Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Quan điểm toàn diện của chủ nghĩa Mác Lenin và vận dụng quan điểm toàn diện đề đánh gia cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (77.99 KB, 15 trang )

Quan điểm toàn diện của chủ nghĩa Mác - Lê nin và vận dụng quan
điểm toàn diện để đánh giá cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung
PHẦN MỞ ĐẦU
Chúng ta đang sống trong một thời kì mà ở bất cứ nơi đâu trên đất nước Việt Nam
này cũng có thể tiến hành giao dịch thương mại. Cứ ngủ dậy gửi một tin nhắn hay
rửa mặt dưới nước máy là bạn đã tham gia một giao dịch thương mại. Từ cái tăm,
đến gói muối nơi nào cũng có người bán, kẻ mua, cứ có cầu thì nguồn cung sẽ xuất
hiện. Chỉ cần có tiền là hàng sẽ được giao tới tận nơi nhanh nhất có thể. Sản phẩm
làm ra có thể dùng hoặc đem bán ở bất cứ nơi đâu được giá cao mà khơng bị bó
buộc bởi bất kỳ một luật lệ nào hết. Cao hơn một chút ta thấy trên đất nước xuất
hiện nhiều hơn các tập đồn, cơng ty nước ngồi. Đấy là cịn chưa kể tới các công ty
tư nhân chiếm đa số, phân bố ở khắp nơi. Và chúng ta gọi nó một cách nơm na là cơ
chế thị trường mở cửa, thơng thống. Nhưng trong trí nhớ của những người đã trải
qua thời kì ấy, chắc khơng khi nào qn khái niệm cơ chế kế hoạch hóa tập trung,
nói cách khác là cơ chế quan liêu bao cấp. Hình ảnh về nó ấn tượng đến nỗi chúng
ta có thể dễ dàng tìm thấy chỉ bằng vài thao tác đơn giản trên Internet.
Nghĩ đến quan liêu bao cấp có nhiều người nhìn nó bằng ánh mắt khơng mấy thiện
cảm, có khi cịn chê bai, chỉ trích… Nhưng thiết nghĩ sự vật hiện tượng nào cũng
nên được nhìn một cách tồn diện trước khi bị đưa ra phán xét, như thế mới đánh
giá đúng về nó. Và phải chăng là thật sự cần thiết với việc áp dụng quan điểm toàn
diện vào giải quyết vấn đề đang được bàn tới ở đây: cơ chế kế hoạch hóa tập trung –
mặt

lợi

hay

cái

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN



hại?


Phép biện chứng duy vật là môn khoa học nghiên cứu những quy luật chung nhất
của sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Phép biện chứng duy
vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống gồm 2 nguyên lý (nguyên lý về mối liên
hệ phổ biến, nguyên lý về sự phát triển), 6 cặp phạm trù cơ bản (cái riêng – cái
chung, nguyên nhân – kết quả, tất nhiên – ngẫu nhiên, nội dung – hình thức, bản
chất – hiện tượng, khả năng – hiện thực) và 3 quy luật phổ biến (quy luật lượng –
chất, quy luật phủ định của phủ định, quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt
đối lập). Từ 2 nguyên lý cơ bản trên, ta xây dựng được 3 quan điểm: Quan điểm
toàn diện, quan điểm phát triển và quan điểm lịch sử - cụ thể. Trong đó, quan điểm
tồn diện đóng một vai trị quan trọng bởi bất cứ sự vật hiện tượng nào trong thế
giới đều tồn tại trong mối liên hệ với các sự vật khác và mối liên hệ rất đa dạng,
phong phú. Do đó, quan điểm tồn diện có ý nghĩa hết sức thiết thực trong cuộc
sống.
I. Lý luận chung về quan điểm toàn diện
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng thế giới tồn tại như một thể thống nhất. Các
sự vật hiện tượng và các quá trình cấu thành thế giới đó vừa tồn tại tách biệt với
nhau, vừa có sự liên hệ qua lại, thâm nhập và chuyển hóa lẫn nhau. Cơ sở của sự
liên hệ đó chính là tính thống nhất của thế giới vật chất.
Mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng là khách quan, là vốn có của sự vật, hiện
tượng. Đồng thời mối liên hệ cịn mang tính phổ biến bởi bất cứ sự vật hiện tượng
nào cũng đều nằm trong các mối liên hệ với những sự vật, hiện tượng khác.
Quan điểm duy vật biện chứng khơng chỉ khẳng định tính khách quan, tính phổ biến
của sự liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng, các q trình mà nó cịn nêu rõ tính đa
dạng của sự liên hệ qua lại: có mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài, có
mối liên hệ chung bao qt tồn bộ thế giới và mối liên hệ bao quát một số lĩnh vực

của thế giới,có mối liên hệ trực tiếp, mối liên hệ gián tiếp mà trong đó sự tác động


qua lại được thể hiện thông qua một hay một vài khâu trung gian, có mối liên hệ
bản chất, mối liên hệ tất nhiên và liên hệ ngẫu nhiên, có mối liên hệ giữa các sự vật
khác nhau và mối liên hệ giữa các mặt khác nhau của sự vât. Trong các mối quan hệ
đó, nói chung, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ tất nhiên, mối liên hệ chủ yếu… giữ
vai trò quyết định, tùy thuộc vào quan hệ hiện thực xác định.
2. Quan điểm toàn diện trong triết học Mác – Lênin
Từ việc nghiên cứu quan điểm biện chứng về mối liên hệ phổ biến của sự vật hiện
tượng, triết học Mác – Lênin rút ra quan điểm tồn diện trong nhận thức. Vì bất cứ
sự vật, hiện tượng nào trên thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ với các sự vật, hiện
tượng khác và mối liên hệ rất đa dạng, phong phú, do đó khi nhận thức về sự vật,
hiện tượng, chúng ta phải có quan điểm tồn diện, tránh quan điểm phiến diện chỉ
xét sự vật, hiện tượng ở một mối liên hệ đã vội vàng kết luận về bản chất hay về
tính quy luật của nó.
Quan điểm tồn diện địi hỏi để có được nhận thức đúng đắn về sự vật, hiện tượng,
một mặt chúng ta phải xem xét nó trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, các
yếu tố, các thuộc tính khác nhau của chính sự vật, hiện tượng đó. Mặt khác, chúng
ta phải xem xét nó trong mối liên hệ với các sự vật khác (kể cả trực tiếp và gián
tiếp). Đề cập đến 2 nội dung này, Lênin viết “muốn thực sự hiểu được sự vật, cần
phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, các mối liên hệ trực tiếp và gián
tiếp của sự vật đó”.
Đồng thời quan điểm tồn diện địi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng mối liên
hệ, phải biết chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ
yếu, mối liên hệ tất nhiên…để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác
động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của bản thân. Đương
nhiên, trong nhận thức và hành động, chúng ta cũng cần lưu ý tới sự chuyển hóa lẫn
nhau giữa các mối liên hệ ở những điều kiện nhất định.



Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự vật, chúng
ta vừa phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó, vừa phải chú ý tới những mối
liên hệ giữa sự vật ấy với các sự vật khác. Từ đó ta phải biết sử dụng đồng bộ các
biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động vào sự vật nhằm đem lại hiệu quả
cao nhất.
Hơn thế nữa, quan điểm toàn diện đòi hỏi, để nhận thức được sự vật cần phải xem
xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người. Ứng với mỗi con
người, mỗi thời đại và trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, con người bao giờ
cũng chỉ phản ánh được một số lượng hữu hạn những mối liên hệ. Bởi vậy, tri thức
đạt được về sự vật cũng chỉ là tương đối, không đầy đủ trọn vẹn. Ý thức được điều
này, chúng ta mới tránh được việc tuyệt đối hóa những tri thức đã có về sự vật và
tránh xem nó là những chân lí bất biến, tuyệt đối khơng thể bổ sung, không thể phát
triển. Để nhận thức được sự vật, cần phải nghiên cứu tất cả các mối liên hệ, cần
thiết phải xem xét tất cả mọi mặt để đề phòng cho chúng ta khỏi phạm sai lầm và sự
cứng nhắc.
Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện khơng chỉ ở chỗ nó chú ý tới
nhiều mặt, nhiều mối liên hệ. Việc chú ý tới nhiều mặt, nhiều mối liên hệ vẫn có thể
là phiến diện nếu chúng ta đánh giá ngang nhau những thuộc tính, những quy định
khác nhau của sự vật được thể hiện trong những mối liên hệ khác nhau đó. Quan
điểm tồn diện chân thực đòi hỏi chúng ta phải đi từ tri thức về nhiều mặt, nhiều
mối liên hệ của sự vật đến chỗ khái quát để rút ra cái bản chất chi phối sự tồn tại và
phát triển của sự vật hay hiện tượng đó.
CHƯƠNG II: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN ĐỂ ĐÁNH GIÁ CƠ CHẾ
KINH TẾ KẾ HOẠCH HÓA TẬP TRUNG
1. Nguồn gốc của cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung.
Ngày 30/4/1975 cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước hoàn toàn thắng lợi ,đất
nước ta hoàn tồn thống nhất sau 21 năm kháng chiến trường kì. Cả nước bước vào



thời kỳ xây dựng và phát triển kinh tế -xã hội .Định hướng của Đảng và Nhà nước:
xây dựng nền kinh tế theo mơ hình kế hoạch hóa tập trung mà hiện nay Đảng cộng
sản Việt Nam gọi là mô hình “quan liêu bao cấp’’. Cơ chế này có nguồn gốc từ mơ
hình phát triển kinh tế xã hội và cơ chế quản lí kinh tế kế hoạch hóa tập trung của
các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xơ.
Cơ chế này có những ưu điểm thích hợp cho hồn cảnh hiện tại của đất nước lúc
đó , nhưng cũng có nhiều hạn chế kìm hãm sự phát triển kinh tế của đất nước sau
này . Vậy cơ chế đó như thế nào? Có ưu nhược điểm gì? Sau đây chúng ta sẽ cùng
đi tìm hiểu.
2.
Ngày nay, khi nhắc đến cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung ta thường chỉ nghĩ
đến các mặt tiêu cực của nó.
Thứ nhất, khi nền kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu
dựa trên việc áp dụng các thành tựu của nền khoa học và công nghệ hiện đại thì cơ
chế này thủ tiêu sự cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ khoa học cơng nghệ. Điều đó làm
cho nền kinh tế nước ta lâm vào khủng hoảng trầm trọng
Thứ hai, nhà nước quản lí kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ
thống chỉ tiêu, pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới. Tính pháp lệnh thể hiện
ở chỗ: nhà nước xây dựng các chỉ tiêu chủ quan, sau đó đưa xuống cho các doanh
nghiệp, thậm chí cả hợp tác xã thực hiện. Các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở
quyết định của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và chỉ tiêu pháp lệnh được
giao. Hệ thống chỉ tiêu được thể hiện ở chỗ: nhà nước thực hiện chế độ bao cấp đối
với mọi đơn vị cấp dưới và doanh nghiệp nhà nước kể cả hợp tác xã ( Hình 3). Cơ
quan hành chính can thiệp q sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các
doanh nghiệp, từ cấp vốn, sản xuất đến khâu phân phối sản phẩm nhưng lại khơng
chịu trách nhiệm gì về vật chất và pháp lí với các quyết định của mình( Hình 4).
Giữa cơ quan hành chính trực tiếp tham gia vào quá trình lên chỉ tiêu kế hoạch và


các doanh nghiệp thực hiện chỉ tiêu thì lại khơng có bất kì sự ràng buộc pháp lí nào

với hành động của mình, tức là dù có làm sai đi chăng nữa thì họ cũng khơng có vấn
đề gì cả, vì vậy mà khơng có lí do nào khiến họ thực hiện kế hoạch một cách tối ưu
nhất. Vấn đề mà cả hai bên quan tâm đó là chạy theo và chạy đua với chỉ tiêu được
ấn từ trên xuống. Ở giai đoạn này, kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể được coi
trọng đặc biệt. Từ đó hạn chế sự phát triển của các thành phần kinh tế khác, kìm
hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, triệt tiêu động lực kinh tế, lao động
sáng tạo đối với người lao động, khơng kích thích tính năng động, sáng tạo của các
đơn vị sản xuất kinh doanh.
Thứ ba, bộ máy quản lí cồng kềnh, nhiều cấp trung gian . Bộ máy quản lí này vừa
kém năng động vừa sinh ra đội ngũ kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu,
nhưng lại được hưởng quyền lợi cao hơn người lao động. Hoạt động kinh tế kém
hiệu quả. Trong thực tế, bộ máy nhà nước và doanh nghiệp quốc doanh cịn xuất
hiện tính tham ơ.
Thứ tư, các hoạt động giao dịch thương mại còn nhiều hạn chế: bán như cho, mua
như cướp (Hình 5). Giá bán thấp hơn nhiều so với số vốn bỏ ra nên mới có chuyện
nhiều người dân tìm cách giấu lúa và nhiều chuyện dở khóc dở cười. Ai mua thứ gì
cũng phải đến hợp tác xã mua bán hay cửa hàng mậu dịch quốc doanh. Để mua
được thì rất khó khăn vì khơng đủ để cung cấp, mọi người phải xếp hàng chầu chực
để được mua với đặc trưng là chế độ tem phiếu: vật phẩm tiêu dùng được phân phối
theo định mức chứ không theo khả năng lao động. Tức là người làm ít và người làm
nhiều đều được phân phát vật phẩm như nhau. Vì thế chế độ này thủ tiêu động lực
kích thích người lao động và phá vỡ nguyên tắc phân phối theo lao động.
Thứ năm, trong thời kì này lạm phát bùng nổ. Tiền phát hành nhiều mà vẫn khơng
đủ, lương cơng nhân khơng có; vật tư hàng hóa khan hiếm. Giá bán lương thực dù
tăng mười lần vẫn khơng đủ để bù đắp chi phí. Sản xuất nơng nghiệp sa sút, đầu tư
trong công nghiệp giảm. Chỉ số giá bán lẻ của thị trường xã hội năm 1986 tăng
587,2% so với năm 1985. Do đồng tiền mất giá, người ta quay sang lấy vàng làm
bản vị, khiến giá vàng tăng vọt, còn nhanh hơn cả tăng giá hàng hóa. Tình trạng



khan hiếm hàng hóa khiến cuộc sống chật vật khơng những về số lượng mà cả về
phẩm chất của nhiều mặt hang
Tuy nhiên theo quan điểm tồn diện chỉ nhìn sự vật, hiện tượng ở một mặt, một
chiều thì khơng thể đánh giá chính xác sự vật, hiện tượng mà cần phải đặt nó vào
mối liên hệ cụ thể trong từng hoàn cảnh, điều kiện lịch sử tương ứng. Cụ thể như cơ
chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, khi nhìn phiến diện ta chỉ có thể nhìn thấy mặt
tiêu cực mà khơng thể nhìn thấy những ưu điểm của nó.
Nhìn một cách tồn diện, ta thấy bên cạnh những hạn chế, yếu kém của chế độ kinh
tế tập trung thì trong hồn cảnh giai đoạn lịch sử những năm 70/XX chế độ kinh tế
tập trung cũng có những ưu điểm đóng góp nhất định cho đất nước:
Xét về mặt kinh tế: Trong những năm 70/XX, thời kì kinh tế tăng trưởng theo chiều
rộng, tức là dựa vào tăng đầu tư khai thác tài nguyên, sức lao động giá rẻ và một số
lợi ích khác, cơ chế kinh tế tập trung có tác dụng nhất định. Nó cho phép tập trung
tối đa các nguồn lực kinh tế, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước vào các mục
tiêu chủ yếu trong từng giai đoạn và điều kiện cụ thể, nhất là trong q trình cơng
nghiệp hóa theo hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Cơ chế này đã tạo nên
sự thống nhất, đồng bộ trong việc thực hiện các mục tiêu của cả nước .
Xét về mặt xã hội – chính trị:
Những năm 70/XX, thời kì đất nước còn đang nằm dưới bom đạn chiến tranh, hai
miền Nam – Bắc còn bị chia cắt. Mục tiêu và nguyện vọng cùa cả dân tộc là đánh
đuổi Mĩ Ngụy, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước “ Non sông Việt Nam là
một, dân tộc Việt Nam là một”. Trong hoàn cảnh đất nước ấy, cơ chế quản lý kinh tế
hóa tập trung đã đáp ứng được yêu cầu của thời chiến: Tạo nên sức mạnh đoàn kết
toàn dân, tồn qn, hậu phương – tiền tuyến chung lịng. Thực hiện kế hoạch hóa
tập trung sẽ huy động được tối đa sức lực của toàn nhân dân trong việc xây dựng và
phát triển kinh tế, giúp miền Bắc hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ hậu phương chi viện


cho miền Nam. Nhiệm vụ và mục tiêu là giải phóng miền Nam thống nhất đất nước
là của tồn dân tộc chứ không riêng cá nhân ai.

Mặt khác, những người chiến sĩ khi ra chiến trường có thề yên tâm về gia đình, cha
mẹ, vợ con ở nhà bởi mọi thứ đã được nhà nước bao cấp.
Chiến thắng lịch sử năm 1975, đất nước dành thắng lợi hoàn toàn, thống nhất trên
tồn lãnh thố. Sự thắng lợi ấy cũng có phần nào vai trò của cơ chế kinh tế tập trung .
Sau khi đất nước thống nhất, nhiệm vụ trước mắt quan trọng nhất lúc bấy giờ là
khôi phục và phát triển kinh tế, khắc phục hậu quả chiến tranh. Chế độ kinh tế hóa
tập trung đã huy động được tinh thần, sức mạnh đồn kết tồn dân. Nhanh chóng
khắc phục hậu quả chiến tranh ở hai miền Nam – Bắc, đưa đất nước sang giai đoạn
phát triển.
Như vậy nếu nhìn một cách tồn diện, đánh giá đa góc cạnh thì chế độ kinh tế tập
trung cũng có nhiều ưu điểm nhất định trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam những năm 70/XX.
3.
Điểm phân biệt giữa quan điểm toàn diện và chủ nghĩa Triết chung ở chỗ: trong khi
nhìn nhận sự vật, hiện tượng trong tổng thể các mối liên hệ của nó, quan điểm tồn
diện nhận thức được đâu là mối liên hệ quan trọng, cơ bản hơn để từ đó đưa ra nhận
định đúng đắn mà không hề dàn trải hay cứng nhắc. Áp dụng vào vấn đề đang bàn
luận, ta dễ dàng nhận thấy mối liên hệ cơ bản nhất với cơ chế quan liêu bao cấp ở
đây chính là hồn cảnh lịch sử của đất nước.
Liên hệ một chút tới đánh giá của quốc tế thì trong bài trả lời phỏng vấn hãng tin
nhà nước Rusia Today ( RT) vào ngày 15/2 vừa qua, Viện sĩ Yevgeny Primakov 85
tuổi, người từng đảm nhiệm chức vụ Thủ tướng Liên Bang Nga đã không ngớt lời
tơn vinh mơ hình kinh tế của Liên Bang Xơ Viết trước đây. Nhưng đó chỉ là một


thời đã qua với cả Liên Bang Xô Viết và Việt Nam ta bởi cả hai đều đã tiến hành cải
cách kinh tế ( ở Liên Xô là năm 1965 và Việt Nam là 1986 ). Nói như thế khơng có
nghĩa cơ chế bao cấp khơng hiệu quả nên phải thay đổi mà vì nó khơng cịn phù hợp
nữa.Ở nước ta, thời kì đầu với hào khí dân tộc đang lên sau chiến thắng lẫy lừng của
cuộc kháng chiến chống Pháp, cũng như do được sống trong một chế độ hoàn toàn

mới, độc lập, tự do nên người dân tràn đầy hy vọng sẵn sàng đóng góp cơng sức,
tiền của của mình cho cơng cuộc xây dựng chế độ xã hội mới, chế độ xã hội chủ
nghĩa. Vì thế lúc bấy giờ, cơ chế kế hoạch hóa tập trung là hồn tồn phù hợp. Và
thực tế đã chứng minh tính đúng đắn của nó thơng qua sức mạnh tồn dân tộc mà nó
tạo nên đã giúp nước nhà đánh tan giặc Mỹ, nước non thu về một mối.
Tuy nhiên, mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập
trung đã dần bộc lộ rõ ràng hơn những hạn chế hết sức to lớn mà trước đấy nó được
chiến tranh che lấp thì bây giờ đã gây ra hiệu quả trầm trọng mà đất nước phải gánh
chịu. Nền kinh tế thiếu năng động, kém hiệu quả, đất nước rơi vào tình trạng lạc
hậu, đời sống nhân dân ngày càng trở nên khó khăn, các căng thẳng xã hội cũng vì
thế mà gia tăng; dẫn đến một hệ quả tất yếu là ta phải tiến hành cải cách kinh tế năm
1986 đưa đất nước sang giai đoạn phát triển mới.
Thời thế đã thay đổi thì dứt khoát cơ chế cũng phải thay đổi sao cho phù độ hợp
nếu khơng muốn bị bỏ lại phía sau. Cũng giống như thế để có cái nhìn tồn diện về
cơ chế kế hoạch hóa tập trung, ta phải xác định được hồn cảnh mà nó được áp
dụng, đấy là căn cứ quan trọng nhất để ta đánh giá về nó, tránh những đánh giá
phiến diện, sai lầm của khơng ít người hiện nay. Bản thần cơ chế nó khơng có lỗi,
mà là được áp dụng sai thời điểm và cuối cùng thì cũng phải chịu bị phủ định trong
quá trình phát triển của kinh tế đất nước bởi một cái mới hơn: cơ chế thị trường.
Nhìn một cách tồn diện và bao quát về chế độ quan liêu bao cấp thì nó cũng có
những mặt ưu điểm riêng. Tuy nhiên mặt ưu điểm lại vô cùng hạn chế thay vào đó
là vơ số những nhược điểm khiến nước ta phải mất nhiều thời gian để thay đổi nếp
nghĩ, tác phong từ chiến đấu sang xây dựng. Bên cạnh đó, tư tưởng bao cấp, sự duy


ý chí và chậm đổi mới tư duy đã đưa dân ta đứng trước bao khó khăn vào cuối
những năm tám mươi, đầu chín mươi của thế kỷ trước. Hơn nữa trong nền kinh tế
hội nhập hiện nay nó lại trở nên vơ cùng lạc hậu và khơng cịn phù hợp nữa. Tất cả
những hạn chế trên không thể đổi lỗi cho cụ thể một cá nhân nào mà nó phải xét
trên nhiều yếu tố và các mặt khác nhau.

Thứ nhất là sự quản lý chưa đúng đắn, thiếu kinh nghiệm của đảng ta. Đảng ta đã
nghiêm túc kiểm điểm, công khai thừa nhận những sai lầm, khuyết điểm trước nhân
dân và cho rằng, nguyên nhân chính của những sai lầm, khuyết điểm trong những
năm xây dựng chủ nghĩa xã hội (1975-1985) của Đảng ta là do bệnh nóng vội, chủ
quan, duy ý chí, từ đó dẫn đến sai lầm về bố trí cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý phân
phối lưu thông, cải tạo xã hội chủ nghĩa; sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức
thực hiện.
+ Nhà nước quản lý kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính, xây dựng các chỉ
tiêu một cách chủ quan, áp đặt từ trên xuống dưới khiến cho các doanh nghiệp chỉ
quan tâm duy nhất đến việc hoàn thành chỉ tiêu, hạn chế sáng tạo.
+ Các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của
các doanh nghiệp. Làm hạn chế sự phát triển và đóng góp vào nền kinh tế của các
thành phần kinh tế khác.
+ Quan hệ hàng hóa tiền tệ bị coi nhẹ
+ Bộ máy quản lý cồng kềnh nhiều cấp trung gian. Hệ thống thể chế chưa đồng bộ,
cịn chồng chéo, thiếu thống nhất, thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp, trật tự
kỷ cương chưa nghiêm.
Hai là đội ngũ cán bộ cơng chức cịn nhiều yếu kém về phẩm chất, tinh thần, trách
nhiệm. Khơng ít cán bộ, cơng chức trong các cơ quan hành chính nhà nước làm việc
thiếu tích cực. Điều đó thể hiện ở chỗ: nhiều cán bộ, công chức bảo thủ trong cách


nghĩ, cách làm, thiếu sự năng động, sáng tạo và đổi mới; cách làm việc quan liêu,
hành chính hố, khơng thạo việc, tác phong chậm chạp, rườm rà, thái độ thờ ơ, thiếu
trách nhiệm... dẫn đến sự trì trệ về phương thức hoạt động trong các cơ quan hành
chính. Vẫn cịn tồn tại khơng ít hiện tượng áp đặt, quan liêu cửa quyền, tham nhũng,
hối lộ, tuỳ tiện, coi thường kỷ cương, kỷ luật công vụ.
Ba là, trong xu thế hội nhập và phát triển quốc tế như hiện nay, các nước phát triển
đang sử dụng những ưu thế của mình gây ảnh hưởng, tạo sức ép, làm tổn hại nền
độc lập dân tộc của những nước chậm phát triển, trong đó có Việt Nam. Nếu như

trước đây, chúng ta vì Độc lập mà buộc phải hy sinh "No cơm, ấm áo", thì nay "No
cơm, ấm áo" đang trở thành "mồi nhử" của những nước lớn, nhằm làm méo mó nội
dung độc lập dân tộc của nhiều nước nghèo và nhỏ. Trong bối cảnh tình hình này,
khơng cho phép chúng ta tách mình biệt lập với cộng đồng thế giới, mà phải chủ
động tham gia hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, chủ động khai thác những thuận
lợi từ bên ngoài, dựa vào những tập hợp lực lượng có lợi, hạn chế những tác động
tiêu cực. Q trình đó được kết hợp chặt chẽ với yêu cầu tăng cường tiềm lực quốc
phòng - an ninh để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Thông qua hội
nhập quốc tế, khu vực các nước ASEAN để tăng cường sức mạnh tổng hợp của
quốc gia, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Những nguyên nhân trên đã cho ta thấy tại sao chế độ quan liêu bao cấp lại tồn tại
nhiều nhược điểm và khơng cịn phù hợp với nước ta trong thời bình. Nước ta đang
hướng tới đổi mới tiến hành chuyển dần từ nền kinh tế tập trung ,quan liêu ,bao cấp
sang thực hiện cơ chế thị trường. Có như vậy nền kinh tế nước ta mới có thể được
cải thiện và phát tiển vững mạnh. Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
phát triển thuận lợi, tạo dựng được các mối quan hệ với các nước đang phát triển,
hơn nữa là các nước phát triển để nước ta có thể chiếm lại ưu thế và sức ảnh hưởng
trên thị trường quốc tế.
PHẦN KẾT LUẬN


Áp dụng quan điểm toàn diện về cơ chế kế hoạch hóa tập trung ở Việt Nam đã cho
ta cái nhìn sâu, rộng, đúng đắn về vấn đề này. Mặc dù cịn bộc lộ rất nhiều hạn chế
nhưng ta khơng thể phủ nhận vai trò và ưu điểm của cơ chế này. Khi nhìn nhận nó
cần xem xét trên mọi mặt, mọi mối quan hệ thì mới xác định được đâu là những
mặt nổi bật, những mối quan hệ quan trọng nhất. Từ đó ta sẽ thấy được bản chất cơ
chế kế hoạch hóa tập trung khơng phải là tiêu cực mà chỉ là không được vận dụng
sáng tạo, đúng đắn vào tình hình đất nước cũng như bối cảnh lịch sử nước ta bấy
giờ ,chính vì vậy mới dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Nhận thức được điều
đó Đảng ta đã đề ra đường lối phát triển kinh tế mới và khắc phục những hạn chế

của cơ chế kế hoạch hóa tập trung mà vẫn đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Từ vấn đề nêu trên ta càng nhận thức rõ hơn về vai trò quan trọng của quan điểm
tồn diện khi nhìn nhận một vấn đề:
- Quan điểm này đã cung cấp cho chúng ta cái nhìn đúng đắn, khách quan về sự vật,
hiện tượng để rút ra bản chất. Phải đặt nó giữa các yếu tố bộ phận, các thuộc tính
khác nhau của chính sự vật đó và mối quan hệ giữa sự vật đó với sự vật khác ,đồng
thời luôn đặt trong mối quan hệ với nhu cầu thực tiễn của con người.
- Vận dụng quan điểm toàn diện vào hoạt động thực tiễn địi hỏi chúng ta phải có
các biện pháp, phương tiện khác nhau để hiểu cho rộng nhưng cũng cần xác định
đâu là cái cơ bản, cái quan trọng để hiểu sâu sắc vấn đề . Mà theo như Lê - nin là
kết hợp chặt chẽ giữa “chính sách dân chủ” và chính sách “có trọng điểm”.



×