Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Qui định của pháp luật hiện hành về hình thức của hợp đồng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (81.82 KB, 17 trang )

qui định của pháp luật hiện hành về hình thức của hợp đồng dân sự
I. MỞ ĐẦU
Cơ sở đầu tiên để hình thành một hợp đồng dân sự là việc thỏa thuận bằng ý
chí tự nguyện của các bên. Tuy nhiên hợp đồng chỉ được pháp luật công nhận và
bảo vệ khi ý chí các bên phù hợp với quy định của nhà nước, trong đó có các quy
định của pháp luật về hình thức và nội dung của hợp đồng. Với múc đích đi sâu và
tìm hiểu về các quy định của pháp luật về hình thức của hợp đồng dân sự, em xin
lựa chọn đề tài: “ Đánh giá qui định của pháp luật hiện hành về hình thức của hợp
đồng dân sự”.

Trong quá trình làm bài em đã cố gắng nhiều, song với trình độ hiểu biết vấn
đề còn hạn chế nên bài viết khó có thể tránh khỏi những thiếu sót. Bởi vậy em rất
mong có thể nhận được sự đóng góp ý kiến từ phía thầy cô để bài làm của em được
hoàn thiện hơn.

II. NÔI DUNG
1, KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ:
1.1, Khái niệm
Hợp đồng dân sự là một trong những chế định quan trọng của pháp luật dân sự
và là phương tiện pháp lý quan trọng để thỏa mãn quyền, lợi ích hợp pháp của các
chủ thể trong xã hội.
Khái niệm hợp đồng dân sự được đề cập tại Điều 388, BLDS 2005, theo đó có
thể hiểu hợp đồng dân sự là: “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về
việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.


Qua khái niệm hợp đồng dân sự có thể thấy để hình thành hợp đồng dân sự phải có
những yếu tố cơ bản sau:
- Hợp đồng dân sự phải có sự tham gia của các bên: Hợp đồng là sự thỏa thuận của
các chủ thể liên quan đến xác lập các quyền, nghĩa vụ nhằm đem lại lợi ích cho
mình hoặc đem lại lợi ích cho người khác. Nếu như hành vi pháp lý đơn phương chỉ


là sự tuyên bó ý chí công khai của một phía chủ thể thì khi tham gia quan hệ hợp
đồng, ít nhất phải có hai chủ thể đứng về hai phía của hợp đồng. Ngoài ra, trong
một số trường hợp, việc tham gia quan hệ hợp đồng có thể có sự xuất hiện của bên
thứ ba(hợp đồng vì lợi ích của bên thứ ba).
- Hợp đồng dân sự được hình thành dựa trên cơ sở thỏa thuận và thống nhất ý chí
giữa các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng đó: Thỏa thuận và thống nhất ý chí là
yếu tố cốt lõi để hình thành quan hệ hợp đồng giữa các chủ thể, thiếu sự thỏa thuận
này thì hợp đồng sẽ không có hiệu lực.
- Hậu quả pháp lý của sự thay đổi giữa các bên trong quan hệ hợp đồng là nhằm xác
lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự.
- Sự thỏa thuận giữa các bên không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như giả tạo, nhầm
lẫn, lừa dối, đe dọa,…
1.2, Phân loại
Để phân loại hợp đồng ta căn cứ vào các tiêu chí sau:
Căn cứ vào sự phụ thuộc lẫn nhau về hiệu lực pháp lý của hợp đồng, hợp đồng
đươc chia thành: Hợp đồng chính và hợp đồng phụ.


Căn cứ vào hình thức của hợp đồng thì hợp đồng dân sự được chia thành hợp
đồng có hình thức lời nói, hình thức văn bản va hình thức hành vi.
Căn cứ vào sự có đi, có lại về lợi ích vật chất giữa các chủ thể trong quan hệ hợp
đồng, hợp đồng được chia thành: Hợp đồng có đền bù và hợp đồng không có đền
bù.
Căn cứ vào sự tác động qua lại về quyền và nghĩa vụ của các bên thì hợp đồng
dân sự được chia thành: Hợp đồng song vụ và hợp đồng đơn vụ.
Căn cứ vào thời điểm có hiệu lực của hợp đồng thì hợp đồng dân sự được chia
thanh: Hợp đồng dân sự có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết và hợp đồng dân sự có
hiệu lực kể từ thời điểm khác.
Ngoài ra hợp đồng còn có thể bao gồm các loại sau: Hợp đồng dân sự vì lợi ích của
người thứ ba, hợp đồng dân sự có điều kiện, hợp đồng dân sự hỗn hợp, hợp đồng

dân sự theo mẫu,…
1.3. Nội dung của hợp đồng dân sự
Nội dung của hợp đồng dân sự là tổng hợp các điều khoản mà các chủ thể tham
gia giao kết hợp đồng đã thỏa thuận. Các điều khoản đó xác định những quyền và
nghĩa vụ dân sự cụ thể của các bên trong hợp đồng.
Tại Điều 402 BLDS 2005 quy định:
Tuỳ theo từng loại hợp đồng, các bên có thể thoả thuận về những nội dung sau đây:
• Ðối tượng của hợp đồng là tài sản phải giao, công việc phải làm hoặc không được
làm;


• Số lượng, chất lượng;
• Giá, phương thức thanh toán;
• Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng;
• Quyền, nghĩa vụ của các bên;
• Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng;
• Phạt vi phạm hợp đồng;
• Các nội dung khác.
Trong tất cả các điều khoản nói trên , có những điều khoản mà ở hợp đồng này
các bên không cần thỏa thuận nhưng ở một hợp đồng khác, các bên lại buộc phải
thỏa thuận, thì hợp đồng mới được coi là giao kết. Mặt khác ngoài những nội dung
cụ thể này, các bên còn có thể thỏa thuận để xác định với nhau thêm một số nội
dung khác. Vì vậy, có thể phân chia các điều khoản trong nội dung của hợp đồng
thành 3 loại:
• Điều khoản cơ bản: Là các điều khoản không thể thiếu được đối với từng loại hợp
đồng nhằm xác định những nội dung chủ yếu của hợp đồng và nếu không thỏa
thuận các điều khoản này thì hợp đồng không thể giao kết được. Điều khoản cơ bản
có thể do tính chất của hợp đồng quy định hoặc do pháp luật quy định, tùy theo từng
loại hợp đồng mà điều khoản cơ bản có thể là đối tượng, giá cả, địa điểm,…
• Điều khoản thông thường: Là những điều khoản được pháp luật quy định trước.

Nếu khi giao kết hợp đồng, các bên không thỏa thuận những điều khoản này, thì vẫn
coi như hai bên đã mặc nhiên thỏa thuận và được thực hiện như pháp luật quy định,
ví dụ: Địa điểm giao tài sản động sản( đối tượng của hợp đồng mua bán) là tại nới


cư trú của người mua nếu người mua đã trả tiền và trong hợp đồng các bên không
thỏa thuận về địa điểm giao tài sản. Khác với điều khoản cơ bản các điều khoản
thông thường không làm ảnh hưởng tới quá trình giao kết hợp đồng.
• Điều khoản tùy nghi: Khi giao kết hợp đồng ngoài những điều khoản phải thỏa
thuận vì tính chất của hợp đồng và những điều khoản mà pháp luật đã quy định thì
khi giao kết hợp đồng các bên có thể thỏa thuận để xác địnht hêm một số điều
khoản khác nhằm làm cho nội dung của hợp đồng được cụ thể hoặc tạo điều kiện
thuận lợi cho các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng. Như vậy, điều khoản tùy
nghi là những điều khoản mà các bên tham gia giao kết hợp đồng tự ý lựa chọn và
thỏa thuận với nhau để xác định quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên. Ví dụ: Địa
điểm trong hợp đồng mua bán sẽ là điều khoản tùy nghi nếu các bên đã thỏa thuận
cho phép bên có nghĩa vụ được lựa chọn một trong nhiều nơi để thực hiện nghĩa vụ
giao vật.
1.4. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự và hợp đồng dân sự vô hiệu
Hợp đồng dân sự là phương tiện pháp lý quan trọng để thỏa quyền và lợi ích hợp
pháp giữa các chủ thể tham gia quan hệ hơp đồng. Ngoài ra, hợp đồng dân sự còn là
căn cứ để tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác giải quyết tranh chấp phát
sinh. Tuy nhiên, để hợp đồng dân sự có hiệu lực pháp lý thì hợp đồng đó phải thỏa
mãn đầy đủ các điều kiện có hiệu lực do pháp luật quy định.
Như vậy, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự chính là điều kiện có hiệu
lực của giao dịch dân sự. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự được xác định
tại Điều 122, BLDS 2005:
“Ðiều 122. Ðiều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:



a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật,
không trái đạo đức xã hội;
c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp
pháp luật có quy định.”
Hợp đồng dân sự không tuân thủ đầy đủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch
dân sự thì được xác định là vô hiệu, tuy nhiên cần căn cứ vào từng trường hợp cụ
thể để xem xét và giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu. Khi xem
xét hợp đồng vô hiệu cần lưu ý là trên nguyên tắc hợp đồng phụ là hợp đồng mà
hiệu lực phụ thuộc vào hợp đồng chính nên sự vô hiệu của hợp đồng chính làm
chấm dứt hợp đồng trừ trường hợp có thỏa thuận hợp đồng phụ được thay thế hợp
đồng chính. Quy định hợp đồng chính vô hiệu thì hợp đồng phụ cũng vô hiệu không
được áp dụng đối với các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, điều đó có
nghĩa là hợp đồng chính vô hiệu nhưng các biện pháp bảo đảm vẫn có giá trị thi
hành, điều 15 của Nghị định 163/NĐ – CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao
dịch bảo đảm quy đinh:
“Điều 15.
Quan hệ giữa giao dịch bảo đảm và hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm
1. Hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm bị vô hiệu mà các bên chưa thực hiện hợp
đồng đó thì giao dịch bảo đảm chấm dứt; nếu đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ
hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm thì giao dịch bảo đảm không chấm dứt, trừ
trường hợp có thoả thuận khác.


2. Giao dịch bảo đảm vô hiệu không làm chấm dứt hợp đồng có nghĩa vụ được bảo
đảm, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
3. Hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm bị huỷ bỏ hoặc đơn phương chấm dứt thực
hiện mà các bên chưa thực hiện hợp đồng đó thì giao dịch bảo đảm chấm dứt; nếu

đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm thì giao
dịch bảo đảm không chấm dứt, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
4. Giao dịch bảo đảm bị huỷ bỏ hoặc đơn phương chấm dứt thực hiện không làm
chấm dứt hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
5. Trong trường hợp giao dịch bảo đảm không chấm dứt theo quy định tại khoản 1
và khoản 3 Điều này thì bên nhận bảo đảm có quyền xử lý tài sản bảo đảm để thanh
toán nghĩa vụ hoàn trả của bên có nghĩa vụ đối với mình.”
1.5. Thời hiệu khởi kiện về hợp đồng dân sự
Hợp đồng hợp pháp có hiệu lực pháp lý đối với các bên tham gia quan hệ hợp
đồng. Nếu bên nào vi phạm phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi trước chủ thể
phía bên kia. Pháp luật luôn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham
gia quan hệ hợp đồng. Tuy nhiên, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp đó chỉ
được thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định – đó chính là thời hiệu khởi
kiện về hợp đồng dân sự. Thời hiệu khởi kiện về hợp đồng dân sự được quy định tại
Điều 427 BLDS 2005:
“Ðiều 427. Thời hiệu khởi kiện về hợp đồng dân sự:
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự là hai
năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, các chủ thể
khác bị xâm phạm.”


Khi xác định thời hiệu khởi kiện để yêu cầu tòa án giải quyết tranh chấp hợp
đồng dân sự cần lưu ý:
• Đối với hợp đồng dân sự mà các bên có thỏa thuận thời hạn thực hiện nghĩa vụ
theo hợp đồng nếu hết thời hạn đó mà bên có nghĩa vụ không thực hiện thì ngày hết
hạn thực hiện nghĩa vụ là ngày xảy ra vi phạm;
• Đối với hợp đồng dân sự mà các bên không thỏa thuận thời hạn thực hiện nghĩa vụ
hoặc yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bất cứ lúc nào nhưng phải thông báo cho nhau biết
trước một thời gian hợp lý, nếu hết thời hạn đã được thông báo bên có nghĩa vụ
không thực hiện nghĩa vụ, thì ngày hết thời hạn đã được thông báo là ngày xảy ra vi

phạm;
• Trong trường hợp khi hết thời hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự, các bên có thỏa
thuận kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ đó, thì việc xác định ngày vi phạm căn cứ
vào ngày chấm dứt thỏa thuận của các bên;
• Trong quá trình thực hiện hợp đồng mà có vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng thì
ngày vi phạm nghĩa vụ là ngày xảy ra vi phạm, trừ trường hợp các bên có thỏa
thuận khác. Nếu một bên đơn phương đình chỉ hợp đồng thì ngày đơn phương đình
chỉ hợp đồng là ngày vi phạm.
2, HÌNH THỨC CỦA HỢP ĐỒNG DÂN SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
DÂN SỰ 2005:
2.1. Khái niệm, phân loại
Những điều khoản mà các bên đã cam kết thỏa thuận phải được thể hiện ra bên
ngoài bằng một hình thức nhất định. Hay nói cách khác, hình thức của hợp đồng là
phương tiện để ghi nhận nội dung mà các chủ thể đã xác định. Tùy thuộc vào nội
dung, tính chất của từng hợp đồng cũng như tùy thuộc vào độ tin tưởng lẫn nhau mà


các bên có thể lựa chọn một hình thức nhất định trong việc giao kết hợp đồng cho
phù hợp với từng trường hợp cụ thể. Tại điều 401 BLDS đã quy định:
“Ðiều 401. Hình thức hợp đồng dân sự
Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi
cụ thể, khi pháp luật không quy định loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một
hình thức nhất định.
Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản
có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các
quy định đó.
Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác.”
Hình thức của hợp đồng dân sự tương đối đa dạng tạo điều kiện cho các chủ thể ký
kết thuận tiện. Đối với những hợp đồng dân sự mà pháp luật qu định buộc phải giao

kết theo một hình thức nhất định, thì các bên phải tuân thoe hình thức đó. Ngoài ra,
đối với những hợp đồng khác, các bên có thể chọn một trong những hình thức sau
đây để giao kết:
• Hình thức miệng (bằng lời nói): Thông qua hình thức này, các bên giao kết hợp
đồng chỉ cần thỏa thuận miệng với nhau về nội dung cơ bản của hợp đồng hoặc mặc
nhiên thực hiện những hành vi nhất định đối với nhau. Hình thức này thường được
áp dụng trong những trường hợp các bên đã có độ tin tưởng lẫn nhau(bạn bè cho
nhau vay tiền) hoặc đối với những hợp đồng mà ngay sau khi giao kết sẽ được thực
hiện và và chấm dứt.
• Hình thức viết (bằng văn bản): Nhằm nâng cao độ xác thực về nội dung đã cam
kết,các bên có thể ghi nhận nội dung giao kế hợp đồng bằng một văn bản. Trong


văn bản đó, các bên phải ghi đầy đủ những nội dung cơ bản của hợp đồng và cùng
ký tên xác nhận vào văn bản. Khi có tranh chấp, hợp đồng được giao kết bằng hình
thức văn bản tạo ra chứng cứ pháp lý chắc chắn hơn so với hình thức miệng. Căn cứ
vào văn bản của hợp đồng, các bên dễ dàng thực hiện quyền yêu cầu của mình đối
với bên kia. Vì vậy, đối với những hợp đồng mà việc thực hiện không cùng lúc với
việc giao kết thì các bên thường lựa chọn hình thức này. Thông thường hợp đồng
được lập thành nhiều bản và mỗi bên giữ một bản, coi như đã có trong tay một bằng
chứng, chứng minh quyền dân sự của mình.
• Hợp đồng được thể hiện bằng văn bả có công chứng, chứng thực, đăng ký hoặc
xin phép: Hình thức này thường được áp dụng đối với các hợp đồng dân sự mà đối
tượng có giá trị lớn, đối tượng của hợp đồng mà pháp luật quy định cần phải được
kiểm soát chặt chẽ rong lưu thông dân sự, đối tượng của hợp đồng có ý nghĩa đối
với đời sống kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng,..Nếu pháp luật có quy định hợp
đồng phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng
ký hoặc xin phép thì các bên trong quan hệ hợp đồng phải tuân theo các quy định
đó.
• Hợp đồng có hình thức bằng hành vi cụ thể: Hợp đồng không có sự thỏa thuận

giữa các bên mà mặc nhiên coi là có sự thỏa thuận khi một bên bằng hành vi của
mình chấp nhận giao kết hợp đồng thông qua sự ấn định trước quyền và nghĩa vụ
của bên kia. Hình thức này cũng phổ biến trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt khi
công nghẹ ngày càng phát triển với sự tự động hóa áp dụng ở nhiều nơi, đặc biệt là
các thành phố, thị xã như bán hàng qua máy tự động, rút tiền ở các máy do ngân
hàng đặt ở những vị trí khác nhau…
2.2 Ý nghĩa của việc quy định hình thức của hợp đồng trong giáo lưu dân sự

Hình

thức của hợp đồng là cách thức thể hiện ý chí ra bên ngoài dưới hình thức nhất định
của các chủ thể hợp đồng. Thông qua cách thức thể hiện này, người ta có thể biết
được nôi dung của hợp đồng đã được xác lập. Pháp luật quy định về điều kiện về
hình thức của hợp đồng để các chủ thể tham gia giao dịch và đồng thời quy định


biện pháp biện pháp chế tài nếu các bên tham gia không tuân theo các điều kiện để
hợp đồng dân sự có giá trị pháp lý. Việc quy định này nhằm bảo vệ trật tự công, tạo
hành lang pháp lý an toàn cho các chủ thể tham gia hợp đồng. Việc xác định hình
thức bắt buộc đối với’ một số loại hợp đồng và nhằm đảm bảo tính rõ ràng của việc
tồn tại các hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể trong hợp đồng.
Hình thức của hợp đồng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tố tụng. Bởi đó là
chứng cứ xác nhận các quan hệ hợp đồng đã và đang tồn tại giữa các bên, từ đó xác
định trách nhiệm của mỗi bên khi có vi phạm xảy ra. Những cam kết thỏa thuận của
các chủ thể tham gia hợp đồng được thể hiện dưới mỗi hình thức nhất định. Điều
này góp phần giúp các cơ quan chức năng kiểm tra các hợp đồng trên cơ sở các văn
bản là hình thức thể hiện hợp đồng.
3. ĐÁNH GIÁ QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2005 VỀ HÌNH THỨC CỦA
HỢP ĐỒNG DÂN SỰ:
3.1- Về điều kiện hình thức của hợp đồng dân sự:

Theo quy định của pháp luật hiện hành thì có hơn 50 loại hợp đồng được pháp luật
quy định phải tuân theo hình thức văn bản, trong đó chia ra làm 4 nhóm:
Các hợp đồng dân sự thông dụng;
Các hợp đồng bảo đảm;
Các hợp đồng thương mại;
Các loại hợp đồng khác…
Tuy nhiên, vấn đề xác định chính xác nội hàm “bằng văn bản” hiện cũng còn
nhiều ý kiến đánh giá khác nhau. Khác với những hợp đồng mua bán hàng hóa, nhất


là những hàng hóa đã có tập quán quốc tế hoặc hai bên đã có quan hệ kinh doanh
sẵn có, theo yêu cầu và thực tiễn của hợp đồng mua bán công ty của quốc tế cũng
như của Việt Nam, không thể có trường hợp ký hợp đồng qua những văn thư trao
đổi riêng lẻ, mà phải lập thành văn bản chung do hai bên cùng ký. Do đó, khi sửa
đổi hợp đồng cũng không thể trái với hình thức ban đầu. Như vậy, “bằng văn bản”
nghĩa là các nội dung thay đổi phải được soạn thảo trên một văn bản chung với
những điều khoản chi tiết, chặt chẽ được các bên nhất trí, phải được ghi rõ là Thỏa
thuận sửa đổi Hợp Đồng; và phải bao gồm: những điều khoản hai bên thỏa thuận
sửa đổi và thay thế hoàn toàn các điều khoản cũ; những điều khoản chỉ sửa đổi một
phần do liên quan đến những điều khoản đã sửa…
Trong khi đó, mục 15 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005 của Việt Nam quy định:
“Các hình thức có giá trị tương đương văn bản bao gồm điện báo, telex, fax, thông
điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật” và Khoản 1, Điều
124 BLDS 2005 quy định: “Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới
hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn bản”. Các Điều 10, 11,
12, 13 và 14 Luật Giao dịch điện tử năm 2005 của Việt Nam đều khẳng định giá trị
pháp lý của thư điện tử (một hình thức thông điệp dữ liệu trong giao dịch) là giá trị
như văn bản, giá trị bản gốc và giá trị chứng cứ.Tuy nhiên, dưới góc độ pháp lý thì
“thực hiện bằng văn bản” và “ghi nhận thành một văn bản” là những cụm từ có nội
hàm khác nhau. Không phải lúc nào Tòa án hoặc Trọng tài cũng ghi nhận giá trị

pháp lý của một số hình thức giao dịch nói trên khi điều kiện công nghệ thông tin
hiện nay có thể tạo dựng các hình thức giao dịch bằng phương tiện điện tử một cách
dễ dàng,…
Khoản 1 Điều 124, khoản 2 Điều 122, khoản 2 Điều 124 BLDS 2005 quy định về
hình thức của GDDS, và Điều 401 của BLDS 2005 về hình thức hợp đồng dân sự
quy định: “Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc
bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định loại hợp đồng đó phải được giao
kết bằng một hình thức nhất định. Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp


đồng phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng
ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định đó”.
Theo đó, hợp đồng dân sự cũng giống như giao dịch dân sự có thể được thể hiện
dưới nhiều hình thức khác nhau, đặc biệt có một số trường hợp buộc phải tuân thủ
một số điều kiện bắt buộc về hình thức theo quy định của pháp luật. Hiện nay, có rất
nhiều luồng quan điểm xoay quanh vấn đề điều kiện hình thức của giao dịch dân sự
theo khoản 2 điều 122 BLDS 2005.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Một khi pháp luật đã đặt ra các điều kiện bắt
buộc về mặt hình thức cho giao dịch dân sự thì giao dịch đó sẽ bị coi là vô hiệu nếu
không tuân thủ các quy định của pháp luật. Khoản 2, Điều 124 BLDS 2005 bắt buộc
giao dịch dân sự phải tuân thủ các quy định hình thức trong trường hợp pháp luật
quy định. Rõ ràng, đây là quy định mang tính bắt buộc. Hơn nữa, Điều 127 tiếp tục
quy định: “Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại
Điều 122 của Bộ luật này thì vô hiệu”.
Quan điểm thứ hai lại cho rằng, không phải bất kì loại giao dịch dân sự nào khi
vi phạm điều kiện hình thức cũng đều bị vô hiệu. Khoản 2 điều 401 BLDS 2005 về
hình thức hợp đồng dân sự có viết: “Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp
có vi phạm về hình thức, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác". BLDS năm
2005 thừa nhận hợp đồng dân sự là một trong những loại hình giao dịch dân sự, bên
cạnh hành vi pháp lý đơn phương (Điều 121). Như vậy, hợp đồng dân sự có thể vi

phạm các quy định về hình thức mà không bị pháp luật vô hiệu.
Theo ý kiến cá nhân, ta cần xem xét các quy định trên trong hệ thống BLDS, xét
chúng như là những bộ phận không thể tách rời của BLDS 2005. Cả quan điểm 1 và
2 đều vô tình xem xét các quy định một cách riêng rẽ nên không thấy được hết tính
bao quát tương trợ lẫn nhau giữa các quy định trong bộ luật. Trong trường hợp của
khoản 2 Điểu 401 BLDS, em nghĩ cần hiểu theo hướng sau: Nếu không có quy định
nào của pháp luật quy định về hình thức hợp đồng thì dù hình thức hợp đồng có bị


vi phạm thì cũng không bị vô hiệu. Còn nếu có những quy định bắt buộc của pháp
luật về hình thức hợp đồng thì các chủ thể buộc phải tuân thủ theo điều kiện hình
thức của pháp luật quy định, nếu không hợp đồng sẽ bị coi là vô hiệu. Theo em,
cách hiểu này có tính chuẩn xác, thống nhất hơn; xem xét trên khía cạnh tổng thể
các quy định của BLDS năm 2005. Như vậy, ta có thể thấy BLDS 2005 vẫn còn một
số chỗ dễ gây hiểu lầm về mặt câu chữ, dẫn đến việc khó khăn, lúng túng cho giải
quyết các vụ việc cụ thể.
3.2 - Về thời hạn yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu do không tuân
thủ quy định về hình thức:
Theo khoản 1 Điều 136 BLDS quy định: “Thời hạn yêu cầu Tòa án tuyên bố
GDDS vô hiệu được quy định tại các Điều từ Điều 130 đến Điều 134 của Bộ luật
này là 2 năm , kể từ ngày GDDS được xác lập”. Thực tế cho thấy thời hạn yêu cầu
Tòa án tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức
là 2 năm kể từ ngày GDDS được xác lập là không phù hợp, vẫn còn tạo sơ hở cho
những người thiếu thiện chí và nảy sinh nhiều tranh chấp phức tạp.
Khi các bên không hoàn tất quy định về hình thức trong thời hạn ấn định của
Tòa ám hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền tuyên bố hợp đồng vô hiệu, các bên
khôi phục lại tình trạng ban đầu. Theo BLDS: “khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các
bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận”. Nhưng
trong một số trường hợp trước khi hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu , một trong các bên
chủ thể đã khai thác, xây dựng bổ sung trên tài sản có tranh chấp. Điều này trên

thực tế là không hợp lý gây thiệt hại cho các bên. Trên thực tế tòa án không áp dụng
nguyên tắc này mà đồng ý cho các bên đã xây dựng, cải tạo tính toán chi phí hợp lý
để tạo ra khối tài sản đó và yêu cầu bên kia thanh toán khoản tiền tương đương.
Tại điều 137 BLDS quy định: “Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh,
thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập; Khi
giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho


nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả
bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo
quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường”. Quy định này
cũng rất chung chung trong khi thực tiễn tài sản không phải lúc nào cũng còn
nguyên giá trị của nó tại thời điểm giao kết mà thường biến đổi do tác động của các
yếu tố làm cho không còn nguyên giá trị ban đầu.
3.3 - Trong việc giải quyết, xử lý hợp đồng dân sự vi phạm hình thức luật định:
Trong thực tế các hợp đồng dân sự mà pháp luật quy định về hình thức phải
được thể hiện bằng văn bản có chứng nhận của công chứng hoặc chứng thực của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, phải đăng ký, xin phép được thực hiện trong nhiều
lĩnh vực. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân dẫn đến các bên không tuân thủ quy định
về hình thức của hợp đồng.
Những tranh chấp về hợp đồng do vi phạm điều kiện hình thức chủ yếu là hợp
đồng mau bán nhà ở, các hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất,…
Về thời hạn yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu do không tuân
thủ quy định về hình thức
3.4 - Về hậu quả pháp lý khi tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu về mặt hình thức:
Điều 134 BLDS năm 2005 quy định về GDDS vô hiệu do không tuân thủ quy định
về hình thức, khoản 2 Điều 137 BLDS năm 2005 có quy định rõ hơn về trách nhiệm
các bên khi giao dịch dân sự bị tuyên vô hiệu. Đối chiếu 2 quy định này với thực tế,
vô tình những quy định của pháp luật đã trở thành công cụ để những kẻ bất lương
trục lợi. Họ cố tình vi phạm những quy định về hình thức, rồi lợi dụng quyền tuyên

bố vô hiệu, không thực hiện theo thời hạn mà Tòa án đưa ra, chấp nhận bồi thường
để hưởng được lợi ích lớn hơn rất nhiều so với số tiền mà họ bỏ ra. Những vụ việc
như trên xảy ra rất nhiều, đặc biệt là trong lĩnh vực đất đai, mua bán nhà ở,... Vì


những quy định của pháp luật còn chưa chặt chẽ, hợp lý nên đã gián tiếp tiếp tay
cho những con người như vậy trục lợi.
4. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
HÌNH THỨC CỦA HỢP ĐỒNG DÂN SỰ:
Thứ nhất, Điều 134 BLDS quy định: “Trong trường hợp pháp luật quy định hình
thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân
theo thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch
trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu” .
Trong điều luật này các nhà làm luật có thể quy định thời hạn để các bên thực hiện
quy định về hình thức của hợp đồng trong thời hạn nhất định nào đó(ví dụ như 6
tháng) giúp các bên trong hợp đồng biết được một khoảng thời gian hợp lý để nhanh
chóng, chủ động tiến hành hoàn thiện hình thức của hợp đồng cho phù hợp với quy
định của pháp luật.
Thứ hai, đề nghị các nhà làm luật nên làm rõ nghĩa hơn ở đoạn 2 khoản 2 Điều 401
của trong BLDS 2005 để tránh gây hiểu lầm tạo sự chính xác hơn cho BLDS.
Thứ ba, việc quy định: “Hợp đồng dân sự không bị vô hiệu trong mọi trường
hợp”( Khoản 2 Điều 401) thì một thực tế đáng lưu tâm là hiện nay các nước trên thế
giới hoàn toàn không coi trọng vấn đề về hình thức của hợp đồng, không quy định
hình thức hợp đồng là một điều kiện để hợp đồng có hiệu lực như ở Việt Nam. Điều
này được thể hiện rất rõ trong Bộ nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng thương mại
quốc tế 2004 và Bộ nguyên tắc về hợp đồng Châu Âu: “...không bắt buộc hợp đồng,
tuyên bố hay bất kì hành vi nào khác phải được giao kết hoặc chứng minh đặc biệt.
Chúng có thể được chứng minh bằng bất kì cách nào, kể cả bằng nhân chứng...”.
Đây là một nguyên tắc được nhiều nước trên thế giới tiếp nhận. Nó có thể ngăn

chặn được những trường hợp sử dụng quy định về vô hiệu do giao dịch vi phạm về
hình thức để trục lợi như trường hợp trên, hơn nữa, có thể kích thích thị trường phát


triển hơn vì bớt đi được quy định gò bó về mặt hình thức. Tuy nhiên, nhóm vẫn bảo
lưu ý kiến rằng nên xem xét thật kỹ lưỡng, bởi lẽ nếu đưa quy đị
nh này vào áp dụng sẽ làm thay đổi rất nhiều trong hệ thống luật pháp và quản lý.
Nếu không có nghiên cứu kỹ lưỡng, đồng bộ sẽ dẫn đến tình trạng không kiểm soát
được, gây rối loạn trong xã hội. Cần có thêm những quy định mới, thể hiện sự quản
lý của Nhà nước khi điểu chỉnh pháp luật theo hướng này.
III.KẾT LUẬN
Hình thức hợp đồng là cách thể hiện ý chí ra bên ngoài của các bên giao kết hợp
đồng. Thông qua cách thức biểu hiện này, người ta có thể biết được nội dung của
giao dịch đã xác lập. Hình thức của hợp đồng có ý nghĩa rất quan trọng trong tố
tụng. Nó là chứng cứ xác nhận các quan hệ đã, đang tồn tại giữa các bên, từ đó xác
định trách nhiệm dân sự khi có vi phạm hợp đồng xảy ra. Bởi vậy, việc quy định
hình thức, nội dung hợp đồng như thế nào để bảo đảm được quyền lợi của các bên
khi giao kết hợp đồng và không xâm phạm tới nguyên tắc “tự do thỏa thuận” khi
giao kết hợp đồng là một bài toán khó. Tuy nhiên với các quy định về hình thức và
nội dung hợp đồng dân sự trong Bộ luật dân sự thì đã phần nào giải quyết được vấn
đề đó, có thể đánh giá các quy định về hình thức và nội dung trong Bộ luật Dân sự
năm 2005 là khá đầy đủ, tiến bộ và phù hợp vơi thực tiễn hiện nay ở Việt Nam.



×