Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Phân tích những đặc điểm thi pháp của sử thi Đam Săn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.73 KB, 12 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***

TIỂU LUẬN CUỐI KÌ

Đề bài: Phân tích những đặc điểm thi pháp của sử thi Đam Săn.
(Bản dịch của Nguyễn Hữu Thấu, NXB Khoa học xã hội, 1988)

Sinh viên

: Đoàn Ngọc Chung

Lớp

: K59 Văn học

MSSV

: 14031844

HÀ NỘI, 2016


I. Tóm tắt nội dung sử thi Đam Săn
Theo tục “chuê nuê” trong chế độ mẫu hệ, mặc dù đã có người yêu là nàng Hơ
Bia nhưng Đam Săn vẫn phải lấy chị em Hơ Nhị và Hơ Bhị làm vợ. Đam Săn đã cưỡng
lại tục lệ đó nhưng ông Trời “đã chống gậy hèo đến thu xếp việc cưới hỏi” nên Đam Săn
đành phải khuất phục trước sức mạnh của tập tục, ở lại nhà Hơ Nhị, Hơ BHị làm chồng.
Song ở nhà vợ, Đam Săn vẫn tiếp tục chống lại cuộc hôn nhân đó. Trong một lần
chàng mải chơi quay. Mtao Grự giả vờ đến thăm Đam Săn. Trước lúc ra về, ông ta vờ


quên cái ống điếu để lấy cớ quay lại nhờ Hơ Nhị đưa. Mtao Grự lôi Hơ Nhị lên bành, rồi
thúc voi chạy. Biết tin Đam Săn tìm giết Mtao Grự, cứu được vợ.
Đam Săn lại dẫn dân làng đi làm rẫy, bắt cá. Nhân lúc đó, Mtao Mxây đến nhà
Đam Săn. Trước lúc ra về, ông ta vờ để quên con dao để lấy cớ quay lại lừa Hơ Nhị đưa.
Mtao Mxây kéo nàng lên bành voi chở về buôn làng của mình. Y Suh, Y Sah đi báo cho
Đam Săn. Đam Săn đã đi giết Mtao Mxây và cứu vợ.
Sau đó Đam Săn dẫn làng đi khai phá rừng. Chàng đã chặt cây smuk, một thứ cây
thần, cây “linh hồn”, cây “tổ tiên”, cây “sinh ra Hơ Nhị và Hơ Bhị”[1;52]. Do những hành
động trên của Đam Săn, Hơ Nhị và Hơ Bhị đã hai lần chết. Song khi vợ chết, chàng khóc
thương người vợ mà thần linh ban cho chàng, để chàng “có người vợ nấu cơm đơm canh,
người vợ dệt khố dệt áo”[1;56]. Chàng đã xin thần linh ban phép cho vợ chàng sống lại.
Với khát vọng trở thành tù trưởng hùng mạnh, vươn tới cuộc sống phóng khoáng,
Đam Săn đi bắt Nữ thần Mặt Trời về làm vợ. Đến buôn làng Đam Par Kvây, mặc dù được
người bạn cũ ngăn cản không nên đi, nhưng Đam Săn bỏ qua lời can ngăn của bạn tiếp
tục lên đường. Đam Săn đi gặp nữ thần Mặt Trời để cầu hôn nhưng bị từ chối. Đam Săn
ra về và bị ngập chìm trong vùng rừng đất mềm. Con chuồn đã bay về báo tin cho Hơ Nhị
và Hơ Bhị. Hơ Nhị sai người đi báo cho chị gái và em gái Đam Săn là Hơ Âng và Hơ Lị.
Mọi người đến rừng Bà Sun Y Rit – nơi Đam Săn chết, để làm tang cho chàng.
Hơ Âng đang khóc thương em trai thì có một con ruồi bay vào miệng. Sau đó Hơ
Âng mang thai và nàng sinh ra một đứa bé trai. Thần phán đặt tên cho đứa bé là Đam
Săn. Lớn lên, Đam Săn (Đam Săn cháu) thay cậu lấy Hơ Nhị. Buôn làng Đam Săn cháu
và Hơ Nhị làm lễ cúng thần linh và tổ tiên.


II. Đặc điểm thi pháp của sử thi Đam Săn
Cùng với các thiên sử thi đồ sộ của thế giới như Iliat và Ôđixê của Hy Lạp,
Mahabharata và Ramayana của Ấn Độ, Ênêit của La Mã...thì Đam Săn của người Việt
Nam cũng góp tiếng nói riêng vào việc khẳng định sự không thể vắng mặt của thể loại
này trong nền văn học thế giới. Không ngần ngại mà khẳng định rằng: Đam Săn là thiên
sử thi lớn nhất, có giá trị nhất trong kho tàng sử thi các dân tộc Tây Nguyên nói riêng và

Việt Nam nói chung. Ai đã từng đọc tác phẩm này một lần, hẳn sẽ không thể nào quên
được hình ảnh người anh hùng Đam Săn đầy khát vọng chiếm lĩnh những đỉnh cao vinh
quang, với phong vị Tây Nguyên lãng mạn mà oai hùng, với tục “chuê nuê” khác thường
mà độc đáo... Sử thi Đam Săn phần nào đã tái hiện nên được một bức tranh toàn cảnh của
người Tây Nguyên cổ đại, nó chính là lịch sử đấu tranh chinh phục thiên nhiên, cải tạo xã
hội của người Ê-đê, chủ đề phản ánh của nó vô cùng phong phú: Ca ngợi người anh
hùng, phản ánh xã hội Ê-đê thời cổ đại, phản ánh những phong tục tập quán của cộng
đồng. Và sử thi Đam Săn mang những đặc trưng thi pháp sau:
1. Thi pháp nhân vật trong sử thi Đam Săn
1.1 Đam Săn - nhân vật trung tâm
Nhân vật trung tâm trong sử thi là nhân vật anh hùng, người đại diện cho lí tưởng
của cộng đồng Tây Nguyên. Và trong sử thi Đam Săn, thì người đại diện cho lí tưởng đó
là nhân vật Đam Săn. Hình ảnh Đam Săn được xây dựng trong sử thi là người anh hùng
với vẻ đẹp ngoại hình hoàn mĩ, là người anh hùng với hành động phi thường và là người
anh hùng với tính cách mạnh mẽ, ngang tàng.
Đầu tiên, để ca ngợi người anh hùng lí tưởng trong sử thi Đam Săn, nhân vật Đam
Săn…được mô tả là người tù trưởng giàu mạnh, là người anh hùng lý tưởng của thời đại.
Đó là lý tưởng về một mẫu người khỏe đẹp, có tài năng xuất chúng. Đam Săn hiện lên
với trang phục: “Chàng quấn một khố sọc điểm hoa kơ-ụ, chít một khăn điểm hoa êmiê,
mặc cái áo ông Trời từ trên cao đã ban cho…trông thật ra dáng một tràn tù trưởng trẻ
nhà giàu”

[1;13]

. Cùng với hành động múa khiên đầy khỏe mạnh: “Chàng múa trên cao,

gió như bão. Chàng múa dưới thấp, gió như lốc. Chòi lẫm đổ lăn lóc. Cây cối chết rụi.
Khi chàng múa dưới thấp, vang lên tiếng đĩa khiên đồng. Khi chàng múa trên cao, vang
lên tiếng đĩa khiên kênh”


[1;34]

. Không chỉ có vậy, mà ngoại hình của Đam Săn còn được


miêu tả chi tiết như sau: “Cổ chàng trông như quả cà chín, nhìn qua vài lần không thấy
đã thèm. Râu mép to bằng sợi móc, râu hàm to bằng đọt song, râu ria quanh miệng mọc
xoắn mọc xít đến tận quanh tai” [1;13]. Vẻ tinh anh, nhanh nhẹn của Đam Săn được ví:
“mắt đen như mắt rắn, long lanh như mắt cá trê, giận dữ như đôi mắt rắn đang ấp trong
hang”

[1;47]

. Đam Săn là nhân vật anh hùng bách chiến bách thắng. Trong các trận đánh

nhau với các tù trưởng ở trần gian như Mtao Grự, Mtao Mxây…đến các lần xung trận đọ
sức với thần linh chàng đều chiến thắng. Đời sống tinh thần của Đam Săn luôn có sự đấu
tranh, giữa việc bắt buộc phải làm nhiệm vụ với không chịu làm nhiệm vụ của người
chồng theo tục lệ “chuê nuê” truyền thống đã quy định; giữa chịu an phận sống với vợ
theo nếp đã định sẵn với việc “mở ra con đường theo ý muốn”.
Đam Săn hiện lên với hành động và tư tưởng cao cả, luôn hướng tới khát vọng
muốn trở thành một tù trưởng hùng mạnh, nên Đam Săn mới chịu lấy hai chị em Hơ Nhị
và Hơ BHị và muốn đi bắt nữ thần mặt trời: “Tôi muốn đi bắt nữ thần mặt trời. Như vậy
mới trở thành tù trưởng hết sức giàu mạnh…trên đời không ai bì kịp…Tôi đến đâu núi sẽ
vỡ, suối tan”[1;58].
Phẩm chất cao quý của nhân vật Đam Săn ở đây chính là lòng dũng cảm, xả thân
vì cộng đồng trong việc chiến đấu chống kẻ thù và chinh phục thiên nhiên. Người anh
hùng đó mang vẻ đẹp hài hòa đến mức lý tưởng giữa thể chất và ngoại hình. Trong thi
pháp sử thi, hình ảnh nhân vật anh hùng là nhân vật của một quan niệm nghệ thuật độc
đáo. Họ có thể được sinh ra bình thường hoặc thần kì nhưng khi trưởng thành, tất cả đều

có quyền năng ngang tầm hoặc vượt cả các thế lực siêu nhiên. Ở sử thi Đam Săn cũng
không ngoại lệ, Đam Săn khi lên trời “tức thì chàng tóm, lấy đầu ông”

[1;56]

và nói “Tôi

chém ông đây này!” [1;56]. Tính kỳ vĩ, hào hùng là đặc trưng của nhân vật anh hùng. Nhân
vật có những hành động phi thường, kỳ diệu. Ngoài những công việc hằng ngày, đời
thường thì người anh hùng lại được dân gian tô vẽ lên với những kỳ tích mà người bình
thường khó lòng làm được, mà điển hình ở đây là Đam Săn với việc cầu hôn nữ thần Mặt
Trời.
Không chỉ có vậy, nhân vật anh hùng phải là nhân vật luôn hành động. Hành động
vì quyền lợi và mục đích của cộng đồng. Họ hành động không chỉ do vai trò và công việc
bắt buộc, thôi thúc, mà họ còn tiềm tàng sẵn nhu cầu hành động rất cao trong mọi trường


hợp, mọi điều kiện. Nhiệm vụ quan trọng và thiết yếu nhất của nhân vật anh hùng là sẵn
sàng chiến đấu với mọi thế lực, trọng mọi tình huống để bảo vệ sự bình yên và phát triển
của cộng đồng. Đam Săn đang cùng dân làng bắt cá, nghe tin Hơ Nhị bị Mtao Mxây bắt
đi, liền nói: “Hỡi các con! Chúng ta về ngay! Bỏ lại tất cả đồ đạc ở nơi đây…chúng ta
hãy đi tìm xem ai đã lôi kéo cối khỏi chầy, ai đã bắt vợ ta”

[1;44]

. Đam Săn không chỉ là

anh hùng trong chiến trận mà còn là anh hùng trong lao động. Chàng dẫn dân làng đi khai
phá rừng, chăm chỉ lao động: “Tôi gọi các người chẳng vì công này, chẳng vì việc nọ.
Tôi muốn chúng ta đi rừng, tìm chặt cây mơ-ruah, cây klu…(1)” [1;52].

Qua việc phân tích thi pháp xây dựng nhân vật Đam Săn - nhân vật trung tâm
trong sử thi Đam Săn, chúng ta có thể nhận thấy nghệ thuật khái quát hoá, lý tưởng hoá
được sử dụng triệt để trong việc xây dựng nhân vật sử thi. Đam Săn là nhân vật tiêu biểu
cho lý tưởng cộng đồng. Mọi suy nghĩ và hành động của Đam Săn đều hướng đến mục
đích xác lập và khẳng định một thế quyền mạnh mẽ cho cộng đồng. Chàng phải chiến
đấu để bảo vệ và chiếm đoạt thêm đất đai, tài sản, làm giàu cho dân cư. Chàng là con
người toàn diện vì ở lĩnh vực nào chàng cũng tài giỏi. Dũng cảm trong chiến đấu, táo bạo
trong khám phá, hài hòa trong mọi quan hệ…Đam Săn là hiện thân của sự kết tinh mọi
phẩm chất ưu tú của cộng đồng, thời đại. Và chính sự phóng đại đã đẩy nhân vật anh
hùng Đam Săn lên quá mức bình thường. Chàng trở thành con người rất kì vĩ, là người
anh hùng bách chiến bách thắng, thậm chí có thể chiến thắng được cả thế lực siêu nhiên
ghê gớm, vượt qua tất cả gian khổ, khó khăn, dễ dàng lập được nhiều chiến công, kì tích.
1.2 Các nhân vật phụ
1.2.1 Nhân vật đối địch
Trong sử thi Đam Săn, cùng xuất hiện với nhân vật trung tâm là người anh hùng
Đam Săn thì còn có những nhân vật đối địch khác là tù trưởng Mtao Grự, Mtao Mxây
(1) Loại cây cho gỗ làm cảnh và tráng nỏ

Họ là đều là những tù trưởng tham lam, hiếu sắc. Mặc dù Mtao Grự đã có rất nhiều vợ:
“vợ cả”, “vợ thái thuốc hút”, “vợ têm trầu”…nhưng khi nghe bọn tôi tớ nói Hơ Nhị rất
xinh đẹp “lộng lẫy như thần, ngời sáng như mặt Trời. Ngón tay như lông nhím. Mặt mày
tròn trạnh như quả hồng rừng…”

[1;29]

thì Mtao Grự lại muốn cướp nàng về làm vợ. Hay

như Mtao Mxây đã gần đất xa trời rồi nhưng vẫn thích đi cướp vợ người anh hùng Đam



Săn về làm vợ bé. Nhưng kết quả là chúng đều thua cuộc trong những trận giao chiến với
người anh hùng Đam Săn. Hình ảnh Mtao Grự hiện lên thật thảm hại “Mtao Grự lảo
đảo như gà gãy cánh, khập khiễng như gà gãy chân, vừa chạy vừa kêu oai oái ở bãi
đông…”[1;34]. Và hình ảnh Mtao Mxây hiện lên thật buồn cười: “Mtao Mxây rung khiên
múa…khiên hắn kêu lạch xạch như quả mướp khô”

[1;47]

. Và đối nghịch hẳn với những

hình ảnh đó là Đam Săn múa khiên: “Chàng múa trên cao, gió như bão. Chàng múa
dưới thấp, gió như lốc. Chòi lẫm đổ lăn lóc. Cây cối chết rụi…”

[1;48]

. Rõ ràng ở đây ta

thấy, cộng đồng người Tây Nguyên đã “ưu ái” tô vẽ lên một Đam Săn chính nghĩa vô
cùng hào hùng, mạnh mẽ và ngược lại những tù trưởng với việc tranh cướp phi nghĩa thì
sẽ phải nhận kết quả không tốt đẹp. Và đây chính là thi pháp xây dựng nhân vật phản
diện trong sử thi Đam Săn.
1.2.2 Nhân vật nữ tài sắc
Tuy không phải là nhân vật chính trong sử thi Đam Săn, nhưng nhân vật Hơ Nhị
và Hơ BHị có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển cốt truyện. Chị em Hơ Nhị, Hơ
BHị, “tay trái đeo xuyến bạc, tay phải đeo vàng kép..cả người lấp lánh như cái đĩa khiên
đồng…” [1;14]. Và người đàn ông lý tưởng của họ phải là những chàng trai tài giỏi, những
người anh hùng, và chính họ sẽ góp phần làm cho người anh hùng trở nên có quyền lực
và giàu sang: “Chỉ lấy Hơ Nhị, Đam Săn mới trở nên một tù trưởng giàu có, chiêng lắm,
la nhiều”


[1;7]

. Vì thế mà chị em Hơ Nhị, Hơ BHị quyết lấy cho bằng được Đam Săn và

khi Đam Săn lấy họ, thì chàng đã trở thành một tù trưởng giàu mạnh. Và cũng chính Hơ
Nhị và Hơ BHị là nguyên nhân của cuộc chiến tranh giữa Đam Săn với Mtao Grự, Mtao
Mxây… tất cả đều nhằm mục đích cướp người đẹp và giành lấy người đẹp bị cướp.
1.2.3 Nhân vật thần
Trong sử thi Đam Săn, thần là nhân vật phụ nhưng lại có ảnh hưởng rất lớn đến
tiến trình phát triển của cốt truyện. Nhân vật thần là ông ông Trời, ông Đu, ông Điê (1),
nữ thần Mặt Trời. Họ tuy không có vai trò quyết định nhưng lại có ảnh hưởng và chi phối
rất lớn đến cuộc sống của Đam Săn. Ví dụ như khi Đam Săn không chịu lấy Hơ Nhị, ông
Đu, ông Điê phải can thiệp: “ông Đu, ông Điê người chống gậy mây, người chống gậy
mun, đang lộc đi vào để lo chuyện vợ chồng cho Hơ Nhị, Hơ BHị và Đam Săn”

[1;13]

.

Không chỉ vậy ông Trời còn thường xuất hiện và can thiệp khi người anh hùng Đam Săn


gặp nguy hiểm, khó khăn, trở ngại. Khi giao chiến với Mtao Mxây mãi chưa phân thắng
bại, Đam Săn đã thấm mệt thì ông Trời đã chi cách cho chàng: “Cháu lấy một cái chày
mòn cháu ném vào vành tai hắn là được”

[1;49]

, Đam Săn đã chiến thắng Mtao Mxây. Ở


đây, Ông Trời đã đóng vai trò là nhân vật trợ giúp, như ông Tiên, ông Bụt trong truyện cổ
tích, chứ không chi phối và can thiệp quá mức như các vị thần trong sử thi Hômerơ hoặc
sử thi của Ấn Độ. Thậm chí có khi ông Trời còn phải chịu nhượng bộ những yêu sách của
người anh hùng Đam Săn là cứu sống Hơ Nhị và Hơ BHị, lần khác là đòi hạt giống. Và
chính những điều đó là điều kiện để giúp người anh hùng thực hiện lý tưởng xã hội.
1.2.4 Nhân vật cộng đồng
Người anh hùng thường không lẻ loi, đơn độc vì bên cạnh luôn có một tập thể
đông đảo. Trong sử thi Đam Săn họ được gọi một cách tượng trưng là: bà con, họ, đám
đông, các con, các tôi tớ hay theo số lượng: hàng nghìn, hàng vạn người,…Hình ảnh cả
cộng đồng người theo bước chân từ trưởng Đam Săn để đòi lại công lí: “Đoàn người ra
đi đông như bầy cà – tong, đặc như bầy thiêu thân, ùn ùn như kiến như mối”

[1;32]

. Cũng

như hình ảnh cả một tập thể đông đảo cùng người anh hùng tham gia lao động: “một
trăm người mở đường đi trước, một nghìn người cất bước theo sau, kẻ cầm cuốc, người
vác chà – gạc…”[1;52], đã thể hiện được một cách sinh động tính chất toàn dân của sử thi
anh hùng. Đồng thời những hình ảnh đó thể hiện khá sâu sắc mối quan hệ hài hòa, gắn bó
giữa nhân vật anh hùng Đam Săn với cả tập thể cộng đồng.
2. Cốt truyện sử thi Đam Săn
Cốt truyện của sử thi Đam Săn diễn tiến trình tự theo các sự kiện như sau:
(1) Hai vị thần lớn nhất của người Ê đê, Aê Đu, Aê Điê

Hơ Nhị nhờ Y Đhing hỏi Đam Săn về làm chồng - Đam Săn lấy Hơ Nhị, Hơ BHị Đam Săn đánh Mtao Grự giành lại vợ - Đam Săn đi làm rẫy - Đam Săn đánh Mtao Mxây
giành lại vợ - Đam Săn đi chặt cây - Đam Săn xin ông Trời cho vợ sống lại - Đam Săn đi
bắt nữ thần mặt trời - Đam Săn chết, Đam Săn cháu thay cậu - Kết thúc.
Ta nhận thấy cốt truyện của sử thi Đam Săn được mở rộng cấu trúc theo chiều
hướng gia tăng phẩm chất anh hùng của nhân vật trung tâm. Nhân vật Đam Săn được đặt

vào những hoàn cảnh, những mâu thuẫn ngày càng cao hơn, theo đó là những hành động
tương ứng của nhân vật, khiến cho các biến cố liên tiếp diễn ra và dẫn đến kết thúc. Cốt


truyện của sử thi Đam Săn với những chi tiết, sự kiện cần thiết đã khiến cho tác phẩm
mang dáng dấp của sử thi cổ điển (các tác phẩm sử thi anh hùng là Iliat vàÔđixê của
Hômerơ). Nhân vật chính của sử thi Ê-đê thường được nhắc đến thời thơ ấu của họ còn
trong sử thi Đam Săn thì không thấy nói đến thời thơ ấu của nhân vật anh hùng Đam Săn.
Thời thơ ấu của Đam Săn chỉ được nhắc sơ qua, qua kí ức của Hơ Nhị: “Ông bế tôi trên
đùi, còn Đam Săn ông cõng trên lưng” [1;7]. Nhưng chính cách sáng tạo này đã tránh được
cách làm “kéo dài ra phía trước và phía sau” của sử thi một cách tùy tiện. Phần kết thúc
của sử thi Đam Săn ít nhiều đã làm cho cốt truyện bị loãng ra nhưng người kể đã biết
dừng lại không nhắc tới các sự kiện, hành động và biến cố của cuộc đời cháu. Cốt truyện
được triển khai theo nhiều bình diện: phong tục, sản xuất, chiến tranh, thâm nhập tự
nhiên...Một tác phẩm không dài (66 trang, từ trang 6 đến trang 72) mà đã phản ánh những
vấn đề lớn của thời đại và chứa đựng những dung lượng cuộc sống lớn như vậy quả là
hiếm có trong kho tàng sử thi nước ta và có thể là của cả thế giới.
3. Kết cấu sử thi Đam Săn
Sử thi Đam Săn có kết cấu chương hồi gồm có bảy khúc, xâu chuỗi lại với nhau.
Cả sử thi là câu chuyện xoay quanh hành động anh hùng, phi thường của người tù trưởng
trẻ tuổi oai hùng Đam Săn. Đam Săn đã đứng lên chống lại tục “chuê nuê” cổ hủ, chống
lại thần quyền, chinh phục thiên nhiên, chiến đấu lại chống kẻ thù để vươn tới một cuộc
sống hạnh phúc, tự do, để bảo vệ và phát triển bộ tộc. Sử thi Đam Săn có bảy khúc và ta
có thể chia làm bốn phần như sau:
Phần thứ nhất (Khúc 1-2): Đam Săn làm chồng Hơ Nhị, Hơ BHị trong bối cảnh cả
cộng đồng theo tục nối dây (chuê nuê).
Phần thứ hai (Khúc 3-4): Đam Săn chiến thắng các tù trưởng gian hùng, mở mang
địa bàn, lãnh thổ, xây dựng bản làng hùng mạnh, tiếng tăm của chàng vang khắp các rừng
núi, từ Đông sang Tây.
Phần thứ ba (Khúc 5-6): Đam Săn chặt cây thần, rồi đi cầu hôn nữ thần Mặt Trời.

Nữ thần Mặt Trời từ chối. Trở về, chàng bị chết lún trong rừng đất đen Bà Sun Y Rit, cả
bộ tộc thương tiệc người anh hùng.
Phần thứ tư (Khúc 7): Kết thúc sử thi, kể lại ý Trời vẫn bắt Đam Săn đầu thai vào
bụng chị Hơ Âng, tiếp tục nối dây với Hơ Nhị và Hơ BHị. Cháu Đam Săn vẫn mang tên


Đam Săn, lớn lên như thổi và trở thành tù trưởng lí tưởng, sẽ đi tiếp con đường mà cậu
chàng đã đi.
Kết cấu của sử thi đã tuân theo trình tự thời gian, không gian và nó mang hình
dáng của một tiểu thuyết chương hồi. Ở mỗi chương hồi đều thể hiện được trọn vẹn một
sự việc, một câu chuyện, một chiến công của nhân vật anh hùng thời đại - Đam Săn.
Những sự mô tả được sắp xếp một cách logic, dồn dập từ thấp đến cao, các sự kiện được
sắp xếp chặt chẽ, giàu trí tưởng tượng để tạo thành một tác phẩm lớn hoàn chỉnh.
Tóm lại, sử thi Đam Săn có kết cấu đầu cuối tương ứng, mang tính chất một chu kì
khép kín. Kiểu kết cấu này chịu sự chi phối của tâm lý tiếp tục “chuê nuê” (nối dây) và
khát vọng muốn có một vị tù trưởng tài giỏi để dẫn dắt cộng đồng ngày càng giàu mạnh.
4. Thời gian và không gian trong sử thi Đam Săn
4.1 Thời gian
Thời gian trong sử thi Đam Săn có tính ước lệ. Người kể chuyện sử thi thường sử
dụng mệnh đề “nghỉ một ngày, ngơi một đêm, ở không thêm một chiều một sáng”

[1;51]

như một dấu hiệu để chuyển tiếp các sự kiện, hành động, biến cố liên quan đến nhân vật.
Thời gian trong sử thi Đam Săn thay đổi nhanh chóng như chính sự thay đổi trong cuộc
đời của nhân vật anh hùng: “Đam Săn nghỉ một ngày, ngơi một đêm, ở không thêm một
chiều một sáng. Bây giờ thì cậu đã biết ngày ngày đi rẫy làm cỏ sửa chòi, biết mua cồng
mua chiêng, biết cứu thoát nô lệ trai gái”[1;71].
4.2 Không gian
Không gian trong sử thi Đam Săn là không gian cộng đồng, không gian bao gồm

tất cả mọi khía cạnh: không gian thiên nhiên, không gian xã hội. Không gian thiên nhiên
là núi non, sông ngòi, cây cỏ, chim chóc, thú vật, sản vật. Không gian xã hội là bản làng,
sinh hoạt lao động sản xuất và chiến đấu. Và theo Đỗ Hồng Kì thì không gian trong sử thi
Đam Săn đi từ viễn cảnh đến cận cảnh. Chẳng hạn, ngôi nhà dài, buôn làng được miêu tả
từ xa đến gần. Không gian sử thi Đam Săn được mở rộng vô tận và nằm ngoài giới hạn
có thực. Không gian trong sử thi có tính huyền ảo trong môi trường hư hư thực thực, nơi
mà “dòng nước đục chảy cho đến nơi nào đất giáp trời”. “Không gian trong sử thi chỉ
tồn tại trong thời điểm nhân vật hoạt động. Đây cũng là đặc điểm chung của không gian
truyện kể dân gian. Những nơi nào mà nhân vật chính không hoạt động thì không gian


cũng không tồn tại. Không gian trong sử thi luôn biến đổi theo hành động nhân vật một
cách mau lẹ và đột ngột: đang trong không gian lao động, hoà bình, nghe tin vợ bị cướp
là chuyển sang không gian chuẩn bị cho chiến tranh và không gian chiến trường xuất
hiện. Không gian trong sử thi không bị ngưng đọng mà luôn thay đổi theo hành động của
nhân vật [2;218-219].
5. Công thức kể - tả trong sử thi Đam Săn
5.1 Công thức kể
Lời trần thuật của người kể chuyện trong sử thi Đam Săn được triển khai xen vào
những lời đối thoại của nhân vật. Nó có chức năng dàn dựng câu chuyện, tường thuật
hành động và biến cố trong cuộc đời nhân vật. Lời trần thuật của người kể chuyện thường
được dùng để kết thúc một đoạn, một phần nào đó của truyện: “Đam Săn nghỉ một gày,
ngơi một đêm, ở không thêm một chiều một sáng”

[1;36]

. Trong sử thi Đam Săn người kể

còn thường tỏ thái độ của mình đối với sự kiện, nhân vật anh hùng nên trong sử thi có
loại ngôn ngữ bình giá: “Chàng mở tiệc ăn uống linh đình, thịt lợn, thịt trâu ăn không

ngớt...Cảnh đó đời ông bác ông cậu xưa kia làm gì có” [1;50-51].
Tính chất kịch là một đặc điểm của ngôn ngữ kể sử thi Đam Săn. Người kể khan
đóng vai, nhập thân vào nhân vật nên dù ngồi ngay tại chỗ nhưng người kể luôn thay đổi
nét mặt, giọng điệu phù hợp với khung cảnh câu chuyện và trạng thái nhân vật. Xen kẽ
với lời dẫn chuyện theo phương thức tự sự là tiếng nghệ nhân miêu tả tiếng thác đổ bên
bờ suối, tiếng voi rống trong rừng tre, tiếng ngựa hí trên đồi tranh, tiếng chiêng đánh
vang lừng.
Một đặc điểm quan trọng nữa là ngôn ngữ thơ trong khi kể sử thi Đam Săn. Đó là
thứ ngôn ngữ giàu nhạc điệu thể hiện trong vần điệu, trong các vế đối xứng nhịp nhàng,
có sự liên kết hài hòa giữa các vế trong câu: “Một lần xốc tới, chàng vượt một đồi tranh.
Một lần sốc tới nữa, chàng vượt một đồi lồ - ô ” [1;48].
4.2 Công thức miêu tả
Sử dụng các biện pháp so sánh, ví von rất giàu hình ảnh. Mỗi cảnh đẹp, vẻ đẹp đều
có cách tả khác nhau theo một công thức nhất định. Tả về vẻ đẹp Đam Săn: “Cổ chàng
trông như quả cà chín, nhìn qua vài lần không thấy đã thèm. Râu mép to bằng sợi móc,
râu hàm to bằng đọt song, râu ria quanh miệng mọc xoắn mọc xít đến tận quanh tai” [1;13].


Cách so sánh thật hồn nhiên, chất phác nhưng giàu hình tượng: “Tôi tớ mang của cải về
nhiều như ong đi chuyển nước, như vò vẽ đi chuyển hoa, như bầy trai gái đi giếng làng
cõng nước”

[1;50]

, miêu tả cảnh sống sầm uất, vui tươi: “Trâu bò nhi nhúc như mối, như

kiến” [1;8]. “Các chàng trai đi lại ngực đụng ngực. Các cô gái đi lại vú đụng vú” [1;51].
Lối nói hình tượng của sử thi không chỉ thể hiện qua cách so sánh mà còn qua các
biện pháp nghệ thuật khác như phóng đại, ngoa dụ, trùng điệp (điệp ngữ). Đây là cách tả
phóng đại: Tả thân thể của Đam Săn sắc: “Bắp chân chàng to bằng cây xà ngang, bắp

đùi chàng to bằng ống bễ”

[1;51]

. Tả cây: “Gốc cây người đi quanh phải một năm, cành

cây chim chuyền phải một tháng...”[1;52]. Đây là lối tả trùng điệp, điệp ngữ : “Hãy đánh
lên các chiêng có âm vang, những chiêng có tiếng đồng, tiếng bạc! Hãy đánh lên tất cả
cho ở dưới vỡ toác các cây đòn ngạch, cho ở trên gãy nát các cây xà ngang...”

[1;50]

, “Thế

là bà con xem, nhà Đam Săn đông nghẹt khách, tôi tớ chật ních cả nhà ngoài... Bà con
xem, chàng Đam Săn uống không biết say, ăn không biết no, chuyện trò không biết
chán... Rõ ràng là tù trưởng Đam Săn đang giàu lên, chiêng lắm la nhiều. Rõ ràng là
Đam Săn có chiêng đống, voi bầy, có bè bạn như nêm như xếp...” [1;50-51].
Tóm lại, sử thi Đam Săn - với những đặc điểm thi pháp độc đáo, đã giúp nó trở
thành một trong những tác phẩm sử thi đặc sắc nhất của Tây Nguyên nói chung hay sử thi
của người Ê Đê nói riêng. Đối với người Ê-đê, sử thi có một sức hấp dẫn kì lạ: “Khi
trong nhà có người kể khan, hễ lúc mặt trời lặn, người ta thấy mọi người chăm chú, bất
động như thế nào thì khi mặt trời mọc người ta cũng thấy mọi người y nguyên như vậy,
khi trong nhà có người kể khan, đàn bà ngừng kêu, trẻ con ngừng khóc, đàn ông không
ngủ, không ai nói năng, mọi người chăm chú nghe,…” (Sabatier). Thiết nghĩ, ai ai cũng
say mê sử thi là vì nó tích lũy các tinh hoa, văn học nghệ thuật của nhân dân, của một
thời đại, là biểu hiện của cái đẹp, của con người trong mối quan hệ tự nhiên và xã hội của
“thời đại anh hùng”, “buổi niên thiếu của xã hội loài người”.
Tài liệu tham khảo
[1] Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên): Tuyển tập văn học các dân tộc ít người ở Việt Nam

(Quyển thứ tư), NXB Khoa học Xã hội, 1992
[2] Đỗ Hồng Kì: Tự sự học - Một số vấn đề lý luận và lịch sử, Sđd, tr.218-219.


Website tham khảo
1. />2. />3. />4. />
22.html
5.

san/

/>


×