Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Ứng dụng công nghệ thông tin vào xây dựng bài giảng sử dụng giáo án điện tử cho môn học vẽ kỹ thuật hệ cao đẳng đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.05 MB, 69 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. GIỚI THIỆU
1.1. Lý do chọn đề tài
Đổi mới giáo dục và đào tạo đã và đang diễn ra trên quy mơ tồn cầu, tạo
biến đổi sâu sắc trong nền giáo dục thế giới. Cùng với sự phát triển nhanh và
mạnh của khoa học công nghệ, tri thức và thông tin trở thành yếu tố hàng đầu và
là nguồn tài nguyên có yếu tố quan trọng quyết định đến sự phát triển kinh tế xã
hội của đất nước.
Để góp phần “đổi mới căn bản và tồn diện Giáo dục và Đào tạo”, nâng cao chất
lượng dạy và học, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của sinh viên trong
các trường trường Cao đẳng và Đại học việc đổi mới phương pháp dạy học là yêu
cầu tất yếu hiện nay. Đổi mới phương pháp dạy học phải được triển khai từ trang
thiết bị phục vụ giảng dạy, nội dung chương trình…Việc ứng dụng cơng nghệ
thơng tin, truyền thông đa phương tiện vào môi trường dạy học là một biện pháp
hữu hiệu trong Giáo dục, Đào tạo ở thời đại bùng nổ thơng tin hiện nay.
1.2. Tính cấp thiết của đề tài.
- Áp dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy kỹ thuật ở các trường Cao
đẳng, Đại học nói chung và trong các mơn học mang tính tư duy trừu tượng như
mơn Vẽ kỹ thuật nói riêng. Việc ứng dụng các phầm mềm xây dựng mơ hình vật
thể 2D, 3D, bản vẽ lắp, tách chi tiết, mô phỏng chuyển động của chi tiết, bộ phận
máy…sẽ tiết kiệm được chi phí cho việc chế tạo vật mẫu, mơ hình học cụ, bản vẽ
mẫu và giúp cho tiết sinh viên động, giúp cho sinh viên tiếp cận nhanh kiến thức,
hiểu sâu, giảm thời gian truyền đạt, thời gian vẽ hình của giáo viên, tăng thời
gian thực hành, làm bài tập của sinh viên và thời gian hướng dẫn của giảng viên.
- Được sự đồng ý của PGS. TS Nguyễn Huy Ninh tôi lựa chọn đề tài:
“Ứng dụng công nghệ thông tin vào xây dựng bài giảng sử dụng giáo án điện
tử cho môn học Vẽ kỹ thuật hệ Cao đẳng - Đại học ”.


2. MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu của đề tài.


Ứng dụng một số phần mềm vào xây dựng bài giảng điện tử cho học môn
Vẽ kỹ thuật cho các trường Cao đẳng - Đại học.
2.2. Nội dung nghiên cứu.
- Tìm hiểu các phương pháp và cơng nghệ dạy học hiện nay.
- Cơ sở lý thuyết xây dựng và sử dụng bài giảng điện tử.
- Nội dung, phương pháp dạy học môn vẽ kỹ thuật ở các trường Cao đẳng,
Đại học
- Khai thác sử dụng các phần mềm sử dụng trong xây dựng bài giảng điện
tử.
- Xây dựng bài giảng điện tử cho môn học Vẽ kỹ thuật ở các trường Cao
đẳng, Đại học.
2.3. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.
2.3.1. Phương pháp luận.
- Phân tích các tài liệu để làm sáng tỏ cơ sở lý luận của việc ứng dụng
công nghệ thông tin vào giảng dạy ở các trường Cao đẳng - Đại học.
- Phân tích nội dung, chương trình mơn Vẽ kỹ thuật ở các trường Cao
đẳng - Đại học, xây dựng Bài giảng điện tử cho môn học này.
2.3.2. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp tổng hợp khái qt hố tài liệu: Thơng qua đọc tài liệu,
sách, tạp chí và các tài liệu khác để phân tích, tổng hợp lý thuyết liên quan đến đề
tài và thu nhập thông tin cần thiết.
- Phương pháp điều tra viết, phương pháp trị chuyện: Tìm hiểu thực trạng
việc ứng dụng công nghệ thông tin và giảng dạy ở các trường Cao đẳng, Đại học
nói chung và mơn học Vẽ kỹ thuật nói riêng.


- Phương pháp chuyên gia: Tham khảo ý kiến chuyên gia về phương pháp
giảng dạy bộ môn Vẽ kỹ thuật, về tin học, bài giảng điện tử, kinh nghiện của họ
về cách xây dựng bài giảng điện tử.
3. BỐ CỤC DỰ KIẾN CỦA LUẬN VĂN

Nội dung luận văn gồm các chương và phần chính sau:
Chương 1- Nghiên cứu tổng quan
Chương 2: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc ứng dụng công nghệ thông
tin vào xây dựng bài giảng sử dụng giáo án điện tử.
Chương 3: Xây dựng bài giảng sử dụng giáo án điện tử cho môn vẽ kỹ
thuật


Chương 1: NGHIÊN CỨU TỔNG QUAN
1.1. Tìm hiểu cơ sở lý luận dạy học ( Bản chất của công nghệ dạy học )
1.1.1. Khái niệm phương pháp dạy học
PP thường được hiểu là con đường, là cách thức để đạt những mục tiêu
nhất định.
PPDH là cách thức hoạt động và giao lưu của giảng viên gây nên những
hoạt động và giao lưu cần thiết của trò nhằm đạt được mục tiêu dạy học. [11,
tr.103]
PPDH có mối quan hệ hữu cơ với nội dung dạy học, mối quan hệ này gắn
bó chặt chẽ không tách rời nhau. PPDH phải phù hợp với nội dung dạy học, nội
dung dạy học nào thì PPDH ấy. Chẳng hạn, muốn rèn luyện kỹ năng giải bài tập
thì phải tăng cường thực hành, muốn chuyển tải nhiều kiến thức cho SV trong
một thời gian ngắn thì khơng tránh khỏi PP thuyết trình. Như vậy đối với từng
nội dung dạy học cụ thể thì GV phải lựa chọn PPDH phù hợp với nội dung dạy
học đó đồng thời cũng phải căn cứ vào các yếu tố khác như: nhiệm vụ dạy học,
đặc điểm của SV, năng lực của GV, điều kiện cơ sở vật chất, thời gian, thiết bị
dạy học...
1.1.2. Tổng thể các phương pháp dạy học
Tuỳ theo xét về phương diện này hay phương diện khác, ta có thể liệt kê
các PPDH theo cách này hay cách khác. Vấn đề quan trọng trước hết là ở chỗ
người giảng viên giáo biết xem xét các phương diện khác nhau, thấy được những
PPDH về từng phương diện đó, biết lựa chọn, sử dụng những PP cho đúng lúc,

đúng chỗ và biết vận dụng phối hợp các PP đó khi cần thiết. Vì lý do này mà theo
tác giả Nguyễn Bá Kim có đã nhìn nhận một cách tổng thể các PPDH theo các
phương diện sau đây:
- Những chức năng điều hành quá trình dạy học:
+ Đảm bảo trình độ xuất phát,
+ Hướng đích và gợi động cơ,


+ Làm việc với nội dung mới,
+ Củng cố,
+ Kiểm tra và đánh giá,
+ Hướng dẫn công việc ở nhà.
- Những con đường nhận thức:
+ Suy diễn,
+ Quy nạp.
- Những hình thức hoạt động bên ngồi của giảng viên và trị:
+ GV thuyết trình,
+ Giảng viên, trị vấn đáp,
+ SV hoạt động độc lập.
- Những mức độ tìm tịi khám phá:
+ Truyền thụ tri thức dưới dạng có sẵn,
+ Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề (GQVĐ).
- Những hình thức tổ chức dạy học:
+ Dạy học theo lớp,
+ Dạy học theo nhóm,
+ Dạy học theo từng cặp.
- Những phương tiện dạy học:
+ Sử dụng phương tiện nghe nhìn,
+ Sử dụng phương tiện chương trình hố,
+ Làm việc với sách giáo khoa (SGK),

+ Làm việc với bảng treo tường,
+ Sử dụng công nghệ thông tin (CNTT) và truyền thông như cơng cụ dạy học.
- Những hình thức tự học:
+ Đọc sách,
+ Tự học trong môi trường CNTT và truyền thông,
+ Hỏi giảng viên, hỏi bạn, hỏi chuyên gia. [11, tr.108]
Như vậy ta thấy PPDH vô cùng phong phú, đa dạng và phức tạp. Để đơn
giản hoá các PPDH ta nghiên cứu PPDH dưới hai góc độ, đó là: PPDH truyền


thống và những xu hướng dạy học không truyền thống. Ở đây ta chỉ tập trung
nghiên cứu những PPDH hay được sử dụng trong quá trình dạy học.
1.1.3. Các phương pháp dạy học truyền thống
Thuyết trình, vấn đáp, trực quan… Các PPDH này đều có những đặc điểm
riêng đồng thời cũng là những ưu, nhược điểm của từng PP.
1.1.3.1. PP thuyết trình
Với PPDH thuyết trình, GV sử dụng ngơn ngữ và phi ngôn ngữ để cung
cấp cho người học hệ thống thông tin về nội dung học tập. Người học tiếp nhận
hệ thống thơng tin đó từ người dạy và xử lý tuỳ theo chủ thể việc học và yêu cầu
dạy học. [1]
Nhìn chung PPDH thuyết trình được áp dụng trong trường hợp chuyển tải
một khối lượng kiến thức mà người dạy định cung cấp đến người học, là PP
thông tin một chiều, người dạy nêu ra các ý tưởng hay khái niệm, giải thích,
giảng giải… để người học hiểu được ý tưởng đã được đề xuất, cuối cùng người
dạy tóm lại ý chính, người học ngồi nghe và ghi chép.
• Điểm mạnh và hạn chế của PPDH thuyết trình:
- Điểm mạnh:
+ Nếu cách diễn đạt lưu loát, rõ ràng, dễ hiểu phù hợp với trình độ người nghe…
thì PPDH thuyết trình đã chuyển tải đến người học một khối lượng thông tin cần
thiết, cô đọng trong một khoảng thời gian ngắn.

+ Cung cấp cho người học những thông tin cập nhật chưa kịp trình bày trong
SGK.
+ Thuyết trình là giao tiếp trực tiếp giữa người dạy với người học. Vì vậy, GV có
thể thay đổi các thủ pháp và hiệu chỉnh lại nội dung cho phù hợp đối tượng người
nghe.
+ Bài thuyết trình khơng chỉ cung cấp thơng tin về nội dung bài học mà còn cung
cấp cả PP nhận thức, PP tổng hợp, cấu trúc tài liệu học tập… qua đó có thể giúp
người học cách học.


+ PPDH thuyết trình giúp người dạy và người học tiết kiệm thời gian trong dạy
học, có thể áp dụng PPDH thuyết trình với lớp học đơng người.
- Hạn chế:
+ Thu được rất ít thơng tin phản hồi từ phía người học; chủ yếu sử dụng cơ chế
ghi nhớ và tái tạo tri thức của người học. Sự lạm dụng PP này có thể biến người
học thành người nghe thuần t, khơng cần phải tư duy.
+ Qua bài thuyết trình, mức độ lưu giữ thông tin của người học không cao.
+ Tính cá thể qua bài thuyết trình thấp, vì người dạy dùng một PP chung cho cả
lớp, dạy học đồng loạt.
+ Người học ít có điều kiện tham gia tích cực qua bài thuyết trình, người học gần
như thụ động qua bài học.
+ Không tạo điều kiện cho người học phát huy khả năng giao tiếp.
+ Nếu nội dung bài thuyết trình khơng thốt ly SGK hoặc tài liệu có sẵn thì
người học cảm thấy nghe bài thuyết trình là vơ bổ, lãng phí thời gian.
1.1.3.2. PP vấn đáp (PP đàm thoại)
PP vấn đáp là quá trình tương tác giữa người dạy với người học được thực
hiện thông qua hệ thống câu hỏi và trả lời tương ứng về một chủ đề nhất định
được người dạy và người học đặt ra, kết quả sự dẫn dắt của người dạyngười học
thể hiện được suy nghĩ, ý tưởng của mình, khám phá, lĩnh hội tri thức.
Với PP vấn đáp, người dạy điều khiển quá trình trao đổi giữa người dạy

với người học, cịn người học dựa trên câu hỏi có tính gợi mở để phát triển và tìm
lời giải cho mỗi vấn đề được đặt ra. Yếu tố thành công của PP này là một hệ
thống câu hỏi, cách hỏi và thời điểm hỏi của người dạy. [1]
• Điểm mạnh và hạn chế của PP vấn đáp:
- Điểm mạnh: PP vấn đáp có nhiều điểm mạnh, như :
+ Kích thích tốt tư duy độc lập của người học, dạy họ cách suy nghĩ.
+ Lôi cuốn người học vào môi trường học tập, kích thích và tạo động cơ học tập
mạnh mẽ cho người học.


+ Người dạy thu nhận được thông tin phản hồi từ phía người học một cách kịp
thời, chính xác. Qua đó, GV có thể đánh giá được mức độ hiểu bài cũng như mức
độ tiến bộ của SV, phát hiện kịp thời những ý tưởng sai lệch và kịp thời uốn nắn,
điều chỉnh.
+ Tạo điều kiện cho SV thể hiện mình qua giao tiếp, rèn kỹ năng diễn đạt ý
tưởng, tạo điều kiện cho SV giao lưu, học hỏi lẫn nhau.
+ Giúp SV hiểu bài học một cách bản chất, tránh học vẹt.
- Hạn chế: PPDH vấn đáp cũng có những hạn chế, như :
+ Rất khó thiết kế và sử dụng hệ thống câu hỏi gợi mở và dẫn dắt một cách hồn
hảo để SV có thể đi đến kết quả cuối cùng với mỗi chủ đề cho trước. Với PP này,
nếu GV khơng có sự chuẩn bị cơng phu thì SV khó mà thu được kiến thức một
cách hệ thống.
+Quá trình dẫn dắt, phát hiện và GQVĐ tốn nhiều thời gian.
+ Khó lường hết các tình huống có thể xảy ra trong q trình trao đổi, do đó dễ
lệch hướng so với chủ đề đặt ra ban đầu.
+ Không phải bao giờ và lúc nào vấn đáp cũng có thể thu hút được hết SV trong
lớp tham gia trao đổi.
Tóm lại, có nhiều cách truyền thơng tin cho SV: Thuyết trình, vấn đáp, sử
dụng phương tiện trực quan... căn cứ vào nội dung từng bài dạy, tuỳ theo điều
kiện cụ thể mà lựa chọn cách này hay cách khác, nhưng điều cốt yếu quyết định

kết quả học tập là hoạt động tự giác, tích cực, chủ động và sáng tạo của SV. Nếu
khơng kích thích được trị suy nghĩ, hoạt động thì dù giảng viên có nói thao thao
bất tuyệt, có sử dụng nhiều phương tiện nghe nhìn, có ra rất nhiều bài tập thì
những việc làm đó cũng không đem lại kết quả mong muốn. SV phải là chủ thể
của q trình học tập. Lời nói, câu hỏi của giảng viên, phương tiện nghe nhìn…
khơng thay thế mà chỉ khơi dậy hoạt động tự giác, tích cực, chủ động và sáng tạo
của trò.
Các PPDH truyền thống đã góp phần khơng nhỏ đến sự thành cơng của
ngành Giáo dục và Đào tạo nước ta trong những năm qua. Tuy nhiên, cũng phải
thừa nhận rằng PPDH ở nước ta cịn có những nhược điểm phổ biến:


- Giảng viên thuyết trình tràn lan.
- Tri thức được truyền thụ dưới dạng có sẵn, ít yếu tố tìm tòi, phát hiện.
- Giảng viên áp đặt, trò thụ động.
- Thiên về dạy, yếu về học, thiếu hoạt động tự giác, tích cực và sáng tạo
của người học.
- Khơng kiểm sốt được việc học.
1.1.4. Các xu hướng dạy học khơng truyền thống
Mâu thuẫn giữa yêu cầu đào tạo con người xây dựng xã hội cơng nghiệp
hố, hiện đại hố với thực trạng lạc hậu của PPDH đã làm nảy sinh và thúc đẩy
một cuộc vận động đổi mới PPDH ở tất cả các cấp trong nghành Giáo dục và
Đào tạo. PPDH cần hướng vào việc tổ chức cho người học học tập trong hoạt
động và bằng hoạt động tự giác, tích cực, chủ động và sáng tạo.
Để đáp ứng địi hỏi đó, chúng ta khơng chỉ dừng ở việc nêu định hướng
đổi mới PPDH mà cần phải đi sâu vào những PPDH cụ thể như những biện pháp
để thực hiện định hướng nói trên. Thích hợp với định hướng đó là một số xu
hướng dạy học không truyền thống: Dạy học phát hiện và GQVĐ; dạy học
chương trình hố; dạy học phân hố; dạy học hợp tác nhóm; phát triển và sử
dụng công nghệ trong dạy học…

1.1.4.1. Dạy học phát hiện và GQVĐ
• Đặc điểm của dạy học phát hiện và GQVĐ
Trong dạy học phát hiện và GQVĐ, giảng viên giáo tạo ra những tình
huống gợi vấn đề, điều khiển SV phát hiện vấn đề, hoạt động tự giác, tích cực,
chủ động, sáng tạo để GQVĐ, thơng qua đó mà kiến tạo tri thức, rèn luyện kỹ
năng và đạt được những mục tiêu học tập khác.
Dạy học phát hiện và GQVĐ có những đặc điểm sau đây:
+ SV được đặt vào tình huống gợi vấn đề chứ khơng phải là được thơng báo tri
thức dưới dạng có sẵn.


+ SV hoạt động tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo, tận lực huy động tri thức và
khả năng của mình để phát hiện và GQVĐ chứ khơng phải chỉ nghe giảng viên
giảng một cách thụ động.
+ Mục tiêu dạy học không phải chỉ là làm cho SV lĩnh hội kết quả của quá trình
phát hiện và GQVĐ mà còn ở chỗ làm cho họ phát triển khả năng tiến hành
những q trình như vậy. Nói cách khác, SV được học bản thân việc học.
Trong một xã hội đang phát triển nhanh theo cơ chế thị trường, cạnh tranh
gay gắt, việc phát hiện sớm và giải quyết hợp lý những vấn đề nảy sinh trong
thực tiễn là một năng lực bảo đảm sự thành đạt trong cuộc sống. Vì vậy, tập dượt
cho SV biết phát hiện, đặt ra và giải quyết những vấn đề gặp phải trong học tập,
trong cuộc sống của cá nhân, gia đình và cộng đồng khơng chỉ có ý nghĩa ở tầm
PPDH mà phải được đặt như một mục tiêu giáo dục.
Khuyến khích SV phát hiện và tự GQVĐ, vấn đề cốt yếu của PP này là
thơng qua q trình gợi ý, dẫn dắt, nêu câu hỏi, giả định, GV tạo điều kiện cho
SV tranh luận và tìm tịi phát hiện vấn đề thơng qua các tình huống có vấn đề.
Các tình huống này có thể do GV chủ động xây dựng, cũng có thể do lôgic kiến
thức của bài học tạo nên. Cần trân trọng, khuyến khích những phát hiện của SV,
tạo cơ hội, điều kiện cho SV thảo luận, tranh luận, đưa ra ý kiến, nhận định, đánh
giá cá nhân (có thể khơng đúng hoặc khác với sự chuẩn bị của GV), giúp SV tự

GQVĐ để chủ động chiếm lĩnh kiến thức.
Trong dạy học phát hiện và GQVĐ có thể phân biệt 4 mức độ:
- Mức 1: GV đặt vấn đề, nêu cách GQVĐ. SV thực hiện cách GQVĐ theo
sự hướng dẫn của GV. GV đánh giá kết quả làm việc của SV.
- Mức 2: GV nêu vấn đề, gợi ý để SV tìm ra cách GQVĐ. SV thực hiện
cách GQVĐ với sự giúp đỡ của GV khi cần. GV và SV cùng đánh giá.
- Mức 3: GV cung cấp thông tin tạo tình huống. SV phát hiện, nhận dạng,
phát biểu vấn đề nảy sinh cần giải quyết, tự lực đề xuất các giả thuyết và lựa
chọn các giải pháp. SV thực hiện kế hoạch GQVĐ. GV và SV cùng đánh giá.


- Mức 4: SV tự lực phát hiện vấn đề từ một tình huống thực, lựa chọn vấn
đề cần giải quyết, tự đề xuất ra giả thuyết, xây dựng kế hoạch giải, tự đánh giá
chất lượng và hiệu quả GQVĐ.
1.1.4.2. Dạy học chương trình hố
Dạy học chương trình hố là cách dạy học được điều khiển bởi chương
trình tương tự như những chương trình máy tính. Người ta thường chương trình
hố những bộ phận, những cơng đoạn của q trình dạy học hơn là chương trình
hố tồn bộ một q trình dạy học. [11, tr.228]
Sơ đồ biểu diễn quá trình dạy học:

• Đặc điểm của dạy học chương trình hố:
- Điều khiển chặt chẽ hoạt động học tập trên từng đơn vị nhỏ của q trình
dạy học;
- Tính độc lập cao của hoạt động học tập;
- Đảm bảo thường xuyên có mối liên hệ ngược (phản hồi);
- Cá biệt hố việc dạy học.
1.1.4.3. Dạy học phân hoá
Dạy học phân hoá xuất phát từ sự biện chứng của thống nhất và phân hoá,
từ yêu cầu đảm bảo thực hiện tốt các mục tiêu dạy học đối với tất cả mọi SV,

đồng thời khuyến khích phát triển tối đa và tối ưu những khả năng của cá nhân.
[11, tr.256]


Dạy học phân hố có thể được thực hiện theo hai hướng:
- Phân hoá nội tại (phân hoá trong), tức là dùng những biện pháp phân hố
thích hợp trong một lớp học thống nhất với cùng một kế hoạch học tập, cùng một
chương trình và SGK.
- Phân hố về tổ chức (phân hố ngồi), tức là hình thành những nhóm
ngoại khố, lớp chun, giáo trình tự chọn...
Những biện pháp dạy học phân hoá:
+ Đối xử cá biệt ngay trong những pha dạy học đồng loạt.
+ Tổ chức những pha phân hoá trên lớp.
+ Phân hoá bài tập về nhà.
1.1.4.4. Dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ
Lớp học được chia thành những nhóm từ 4 đến 6 người. Tuỳ mục đích sư
phạm và yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hay
có chủ định, được duy trì ổn định trong cả tiết học hoặc thay đổi theo từng hoạt
động, từng phần của tiết học, các nhóm được giao cùng một nhiệm vụ hoặc được
giao những nhiệm vụ khác nhau. [1]
Cấu tạo của một hoạt động theo nhóm (trong một phần của tiết học, một
tiết học, một buổi học) có thể là như sau:
- Làm việc chung cả lớp
+ Nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức.
+ Tổ chức các nhóm, giao nhiệm vụ cho các nhóm.
+ Hướng dẫn cách làm việc theo nhóm.
- Làm việc theo nhóm
+ Phân cơng trong nhóm, từng cá nhân làm việc độc lập.
+ Trao đổi ý kiến, thảo luận trong nhóm.
+ Cử đại diện (hoặc phân cơng trước) chịu trách nhiệm trình bày kết quả làm việc

của nhóm.
- Thảo luận, tổng kết trước tồn lớp
+ Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả.


+ Thảo luận chung.
+ GV tổng kết, đặt vấn đề tiếp theo.
PPDH hợp tác theo nhóm nhỏ cho phép các thành viên trong nhóm chia sẻ
các suy nghĩ, băn khoăn, kinh nghiệm, hiểu biết bản thân, cùng nhau xây dựng
nhận thức, thái độ mới. Bằng cách nói ra những điều đang nghĩ, mỗi người có thể
nhận rõ trình độ hiểu biết của mình về chủ đề nêu ra, thấy mình cần học hỏi thêm
những gì. Bài học trở thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ khơng phải chỉ là sự
tiếp nhận thụ động từ GV.
Theo PP này, mọi người dễ hiểu, dễ nhớ hơn vì họ được tham gia trao đổi,
trình bày vấn đề nêu ra, cảm thấy hào hứng khi trong sự thành cơng chung của cả
lớp có phần đóng góp của mình. Tuy nhiên, áp dụng PP này thường bị hạn chế
bởi không gian chật hẹp của lớp học, bởi thời gian hạn định của tiết học, cho nên
GV phải tổ chức hợp lý mới có kết quả, khơng nên lạm dụng các hoạt động nhóm
và cần đề phịng xu hướng hình thức.
1.1.4.5. Bồi dưỡng phương pháp tự học cho sinh viên
Tự học là quá trình người học tự giác, tích cực trong việc chiếm lĩnh tri
thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo của chính mình. Tự học trong quá trình học tập
của SV là việc các em độc lập hoàn thành nhiệm vụ được giao, với sự giúp đỡ
trực tiếp hoặc gián tiếp của GV. Như vậy, khi sử dụng PPDH môn vẽ kỹ thuật,
GV cần chú ý khai thác các cách hướng dẫn, giúp đỡ SV tự học.
SV tự học dưới hai hình thức: Tự học trên lớp và tự học ở nhà.
Thứ nhất, đối với hình thức tự học trên lớp để đạt hiệu quả GV cần tổ
chức, hướng dẫn SV học tập tích cực, chủ động bằng cách giao nhiệm vụ chung
cho lớp SV hoặc cũng có khi giao nhiệm vụ cho từng nhóm đối tượng SV khác
nhau căn cứ vào trình độ nhận thức của các em. Sau khi giao nhiệm vụ xong, GV

giới hạn thời gian cần hồn thành cơng việc đó. Lúc này, GV bao quát, quán
xuyến lớp học và dành thời gian nhiều hơn để quan tâm tới nhóm đối tượng SV
trung bình, yếu, kém vì với nhóm SV này ý thức tự giác của các em chưa cao.


Sau một khoảng thời gian nhất định, GV kiểm tra kết quả nghiên cứu của các em,
SV trình bày, sau đó, GV chỉnh sửa, bổ sung cho hồn chỉnh kiến thức.
Thứ hai, đối với hình thức tự học ở nhà thì ý thức tự giác của sinh viên
càng được thể hiện rõ rệt, muốn đạt được hiệu quả trong học tập GV cần phải
chuẩn bị một số câu hỏi và bài tập giao trước cho các em (giao câu hỏi và bài tập
khác nhau đối với các đối tượng SV khác nhau) và GV cũng đề ra phương án
kiểm tra, đánh giá kết quả tự nghiên cứu của SV. Cuối cùng GV chỉnh sửa,
khẳng định lại nội dung kiến thức. Đối với hình thức tự học ở nhà hay được sử
dụng trong tình huống như: chuẩn bị cho bài ơn tập (có thể là một chương hay
một học kỳ) bởi vì đối với tiết ơn tập thời gian bị hạn hẹp mà khối lượng kiến
thức lại nhiều nên muốn đạt hiệu quả trong giờ ơn tập thì khơng có cách nào khác
là SV phải chủ động tự học ở nhà.
1.2. Cơ sở lý luận về ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy các môn
kỹ thuật
1.2.1. Khái niệm “Công nghệ thông tin”
Công nghệ thông tin ( IT – Information Technology) là ngành ứng dụng
công nghệ quản lý và xử lý thơng tin, là ngành sử dụng máy tính và các phần
mềm của nó để chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền và thu thông tin. Theo
Nghị quyết 49/CP của Chính phủ ngày 4 tháng 8 năm 1993 thì “Cơng nghệ thơng
tin là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật
hiện đại- chủ yếu là kĩ thuật máy tính và viễn thơng- nhằm tổ chức khai thác và
sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng
trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội” [1].
Như vậy, công nghệ thông tin là tập hợp các phương tiện và công cụ kĩ
thuật hiện đại như máy tính, máy chiếu Projector, mạng Internet… để cung cấp

nguồn tài nguyên vô cùng phong phú, đa dạng cho mọi lĩnh vực trong đời sống
con người và xã hội. Đặc biệt, ngày nay Internet với các kết nối băng tầng rộng
đã đi tới tất cả các trường học, giúp cho việc ứng dụng các kiến thức, kĩ năng và
hiểu biết về công nghệ thông tin vào dạy học.


1.2.2. Vai trị của cơng nghệ thơng tin với dạy học
Ngày nay, việc đổi mới phương pháp dạy học trong trường phổ thông
đang rất được nhà nước và xã hội quan tâm. Định hướng đổi mới phương pháp
dạy và học đã được xác định trong Nghị quyết Trung ương 4 Khóa VII (1.1993),
Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (12.1996), được thể chế hóa trong Luật giáo
dục (2005). Đặc biệt, theo Luật Giáo dục điều 82.2 đã ghi: “phương pháp giáo
dục phổ thơng phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của sinh
viên; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp
tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình
cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho sinh viên”[2].
Như vậy, theo quy định của Luật giáo dục, giáo viên phải chuyển dần từ
phương pháp dạy học truyền thống (giáo viên giử vai trị trung tâm) sang phương
pháp dạy học tích cực – lấy sinh viên làm trung tâm của hoạt động dạy và học để
có thể phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của sinh viên, tạo cho sinh
viên hứng thú trong học tập. Ngoài ra, giáo viên còn phải bồi dưỡng cho sinh
viên kĩ năng nhận biết bản chất vấn đề, có năng lực tư duy độc lập và vận dụng
sáng tạo kiến thức đã học vào thực tiễn. Để đạt mục tiêu trên, giáo viên phải tăng
cường việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong q trình dạy học vì những lí
do sau:
Thứ nhất, nó phù hợp với yêu cầu của thời đại. Trong hệ thống giáo dục
của phương Tây, công nghệ thông tin chính thức được đưa vào chương trình học
phổ thơng. Người ta nhanh chóng nhận ra rằng nội dung về cơng nghệ thơng tin
đã có ích cho tất cả các mơn học khác nhau. Do đó, việc ứng dụng nó vào dạy
học ở trường Cao đẳng - Đại học Việt Nam là phù hợp với quy luật phát triển của

thời đại.
Thứ hai, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học là phù hợp với
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Chiến lược phát triển giáo dục
đào tạo đến năm 2010 của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nêu rõ: “từng bước phát
triển giáo dục dựa trên công nghệ thông tin…công nghệ thông tin và đa phương
tiện sẽ tạo ra thay đổi lớn trong hệ thống quản lí giáo dục, trong chuyển tải nội


dung chương trình đến người học, thúc đẩy cuộc cách mạng về phương pháp dạy
và học [3]. Như vậy, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng xác định con đường phát triển
cho giáo dục Việt Nam là “dựa trên công nghệ thơng tin” và nó là phương tiện để
thúc đẩy cuộc “cách mạng về phương pháp dạy và học” – nghĩa là thay đổi
phương pháp dạy học trong nhà trường.
Thời gian gần đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành quyết định “cấm
sử dụng phương pháp đọc chép” trong trường phổ thông càng làm cho việc ứng
dụng công nghệ thông tin vào dạy học được đẩy mạnh hơn. Tuy nhiên, giáo viên
không nên quá lạm dụng máy chiếu để thay cho tấm bảng đen, không nên biến
đọc chép thành “chiếu-chép”. Thời gian qua, nhiều giáo viên vẫn còn quan niệm
đồng nhất giữa “ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học” với giáo án điện tử.
Do đó, khi soạn một bài giảng bằng Powerpoint, giáo viên đưa tất cả những cơng
việc của mình (ổn định lớp, kiểm tra bài cũ, câu hỏi kiểm tra bài cũ, dặn dò…) và
toàn bộ nội dung bài giảng lên các Slides để “chiếu cho sinh viên chép”. Theo
chúng tôi, đây là một quan niệm chưa thật sự chuẩn xác vì cơng nghệ thơng tin
khơng phải là một giáo án, nó chỉ đóng vai trị hỗ trợ cho q trình giảng dạy và
giúp giáo viên cung cấp cho sinh viên nhiều nguồn tư liệu khác nhau về một sự
vật, hiện tượng như: kênh chữ, kênh hình, phim tư liệu…để cho sinh viên tự tìm
ra tri thức cho mình. Từ đó, phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo
của sinh viên trong học tập.
Thứ ba, cơng nghệ thơng tin đã góp phần hiện đại hóa các phương tiện
dạy học, các phần mềm dạy học như Activestudio, Powerpoint…sẽ giúp giáo

viên tạo bài giảng phù hợp nhu cầu của sinh viên, giúp sinh viên có nhiều
phương pháp tiếp thu kiến thức. Đặc biệt, nó sẽ giúp cho giáo viên tạo ra một lớp
học mang tính tương tác hai chiều: giáo viên – sinh viên và ngược lại. Điều này
phù hợp với quan điểm của Bộ Giáo dục và Đào tạo vì “học là q trình thu nhận
thơng tin có định hướng, có sự tái tạo và phát triển thơng tin; dạylà q trình phát
thơng tin và giúp người học thực hiện q trình trên một cách có hiệu quả” [4].
Do đó, ứng dụng công nghệ thông tin sẽ giúp sinh viên tiếp nhận thông tin bài
học hiệu quả hơn và sẽ biến những thơng tin đó thành kiến thức của mình. Đồng


thời, nó cũng phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của sinh viên, khai
thác nhiều giác quan của người học để lĩnh hội tri thức.
Thứ tư, ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học cũng giúp giáo viên
rút ngắn thời gian giảng dạy, có thời gian đầu tư cho q trình dẫn dắt, tạo tình
huống có vấn đề để kích thích tư duy sáng tạo của sinh viên. Sinh viên có thể dễ
dàng hình dung và có khái niệm chính xác về các hình ảnh, sự vật, hiện tượng khi
tiếp xúc với chúng bằng những hình ảnh trực quan (hình tư liệu, bản đồ, những
đoạn phim tư liệu …)
Như vậy, ngày nay việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học là một
nhu cầu cấp thiết đối với hệ thống giáo dục Việt Nam vì nó giúp giáo viên có
nhiều thời gian hơn để dẫn dắt sinh viên nắm bắt vấn đề, tạo tình huống có vấn
đề để kích thích sự tư duy sáng tạo của sinh viên. Mặt khác, nó cũng sẽ giúp sinh
viên chủ động hơn trong quá trình lĩnh hội tri thức khi được tiếp xúc với nhiều
nguồn tư liệu khác nhau. Từ đó, hình thành cho người học kĩ năng tự tiếp thu tri
thức, độc lập trong tư duy và hứng thú, hăng say trong học tập. Do đó, cơng nghệ
thơng tin ngày càng chiếm giử vị trí quan trọng trong dạy học và nó càng có vai
trị quan trọng hơn đối với việc dạy và học môn Vẽ kỹ thuật ở các trường Cao
đẳng - Đại học Việt Nam.
1.2.3. Thực trạng về việc sử dụng PPDH ở các trường đại học và cao đẳng
hiện nay

Ở Việt Nam hiện nay, các kiểu PPDH ở ĐH được sử dụng phổ biến gồm:
thông báo-tái hiện, làm mẫu-bắt chước. Mặc dù các kiểu PPDH mới như: giải
thích-tìm kiếm bộ phận, nêu vấn đề-nghiên cứu,… ngày càng được chú ý nhiều
hơn, nhưng hầu hết các trường ĐH và CĐ ở Việt Nam hiện nay vẫn còn sử dụng
PPDH cũ, vẫn còn theo lối truyền thụ một chiều, “thầy đọc-trị chép”, chưa phát
huy đầy đủ tính tích cực, độc lập của SV và bồi dưỡng cho họ năng lực tự học, tự
nghiên cứu. Các phương pháp thuyết trình, diễn giảng, vẫn là các PPDH chủ yếu.
QTDH vẫn cịn mang nặng tính lý thuyết, cách dạy theo kiểu truyền thống là
dùng lời, người học dùng phương pháp nghe và ghi nhớ một cách thụ động. Việc
tổ chức hướng dẫn cho SV tự học, đọc sách, semina, thảo luận,… chưa được chú


trọng đúng mức. Giờ thực hành, rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cịn ít, chưa đặt ra
u cầu cao đối với SV trong học tập, trong nghiên cứu khoa học. Phần lớn SV
chỉ biết cách học khi sắp thi tốt nghiệp, nên hiệu quả học tập trong nhà trường là
rất thấp, khả năng tự học, tự phát triển kém, quen với nghe và ghi, không quen
với tự đọc và tự tóm lược,… Phần lớn các đề thi cuối mơn học chỉ nhằm đánh giá
SV thuộc bài đến mức nào, kết quả phổ biến là SV chỉ học theo bài giảng của
thầy, không tham khảo tài liệu, không học theo lối tư duy phê phán, tư duy sáng
tạo để dẫn đến có năng lực giải quyết vấn đề.
Với các PPDH như trên, tất yếu dẫn đến cách học thụ động, đối phó của
SV. Theo số liệu điều tra của một số nhà nghiên cứu giáo dục thì có tới hơn 70%
số SV chỉ học trong vở ghi. Số SV đọc thêm tài liệu tham khảo, liên hệ thực tế,
vận dụng kiến thức vào thực tiễn chiếm tỷ lệ không cao. Chỉ có 7,6% số SV
trong q trình học biết tự nêu và giải quyết vấn đề. Với kết quả như trên, rõ ràng
các PPDH ở ĐH và CĐ hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo của xã hội.
1.2.4. Cơ sở của việc ứng dụng cntt trong dạy học
1.2.4.1. Vài nét giới thiệu về CNTT trong dạy học
Ngày nay CNTT đang được ứng dụng hết sức rộng rãi và hiệu quả vào các
lĩnh vực hoạt động của con người, tạo nên những thay đổi to lớn trong xã hội,

trong đó có nhà trường. Để đi đến việc ứng dụng CNTT vào QTDH trước tiên
cần tìm hiểu sơ bộ về CNTT.
Công nghệ được hiểu tổng quát là sự áp dụng của khoa học vào các hoạt
động thực tiễn của con người trong đời sống xã hội.
Trước xu hướng toàn cầu hóa và việc hình thành một nền kinh tế “mạng”,
đã dẫn đến mối quan hệ khắng khít khơng thể tách rời giữa máy vi tính (MVT)
với mạng viễn thơng và tạo nên một khái niệm mới là CNTT và truyền thông
(tiếng Anh là Information and Communication Technology viết tắt là ICT). Đây
là một ngành công nghệ mới đang phát triển với tốc độ cao. Đó là tổng thể các
phương tiện xử lý dữ liệu, giữ, truyền và phản ánh các sản phẩm thông tin, được
cấu trúc thành ba bộ phận:


- Bộ phận công nghiệp truyền thông: mạng điện thoại, mạng cáp, mạng vệ
tinh, mạng di động, mạng phát thanh truyền hình,…
- Bộ phận cơng nghiệp máy tính: máy tính, thiết bị điện tử, CN phần cứng
(chủ yếu là tạo ra phương tiện, công cụ để phục vụ trực tiếp CN truyền thông),
CN phần mềm (nhằm nâng cao, mở rộng, phát triển hiệu quả của CN phần cứng,
của máy tính điện tử,…) và các dịch vụ khác (thương mại điện tử, thư điện tử,…)
- Công nghiệp nội dung thông tin: gồm các dữ liệu, số liệu, hình ảnh, các
hoạt động, của xã hội về mọi mặt: văn hóa, thể thao, nghệ thuật, KH-CN, giáo
dục-đào tạo, vui chơi-giải trí,… ở trong quá khứ, hiện tại, và tương lai. Nói
chung, đó là kho tư liệu khổng lồ của nhân loại.
Ba bộ phận trên liên kết lại với nhau tạo thành một tiềm năng vơ cùng to
lớn. Đó là mạng thiết bị kỹ thuật đa năng, tạo thành xương sống của cơ sở hạ
tầng thơng tin quốc gia và tồn cầu.
1.2.4.2. Ứng dụng CNTT trong dạy học
Thực chất của quá trình ứng dụng CNTT trong dạy học là sử dụng các
phương tiện để khuyếch đại, mở rộng khả năng nghe nhìn và trao cho máy các
thao tác truyền đạt, xử lý thông tin. Các phương tiện đó được xem như các cơng

cụ lao động trí tuệ mới bao gồm: MVT, video, máy chiếu qua đầu (over head),
máy chiếu tinh thể lỏng (LCD-Projector), máy quay kỹ thuật số, các phần mềm
cơ bản: xây dựng thí nghiệm ảo, thí nghiệm mơ phỏng, CD-ROM,… đặc biệt là
mạng Internet. Trong đó MVT đóng vai trị là trung tâm phối hợp, xử lý mọi hình
thức thể hiện và thao tác truyền đạt thông tin. MVT kết hợp với một số phần
mềm tạo nên một công cụ hỗ trợ có nhiều chức năng to lớn như: có thể tạo nên,
lưu giữ, sắp xếp, sửa đổi, hiển thị lại,… một khối lượng thơng tin vơ cùng lớn
một cách nhanh chóng, dễ thực hiện. Do vậy, MVT được xem như là một công
cụ dạy học không thể thiếu trong một xã hội hiện đại.


1.2.5. Đổi mới PPDH với việc ứng dụng CNTT
1.2.5.1. Mục đích việc đổi mới PPDH với việc sử dụng CNTT
Sử dụng CNTT trong dạy học nhằm giúp GV và SV sử dụng cơng nghệ
một cách có hiệu quả để phát triển việc học của SV một cách độc lập sáng tạo,
phát triển môi trường học tập với nhiều thuận lợi, từ đó giúp người học học tích
cực, tự lực, tạo cơ hội cho SV tiếp xúc nội dung học tập theo nhiều con đường
khác nhau (như tham khảo các tài liệu in, tài liệu trên Internet,..) và với nhiều đối
tượng khác nhau (các SV trong và ngoài lớp học, các thầy giáo khác,…)
1.2.5.2. Phát triển việc học của SV một cách độc lập và sáng tạo
Trong PPDH sử dụng CNTT, GV không thông báo kiến thức cho SV mà
thay vào đó cung cấp cho SV những vấn đề cần nghiên cứu, tìm hiểu. SV sử
dụng các cơng cụ của CNTT như: MVT và các phần mềm của nó, Internet, CDROM,… để tự tìm tịi, đưa ra giả thuyết, giải pháp kiểm chứng và sau đó trình
bày vấn đề theo quan điểm và cấu trúc của mình. Điều này giúp cho SV học tập
tích cực hơn, SV có cơ hội để trình bày quan điểm, thể hiện khả năng của mình.
Với con đường lĩnh hội tri thức như trên, SV sẽ có điều kiện để phát triển đồng
thời khả năng sáng tạo, các kỹ năng thực hành và thúc đẩy SV học tập độc lập.
1.2.5.3. Phát triển môi trường học tập với nhiều thuận lợi:
- Chia sẻ tài liệu học tập: Trong môi trường học tập sử dụng CNTT, GV
và SV có thể chia sẻ thơng tin, tài liệu mà họ tìm thấy được trên ti vi, radio,

Internet,… để cùng nhau học tập. Điều này giúp SV và GV có nhiều cơ hội để
thực hiện sự chia sẻ thông tin ở mọi nơi mọi lúc, phát triển hình thức học tập hợp
tác.
- Chia sẻ khơng gian học tập: Mạng máy tính tạo ra một mơi trường học
tập, ở đó người học có thể chia sẻ khơng gian học tập bằng cách trao đổi thông
tin với người khác hoặc với GV. Sử dụng mạng máy tính, có thể tạo sự liên kết
tốt giữa GV-SV và SV-SV.


- Thúc đẩy học tập hợp tác: điều này được thực hiện qua việc thảo luận
nhóm, làm việc theo nhóm, thu thập kinh nghiệm cả nhóm, và nhóm báo cáo,…
- Hướng tới học tập độc lập: Qua trao đổi thảo luận, khai thác tìm hiểu các
thơng tin, mỗi SV sẽ tự rút ra những vấn đề cần tìm hiểu, những kinh nghiệm và
biến kiến thức của tập thể thành kiến thức của bản thân.
1.2.5.4. Trình độ tin học của SV và GV các trường đại học và cao đẳng
Trừ những GV giảng dạy về CNTT, khá nhiều GV thuộc chuyên ngành
khác chưa có đủ kỹ năng áp dụng một cách có hiệu quả các cơng cụ của CNTT
vào nội dung bài giảng của mình. Trình độ tin học của cán bộ, GV chủ yếu là biết
sử dụng tin học văn phòng, soạn thảo văn bản (theo số liệu điều tra chiếm 63%).
Số đào tạo chính quy về CNTT rất ít (chiếm 8%), nhìn chung trình độ của GV
cịn nhiều bất cập với những ứng dụng cụ thể của các phần mềm, các thí nghiệm
với máy tính,…
1.2.5.5. Thực tiễn ứng dụng CNTT trong dạy học:
Đa số GV vẫn sử dụng PPDH truyền thống, phương tiện là phấn trắng
bảng đen, bảng biểu và đồ dùng thí nghiệm thơ sơ. Một số ít GV có sử dụng máy
chiếu qua đầu hoặc Projector, soạn bài giảng điện tử bằng phần mềm Powerpoint
trong những tiết dạy tốt, thao giảng. Tuy nhiên các giờ dạy đó chỉ thực hiện một
cách riêng lẻ, khơng có hệ thống, chưa chuẩn bị kỹ về mọi mặt của vấn đề
PPDH, do vậy thực chất những tiết giảng rời rạc đó chưa thể làm thay đổi được
bản chất của QTDH để có thể nâng cao chất lượng dạy học mơn học.

1.2.5.6. Điều kiện cần thiết để sử dụng CNTT trong dạy học
- Phải thay đổi cơ bản suy nghĩ và thói quen của GV và các nhà quản lý
giáo dục về vấn đề đổi mới PPDH.
- Đào tạo GV và SV có một trình độ tin học căn bản
- Trang bị cơ sở vật chất và trang thiết bị về CNTT


1.3. Tìm hiểu khái niệm và nội dung của bài giảng điện tử
1.3.1. Khái niệm bài giảng điện tử
Bài giảng điện tử là một hình thức tổ chức bài lên lớp mà ở đó tồn bộ kế
hoạch hoạt động dạy học đều được chương trình hố do giáo viên điều khiển
thơng qua mơi trường multimedia do máy vi tính tạo ra. Cần lưu ý bài giảng điện
tử toàn bộ hoạt động dạy và học - tất cả các tình huống sẽ sảy ra trong quá trình
truyền đạt và tiếp thu kiến thức của học sinh. Bài giàng điện tử càng không phải
là một công cụ để thay thế “bảng đen phấn trắng” mà nó phải đóng vai trị định
hướng trong tất cả các hoạt động trên lớp.
Các đơn vị của bài học đều phải được Multimedia hóa. Multimedia được
hiểu là đa phương tiện, đa môi trường, đa truyền thông. Trong môi trường
multimedia, thông tin được truyền dưới các dạng: văn bản (text), đồ hoạ
(graphics), hoạt ảnh (animation), ảnh chụp (image), âm thanh (audio) và phim
video (video clip).
Giáo án điện tử là bản thiết kế cụ thể toàn bộ kế hoạch hoạt động dạy học
của giáo viên trên giờ lên lớp, tồn bộ hoạt động dạy học đó đã được multimedia
hố một cách chi tiết, có cấu trúc chặt chẽ và logic được quy định bởi cấu trúc
của bài học. Giáo án điện tử là một sản phẩm của hoạt động thiết kế bài dạy được
thể hiện bằng vật chất trước khi bài dạy học được tiến hành. Giáo án điện tử
chính là bản thiết kế của bài giảng điện tử, chính vì vậy xây dựng giáo án điện tử
hay thiết kế bài giảng điện tử là hai cách gọi khác nhau cho một hoạt động cụ thể
để có được bài giảng điện tử.
1.3.2. Quy trình thiết kế bài giảng điện tử

Giáo án điện tử có thể được xây dựng theo quy trình gồm 6 bước sau:
- Xác định mục tiêu bài học,
- Lựa chọn kiến thức cơ bản, xác định đúng những nội dung trọng tâm,
- Multimedia hoá từng đơn vị kiến thức,
- Xây dựng thư viện tư liệu,


- Lựa chọn ngơn ngữ hoặc các phần mềm trình diễn để xây dựng tiến trình
dạy học thơng qua các hoạt động cụ thể,
- Chạy thử chương trình, sửa chữa và hoàn thiện.
Dưới đây là nội dung cụ thể của từng bước.
1.3.2.1. Xác định mục tiêu bài học
Trong dạy học hướng tập trung vào học sinh, mục tiêu phải chỉ rõ học
xong bài, học sinh đạt được cái gì. Mục tiêu ở đây là mục tiêu học tập, chứ không
phải là mục tiêu giảng dạy, tức là chỉ ra sản phẩm mà học sinh có được sau bài
học. Đọc kĩ sách giáo khoa, kết hợp với các tài liệu tham khảo để tìm hiểu nội
dung của mỗi mục trong bài và cái đích cần đạt tới của mỗi mục. Trên cơ sở đó
xác định đích cần đạt tới của cả bài về kiến thức, kĩ năng, thái độ. Đó chính là
mục tiêu của bài.
1.3.2.2. Lựa chọn kiến thức cơ bản, xác định đúng những nội dung trọng tâm
Những nội dung đưa vào chương trình và sách giáo khoa phổ thơng được
chọn lọc từ khối lượng tri thức đồ sộ của khoa học bộ mơn, được sắp xếp một
cách lơgíc, khoa học, đảm bảo tính sư phạm và thực tiễn cao. Bởi vậy cần bám
sát vào chương trình dạy học và sách giáo khoa bộ môn. Đây là điều bắt buộc tất
yếu vì sách giáo khoa là tài liệu giảng dạy và học tập chủ yếu; chương trình là
pháp lệnh cần phải tuân theo. Căn cứ vào đó để lựa chọn kiến thức cơ bản là
nhằm đảm bảo tính thống nhất của nội dung dạy học trong toàn quốc. Mặt khác,
các kiến thức trong sách giáo khoa đã được qui định để dạy cho học sinh. Do đó,
chọn kiến thức cơ bản là chọn kiến thức ở trong đó chứ khơng phải là ở tài liệu
nào khác.

Tuy nhiên, để xác định được đúng kiến thức cơ bản mỗi bài thì cần phải
đọc thêm tài liệu, sách báo tham khảo để mở rộng hiểu biết về vấn đề cần giảng
dạy và tạo khả năng chọn đúng kiến thức cơ bản.
Việc chọn lọc kiến thức cơ bản của bài dạy học có thể gắn với việc sắp
xếp lại cấu trúc của bài để làm nổi bật các mối liên hệ giữa các hợp phần kiến


thức của bài, từ đó rõ thêm các trọng tâm, trọng điểm của bài. Việc làm này thực
sự cần thiết, tuy nhiên khơng phải ở bài nào cũng có thể tiến hành được dễ dàng.
Cũng cần chú ý việc cấu trúc lại nội dung bài phải tuân thủ nguyên tắc không làm
biến đổi tinh thần cơ bản của bài mà các tác giả sách giáo khoa đã dày công xây
dựng.
1.3.2.3. Multimedia hoá kiến thức
Đây là bước quan trọng cho việc thiết kế bài giảng điện tử, là nét đặc
trưng cơ bản của bài giảng điện tử để phân biệt với các loại bài giảng truyền
thống, hoặc các loại bài giảng có sự hỗ trợ một phần của máy vi tính. Việc
multimedia hoá kiến thức được thực hiện qua các bước:
- Dữ liệu hố thơng tin kiến thức
- Phân loại kiến thức được khai thác dưới dạng văn bản, bản đồ, đồ hoạ,
ảnh tĩnh, phim, âm thanh...
- Tiến hành sưu tập hoặc xây dựng mới nguồn tư liệu sẽ sử dụng trong bài
học. Nguồn tư liệu này thường được lấy từ một phần mềm dạy học nào đó hoặc
từ internet, ... hoặc được xây dựng mới bằng đồ hoạ, bằng ảnh quét, ảnh chụp,
quay video, bằng các phần mềm đồ hoạ chuyên dụng như Macromedia Flash...
- Chọn lựa các phần mềm dạy học có sẵn cần dùng đến trong bài học để
đặt liên kết.
- Xử lý các tư liệu thu được để nâng cao chất lượng về hình ảnh, âm
thanh. Khi sử dụng các đoạn phim, hình ảnh, âm thanh cần phải đảm bảo các yêu
cầu về mặt nội dung, phương pháp, thẩm mỹ và ý đồ sư phạm.
1.3.2.4. Xây dựng các thư viện tư liệu

Sau khi có được đầy đủ tư liệu cần dùng cho bài giảng điện tử, phải tiến
hành sắp xếp tổ chức lại thành thư viện tư liệu, tức là tạo được cây thư mục hợp
lý. Cây thư mục hợp lý sẽ tạo điều kiện tìm kiếm thơng tin nhanh chóng và giữ
được các liên kết trong bài giảng đến các tập tin âm thanh, video clip khi sao
chép bài giảng từ ổ đĩa nay sang ổ đĩa khác, từ máy này sang máy khác.


1.3.2.5. Lựa chọn ngơn ngữ hoặc các phần mềm trình diễn để xây dựng tiến trình
dạy học thơng qua các hoạt động cụ thể
Sau khi đã có các thư viện tư liệu, giáo viên cần lựa chọn ngôn ngữ hoặc
các phầm mềm trình diễn thơng dụng để tiến hành xây dựng giáo án điện tử.
Trước hết cần chia quá trình dạy học trong giờ lên lớp thành các hoạt
động nhận thức cụ thể. Dựa vào các hoạt động đó để định ra các slide (trong
PowerPoint) hoặc các trang trong Frontpage. Sau đó xây dựng nội dung cho các
trang (hoặc các slide). Tuỳ theo nội dung cụ thể mà thông tin trên mỗi trang/slide
có thể là văn bản, đồ hoạ, tranh ảnh, âm thanh, video clip...
Văn bản cần trình bày ngắn gọn cô đọng, chủ yếu là các tiêu đề và dàn ý
cơ bản. Nên dùng một loại font chữ phổ biến, đơn giản, màu chữ được dùng
thống nhất tuỳ theo mục đích sử dụng khác nhau của văn bản như câu hỏi gợi
mở, dẫn dắt, hoặc giảng giải, giải thích, ghi nhớ, câu trả lời... Khi trình bày nên
sử dụng sơ đồ khối để học sinh thấy ngay được cấu trúc logic của những nội
dung cần trình bày.
Đối với mỗi bài dạy nên dùng khung, màu nền (backround) thống nhất
cho các trang/slide, hạn chế sử dụng các màu quá chói hoặc quá tương phản
nhau.
Không nên lạm dụng các hiệu ứng trình diễn theo kiểu "bay nhảy" thu hút
sự tị mị không cần thiết của học sinh, phân tán chú ý trong học tập, mà cần chú
ý làm nổi bật các nội dung trọng tâm, khai thác triệt để các ý tưởng tiềm ẩn bên
trong các đối tượng trình diễn thơng qua việc nêu vấn đề, hướng dẫn, tổ chức
hoạt động nhận thức nhằm phát triển tư duy của học sinh. Cái quan trọng là đối

tượng trình diễn khơng chỉ để thầy tương tác với máy tính mà chính là hỗ trợ một
cách hiệu quả sự tương tác thầy-trò, trò-trò.
Cuối cùng là thực hiện các liên kết (hyperlink) hợp lý, logic lên các đối
tượng trong bài giảng. Đây chính là ưu điểm nổi bật có được trong bài giảng điện
tử nên cần khai thác tối đa khả năng liên kết. Nhờ sự liên kết này mà bài giảng
được tổ chức một cách linh hoạt, thông tin được truy xuất kịp thời, học sinh dễ
tiếp thu.


×