rất thấp. Khái niệm quản lý tri thức
còn rất mới mẻ không chỉ với các DNVN mà còn đối với nhiều quốc gia đang phát
triển hiện nay. Chính vì vậy mà các DNVN trước thềm hội nhập kinh tế quốc tế cần
tận dụng và áp dụng các phương pháp quản lý tri thức hiện đại, hoạt động một cách
thông minh và hiệu quả hơn để đi tắt đón đầu, tiếp thu những tinh hoa của tri thức
nhân loại. Điều này chỉ thực hiện được khi các DNVN một mặt khai thác quản lý các
nguồn tri thức nội bộ cho việc phát triển sản phẩm – dịch vụ mới, mặt khác tích cực
thu hút nguồn tri thức từ bên ngoài như tri thức của khách hàng, nhà cung ứng, đối
tác, thậm chí cả từ đối thủ cạnh tranh. DNVN – vốn có xuất phát điểm thấp – không
còn sự lựa chọn nào khác là sử dụng một cách thông minh các nguồn lực hiện có,
trong đó tri thức cần phải được sử dụng như một nguồn lực quantrọng hàng đầu. Chỉ
có như vậy, các DNVN mới có thể nâng cao sức cạnh tranh và đứng vững trên thị
trường quốc tế. Một câu hỏi được đặt ra là với một nước nghèo, 3/4 dân số sống ở
nông thôn như Việt Nam thì có lẽ khó sử dụng tri thức cho phát triển, thậm chí không
thể nói về việc đi vào “nền kinh tế tri thức” trong tương lai, mà chỉ nên đi vào các
công nghệ “vừa phải”, đủ sức phát triển rộng khắp.
Thống kê cho thấy, hiện nay đầu tư cho Khoa học - Công nghệ ở Việt Nam chỉ
chiếm 0,56% GDP so với 1% của Trung Quốc và 5,5% của Hàn Quốc và có năm
cũng không chi hết số tiền này. Điều này cũng góp phần làm cho giới trí thức hoạt
động trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học khó có điều kiện phát huy hiệu quả.
Hệ thống pháp luật về công nghệ cao hiện nay của Việt Nam vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu của thực tiễn. Các văn bản pháp luật còn chưa đồng bộ và thiếu hướng
dẫn cụ thể trong nhiều lĩnh vực. Hơn nữa, các biện pháp khuyến khích, ưu đãi quy
định trong dự thảo Luật còn tản mạn, thiếu các quy định cụ thể về tiêu chí, điều kiện,
cơ chế công nhận và áp dụng chế độ ưu đãi nên việc thi hành Luật khó tránh khỏi
những vướng mắc, khó khăn.
Do đó, Luật Công nghệ cao hiện vẫn đang được soạn thảo, do vậy, một khuôn khổ
pháp lý nhằm hỗ trợ nâng cao năng lực công nghệ và đào tạo nguồn lao động kĩ năng
chuyên nghiệp chưa hình thành đồng bộ. Quá trình chủ động hội nhập quốc tế trong

lĩnh vực CNC cần diễn ra theo hướng đẩy mạnh tìm kiếm, chuyển giao công nghệ

×