Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của nguyễn hồng thái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (761.15 KB, 31 trang )

B ộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC s ư PHẠM HÀ NỘI 2

NGUYỄN THỊ TÚ ANH

THÉ GIỚI NHÂN VẶT TRONG TRUYỆN
NGẤN CỦA NGUYỄN HỒNG THÁI
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60 22 01 20

LUÂN VĂN THAC s ĩ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM




Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Kiều Anh

HÀ NỘI, 2015


LỜI CẢM ƠN
Lời đâu tiên, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến Ban Giám hiệu, Phòng Sau đại
học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 và các thầy cô giáo trực tiếp giảng dạy đã
giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập tại trường.
Với tất cả tình cảm và tẩm lòng của mình, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân
thành và sâu sắc đến TS. Nguyễn Thị Kiều Anh, người đã hướng dẫn, trợ giúp và
động viên tôi rất nhiều trong suốt quá trình nghiên cứu để tôi thực hiện tốt luận
vãn.
Cuối cùng tôi gửi lời tri ăn tới gia đình, bạn bè đồng nghiệp là những người
đã sát cánh cùng tôi, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua để tôi có thể hoàn thành


tốt luận vãn.
Hà Nội, tháng 12 năm 2015
Học viên

Nguyễn Thị Tú Anh


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xỉn cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các so liệu, kết quả được trình bày trong luận vãn là trung thực và chưa
từng được ai công bo trong công trình nào khác.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước lời cam đoan của mình.

Hà Nội, tháng 12 năm 2015
Học viên

Nguyễn Thị Tú Anh


M ỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

5

1. Lí do chọn đề tài

6


2. Lịch sử vấn đề

6

3. Mục đích nghiên cứu

9

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

9

5. Đối tuợng và phạm vi nghiên cứu

9

6. Phuơng pháp nghiên cứu

9

7. Đóng góp của luận văn

10

8. Bố cục của luận văn

10

NỘI DUNG


11

Chương 1. Một số vẩn đề lí luận chung về nhân vật văn học và hành
trình sáng tức của Nguyễn Hồng Thái

11

1.1. Quan niệm chung về nhân vật văn học

11

1.1.1. Khái niệm nhân vật văn học

11

1.1.2. Chức năng của nhân vậtvăn học

14

1.1.3. Các tiêu chí phân loại nhân vật văn học

16

1.1.4. Vài nét về đặc điểm nhân vật trong truyện ngắn Việt Nam thờiLỳ
đổi mới

22

1.2. Hành trình sáng tác của Nguyễn Hồng Thái


27

1.2.1. Tiểu sử Nguyễn HồngThái

27

1.2.2. Hành trình sáng tác

28


Chương 2. Quan niệm nghệ thuật về con người và các kiểu nhân vật
trong truyện ngắn cửa Nguyễn Hồng Thái

37

2.1. Quan niệm nghệ thuật về con người và các kiểu nhân vật trong truyện
ngắn của Nguyễn Hồng Thái
2.1.1. Quan niệm nghệ thuật vể con người

37

37

2.1.2. Quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện ngắn của
Nguyễn Hồng Thái

41

2.2. Các kiểu nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Hồng Thái


45

2.2.1. Nhân vật người chiến sĩ công an

48

2.2.2. Nhân vật người lính bộ đội cụ Hồ

59

2.2.3. Nhân vật tội phạm

63

2.2.4. Nhân vật người dân thường

68

Chương 3. Nghệ thuật xây dựng nhăn vật trong truyện ngắn của
Nguyễn Hồng Thái

79

3.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình, hành động nhân vật

79

3.1.1. Miêu tả ngoại hình


79

3.1.2. Miêu tả hành động nhân vật

87

3.2. Nghệ thuật khắc họa nhân vật qua ngôn ngữ

93

3.2.1. Ngôn ngữ tác giả

93

3.2.2. Ngôn ngữ nhân vật

98

KẾT LUẬN

106

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ

108

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

109



5

M Ở ĐẦU
1. Lí do chon
* đề tài

1.1. Trong nền Văn học Việt Nam hiện đại, mảng văn học viết về đề tài
Vĩ an ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sổng đóng góp một phần vô cùng quan
trọng. Tại Văn miếu Quốc Tử Giám ngày 12 tháng 02 năm 1993 đã có cuộc
hội thảo riêng về chủ đề này và gây được tiếng vang trong dư luận, có ý nghĩa
tích cực trong việc thúc đẩy phong trào, nâng cao chất lượng của các cây bút
trong lực lượng Công an nhân dân. Thực chất đề tài viết về công an, tình báo,
chống gián điệp và chống tội phạm không là mới mẻ, song vẫn chưa được
quan tâm xác đáng. Mặc dù vào những năm 60 -70 của thế kỷ, có những cuốn
tiểu thuyết gây tiếng vang không nhỏ, nhưng cũng chỉ mang một sứ mệnh là
giải trí chứ chưa được để ý, nghiên cứu và khai thác trở thành một đề tài mang
tầm quan trọng về nội dung và nghệ thuật.
1.2. Các nhà văn viết về đề tài Vỉ' an ninh Tổ quốc và bình yên cuộc
sổng cứ thầm lặng bước những bước đi chắc chắn, chắp bút lên những tác
phẩm nghệ thuật đạt đến mức độ hoàn hảo nhưng cũng không kém đi sự phá
cách và sáng tạo. Họ là những nhà văn, từ những cây bút nghiệp dư ban đầu
rụt rè thử bút, đến một đội ngũ nhà văn chuyên biệt đã khẳng định tên tuổi. Từ
những người khởi đầu như: Thanh Đạm, Đặng Thanh, Hữu Mai, Lê Tri Kỷ,
Nguyễn Trần Thiết, Ngôn Vĩnh... đến các cây bút sung sức ở độ tuổi trẻ hơn
và bút lực còn dồi dào như: Phan Quế, Tôn Ái Nhân, Hữu Ước, Thu Trang,
Trần Diễn... Nét đặc sắc, ở lĩnh vực này là sự tham gia sáng tác của chính
những người đã trải nghiệm viết lại hoạt động của bản thân và bạn bè như Nhị
Hồ, Mai Thanh Hải... Sự xuất hiện của Nguyễn Hồng Thái trên văn đàn, đặc
biệt với mảng đề tài Vỉ' an ninh Tổ quốc đã để lại dấu ấn riêng trong lòng

ban đoc.


6

Nguyễn Hồng Thái là nhà văn công an. Ông bắt đầu sáng tác từ những
năm đầu thập niên 90. Tác phẩm đầu tiên được công bố là truyện ngắn Quà
tặng của thời gian khổ. Nhưng đến năm 1996 ông được biết đến nhiều hon
qua tập truyện ngắn Đổi mặt đã đưa ông đến gần hon với bạn đọc.
Bằng tài năng và sự nỗ lực không ngừng nghỉ, ông đã cho ra đời những
đứa con tinh thần rất đa dạng về thể loại: Tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch bản
phim, ký sự, thơ... Song trong số đó, truyện ngắn là thể loại được coi là thế
mạnh của nhà văn, đã giúp ông khẳng định được vị trí của mình trên văn đàn.
Qua những trang viết của Nguyễn Hồng Thái, hiện thực cuộc sống hiện lên và
được khám khá dưới nhiều góc nhìn khác nhau. Những trang viết ấy hấp dẫn
bạn đọc không chỉ bởi cái tài của một người cầm bút, mà còn bởi trái tim ấm
nóng, giàu tình thương và luôn trắc ẩn.
1.3.

Nguyễn Hồng Thái là một nhà văn có những đóng góp đáng ghi

nhận trong nền văn học Việt Nam hiện đại, đặc biệt ở mảng đề tài Vỉ' an ninh
Tổ quốc và bình yên cuộc sổng, nhưng qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy cho
đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào đi sâu nghiên cứu một
cách có hệ thống về Nguyễn Hồng Thái và sáng tác của ông. Chính vì vậy,
chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu “Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của
Nguyễn Hồng TháV\
Kết quả nghiên cứu sẽ giúp cho bạn đọc có thêm một cái nhìn tổng
quát, sự hiểu biết sâu hơn về tác giả và những sáng tác văn học trong lực
lượng vũ trang nói chung, cũng như của Nguyễn Hồng Thái nói riêng về

mảng đề tài Vỉ' an ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sống.
2. Lịch sử vấn đề

Nguyễn Hồng Thái là cây bút bước vào đời văn với quan niệm “ Quý
hồ tinh bất quý hồ đa” (coi trọng chất lượng hơn số lượng), không quá đa
dạng về thể loại, không đạt ấn tượng về số lượng nhưng đủ để lại dấu ấn về


7

nội dung tác phẩm. Trong hành trình sáng tác của mình, Nguyễn Hồng Thái
có những đóng góp đáng ghi nhận với nền văn học Việt Nam hiện đại. Các
nhà văn, nhà nghiên cứu, phê bình và bạn đọc đã có một số ý kiến bàn luận về
sáng tác của Nguyễn Hồng Thái, xin điểm lại các ý kiến bàn luận về truyện
ngắn của ông như sau:
Nhà văn Xuân Thiều khi viết về Nguyễn Hồng Thái và tập truyện đầu
tay của ông với nhan đề: Một cuốn sách đầu tay đáng đọc. Bài viết đã giới
thiệu khá chi tiết, đầy đủ về chức danh, nơi công tác và hoạt động của nhà văn
Nguyễn Hồng Thái. Đặc biệt, tập truyện ngắn Đổi mặt được trao giải Nhất giải thưởng Cây bút vàng của Bộ Công an. Cả tập truyện có sức lôi cuốn độc
giả mạnh mẽ bởi tính hấp dẫn “Truyện Nguyễn Hồng Thái viết rất có hồn, câu
văn chọn lọc, tạo được hình ảnh và cảm xúc cao” [28]. Trong bài viết nhìn từ
góc độ tiếp cận tính đặc thù của loại truyện vụ án, truyện hình sự, Xuân Thiều
đã phát hiện, khẳng định tài năng và những đặc sắc trong truyện ngắn của
Nguyễn Hồng Thái. Trong 14 truyện chúng ta sẽ không thấy những pha ly kỳ,
những vụ án phức tạp gợi trí tò mò, những cuộc săn đuổi thủ phạm gay cấn
mà nhà văn Nguyễn Hồng Thái tỏ ra cao tay hơn, ông nói về tình đời tình
người. Đồng thời, Xuân Thiều cũng khẳng định thành công trong nội dung cốt
truyện của Nguyễn Hồng Thái luôn có sự đan cài tinh tế giữa nhân vật với các
địa danh cụ thể, thân quen có thật. Chính vì vậy mà bối cảnh tmyện sống
động, khiến người đọc băn khoăn giữa hư và thực để rồi mỗi khi đọc xong lại

trầm ngâm suy nghĩ về một con người, mẫu người nào đó bước ra từ trang
sách của ông.
Bài viết Ẩn tượng Nguyễn Hồng Thái của Bùi Việt Thắng cho bạn đọc
nhận thấy một ưu điểm trong cách viết của Nguyễn Hồng Thái là luôn lôi
cuốn và chinh phục độc giả bằng câu chuyện tình cảm. Có thể nói cái tình là
sợi chỉ đỏ xuyên suốt cả 11 truyện ngắn trong tập Ngôi nhà bên triền sông.


8

Truyện ngắn của ông luôn “chẳt chiu cái đẹp, dù có thể nó nhỏ nhoi, dù nó có
thể chẳng quan trọng với người đời trong cuộc sổng mưu sinh hiện nay. Vì
thể truyện ngắn của Nguyễn Hồng Thái có sức mạnh thanh lọc tâm hồn con
người” [27], Ấn tượng khi đọc Nguyễn Hồng Thái là ông rất quan tâm đến
việc sáng tạo các tình huống truyện, đó là “tình huống khó xử” như trong
truyện Người không gõ cửa, qua cuộc gặp gỡ bất ngờ của ông Tịnh (Trưởng
thôn vùng đất du lịch nổi tiếng) với Thùy Trang (một Tổng Giám đốc)...
Những tình huống “đối mặt” như thế từng được tác giả vận dụng sáng tạo khi
viết truyện ngắn mà độc giả từng nhận biết từ thời ông viết Đổi mặt. Đặc biệt,
nhân vật truyện ngắn của ông thường gắn với một miền quê cụ thể nào đó rất
đỗi thân thiết, với nhiều tên địa danh có thật (chợ Si, chợ Dàn, huyện Hoa
Diễn, Biển Diễn Kim, làng Cung Chài...). Vì thế, truyện rất gần gũi với thiên
nhiên, thấm đẫm tình hương quê đặc biệt truyền cảm giác tới người đọc nội
dung câu chuyện ở trong tác phẩm là có thật. Bởi vậy, Ngôi nhà bên triền
sông luôn "vẹn nguyên một ẩn tượng tin tưởng vào những mầm thiện tốt tươi
mà Nguyễn Hồng Thái đã gieo mầm trong từng câu chữ, trên từng trang
sách" [27].
Bên cạnh đó còn có một số bài viết được đăng tải trên báo mạng điện tử
của nhà xuất bản Công an nhân dân như bài Nhà văn Nguyễn Hồng Thái của
Nguyễn Trọng Tạo. Bài Thượng tá, Nhà báo Nguyễn Hồng Thái “Thư kí tòa

soạn như một chiếc... nắp cống” của Hà Vân...
Các bài viết này đã giúp người đọc hình dung ra chân dung người chiến
sĩ công an - nhà văn Nguyễn Hồng Thái rất gần gũi, chân phương và tâm
huyết với nghiệp văn chương.
Điểm qua các bài viết, ý kiến, phê bình về văn chương Nguyễn Hồng
Thái chúng tôi nhận thấy hầu như chưa có tác giả nào đặt vấn đề nghiên cứu
một cách có hệ thống thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Hồng


9

Thái. Vậy nên, đây là một hướng nghiên cứu còn để ngỏ chưa được tìm hiểu
thích đáng. Thực tế đó gợi cho chúng tôi đi sâu vào đề tài này. Người viết hi
vọng đóng góp một phần nhỏ để tìm hiểu, khám phá về một cây bút tài năng
nhưng rất khiêm tốn. Những bài viết, đánh giá kể trên sẽ là những gợi ý tham
khảo quý báu cho chúng tôi trong quá trình thực hiện luận văn này.
3. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở khảo sát truyện ngắn của Nguyễn Hồng Thái, luận văn
nhằm đi sâu vào thế giới nhân vật phong phú trong các truyện ngắn của ông.
Từ đó khẳng định vị trí của nhà văn trong mảng đề tài Vỉ' an ninh Tổ quốc và
bình yên cuộc sống.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Trình bày những vấn đề lý thuyết về thế giới nhân vật.
- Xác định và chỉ ra đặc điểm các loại nhân vật.
- Chỉ ra nét độc đáo, đặc sắc về nghệ thuật xây dựng nhân vật trong
truyện ngắn của Nguyễn Hồng Thái.
5. Đối tuợng và phạm vi nghiên cứu


5.1. Đối tượng nghiên cứu
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Hồng Thái.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn đi sâu tìm hiểu hai tập truyện ngắn:
- Đối mặt (Nxb Công an nhân dân, 2000).
- Ngôi nhà bên triền sông (Nxb Công an nhân dân, 2010).
6. Phuơng pháp nghiên cứu

Trong luận văn chúng tôi sử dụng (riêng lẻ hoặc kết họp) một số phương
pháp nghiên cứu văn học chính sau:
- Phương pháp thống kê - phân loại.
- Phương pháp phân tích, tổng họp.


10

- Phương pháp so sánh - đối chiếu.
- Phương pháp loại hình (vận dụng những kiến thức lý luận về thể loại
truyện ngắn).
7. Đóng góp của luận văn

- Trên cơ sở lí luận vận dụng để tìm ra những đặc sắc về thế giới nhân
vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Hồng
Thái để bước đầu có một cái nhìn tương đối hệ thống, toàn diện về nhà văn và
sáng tác của ông.
- Đánh giá những đóng góp của Nguyễn Hồng Thái ở mảng đề tài Vì an
ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sổng, qua đó khẳng định tài năng và vị trí của
Nguyễn Hồng Thái trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
8. Bố cục của luận văn


Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung chính của luận văn được
triển khai thành 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lí luận chung về nhân vật văn học và hành
trình sáng tác truyện ngắn của Nguyễn Hồng Thái.
Chương 2. Quan niệm nghệ thuật về con người và các kiểu nhân vật
trong truyện ngắn của Nguyễn Hồng Thái.
Chương 3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của
Nguyễn Hồng Thái.


11

NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẨN ĐÈ LÍ LUẬN CHUNG VÈ NHÂN VẶT VĂN HỌC
VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN HÒNG THÁI
1.1. Quan niệm chung về nhân vật văn học

1.1.1. Khái niệm nhân vật văn học
Điều cốt yếu đối với truyện ngắn là nhân vật. Nhân vật là “co« người
hoặc sự vật được nhà văn miêu tả trong tác phẩm bằng phương tiện văn học”
[1; tr.281]. Nhân vật truyện ngắn có thể là con người có tên, người không có
tên hoặc là một đại từ nhân xưng nào đó (như: tôi, ta,...). Trong nhiều trường
họp, khái niệm nhân vật được sử dụng một cách ẩn dụ nhằm chỉ một hiện
tượng nổi bật nào đó trong tác phẩm. Chẳng hạn, chiếc quan tài là nhân vật
trong tác phẩm Chiếc quan tài của Nguyễn Công Hoan...
Có ý kiến cho rằng, nhân vật trong tác phẩm là hình ảnh của tác giả,
nhưng cũng có ý kiến ngược lại. Theo chúng tôi, quan niệm này cần được
hiểu một cách linh động hơn. Nhân vật là con đẻ của nhà văn nên tất nhiên
phải là hình bóng, là hiện thân tư tưởng của nhà văn. Trong xây dựng nhân

vật, nhà văn muốn nhân vật là nơi chở tư tưởng của mình, gửi gắm những ý
tưởng của mình về đời người và người đời. Nhưng dù nhân vật có là cái loa
phát ngôn cho tư tưởng của nhà vãn, thì nhân vật cũng không bao giờ là hình
hài của tác giả, là đồng nhất vói tác giả. Bởi lẽ, khi nhà văn tạo ra nhân vật,
nghĩa là đã cho nhân vật một đời sống riêng, một định mệnh riêng, từ đó nhân
vật sẽ định liệu số phận của mình.
Nhân vật văn học là một hiện tượng nghệ thuật có tính ước lệ, có những
dấu hiệu để nhận biết: tên gọi, tiểu sử, nghề nghiệp và những đặc điểm riêng...
Những dấu hiệu đó thường được giới thiệu ngay từ đầu và thông thường, sự
phát triển về sau của nhân vật gắn bó mật thiết với những giới thiệu ban đầu


12

đó. Nhân vật có thể được miêu tả chi tiết hay sơ lược, sinh động hay không rõ
nét, xuất hiện một hoặc nhiều lần, thường xuyên hay từng lúc, giữ vai trò
quan trọng nhiều, ít hoặc không ảnh hưởng nhiều lắm đối với tác phẩm.
Do nhân vật có chức năng khái quát những tính cách, hiện thực cuộc
sống và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời cho nên trong quá trình
mô tả nhân vật, nhà văn có quyền lựa chọn những chi tiết, yếu tố mà họ cho là
cần thiết bộc lộ được quan niệm của mình về con người và cuộc sống. Chính
vì vậy, không nên đồng nhất nhân vật văn học với con người trong cuộc đòi.
Khi phân tích, nghiên cứu nhân vật, việc đối chiếu, so sánh có thể cần thiết để
hiểu rõ thêm về nhân vật, nhất là những nhân vật có nguyên mẫu ngoài cuộc
đòi (anh hùng Núp trong Đất nước đứng lên; chị Sứ trong Hòn Đất...) nhưng
cũng cần nhớ nhân vật văn học là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo gắn liền
với ý đồ tư tưởng của nhà văn trong việc nêu lên những vấn đề của hiện thực
cuộc sống. Betông Brecht cho rằng: "Các nhân vật của tác phẩm nghệ thuật
không phải giản đơn là những bản dập của những con người sổng mà là
những hình tượng được khắc họa phù hợp với ỷ đồ tư tưởng của tác giả"

[11; tr.15].
Nhân vật văn học luôn gắn liền với cốt truyện vì nó được miêu tả qua
các biến cố, mâu thuẫn, xung đột. Đó là những mâu thuẫn nội tâm của nhân
vật, mâu thuẫn giữa nhân vật này và nhân vật kia,... Nhờ được miêu tả qua
xung đột, mâu thuẫn nên khác với hình tượng hội họa và điêu khắc, nhân vật
vãn học là một chỉnh thể vận động có tính cách được bộc lộ dần trong không
gian, thòi gian và mang tính quá trình.
Nhân vật không chỉ là một hằng số minh họa cho tư tưởng của tác giả
theo luận đề có sẵn mà còn là “mộí biến số tương hợp ván tầm đón đợi của
người đọc” [11; tr.16]. Do đó sẽ không bao giờ có nhân vật nào là mẫu số
chung cho mọi thòi mà nó luôn chuyển hóa theo sự tiếp nhận của người đọc ở


13

mỗi thời. Nhân vật phải là một biến số, nghĩa là tự nó phải luôn có sự chuyển
hóa để thích nghi với những biến sinh của đòi sống thì mới tạo được sức sống
trong lòng ngưòi.
Nhân vật trong truyện ngắn không giống vói các nhân vật thuộc các thể
loại văn học khác. Ngoài việc được thể hiện bằng chất liệu riêng là ngôn từ thì
loại nhân vật này còn được xây dựng với đặc thù riêng. Nó không thiên về
cảm xúc như trong thơ trữ tình, không chủ yếu là hành động, ngôn ngữ như
trong kịch. Nhân vật truyện ngắn là tổng hòa của các yếu tố trên. Tác giả
được quyền nhấn mạnh một vài yếu tố hơn những cái khác. Tuy vậy, dù thế
nào, nhân vật truyện ngắn cũng phải thấm đẫm chất vị trung thực và nóng
bỏng của đòi thực. Nhà văn chỉ có thể xây dựng nhân vật bằng chính vốn
sống và sự hiểu biết về nhân vật, để nhân vật luôn có mối liên hệ vói cuộc
đòi. Nó là hình bóng của con người, có tác động đến lối sống của con người.
Trong phương thức xây dựng nhân vật, dù theo quan niệm nào, phương thức
nào thì nhân vật cũng bắt nguồn từ cuộc đời thực và phải độc lập vói tác giả.

Nhân vật phải có đời sống riêng, số phận riêng phù họp với sự phát triển tính
cách của nhân vật và logic của đời sống. Có như thế nhân vật mới có sức sống
lâu dài trong lòng người đọc. Nhà văn sống với cuộc đời và mỗi nhịp sống
như thế là một căn bản sáng tạo. Khi sáng tác, mỗi nhà văn thường chọn cho
mình một thế giói nhân vật phù họp với sở thích, cá tính của mình để miêu tả,
thể hiện. Cuộc sống vẫn luôn là nguồn cảm hứng không bao giờ cạn. Nhà văn
luôn tìm thấy ở cuộc đời những chất liệu để xây dựng tác phẩm, nhân vật.
Cho nên nhân vật vừa là sản phẩm lại vừa là chủ thể tác động đến cuộc sống.
Trong cuộc đời không hiếm những con người lấy nhân vật làm khuôn mẫu,
làm lẽ sống. Những nhân vật lí tưởng nhiều khi có sức ám ảnh rất lớn đối với
con người ngoài cuộc đời. Nhưng không vì thế mà đồng nhất, bởi đó là nhân
vật của hư cấu và tưởng tượng được xây dựng theo quan niệm nghệ thuật của
nhà văn.


14

Truyện ngắn thường ít nhân vật, nhà văn không thể miêu tả quá trình
phát triển tính cách của nhân vật từ biến đổi, đấu tranh hay dằn vặt như trong
tiểu thuyết nên chỉ đi sâu vào một vài khía cạnh, một thời điểm trong cuộc đời
nhân vật. Nhân vật trong truyện ngắn đòi hỏi người đọc phải vận dụng trí
tưởng tượng, liên tưởng để dựng lại một con người hoàn chỉnh trong tất cả các
mối quan hệ của nó và thường ghi nhớ nhân vật với một vài điểm nổi bật
nhất. Nhân vật là thuật ngữ có nội hàm phong phú đủ khả năng bao quát
những hiện tượng phổ biến ở mọi bình diện và cấp độ. Chính vì vậy mà đã có
rất nhiều quan điểm khác nhau về nhân vật văn học trong giới nghiên cứu và
phê bình.
1.1.2. Chức năng của nhân vật văn học
Dù dưới góc nhìn nào thì các nhà nghiên cứu đều có chung điểm nhìn
về nhân vật văn học, đó là sự khẳng định vị trí, vai trò của nhân vật trong mỗi

một tác phẩm nghệ thuật. Các nhà phê bình, nghiên cứu đều tập trung làm
sáng tỏ tầm quan trọng của nhân vật đối vói một tác phẩm văn chương.
‘Nhân vật là nơi thử thách nhà văn nhiều nhất. Nhà văn phải bồi da đẳp thịt
thổi sức sổng cho nó, bẳt nó phục vụ tư tưởng của mình” [14; tr.105].
Các nhà nghiên cứu cho rằng nhân vật văn học là thành tố quan trọng
trong tác phẩm, là phương tiện để nhà văn giãi bày, phản ánh, soi chiếu hiện
thực đời sống vào trong từng trang viết thông qua việc tạo dựng nên những
nhân vật. Nhân vật văn học chính là sản phẩm tinh thần của mỗi người nghệ
sĩ. Họ gửi gắm những suy nghĩ, cảm xúc của mình về con người, đời sống, xã
hội. Nhân vật văn học có vị trí thiết yếu đảm bảo cho việc miêu tả thế giới
của văn học mang tính hình tượng và có chiều sâu. “Chức năng của nhân vật
là khái quát những quy luật của đời sống con người, thể hiện những hiểu biết,
những ước ao và kì vọng về con người” [17; tr.25]. Nó dẫn độc giả vào các
môi trường khác nhau của đời sống, đồng thời còn thể hiện quan niệm nghệ


15

thuật và lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn về con người. Khi xây dựng nhân vật,
nhà văn có mục đích gắn liền với những vấn đề muốn đề cập trong tác phẩm.
Vì vậy, tìm hiểu nhân vật trong tác phẩm, bên cạnh việc xác định những nét
tính cách của nó, cần nhận ra những vấn đề của hiện thực và quan niệm của
nhà văn mà nhân vật muốn thể hiện. Khi nhắc đến một nhân vật, nhất là các
nhân vật chính, người ta thường nghĩ đến các vấn đề gắn liền với nhân vật đó.
Chẳng hạn gắn liền với Thúy Kiều là thân phận của người phụ nữ có tài sắc
trong xã hội cũ. Gắn liền với Kim Trọng là vấn đề tình yêu và ước mơ vươn
tới hạnh phúc. Trong Chí Phèo của Nam Cao, nhân vật Chí Phèo thể hiện quá
trình lưu manh hóa của một bộ phận nông dân trong xã hội thực dân nửa
phong kiến. Trong truyện cổ tích là vấn đề đấu tranh giữa thiện và ác, tốt và
xấu, giàu và nghèo, những ước mơ tốt đẹp của con người... Như vậy, nhân vật

văn học có chức năng thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn về thế giới
con người, tạo nên mối liên kết giữa các sự kiện trong tác phẩm. Cho nên,
nhân vật văn học chính là một hình thức khái quát đời sống. Thông qua mỗi
nhân vật, độc giả sẽ thấy nội dung tư tưởng được thể hiện trong tác phẩm.
Nhân vật văn học thể hiện quan niệm của nhà văn về con người, cũng là
phương tiện để nhà văn khái quát tính cách số phận con người. Tuy nhiên,
nhân vật văn học bao giờ cũng mang tính ước lệ, không thể đồng nhất nhân
vật văn học với con người có thật ngoài đời. Hơn nữa: “Nhân vật của tác
phẩm nghệ thuật không phải giản đơn là những bản dập của những con
người sống mà là những hình tượng được khẳc họa với ỷ đồ nghệ thuật của
nhà văn” [11; tr.16]. Nhân vật văn học là cầu nối để tác giả đến với độc giả,
không phải là bản chất của chính con người nhà văn “Nó là một hiện tượng,
một đơn vị nghệ thuật được sáng tạo theo những ước lệ văn học. Ngay cả khi
nhà văn xây dựng nhân vật dựa khá sát vào nguyên mẫu, thậm chí giữ lại cả
danh tính của nguyên mẫu thì ta cũng không thể đồng nhất hai hiện tượng đó
ván nhau” [11; tr.19].


16

Đánh giá về vị trí của nhân vật trong tác phẩm, các nhà nghiên cứu,
nhà văn đã làm sáng tỏ vai trò của nhân vật trong tác phẩm truyện ngắn.
“Cũng như tiểu thuyết, truyện ngắn sổng bằng nhân vật. Ở một góc độ nào đỏ
mà xét thì nhân vật sáng tạo nên cốt truyện, cốt truyện chính là sự phát triển
của tính cách...” [9; tr.232]. Nhân vật truyện ngắn có chức năng khái quát tính
cách của con nguời trong xã hội. Nhân vật thành công là nhân vật có nét
riêng, có sụ hu cấu, giúp nhà văn bộc lộ quan điểm của nhà văn sao cho phù
họp vói thời đại, không xa lạ với nguời đọc.
1.1.3. Các tiêu chí phân loại nhân vật văn học
Từ những góc độ khác nhau nguời ta có thể chia nhân vật văn học

thành nhiều kiểu loại khác nhau:
1.1.3.1.

Phân loại theo quan hệ thuận - nghịch giữa nhân vật và lí

tưởng (xét từ góc độ nội dung tu tuởng hay phẩm chất nhân vật) có thể chia
thành các loại nhân vật chính diện (nhân vật tích cục) nhân vật phản diện
(nhân vật tiêu cục).
* Nhân vật chính diện là nhân vật đại diện cho lục luợng chính nghĩa
trong xã hội, cho cái thiện, cái tiến bộ. Khi nhân vật chính diện đuợc xây
dụng với những phẩm chất hoàn hảo, có tính chất tiêu biểu cho tinh hoa của
một giai cấp, một dân tộc, một thời đại, mang những mầm mống lý tuởng
trong cuộc sống... có thể coi là nhân vật lý tuởng. Ở đây, cần phân biệt nhân
vật lý tuởng với nhân vật lý tưởng hóa. Loại nhân vật sau là loại nhân vật
đuợc tô hồng, hoàn toàn theo chủ quan của nhà văn, nhà văn đã vi phạm tính
chân thực của sự thể hiện.
* Nhân vật phản diện là nhân vật đại diện cho lực luợng phi nghĩa, cho
cái ác, cái lạc hậu, phản động, cần bị lên án. Đó là những nhân vật nhu Nghị
Quế trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Bá Kiến trong Chí Phèo của Nam Cao,
Giave trong Những người khốn khổ của V.Huygô...


17

Trong quá trình phát triển của văn học, mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau,
việc xây dựng các loại nhân vật trên cũng khác nhau. Nếu như trong thần
thoại chưa có sự phân biệt rạch ròi giữa nhân vật chính diện và nhân vật phản
diện thì trong truyện cổ tích, truyện thơ Nôm nhân vật thường được xây dựng
thành hai tuyến rõ rệt có tính chất đối kháng quyết liệt, ở đây, hễ là nhân vật
chính diện thường tập trung những đức tính tốt đẹp, còn nhân vật phản diện

thì hoàn toàn ngược lại. Trong văn học hiện đại, nhiều khi khó phân biệt đâu
là nhân vật chính diện, đâu là nhân vật phản diện. Việc miêu tả này phù họp
vói quan niệm cho rằng hiện thực nói chung và con ngưòi nói riêng không
phải chỉ mang một phẩm chất thẩm mĩ mà bao hàm nhiều phẩm chất thẩm mĩ
khác nhau, cái nhìn của chủ thể đối vói sự vật nhiều chiều, phức họp chứ
không đơn điệu... Những nhân vật như Chí Phèo, Thị Nở, Tám Bính, Năm Sài
Gòn... có bản chất tốt nhưng đó không phải là phẩm chất duy nhất của nhân
vật. Bakhtin cho rằng cần phải thống nhất trong bản thân mình các đặc điểm
chính diện lẫn phản diện, cái tầm thường lẫn cái cao cả. Chính vì vậy, sự phân
biệt chính diện, phản diện chỉ có ý nghĩa tương đối. Khi đặt nhân vật vào loại
nào để nghiên cứu, cần phải xét khuynh hướng chủ đạo của nó đồng thời phải
chú ý đến các khuynh hướng, phẩm chất thẩm mĩ khác. Trong giai đoạn trước,
những nhân vật như Kiều, Hoạn Thư, Thúc Sinh cũng được Nguyễn Du miêu
tả ở nhiều góc độ, vói nhiều phẩm chất chứ không phải chỉ có một phẩm chất
chính diện hoặc phản diện.
1.13.2. Phân loại theo tầm quan trọng và vai trò của nhân vật trong
tác phẩm (xét từ góc độ kết cấu) có thể chia thành các loại nhân vật: nhân vật
chính, nhân vật trung tâm, nhân vật phụ.
* Nhân vật chính là nhân vật giữ vai trò quan trọng trong việc tổ chức
và triển khai tác phẩm. Nhà văn thường tập trung miêu tả, khắc họa tỉ mỉ từ
ngoại hình, nội tâm, quá trình phát triển tính cách của nhân vật. Qua nhân vật
chính, nhà văn thường nêu lên những vấn đề và mâu thuẫn cơ bản trong tác


18

phẩm, từ đó bộc lộ cảm hứng tư tưởng và tính thẩm mĩ. Nhân vật chính có thể
có nhiều hoặc ít tùy theo dung lượng hiện thực và những vấn đề đặt ra trong
tác phẩm.
* Với những tác phẩm lớn có nhiều nhân vật chính thì nhân vật quan

trọng nhất xuyên suốt toàn bộ tác phẩm được gọi là nhân vật trung tâm.
Trong không ít trường họp, nhà văn dùng tên nhân vật trung tâm để đặt nhan
đề cho tác phẩm. Ví dụ: Đông Kisot của Cervantes, Anna Karênỉna của L.
Tônxtôi, A.Q chính truyện của Lỗ Tấn, Truyện Kiều của Nguyễn Du...
* Nhân vật phụ là những nhân vật còn lại ở các cấp độ khác nhau, giữ
vị trí thứ yếu so với nhân vật chính trong quá trình diễn biến của cốt truyện.
Nhân vật phụ phải góp phần hỗ trợ, bổ sung cho nhân vật chính nhưng không
được làm mờ nhạt nhân vật chính. Có nhiều nhân vật phụ vẫn được các nhà
văn miêu tả đậm nét, có cuộc đời và tính cách riêng, cùng vói những nhân vật
khác tạo nên một bức tranh đời sống sinh động và hoàn chỉnh.
1.1.3.3. Phân loại nhân vật theo thế loại
Có thể phân thành các nhân vật: - Nhân vật trữ tình;
- Nhân vật tự sự;
- Nhân vật kịch.
* Nhân vật trữ tình là nhân vật nói lên những cảm xúc, ý nghĩ, tình
cảm, tâm trạng, suy tư... về lẽ sống được thể hiện trong tác phẩm. Khi đọc
một bài thơ, trước mắt chúng ta không chỉ xuất hiện những cảnh thiên nhiên,
sinh hoạt, những con người mà còn là hình tượng của một ai đó đang ngắm
nhìn, rung động, suy tư về chúng. Phần lớn nhân vật trữ tình xuất hiện với tư
cách là tình cảm, tâm trạng... của chính bản thân nhà thơ. Tuy nhiên, có nhiều
trường họp nhân vật trữ tình không phải là hiện thân của tác giả. Do tính chất
tiêu biểu, khái quát của nhân vật trữ tình nên nhà thơ có thể tưởng tượng, hóa
thân vào đối tượng để xây dựng nhân vật trữ tình theo quy luật điển hình hóa
trong sáng tạo nghệ thuật.


19

* Nhân vật tự sự được khắc họa đầy đủ nhiều mặt nhất, được triển khai
sâu rộng trong nhiều mối quan hệ đa dạng và phong phú. Nhân vật thường có

số phận, con đường đi và quá trình phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau.
So vói các loại nhân vật khác, nhân vật trong tác phẩm tự sự được khắc họa tỉ
mỉ từ ngoại hình đến nội tâm, từ quá khứ đến hiện tại... Tóm lại, nhân vật tự
sự được miêu tả nhiều mặt, toàn diện và sinh động, nhiều màu sắc thẩm mĩ.
Có thể bắt gặp những chi tiết về chân dung, ngoại hình, phong tục, tập quán,
đời sống lao động, tôn giáo, chính trị... bao gồm những chi tiết có thực, tưởng
tượng, hoang đường...
* Nhân vật kịch là nhân vật thể hiện tính cách bằng lời nói và hành
động. Tác giả xây dựng nhân vật bằng ngôn ngữ hội thoại chứ không phải
bằng ngôn ngữ miêu tả. Do đó, tính cách nhân vật trong kịch tập trung, nổi
bật và xác định nhằm gây ấn tượng mãnh liệt và sâu sắc cho khán giả. Hiển
nhiên sự nổi bật, tập trung đó không có nghĩa là đơn giản, một chiều. Nhân
vật của kịch thường chứa đựng những cuộc đấu tranh nội tâm. Do đặc trưng
của kịch là xung đột nên khi đứng trước những tình huống đó, con người bắt
buộc phải hành động. Vì vậy, con người không thể không đắn đo, suy nghĩ,
cân nhắc, băn khoăn, dằn vặt. Đặc trưng này cũng được thể hiện trong các loại
văn học khác nhưng được tập trung và phổ biến nhất trong kịch.
1.1.3.4. Phân loại theo hình thức cẩu trúc nhân vật
Ở tiêu chí phân loại này theo E.M.Forster trong cuốn Diện mạo tiểu
thuyết (1927) có thể phân thành các loại:
* Nhân vật dẹt là loại nhân vật không được khắc họa đầy đủ mọi mặt.
Trong các loại nhân vật dẹt có thể nói tói nhân vật chức năng, nhân vật loại
hình (các thuật ngữ này do L.Ghinzburg đề xuất).
Nhân vật chức năng đây là loại nhân vật “được giao cho nhiệm vụ”
thực hiện một chức năng nhất định trong tác phẩm và phản ánh đời sống.


20

Nhân vật chức năng chủ yếu xuất hiện trong văn học cổ đại và trung đại (nhất

là truyện cổ tích) chẳng hạn nhân vật Bụt trong các câu chuyện cổ tích có
chức năng ban hạnh phúc, đem lại nhiều may mắn cho người lương thiện,
giúp họ vượt qua những trở ngại của cuộc sống; nhân vật Phù thủy có chức
năng gieo rắc những rủi ro, những điều xấu, ngăn trở cuộc sống của những
người lương thiện... Các nhân vật trong truyện Thạch Sanh, Tấm Cám... đều
là những nhân vật chức năng.
Nhân vật chức năng không có đời sống nội tâm. Các phẩm chất đặc
điểm của nhân vật cố định không thay đổi từ đầu đến cuối, hành động gần như
theo những công thức đã vạch sẵn.
Nhân vật chức năng không hoàn toàn mất bóng trong văn học các thời
đại sau này, chỉ có điều nó không tồn tại ở dạng thuần túy như trước.
Nhân vật loại hình là loại nhân vật thể hiện tập trung các phẩm chất xã
hội, đạo đức của một loại người nhất định của một thời. Đó là nhân vật khái
quát chung về “loại” của các tính cách và nhờ vậy được gọi là điển hình.
Chẳng hạn như nhân vật Acpagong (Lão hà tiện của Molie) đã thể hiện tập
trung cho thói keo kiệt, ông Guôc đanh (trong Trưởng giả học làm sang của
Molie) là hiện thân cho thói phù phiếm hiếu danh của các gã tư sản muốn làm
quý tộc.
Hạt nhân của loại nhân vật này là nét khu biệt về mặt tính cách xã hội
của một loại người nào đó. Nhân vật điển hình loại này luôn đòi hỏi một cá
tính nhất định được thực hiện qua một số chi tiết chân thực, sống động nào đó
chứ không phải là một khái niệm trìu tượng, điều đáng nói là khi đắp da đắp
thịt cho tính cách, nhà vãn không quên chủ đích của mình là làm sao gọi cho
đúng cái “thần” của “loại”. Nhân vật chị ú t Tịch trong Người mẹ cầm súng
của Nguyễn Thi mang nhiều đặc điểm của nhân vật loại hình. Chị chính là
“khái niệm” về ngưòi phụ nữ Việt Nam “anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm
đang”. Tuy vậy, vẫn có những nét hấp dẫn của một cá tính.


21


*

Nhân vât tròn

Là nhân vật được khắc họa hên nhiều bình diện, đưa tới cho độc giả
cảm nhận “thực” về nhân vật. Nhân vật tròn thực chất là nhân vật tính cách.
Khi xây dựng nhân vật tính cách, điều nhà văn chú ý trước hết là cá tính làm
nên một nhân cách độc lập. Cá tính đó luôn có mối liên hệ sống động vói môi
trường xung quanh. Qua việc nhìn vào những mối liên hệ đó người ta nhận ra
những quy luật tồn tại của con người. Sức hấp dẫn của loại tính cách này nằm
ở cá tính cùng cấu trúc phức tạp của nó. Nhân vật tính cách thường đa diện,
chứa đầy mâu thuẫn và chính những mâu thuẫn ấy làm cho tính cách không
tĩnh tại mà vận động phát triển đôi khi làm bất ngờ cả ngưòi sáng tạo ra nó.
*Nhân vật tư tưởng
Trong tác phẩm văn học có những nhân vật mà hạt nhân cấu trúc của
nó không phải là cá tính cũng không phải là các phẩm chất loại hình mà là
một tư tưởng, một ý thức. Xây dựng loại nhân vật này, các nhà văn nhằm tới
việc phát biểu hoặc tuyên truyền cho một tư tưởng nào đó về đời sống. Ví như
nhân vật “tôi” trong truyện ngắn Bức tranh của Nguyễn Minh Châu... đều
mang những nét cơ bản của nhân vật tư tưởng.
*

Nhân vât tâm lí

Ở loại nhân vật này nhà văn tập trung vào việc tái hiện “hiện thực tâm
lý, vào những hành động bên trong chứ không phải bên ngoài của nhân vật.
Nhiều khi hiện thực tâm lí đó không làm nên nhân vật mà còn làm nên chính
câu chuyện, làm nên những tác phẩm gọi là “truyện không có cốt truyện”. Từ
đây, vô số các thủ pháp miêu tả được thể hiện, dẫn đến sự ra đời của thủ pháp

“dòng ý thức”. Loại nhân vật này xuất hiện nhiều trong vãn học hiện đại.
Những con người nói chung được miêu tả trong tác phẩm. Ở đây, nhà văn có
thể chỉ mới nêu lên một vài chi tiết về ngôn ngữ, cử chỉ, hành động... cũng có
thể miêu tả kĩ và đậm nét. Tính cách là nhân vật được khắc họa với một chiều


22

sâu bên trong. Nó như một điểm quy tụ mà từ đó có thể giải thích được mọi
biểu hiện muôn màu, muôn vẻ sinh động bên ngoài của nhân vật. Điển hình là
tính cách đã đạt đến độ thực sự sâu sắc, là sự thống nhất giữa cái chung và cái
riêng, cái khái quát và cái cá thể... Nói một cách nghiêm ngặt, thuật ngữ này
chỉ được áp dụng từ chủ nghĩa hiện thực phê phán trở về sau.
Ngoài những loại nhân vật được trình bày, có thể nêu lên một số khái
niệm khác về nhân vật qua các trào lưu văn học khác nhau. Chẳng hạn, khái
niệm nhân vật bé nhỏ trong văn học hiện thực phê phán, khái niệm nhân vật con vật người trong chủ nghĩa tự nhiên, nhân vật - phi nhân vật trong các trào
lưu văn học hiện đại chủ nghĩa ở phương Tây.
1.1.4. Vài nét về nhân vật truyện ngắn và nhân vật trong truyện ngắn
Viêt
* Nam thời kì đổi mới
1.1.4.1. Vài nét về nhân vật truyện ngắn
Truyện ngắn là một thể loại văn học mà giờ đây khá quen thuộc với đời
sống của người yêu văn chương nghệ thuật. Nhưng có lẽ ít ai biết đến nó với
tư cách là một thể loại, một phương thức tự sự. Quan niệm về truyện ngắn đã
có rất nhiều ý kiến đưa ra nhằm hiện thực hóa cũng như người tiếp nhận hiểu
đúng về nó.
Theo các nhà nghiên cứu phương Tây thì truyện ngắn ra đời sau tiểu
thuyết, vào khoảng thế kỉ XIX. Khi nói đến đặc trưng của tiểu thuyết thì bao
hàm trong đó cả đặc trưng của truyện ngắn. Ở Việt Nam, thể loại truyện ngắn
phải đến thế kỉ XX mới thực sự hình thành và phát triển mạnh mẽ, đạt đỉnh

cao vào những năm 30 của thế kỉ này. Thật khó để đưa ra một định nghĩa
chính xác, rõ ràng về truyện ngắn “Truyện ngắn là một khái niệm rất khó xác
định cả về phương diện nội dung và hình thức” [6; tr.51]. Hay trong Truyện
ngắn Nam Phong (Nxb KHXH, Viện Văn học, 1991, tr.20) cũng nhận định:
“Thật ra thì cho đến tận bây giờ cũng chưa có ai tìm ra được một định nghĩa


23

thật chuẩn về tiểu thuyết hay truyện ngắn’’ [6; tr.51]. “Bởi truyện ngắn cũng
như tiểu thuyết là một thể loại luôn chuyển biển” [6; tr.51].
Khác với tiểu thuyết là thể loại chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự
đầy đặn và toàn vẹn của nó, truyện ngắn thường chỉ hướng tới việc khắc họa
một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời
sống tâm hồn con người. Nhân vật trong truyện ngắn cũng mang những đặc
điểm chung của nhân vật trong tác phầm tự sự. Bởi vậy, cũng giống như các
tác phẩm tự sự khác, nhân vật trong truyện ngắn có một vị trí, vai trò và ý
nghĩa đặc biệt quan trọng.
Truyện ngắn thường có ít nhân vật và được miêu tả ở một khoảnh khắc,
một mảng nhỏ nhưng lại có ý nghĩa trong cả cuộc đời nhân vật. Đặc điểm của
nhân vật truyện ngắn có đôi chút khác biệt so với truyện dài và tiểu thuyết, có
khi chỉ là một lát cắt, một mảng đời, “mọí khúc đời sổng” (Tô Hoài), hay
không phải ở hệ thống sự kiện mà ở cái nhìn đời tư.
Nhân vật truyện ngắn bao giờ cũng được đặt vào tình huống cụ thể. Từ
tình huống ấy bật lên nét bản chất trong tính cách nhân vật hoặc bộc lộ một
tâm trạng. Từ việc bộc lộ tính cách hoặc tâm trạng nhân vật nhà văn sáng tạo
nên một tư tưởng nào đó.
Như vậy, có thể nói với những đặc trưng thể loại riêng, truyện ngắn là
một phương thức tự sự linh hoạt và năng động trong việc nắm bắt và thể hiện
vấn đề của con người trong cuộc sống. Các nhà viết truyện ngắn lớn xưa nay

đều bộc lộ tài năng và phong cách của mình rõ rệt trong lĩnh vực sáng tạo
nhân vật. Thông qua nhân vật được khắc họa trong các tác phẩm truyện ngắn,
người đọc không chỉ thấy rõ bộ mặt của xã hội đương thời, những chuyển
biến của thời đại mà sâu xa hơn “đọc” được những vấn đề muôn thuở của
thân phận con người.
1.1.4.2. Nhân vật trong truyện ngắn Việt Nam thời kỳ đổi mới
Tiến trình lịch sử văn học viết Việt Nam cho thấy: Văn học Trung đại
ưa xây dựng con người vô ngã, văn học 1930 - 1945 thích con người bản ngã.


24

Văn học 1945 - 1975 đặc biệt quan tâm đến con người quần chúng, sử thi và
anh hùng ca. Văn học đưong đại quay trở lại con người bản ngã, con người
đời tư, con ngưòi với vô số bi kịch, nó tiếp nối văn học 1930 - 1945. Sau
1975, đất nước chuyển đổi trên nhiều phương diện trong đó có đời sống văn
hoá, tư tưởng. Chiến tranh kết thúc, văn học cựa mình thay đổi, nhất là sau
Nghị quyết của Đại hội VI của Đảng và tiếp theo Nghị quyết 05 của Bộ Chính
trị. Cuộc gặp của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với đại diện giới văn nghệ sĩ
vào cuối năm 1987 đã thổi một luồng gió mới ào ạt vào đời sống văn học
nước nhà.
Bên cạnh tiểu thuyết, thơ, kí, kịch... truyện ngắn trở thành một thể loại
phát triển rực rỡ của văn học Việt Nam sau 1975. Nó được xem là một “cú
hích” mạnh mẽ và khả quan, tạo nên một phản ứng dây chuyền, có tác dụng
“kích nổ” sự phát triển truyện ngắn vói rất nhiều gương mặt tiêu biểu như: Vũ
Thị Thường, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Hồ Anh
Thái, Y Ban, Võ Thị Hảo, Trần Thuỳ Mai, Dạ Ngân, Tạ Duy Anh, Nguyễn Thị
Ấm, Lê Minh Khuê, Thái Bá Tân, Phạm Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Võ
Thị Xuân Hà, Nguyễn Thế Hùng, Phùng Văn Khai, Đỗ Bích Thủy, Đỗ Hoàng
Diệu, Bích Ngân, Nguyễn Ngọc Thuần, Nguyễn Thị Diệp Mai, Trầm Nguyên

Ý Anh, Nguyễn Vĩnh Nguyên, Nguyễn Ngọc Tư... Ngòi bút của các nhà vãn
thay đổi trên nhiều phương diện, trong đó đặc biệt chú ý nhất là sự thay đổi về
con ngưòi và cách xây dựng nhân vật. Đây là một bước chuyển quan trọng
cho truyện ngắn.
ứng vói mỗi giai đoạn văn học có một cách xây dựng nhân vật khác
nhau. Văn học chống Pháp và chống Mỹ gắn với cảm hứng ngợi ca, con
người xả thân vì quê hương đất nước. Ý nghĩa cuộc đời gắn bó với cộng đồng,
con người sống với cái Ta to lớn, không hoặc ít đối diện với cái Tôi nhỏ bé
của chính mình. Không gian cộng đồng chiếm ưu việt hơn cả. Sau năm 1975,


×