Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
---------------------------------
NÔNG THỊ MAI
ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỂ THIẾT KẾ
BÀI GIẢNG ĐỊA LÍ TỰ NHIÊN VIỆT NAM TRONG
SÁCH GIÁO KHOA ĐỊA LÍ 8 THCS
(VẬN DỤNG TẠI TỈNH CAO BẰNG)
Chuyên ngành: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC ĐỊA LÍ
Mã số: 60.14.10
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ HỒNG
THÁI NGUYÊN - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ngày nay, với cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ
và sự bùng nổ thông tin trên nhiều lĩnh vực, thế giới đang bƣớc vào thời đại
của toàn cầu hoá thì vai trò của giáo dục ngày càng đƣợc tăng cƣờng trong
việc “Đào tạo ra những ngƣời lao động tự chủ, năng động, sáng tạo, có năng
lực giải quyết những vấn đề thực tế”. Định hƣớng cho phát triển giáo dục đó
là “Phát huy tính tích cực, chủ động, tƣ duy sáng tạo của ngƣời học; bồi
dƣỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vƣơn lên”. (Luật giáo
dục 1998, chƣơng 1, điều 24).
Trong nhà trƣờng phổ thông, ngƣời giáo viên vừa phải truyền đạt cho
học sinh những nội dung chính của bài học, vừa phải cập nhật những vấn đề
mới của xã hội và nội dung khoa học của bộ môn, điều này đòi hỏi phải có sự
đổi mới phƣơng pháp giảng dạy của giáo viên. Ngƣời giáo viên phải biết lựa
chọn và kết hợp các phƣơng pháp dạy học nhằm kích thích sự tìm tòi, phát
triển tƣ duy của học sinh. Một trong những giải pháp đó là ứng dụng CNTT
vào dạy học ở nhà trƣờng phổ thông.
Nghị quyết TW 4 khoá VII và nghị quyết TW 2 khoá VIII đã nêu rõ:
“Đổi mới mạnh mẽ phƣơng pháp giáo dục – đào tạo, khắc phục lối
truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tƣ duy sáng tạo của ngƣời học, từng
bƣớc áp dụng những phƣơng pháp tiên tiến và phƣơng tiện vào quá trình dạy
học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu của học sinh...”
Nhƣ vậy, việc sử dụng CNTT trong giảng dạy ngày càng phát huy đƣợc tính
hiệu quả và đƣợc ứng dụng rộng rãi trong nhà trƣờng phổ thông là phù hợp
với xu thế thời đại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
Môn học địa lí nói chung và chƣơng trình địa lí tự nhiên Việt Nam nói
riêng có nhiều thuận lợi trong việc ứng dụng CNTT vào dạy học, vì đây là
môn học sử dụng nhiều phƣơng tiện và thiết bị dạy học, các phƣơng tiện này
không đơn thuần là công cụ dạy học mà còn là nguồn tri thức, nó có thế mạnh
rất lớn trong quá trình dạy học thông qua việc thể hiện: Bản đồ, biểu đồ, tranh
ảnh, Video... Tuy nhiên, hiện nay trong các trƣờng phổ thông ở nƣớc ta nói
chung và ở tỉnh Cao Bằng nói riêng, việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy
còn ít và chƣa phát huy đƣợc tính hiệu quả, nên chƣa gây đƣợc hứng thú học
tập cho học sinh. Vấn đề này do nhiều nguyên nhân nhƣ: Thiếu thiết bị và
phƣơng tiện dạy học (đặc biệt là máy tính), không ít giáo viên chƣa đƣợc làm
quen với phƣơng tiện dạy học có ứng dụng CNTT, còn có sự chuyển biến
chậm trong đổi mới phƣơng pháp dạy học...
Chính vì vậy sự lựa chọn đề tài: “Ứng dụng CNTT để thiết kế bài
giảng địa lí tự nhiên Việt Nam trong SGK địa lí 8 THCS (vận dụng tại tỉnh
Cao Bằng)” nhằm phát huy yếu tố tích cực của việc ứng dụng CNTT trong
dạy học địa lí tự nhiên Việt Nam lớp 8 THCS.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu lí luận chung về việc thiết kế và giảng dạy địa lí tự nhiên
Việt Nam.
- Nghiên cứu ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học theo hƣớng
tích cực nhằm nâng cao chất lƣợng giảng dạy và học tập môn địa lí tự nhiên
Việt Nam trong chƣơng trình địa lí lớp 8 THCS tỉnh Cao Bằng.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu cơ sở lí luận và thực tiễn của việc ứng dụng công nghệ
thông tin vào dạy học địa lí tự nhiên Việt Nam lớp 8 THCS ở tỉnh Cao Bằng.
-
Nghiên cứu các kỹ thuật khai thác một số phần mềm phục vụ cho việc
thiết kế xây dựng một số bài giảng địa lí tự nhiên Việt Nam THCS.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
- Thiết kế một số bài giảng cụ thể trong phần địa lí tự nhiên Việt Nam
trong chƣơng trình địa lí 8 THCS có ứng dụng CNTT.
- Tiến hành thực nghiệm sƣ phạm nhằm đánh giá những thuận lợi, khó
khăn và đƣa ra một số giải pháp cụ thể về việc ứng dụng CNTT trong dạy
học địa lí ở các trƣờng THCS tỉnh Cao Bằng.
4. Giới hạn của đề tài
Bƣớc đầu nghiên cứu cách thức ứng dụng CNTT vào việc thiết kế một
số bài giảng địa lí tự nhiên Việt Nam trong SGK địa lí 8 THCS.
5. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trên thế giới việc ứng dụng CNTT vào dạy học đã đƣợc quan tâm từ
lâu, nhất là các nƣớc tƣ bản phát triển. Từ những năm 1984, 1985 tổ chức
NSCU (National Sofware – Cordination Unit) đƣợc thành lập, cung cấp
chƣơng trình giáo dục máy tính cho các trƣờng trung học. Các môn học đã
có phần mềm dạy học bao gồm: Nông nghiệp, Nghệ thuật, Thƣơng mại,
Giáo dục kinh tế, tiếng Anh, Địa lí, Sức khoẻ, Lịch sử, Kinh tế gia đình,
Nghệ thuật công nghiệp, Toán, Âm nhạc, Tôn giáo, Khoa học tự nhiên,
Khoa học xã hội, Giáo dục đặc biệt….
Ở Ấn Độ tổ chức NCERT (National Council of Educasion Resarch
and Training) ở New Dehli đã thực hiện đề án CLASS (Computer
Literacy and Studies in School). Đề án xem xét việc sử dụng máy tính trợ
giúp việc dạy học trong lớp, đồng thời quan tâm đến vai trò của máy tính
nhƣ là một công cụ ƣu việt đánh dấu sự thay đổi có ý nghĩa về phƣơng
pháp luận dạy học.
Năm 1985 các nƣớc Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Xrilanca,
Thái lan, Malaixia tổ chức các hội thảo về phần mềm dạy học tại Malaixia
đã đƣa ra tiêu chuẩn đánh giá phần mềm gồm 3 yếu tố: Đặt vấn đề, trình bày
bài giảng và kỹ thuật lập trình. Ở Nhật Bản, máy tính đƣợc dùng làm công
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
cụ để giáo viên trình bày kiến thức, rèn luyện kỹ năng, tiếp thu bài mới và
giải quyết các vấn đề đặt ra trong tiết học. Nhật Bản khẳng định việc sử
dụng máy tính trong dạy học, đặc biệt ở phổ thông, đã có tác dụng kích thích
sự hứng thú học tập của học sinh. Hiện nay các nƣớc trong khu vực nhƣ:
Singapo, Thái Lan việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy cũng
đã trở nên rất phổ biến.
Ở Việt Nam, việc ứng dụng CNTT vào dạy học ngày càng đƣợc quan
tâm, đã có văn bản chỉ đạo về vấn đề này nhƣ Nghị quyết 49/CP
(4/8/1993)
về phát triển CNTT.
Trong những năm gần đây, nƣớc ta đã có nhiều công
trình nghiên cứu ứng dụng CNTT vào dạy học, đối với môn địa lí cũng đã có
nhiều công trình nghiên cứu nhƣ: Các công trình nghiên cứu của các tác giả
Nguyễn Viết Thịnh, Phạm Thị Kim Chung, Đỗ Thị Minh Đức “Trình bày
trực quan bài giảng địa lí bằng Microsospft Power point” “Sử dụng phần
mềm Excel để vẽ các biểu đồ trong địa lí kinh tế xã hội. “Ứng dụng CNTT
trong đổi mới dạy học bộ môn địa lí”. Nguyễn Trọng Phúc – “Những vấn đề
kinh tế xã hội và môi trƣờng trong quá trình CNH, HĐH” Trƣờng ĐHSP
TPHCM, 4/2004. “Thiết kế bài giảng địa lí ở nhà trƣờng phổ thông có sử
dụng Power Point và các phần mềm địa lí”, “Khai thác chƣơng trình PC
PACT, ENCARTAR, ATLAS 2001 và POWERPOINT để thiết kế, xây
dựng bài giảng địa lí”.… Nhìn chung các công trình nghiên cứu, giáo trình,
luận án, sách... đã phân tích mô hình các phƣơng hƣớng đổi mới phƣơng
pháp dạy học theo hƣớng tích cực, phân tích đƣợc tính ƣu việt của việc ứng
dụng CNTT vào dạy học địa lí và đã đem lại kết quả rất khả quan.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Phương Pháp thu thập tài liệu
Dựa vào mục đích và nhiệm vụ của đề tài, việc thu thập tài liệu đƣợc
tiến hành từ nhiều nguồn khác nhau nhƣ sách báo, tạp chí chuyên ngành, các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
công trình, đề tài nghiên cứu khoa học, các phần mềm nghiên cứu ứng dụng
dạy học có nội dung liên quan. Để việc thiết kế bài giảng đảm bảo tính khoa
học và tính giáo dục, khi thu thập tài liệu cần chú ý nghiên cứu sách giáo
khoa lớp 8 hiện hành làm tài liệu chuẩn cho nội dung thiết kế của bài học.
Ngoài ra còn thu thập các tài liệu về lí luận dạy học đại cƣơng, lí luận dạy
học địa lí, tâm lí học sƣ phạm, tâm lí học lứa tuổi nhằm giúp cho việc thiết
kế bài giảng phát huy đƣợc tính tích cực của học sinh.
6.2 Phương pháp điều tra thực tế
Điều tra và tìm hiểu về thái độ của giáo viên và học sinh thông qua dự
giờ, dạy thực nghiệm, phỏng vấn trực tiếp để đánh giá chính xác thực trạng
việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy địa lí tự nhiên Việt Nam lớp 8 THCS tại
tỉnh Cao Bằng.
6.3 Phương pháp phân tích hệ thống
Nội dung, phƣơng pháp và các phƣơng tiện dạy học là một chủ thể
thống nhất gồm nhiều yếu tố liên quan tạo nên cấu trúc chặt chẽ của quá
trình dạy học địa lí. Do đó, để đảm bảo tính khoa học, các đối tƣợng
nghiên cứu cần phải đƣợc xem xét phân tích trong một hệ thống hoàn
chỉnh: Xem xét cấu trúc hệ thống của chƣơng trình, hệ thống kiến thức
trong mỗi bài học.
6.4 Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Tiến hành thiết kế một số bài giảng địa lí tự nhiên Việt Nam lớp 8
THCS có ứng dụng CNTT và tiến hành thực nghiệm tại một số trƣờng trên
địa bàn tỉnh Cao Bằng.
Phân tích những kết quả thực nghiệm, rút ra những ƣu, nhƣợc điểm từ
đó đề xuất kiến nghị giải pháp nhằm đem lại hiệu quả cao trong việc ứng
dụng CNTT trong giảng dạy địa lí tự nhiên Việt Nam lớp 8 THCS.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
6.5 Phương pháp toán thống kê
Sử dụng các công thức toán thống kê phân tích, xử lí các kết quả thu
đƣợc từ thực nghiệm sƣ phạm, nhằm làm tăng tính chính xác, khách quan,
tăng tính thuyết phục cho kết quả nghiên cứu của đề tài.
7. Đóng góp của đề tài
- Nghiên cứu, tiếp thu và xác định những lí luận cơ bản của việc
đổi mới phƣơng pháp dạy học nói chung và việc thiết kế bài giảng địa
lí nói riêng.
- Đƣa ra đƣợc thực trạng của việc thiết kế bài giảng điện tử
trong chƣơng trình Địa lí tự nhiên Việt Nam ở một số trƣờng THCS
tỉnh Cao Bằng.
- Thiết kế hoàn chỉnh một số bài giảng điện tử và có thể sử dụng ở
trƣờng phổ thông.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
đƣợc trình bày 3 chƣơng.
Chƣơng 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài.
Chƣơng 2. Thiết kế bài giảng địa lí tự nhiên Việt Nam THCS có ứng dụng
công nghệ thông tin phù hợp với học sinh tỉnh Cao Bằng.
Chƣơng 3. Thực nghiệm sư phạm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1. Một số vấn đề cơ bản trong lý luận dạy học địa lí
1.1.1.1. Quá trình dạy học trong nhà trường phổ thông
Xét về phƣơng diện của lý luận dạy học thì dạy học là quá trình mà
trong đó dƣới sự tổ chức, điều khiển của ngƣời dạy, ngƣời học tự giác, tích
cực, tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức của mình để thực hiện tốt
quá trình học. Nhƣ vậy quá trình dạy học là một hoạt động thống nhất hữu cơ
của hai hoạt động dạy và học.
Dạy là quá trình tổ chức nhận thức cho học sinh của ngƣời giáo viên,
bản chất của dạy học là tạo ra các tình huống học tập, trong đó học sinh hoạt
động dƣới sự hƣớng dẫn của giáo viên nhằm đạt đƣợc chất lƣợng và hiệu quả
dạy học.
Học là một quá trình hoạt động tự giác, tích cực, tự lực chiếm lĩnh tri
thức khoa học của học sinh dƣới sự điều khiển của giáo viên nhằm phát triển
trí tuệ, thể chất và hình thành nhân cách của bản thân. Nhƣ vậy, cốt lõi của
hoạt động học là quá trình tiếp thu, xử lí thông tin bằng các hoạt động trí tuệ
và kỹ năng dựa vào vốn kiến thức và kinh nghiệm đã có của bản thân, từ đó
có đƣợc kiến thức, kĩ năng, thái độ mới.
Dạy và học có những mục đích cụ thể khác nhau. Nếu học là nhằm
chiếm lĩnh tri thức khoa học, thì dạy lại có mục đích điều khiển học tập. Dạy
có hai chức năng, đó là: Truyền đạt thông tin dạy học và điều khiển hoạt
động học [2].
Nhƣ vậy, trong nhà trƣờng hoạt động dạy và học bao giờ cũng là một
quá trình. Hiện nay, quá trình dạy học đƣợc hiểu là quá trình hoạt động nhận
thức tự giác của học sinh, đƣợc thực hiện dƣới sự hƣớng dẫn về mặt sƣ phạm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
của giáo viên nhằm mục đích nắm kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, hình thành thế
giới quan và phát triển nhân cách cũng nhƣ những năng lực riêng về trí tuệ.
Cách hiểu trên về cơ bản đã thể hiện đƣợc quan điểm mới về vai trò vị trí chủ
thể của học sinh trong quá trình dạy học.
Trong thực tế quá trình dạy học không phải là sự liên kết máy móc của
hai hoạt động dạy và học, mà nó là một quá trình tổng hợp mới hẳn về chất,
bảo đảm thực hiện những nhiệm vụ của nhà trƣờng và phản ánh sự thống
nhất hữu cơ giữa hai hoạt động đó, trong khi vẫn bảo đảm những đặc điểm
riêng của từng hoạt động. Tác động giữa giáo viên và học sinh trong quá
trình dạy học không phải là tác động đơn giản mà là tác động qua lại độc đáo,
trong đó ngƣời giáo viên phải tổ chức hoạt động dạy để làm sao khơi dậy,
phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh, trang bị cho các em những kĩ
năng độc lập, tự mình nhận thức, lĩnh hội tri thức, chuyển hoá thành năng lực
của bản thân, để đạt đƣợc kết quả đó vai trò của ngƣời giáo viên là không thể
thiếu đƣợc. Với tƣ cách là ngƣời tổ chức, chỉ đạo, điều khiển quá trình học
tập của học sinh, ngƣời thầy cần phải đảm nhiệm và thực hiện tốt các chức
năng sau:
Thiết kế, tức là lập kế hoạch cho quá trình dạy học về cả mục đích, nội
dung, phƣơng pháp, phƣơng tiện và hình thức dạy học. Ngƣời giáo viên cần
phải xuất phát từ mục đích, nội dung của bài học để thiết kế những tình huống
thích hợp, để học sinh chiếm lĩnh tri thức thông qua hoạt động học tập tích
cực, tự giác, sáng tạo theo hƣớng độc lập hoặc hợp tác giao lƣu.
Ủy thác, tức là thông qua đặt vấn đề nhận thức, tạo động cơ hứng thú,
ngƣời thầy biến ý đồ dạy học của mình thành nhiệm vụ học tập tự nguyện, tự
giác của trò và chuyển giao cho trò những tình huống để trò hoạt động và
thích nghi. Điều khiển quá trình học tập của học sinh trên cơ sở thực hiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
một hệ thống mệnh lệnh, chỉ dẫn, trợ giúp, đánh giá (bao gồm cả sự động
viên).
Thể chế hoá, tức là xác nhận, định vị kiến thức mới trong hệ thống tri
thức đã có, đồng nhất hoá kiến thức riêng lẻ của học sinh thành tri thức khoa
học xã hội, hƣớng dẫn học sinh vận dụng và ghi nhớ kiến thức. [30].
1.1.1.2. Phương pháp dạy học địa lí
* Khái niệm về phương pháp dạy học
Phƣơng pháp hiểu theo nghĩa chung và rộng nhất là hành vi thực hiện
một công việc có mục đích nhất định. Đó cũng là cách thức, con đƣờng mà
ngƣời ta cần đi theo để đạt đƣợc mục đích. Theo cách hiểu nhƣ vậy thì
phƣơng pháp dạy học là cách thức tƣơng tác giữa giáo viên và học sinh trong
phạm trù hoạt động dạy và học, nhằm mục đích giáo dục và trau dồi học vấn
cho thế hệ trẻ. Tuy nhiên, hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về phƣơng
pháp dạy học, chúng ta thƣờng gặp một số quan niệm về phƣơng pháp dạy
học nhƣ sau:
- Phƣơng pháp dạy học là cách thức hoạt động của ngƣời giáo viên để
truyền thụ kiến thức, rèn luyện kỹ năng và giáo dục học sinh theo mục tiêu
của nhà trƣờng. Theo quan niệm này thì giáo viên là nhân vật trọng tâm giữ
vai trò chỉ đạo, còn học sinh thì thụ động thực hiện những điều thầy dạy,
ngƣời thầy cố gắng truyền đạt hết những kiến thức và kinh nghiệm của mình
để hoàn thành bài giảng còn học sinh lắng nghe lời giảng của thầy, ghi chép
và học thuộc.
- Phƣơng pháp dạy học là sự kết hợp các biện pháp và phƣơng tiện làm
việc của giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học, nhằm đạt tới mục đích
giáo dục. Nhƣ vậy, quan niệm này coi phƣơng pháp dạy học là một sự kết
hợp ngang hàng của hai hoạt động dạy và học. Nhiệm vụ truyền đạt tri thức
của thầy cũng quan trọng nhƣ nhiệm vụ lĩnh hội tri thức của trò.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
- Phƣơng pháp dạy học là cách thức hƣớng dẫn và chỉ đạo của giáo viên
nhằm tổ chức hoạt động nhận thức và hoạt động thực hành của học sinh dẫn
tới việc học sinh lĩnh hội vững chắc nội dung học vấn, hình thành thế giới
quan và phát triển năng lực nhận thức [2]. Có thể nói đây là quan niệm mới
nhất về phƣơng pháp dạy học. Theo quan niệm này thì dạy học chính là quá
trình tổ chức cho học sinh chiếm lĩnh tri thức, học sinh có vai trò chủ động
trong quá trình dạy học. Nói một cách khác các phƣơng pháp học tập, xuất
phát từ các qui luật của sự lĩnh hội tri thức quyết định hoạt động dạy của giáo
viên, phƣơng pháp dạy của giáo viên.
Ở nƣớc ta định hƣớng đổi mới phƣơng pháp dạy và học đã đƣợc xác
định trong nghị quyết TW 4 khoá VII (1/1993), nghị quyết TW 2 khoá VIII
(12/1996), đƣợc cụ thể hoá trong luật giáo dục (12/1998), trong các chỉ thị
của bộ GD – ĐT và đặc biệt là chỉ thị số 14 (4/1999).
Luật giáo dục điều 28.2, đã ghi “Phƣơng pháp giáo dục phổ thông phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; Phù hợp với
đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dƣỡng phƣơng pháp tự học, rèn
luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem
lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
Thực hiện dạy và học tích cực sẽ mang lại hiệu quả cao trong giáo dục.
Nhiệm vụ chủ yếu của giáo viên là trở thành ngƣời thiết kế và thực hiện cho
việc học tích cực của học sinh trong bối cảnh cụ thể (nhu cầu giáo dục, điều
kiện làm việc của giáo viên và điều kiện học tập của học sinh). Nhiệm vụ của
ngƣời thầy trƣớc đây với phƣơng pháp dạy học truyền thống là chuyển giao
thông tin, nay đƣợc điều chỉnh và mở rộng thành nhiệm vụ tạo ra các điều
kiện học tập và hỗ trợ quá trình học tập của học sinh. Học sinh đƣợc khuyến
khích tham gia một cách tích cực trong xây dựng sự hiểu biết và quan niệm
của bản thân tức là: Tự suy nghĩ và tìm hiểu bên cạnh việc chăm chú nghe
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
giảng, làm bài tập và ghi nhớ thông tin. Bản chất của dạy học tích cực nằm
trong khái niệm học nhƣ một quá trình tích cực và sáng tạo, thông qua đó
ngƣời học xây dựng mối liên hệ giữa thông tin mới và những kiến thức, kỹ
năng đã có. Sự vận dụng phƣơng pháp dạy học tích cực phải dựa trên cơ sở
khai thác những mặt tích cực của các phƣơng pháp dạy học truyền thống đồng
thời áp dụng rộng rãi các phƣơng pháp dạy học mới: Dạy và học phát hiện và
giải quyết vấn đề, dạy và học hợp tác trong nhóm nhỏ, dạy và học theo dự
án...
* Một số phương pháp dạy học địa lí cụ thể
Để phát huy đƣợc tính tích cực của học sinh trong dạy học địa lí thƣờng
sử dụng nhiều phƣơng pháp tích cực. Tuy nhiên, có thể phân chia phƣơng
pháp dạy học địa lí thành 3 nhóm cụ thể nhƣ sau:
- Nhóm các phƣơng pháp truyền thống, sử dụng ngôn ngữ nói để trình
bày, lấy thầy làm trung tâm:
Trong dạy học địa lí nhóm các phƣơng pháp dùng lời vẫn đƣợc đa số
giáo viên sử dụng từ xƣa đến nay. Nhóm này gồm các phƣơng pháp: Diễn
giảng, giảng thuật, giảng giải và đàm thoại.
Các phƣơng pháp dùng lời có một số ƣu điểm nhất định. Chúng có khả
năng cung cấp cho học sinh một lƣợng thông tin lớn trong một thời gian ngắn.
Nếu nhƣ lời lẽ trình bày của giáo viên trong sáng, truyền cảm, nội dung khoa
học, chính xác, có lôgic chặt chẽ thì bài giảng sẽ có sức hấp dẫn, làm cho học
sinh tiếp thu tri thức một cách dễ dàng. Tuy nhiên, nhƣợc điểm chính của
nhóm phƣơng pháp này là kém tác dụng trong việc phát huy trí lực cũng nhƣ
hạn chế năng lực chủ động, sáng tạo của học sinh trong việc lĩnh hội tri thức.
Các phƣơng pháp dùng lời đều thiên về việc cung cấp cho học sinh những tri
thức làm sẵn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
- Nhóm các phƣơng pháp hƣớng dẫn học sinh tích cực, chủ động khai
thác tri thức với các nguồn tri thức và phƣơng tiện thiết bị kỹ thuật dạy học
địa lí:
Đây là nhóm phƣơng pháp có ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành
những khái niệm, biểu tƣợng địa lí cho học sinh. Đối với môn địa lí, việc sử
dụng các phƣơng tiện trực quan trong dạy học là rất cần thiết vì học sinh chỉ
có thể quan sát đƣợc một phần nhỏ các đối tƣợng, hiện tƣợng địa lí ở xung
quanh, còn phần lớn các đối tƣợng khác thì không có điều kiện quan sát trực
tiếp nhƣ sự biến đổi của các hiện tƣợng: Động đất, núi lửa hay những cảnh
quan không có ở nƣớc ta nhƣ: Thảo nguyên, hoang mạc... khi đó học sinh chỉ
có thể hình dung ra nhờ các phƣơng tiện trực quan.
Theo ý kiến của M.V.Xtuđênikin, phƣơng tiện trực quan bao giờ cũng
có hai chức năng: Phƣơng tiện minh hoạ và nguồn tri thức. Khi sử dụng các
phƣơng tiện trực quan nếu giáo viên sử dụng nhƣ một nguồn tri thức để cho
học sinh khai thác trong quá trình học tập thì việc sử dụng nó có thể coi nhƣ
một phƣơng pháp, còn nếu chỉ sử dụng nhƣ một đồ dùng minh hoạ thì đó là
biện pháp phục vụ cho phƣơng pháp dùng lời. Những phƣơng tiện trực quan
thƣờng đƣợc sử dụng trong dạy học địa lí là:
+ Tranh ảnh giáo khoa địa lí, các tranh ảnh minh hoạ trong SGK.
+ Các mô hình, mẫu vật, các bộ sƣu tầm phục vụ cho chủ đề về địa lí.
+ Phim ảnh, phim đèn chiếu, băng video,...
+ Các loại bản đồ, sơ đồ, biểu đồ, hình vẽ,...
- Nhóm các phƣơng pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm:
Nhóm này gồm có nhiều phƣơng pháp, trong đó học sinh thể hiện rõ
vai trò chủ thể trong việc lĩnh hội kiến thức, tự lực hoàn thành nhiệm vụ học
tập của mình bằng cách phát huy năng lực của bản thân dƣới sự chỉ đạo của
giáo viên. Với các phƣơng tiện học tập, học sinh phải tự lực đến mức tối đa để
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
khai thác kiến thức qua sự hƣớng dẫn của giáo viên, qua các bài viết trong
sách giáo khoa, qua các nguồn tri thức khác nhau: Bản đồ, biểu đồ, sơ đồ, các
số liệu thống kê, các phƣơng tiện nghe nhìn và các tranh ảnh địa lí, các tài liệu
thông tin khác. Trong quá trình khai thác tri thức, học sinh không những có
điều kiện thuận lợi để vận dụng các thao tác tƣ duy một cách tích cực, mà còn
có điều kiện củng cố các tri thức cũ một cách sáng tạo vào những trƣờng hợp
thực tế cụ thể. Tuy nhiên để làm đƣợc điều đó, học sinh cần phải biết cách
làm việc với các nguồn tri thức, hay nói cách khác là phải nắm đƣợc một số
kỹ năng cơ bản trong việc khai thác chúng. Trong các phƣơng pháp dạy học
lấy học sinh làm trung tâm, vai trò của giáo viên chủ yếu là hƣớng dẫn học
sinh biết vận dụng các kỹ năng để khai thác nguồn tri thức. Nhóm này gồm có
một số phƣơng pháp hƣớng dẫn học sinh:
+ Khai thác tri thức từ bản đồ.
+ Khai thác tri thức địa lí từ các nguồn số liệu thống kê kinh tế và biểu đồ.
+ Khai thác tri thức qua băng hình (Video).
+ Khai thác tri thức qua quan sát ngoài thực địa.
+ Khai thác tri thức từ những tranh ảnh địa lí.
+ Thảo luận.
+ Sử dụng sách giáo khoa địa lí.
+ Sử dụng các phƣơng tiện hiện đại.
+ Tìm tòi khám phá hay phƣơng pháp nghiên cứu.
Hiện nay, nhóm phƣơng pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm đã
đƣợc sử dụng phổ biến trong các trƣờng phổ thông song vẫn còn có nhiều hạn
chế vì học sinh chƣa đƣợc trang bị đầy đủ những kỹ năng cần thiết. Do đó,
vấn đề trƣớc tiên là quan tâm đến việc hình thành và rèn luyện cho học sinh
các loại kỹ năng cơ bản giúp cho các em biết khai thác các nguồn tri thức địa
lí [2] [3].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
1.1.1.3. Phương tiện thiết bị dạy học địa lí
* Khái niệm về phương tiện dạy học
Có nhiều quan niệm khác nhau về các phƣơng tiện dạy học (nói chung)
và phƣơng tiện dạy học địa lí (nói riêng). Trong các tài liệu lý luận dạy học đã
trình bày: Phƣơng tiện dạy học đồng nghĩa với các phƣơng tiện trực quan, đó
là các vật thật, vật tƣơng trƣng và các vật tạo hình đƣợc sử dụng để dạy học.
Các vật thật giúp cho học sinh tiếp thu tri thức, gây hứng thú tìm tòi, học tập
nhƣ: Động vật, thực vật sống trong môi trƣờng tự nhiên. Các vật tƣợng trƣng
nhƣ: Các sơ đồ, lƣợc đồ, bản đồ giáo khoa,... giúp cho học sinh thấy đƣợc một
cách trực quan các sự vật, hiện tƣợng đƣợc biểu diễn dƣới dạng khái quát
hoặc đơn giản. Còn các vật tạo hình kể cả các phƣơng tiện hiện đại nhƣ:
Tranh ảnh, mô hình, hình vẽ, băng Video, phim đèn chiếu thay cho các sự vật
và hiện tƣợng khó trông thấy trực tiếp nhƣ: Biển, đại dƣơng... hoặc các sự vật
và hiện tƣợng không thể trông thấy nhƣ: Cấu tạo của Trái đất, vận động của
Trái Đất, hoàn lƣu gió ....
Theo Nguyễn Ngọc Quang (Lý luận dạy học địa lí đại cƣơng tập
1,1998): “Phƣơng tiện dạy học là mọi thiết bị kỹ thuật từ đơn giản đến phức
tạp đƣợc dùng trong quá trình dạy học để làm dễ dàng cho sự truyền đạt và sự
lĩnh hội kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo”. Với quan niệm này, các phƣơng tiện dạy
học đƣợc phân thành ba nhóm.
+ Các phƣơng tiện phòng thí nghiệm.
+ Các phƣơng tiện nghe, nhìn: Phim đèn chiếu, Băng Video, máy tính
điện tử...
+ Các đồ dùng trực quan bao gồm: Vật thật, mô hình, tranh ảnh, sơ đồ,
đồ thị, bản đồ địa lí...
Theo nhà nghiên cứu và giảng dạy địa lí N.N.Branxki trong cuốn:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
“Phƣơng pháp giảng dạy địa lí kinh tế” thì thiết bị dạy học là những
phƣơng tiện trực quan, nó là một nhân tố ảnh hƣởng lớn đến sự tổ chức và
kết quả của việc giảng dạy địa lí ở nhà trƣờng. Các thiết bị đó bao gồm:
Phòng địa lí, các bản đồ giáo khoa, quả cầu địa lí, các tranh treo tƣờng,
biểu đồ, đồ thị,...
Theo G.S Nguyễn Dƣợc và một số tác giả khác trong giáo trình “ Lý
luận dạy học địa lí” xuất bản năm 1993 cho rằng: Các thiết bị dạy học địa lí
gồm một phần cơ sở vật chất tạo điều kiện cho việc giảng dạy môn địa lí nhƣ:
Phòng bộ môn địa lí, vƣờn địa lí, tủ sách địa lí. Toàn bộ các đồ dùng trực
quan nhƣ: Bản đồ, tranh ảnh, mô hình, mẫu vật, dụng cụ quan trắc, đo đạc...
và các tài liệu cung cấp những tri thức cơ bản cho giáo viên và học sinh nhƣ:
Sách giáo khoa địa lí, các sách báo tham khảo có nội dung địa lí,... Ngoài ra,
cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các thiết bị kỹ thuật hiện đại
cũng đã đƣợc công nhận là những phƣơng tiện dạy học nhƣ: Các loại máy
chiếu, băng Video, vô tuyến truyền hình, máy chiếu ảnh, máy ghi âm, máy
chiếu hình nổi, máy vi tính,...
Ngày nay, các phƣơng tiện thiết bị dạy học địa lí đã đƣợc phát triển ở
mức độ cao nhất là có ứng dụng CNTT đã trở thành một hệ thống phức tạp
với nhiều loại khác nhau. Tuy vậy, các quan niệm trên có những điểm tƣơng
đồng để có thể đi đến một quan niệm chung là: Phƣơng tiện dạy học là một
tập hợp các loại vật chất, kỹ thuật, nhằm biểu hiện những sự vật hiện tƣợng và
các quá trình xảy ra trong thực tiễn mà giáo viên và học sinh không thể tiếp
cận trực tiếp đƣợc. Chúng giúp cho giáo viên phát huy đƣợc tất cả những giác
quan của học sinh trong quá trình nhận thức, giúp cho học sinh nhận biết đƣợc
các hiện tƣợng, mối quan hệ giữa các hiện tƣợng và tái hiện đƣợc những khái
niệm, qui luật, rèn luyện đƣợc các kỹ năng địa lí, làm cơ sở cho việc nắm kiến
thức trong quá trình học tập.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
* Phân loại các phương tiện kỹ thuật trong dạy học địa lí
Cho đến nay việc phân loại các phƣơng tiện dạy học vẫn chƣa thống
nhất. Theo Tô Xuân Giáp có một số cách phân loại sau:
+ Phân loại theo tính chất của phƣơng tiện dạy học.
+ Phân loại theo cách sử dụng phƣơng tiện dạy học.
+ Phân loại theo mức độ chế tạo phức tạp hay không phức tạp của các
phƣơng tiện dạy học...
Trong các cách phân loại trên thì việc phân loại theo cách sử dụng các
phƣơng tiện dạy học phù hợp với hệ thống phƣơng tiện dạy học đƣợc sử dụng
trong nhà trƣờng hiện nay. Theo cách phân loại này các phƣơng tiện dạy học
đƣợc chia làm 2 nhóm:
- Nhóm phƣơng tiện dùng trực tiếp để dạy học gồm: Các phƣơng tiện
truyền thống và các phƣơng tiện nghe nhìn đƣợc hình thành do sự phát triển
của khoa học kỹ thuật đặc biệt là sự phát triển của công nghệ thông tin.
- Nhóm phƣơng tiện dùng để chuẩn bị và điều khiển lớp học gồm các
phƣơng tiện hỗ trợ (bảng viết, các giá cố định, lƣu động, thiết bị thay đổi ánh
sáng phòng học,...); Các phƣơng tiện ghi chép,...
Trong thực tế, việc sử dụng phƣơng tiện dạy học ở nhà trƣờng hiện nay
thƣờng chú ý tới phƣơng tiện, thiết bị kỹ thuật dùng trực tiếp để dạy học. Còn
phƣơng tiện hỗ trợ dạy học thƣờng đƣợc xếp chung vào cơ sở vật chất phục
vụ dạy học.
Trên cơ sở phân loại các phƣơng tiện dạy học, do đặc trƣng của bộ
môn, các phƣơng tiện trực tiếp dạy học địa lí đƣợc phân thành 2 nhóm
phƣơng tiện cơ bản:
- Nhóm các phƣơng tiện dạy học truyền thống.
- Nhóm các phƣơng tiện, thiết bị kỹ thuật dạy học địa lí hiện đại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
Theo cách phân loại này, các phƣơng tiện dạy học truyền thống gồm
phần lớn các phƣơng tiện đã sử dụng từ trƣớc đến nay: Phòng địa lí, vƣờn địa
lí, quả cầu địa lí, biểu đồ, tranh ảnh, tủ sách địa lí, những dụng cụ rèn luyện
kỹ năng kỹ xảo.
Các phƣơng tiện và thiết bị kỹ thuật dạy học địa lí hiện đại gồm: Các
loại máy chiếu phim, đầu video, truyền hình, máy chiếu ảnh, máy ghi âm,
máy chiếu hình nổi... (hình 1.1).
Hình 1.1 Hệ thống các phƣơng tiện dạy học địa lí
* Vai trò, chức năng của các phương tiện thiết bị dạy học
Theo quan điểm cấu trúc hệ thống thì phƣơng tiện dạy học là một nhân
tố trong quá trình dạy học, nó cùng với các nhân tố khác nhƣ: Mục đích,
nhiệm vụ, nội dung dạy học, hoạt động của giáo viên - học sinh tạo thành một
thể hoàn chỉnh và có quan hệ biện chứng thúc đẩy quá trình dạy học đạt tới
HỆ THỐNG CÁC PHƢƠNG TIỆN
DẠY HỌC ĐỊA LÍ
Các phƣơng tiện dạy học
truyền thống
Các phƣơng tiện nghe nhìn
hiện đại
Các
phƣơng
tiện trực
tiếp phản
ánh các
đối
tƣợng
địa lí
nhƣ
thật(các
bộ sƣu
tập mẫu
vật)
Các
phƣơng
tiện nhằm
tái tạo lại
các đối
tƣợng địa
lí bằng
hình ảnh
( các mô
hình,
tranh ảnh,
hình vẽ)
Các
phƣơng
tiện phản
ánh các
đối
tƣợng
bằng
ngôn
ngữ và
vật
tƣợng
trƣng
Các
phƣơng
tiện, dụng
cụ nghiên
cứu địa
lí( các
dụng cụ
quan trắc,
đo vẽ)
Các
phƣơng
tiện nhìn
( các loại
phim
không có
âm thanh)
Các
phƣơng
tiện nghe
nhìn
( phim
ảnh, phim
video,
máy tính
điện tử và
các phần
mềm dạy
học địa lí)
Truyền
thông đa
phƣơng
tiện
(mạng
máy
tính,
truyền
hình)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
mục đích nhất định. Vì vậy, việc vận dụng và tiến hành các phƣơng pháp dạy
học không thể tách rời việc sử dụng các phƣơng tiện dạy học. Để đổi mới
phƣơng pháp dạy học đạt kết quả cao cần đổi mới các phƣơng tiện thiết bị dạy
học sao cho phù hợp với nội dung dạy học, phù hợp với từng vấn đề trong nội
dung của từng bài học cụ thể. Phƣơng tiện dạy học phải có tính khoa học, tính
sƣ phạm, tính trực quan và tính thẩm mỹ, phải có giá trị trong truyền đạt và
lĩnh hội kiến thức và phải thuận tiện trong sử dụng. (hình 1.2)
Hình 1.2: Mối quan hệ giữa mục tiêu-phƣơng tiện-phƣơng pháp dạy học.
Phƣơng tiện dạy học có vai trò quan trọng trong quá trình dạy học, một
mặt các phƣơng tiện dạy học thay thế cho những sự vật hiện tƣợng và các quá
trình xảy ra trong thực tiễn mà giáo viên và học sinh không thể tiếp cận đƣợc.
Mặt khác, giúp thầy giáo phát huy tất cả các giác quan các hiện tƣợng và tái
hiện đƣợc những khái niệm, qui luật, áp dụng kiến thức vào thực tế sản xuất.
Thực tế sƣ phạm cho thấy phƣơng tiện thiết bị dạy học có những vai trò
và chức năng sau:
+ Các phƣơng tiện dạy học giúp cho học sinh thu nhận thông tin và sự
vật hiện tƣợng địa lí một cách sinh động tạo điều kiện hình thành biểu tƣợng
địa lí cho học sinh, từ đó tạo cơ sở hình thành khái niệm.
Mục tiêu, kế hoạch giáo dục
phổ thông
Nội dung dạy học
Phƣơng pháp dạy học
Phƣơng tiện, thiết bị kỹ thuật
dạy học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
+ Phƣơng tiện thiết bị dạy học làm cho việc giảng dạy trở nên cụ thể
hơn, tăng khả năng tiếp thu sự vật, hiện tƣợng của học sinh, ngay cả những
quá trình phức tạp mà bình thƣờng học sinh khó làm đƣợc.
+ Phƣơng tiện thiết bị dạy học giúp học sinh tiếp thu kiến thức một
cách chắc chắn và chính xác, nhƣ vậy nguồn thông tin học sinh thu nhận đƣợc
trở nên đáng tin cậy và nhớ đƣợc lâu hơn, đồng thời dùng phƣơng tiện dạy
học sẽ dễ dàng gây đƣợc sự chú ý và tạo hƣng phấn học tập cho học sinh.
+ Thông qua việc sử dụng các phƣơng tiện dạy học ngƣời thầy có thể
giúp học sinh đào sâu những tri thức đã lĩnh hội đƣợc và kích thích hứng thú
nhận thức, năng lực quan sát, phân tích, tổng hợp để rút ra những kết luận cần
thiết có độ tin cậy cao.
+ Phƣơng tiện dạy học giúp cho giáo viên có thêm điều kiện thuận lợi
để trình bày bài giảng một cách tinh giản, đầy đủ, sâu sắc... đồng thời điều
khiển hoạt động nhận thức của học sinh cũng nhƣ kiểm tra, đánh giá kết quả
học tập của học sinh thuận lợi, có hiệu quả hơn.
+ Theo quan điểm dạy học lấy học sinh làm trung tâm, phƣơng tiện dạy
học là một đối tƣợng để học sinh chủ động tự lực khai thác tri thức địa lí dƣới
sự hƣớng dẫn của giáo viên. Qua hoạt động tự giác với phƣơng tiện dạy học,
học sinh không chỉ nắm đƣợc tri thức khoa học mà còn phát triển đƣợc năng
lực tƣ duy.
+ Khi làm việc với các phƣơng tiện dạy học, học sinh rèn luyện đƣợc
kỹ năng, kỹ xảo địa lí và hình thành tính kiên trì, tự giác, tích cực, óc thẩm
mỹ... Mặt khác, việc khai thác các thiết bị kỹ thuật dạy học địa lí nhƣ: Ứng
dụng công nghệ thông tin, các phƣơng tiện nghe nhìn... giúp học sinh có thể
khai thác triệt để các thông tin từ nhiều nguồn khác nhau và tiếp nhận tri thức,
kỹ năng có hiệu quả hình thành cho học sinh thói quen tự học, tự nghiên cứu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
+ Nhờ có phƣơng tiện thiết bị dạy học, ngƣời thầy giải phóng đƣợc một
khối lƣợng lớn các công việc dạy học. Có thể làm tốt hơn chức năng hƣớng
dẫn của mình để định hƣớng cho học sinh tự mình lĩnh hội kiến thức, nâng
cao chất lƣợng học tập. Đối với dạy học địa lí, phƣơng tiện dạy học ảnh
hƣởng rất lớn đến chất lƣợng dạy và học. Ở các trƣờng phổ thông hiện nay thì
phƣơng tiện dạy học là tranh ảnh, bản đồ, sơ đồ, biểu đồ, lƣợc đồ, đèn chiếu
băng hình, băng ghi âm, máy vi tính...
Tuy nhiên trong quá trình dạy học địa lí, giáo viên phải căn cứ vào nội
dung bài giảng, đối tƣợng truyền thụ, phƣơng pháp dạy học mà chọn phƣơng
tiện dạy học sao cho phù hợp. Đồng thời giáo viên phải chuẩn bị các phƣơng
án hƣớng dẫn học sinh sử dụng, làm việc có hiệu quả với các loại phƣơng tiện
dạy học để lĩnh hội kiến thức.
Nhƣ vậy phƣơng tiện dạy học vừa là nguồn tri thức vừa là công cụ để
học sinh lĩnh hội tri thức và rèn luyện kỹ năng môn học. Phƣơng tiện dạy học
địa lí nếu đƣợc sử dụng đúng đắn sẽ góp phần tích cực vào việc nâng cao hiệu
quả giờ dạy, hoàn thiện phong cách học tập của học sinh và phong cách giảng
dạy của giáo viên. Phƣơng tiện dạy học là một bộ phận trong hệ thống của
quá trình dạy học, tác động trực tiếp đến quá trình dạy - học. Sự thay đổi của
phƣơng tiện dạy học góp phần đổi mới phƣơng pháp dạy học có hiệu quả. Vì
vậy, khi lựa chọn phƣơng tiện dạy học phải phù hợp với yêu cầu của bài
giảng. Sự truyền đạt của thầy giáo và sự tiếp thu của học sinh phải đạt đƣợc
trong thời gian ngắn nhất. Để đạt đƣợc các mục tiêu trên việc ứng dụng công
nghệ thông tin và các phần mềm dạy học trong giảng dạy địa lí sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho việc dạy học theo hƣớng tích cực hoá hoạt động nhận thức
của học sinh.
1.1.1.4 Quan niệm về đổi mới thiết kế bài giảng
Đây là một việc làm rất quan trọng và là công việc khởi đầu cho toàn
bộ quá trình đổi mới phƣơng pháp dạy học. Bởi vậy ngƣời giáo viên cần phải
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
có quan niệm mới về thiết kế bài giảng và biết cách thiết kế bài giảng theo
hƣớng tổ chức các hoạt động nhận thức của học sinh.
* Chuẩn bị cho việc lập kế hoạch dạy học
Dạy học theo tinh thần tích cực chỉ có thể thực hiện tốt khi giáo viên có
bản thiết kế kế hoạch bài học một cách khoa học, phù hợp với mục tiêu và
thực tiễn dạy học. Có thể coi kế hoạch bài dạy học là bản thiết kế các hoạt
động của giáo viên và học sinh theo trình tự thời gian của một tiết học trên cơ
sở nội dung bài và các phƣơng tiện dạy học nhằm đạt đƣợc mục tiêu của bài
học. Điểm khác nhau cơ bản giữa kế hoạch bài dạy và chuẩn bị giáo án truyền
thống là ở chỗ kế hoạch bài dạy chỉ rõ hoạt động của giáo viên và học sinh
trong quá trình dạy học trên lớp chứ không phải là bản tóm tắt đơn thuần nội
dung sách giáo khoa.
Việc lập kế họach bài dạy là cần thiết, vì kế hoạch bài dạy giúp cho
ngƣời giáo viên:
- Hiểu rõ mục tiêu của bài học.
- Chủ động lựa chọn các hoạt động phù hợp với mục tiêu, nội dung bài
học, với phƣơng tiện dạy học đƣợc sử dụng trong bài và trình bày các hoạt
động một cách hệ thống, lôgic.
- Dự kiến đƣợc khoảng thời gian thích hợp dành cho từng nội dung,
từng hoạt động trong tiết học.
- Xác định đƣợc những phƣơng pháp dạy học chủ yếu sẽ đƣợc sử dụng
trong bài.
- Lƣờng trƣớc đƣợc những tình huống có thể xảy ra trong tiết học.
- Sử dụng tốt nhất thời gian của một giờ lên lớp.
- Làm chủ đƣợc giờ dạy của mình.
* Các bước thiết kế bài dạy
1) Xác định mục tiêu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
Phải xác định rõ mục tiêu học sinh cần đạt đƣợc về kiến thức, kỹ năng,
thái độ sau khi học xong bài, cần xác định mục tiêu của từng hoạt động, bởi
đặc trƣng của hoạt động học tập là tính hƣớng đích.
2) Chuẩn bị các thiết bị dạy học.
3) Xác định kiến thức, kỹ năng cơ bản và kiến thức trọng tâm của bài
học, mối quan hệ giữa các kiến thức.
4) Tạo nhu cầu hứng thú nhận thức cho học sinh không chỉ thực hiện
lúc vào bài mới mà cần phải duy trì trong suốt tiết học.
5) Xác định các hình thức tổ chức dạy học.
6) Xác định các phƣơng pháp dạy học.
7) Xác định các hình thức củng cố, đánh giá và vận dụng kiến thức mà
học sinh vừa tiếp nhận đƣợc.
* Thiết kế các hoạt động học tập cho học sinh trong khi lập kế hoạch
bài dạy học
Thiết kế các hoạt động học tập của học sinh là công việc có vai trò
quan trọng, vì khi giáo viên không đề xuất đƣợc nội dung và các hình thức tổ
chức hoạt động cho học sinh thì khi lên lớp giáo viên chỉ có thể dạy học theo
kiểu truyền thụ một chiều: Thầy thuyết trình, giảng giải, trò nghe và ghi chép.
Việc thiết kế các hoạt động học tập cho học sinh đƣợc tiến hành đồng thời với
quá trình lập kế hoạch bài học và là một bộ phận của bản kế hoạch này. Việc
thiết kế càng kỹ lƣỡng, khoa học thì kết quả của việc tổ chức các hoạt động
học tập cho học sinh trên lớp càng đạt đƣợc hiệu quả cao. Ngoài ra, nó còn
giúp cho giáo viên tự tin, uyển chuyển, sáng tạo hơn trong quá trình dạy học.
* Soạn giáo án
Sản phẩm của việc thiết kế bài dạy học bao gồm giáo án và toàn bộ
những suy nghĩ về quá trình dạy học sẽ diễn ra trong tiết học sắp tới. Giáo án
đƣợc coi là bản kế hoạch dạy học của giáo viên. Về mặt hình thức, giáo án là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
một bài soạn cụ thể của giáo viên đƣợc trình bày bằng những đề mục, câu chữ
ngắn gọn, rõ ràng theo một trình tự nhất định. Trong giáo án không thể hiện
đƣợc cảm xúc, tƣ tƣởng, tình cảm của ngƣời dạy và ngƣời học. Giáo án cũng
không thể trình bày hết những dự kiến, cũng nhƣ cách ứng xử của ngƣời dạy.
Đây là điểm khác nhau giữa giáo án và thiết kế bài dạy học. Về mặt khái
niệm, giáo án là một bản kế hoạch cụ thể, còn thiết kế bài dạy là một hoạt
động đa diện, phức tạp, tốn nhiều công sức, trí tuệ của ngƣời giáo viên. Tất cả
những chuẩn bị, dự kiến, hình dung hoạt động thiết kế không đƣợc trình bày
hết ở giáo án, giáo án thể hiện những sản phẩm cụ thể, rõ ràng của hoạt động
thiết kế bài dạy học đƣợc thể hiện bằng vật chất trƣớc khi bài học đƣợc tiến
hành [18], [30].
1.1.2. Đổi mới phƣơng pháp dạy học địa lí nói chung và địa lí tự nhiên
Việt Nam nói riêng theo hƣớng tích cực
1.1.2.1. Đặc trưng của các phương pháp dạy học tích cực
- Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động cho học sinh
Trong phƣơng pháp tổ chức, ngƣời học - đối tƣợng của hoạt động
“dạy”, đồng thời là chủ thể của hoạt động “học” đƣợc cuốn hút vào các hoạt
động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá
những điều mình chƣa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã
đƣợc giáo viên sắp đặt. Học sinh đƣợc đặt vào những tình huống của đời sống
thực tế, đƣợc trực tiếp quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề
đặt ra theo cách suy nghĩ của bản thân. Từ đó, vừa nắm đƣợc kiến thức, kỹ
năng mới, vừa nắm đƣợc phƣơng pháp “làm ra” kiến thức, kỹ năng đó, không
theo những khuôn mẫu sẵn có, đƣợc bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo.
Dạy theo cách này, giáo viên không chỉ đơn giản là truyền đạt kiến thức mà
còn hƣớng dẫn hành động. Nội dung và phƣơng pháp dạy học phải giúp cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
từng học sinh biết hành động và tích cực tham gia các chƣơng trình hành
động của cộng đồng.
- Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học
Phƣơng pháp dạy học tích cực xem việc rèn luyện phƣơng pháp học tập
cho học sinh không chỉ là biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là
mục tiêu dạy học.
Trong xã hội hiện nay với sự bùng nổ thông tin, sự phát triển của khoa
học kỹ thuật, công nghệ, thì học sinh không thể tiếp nhận khối lƣợng kiến
thức ngày càng khổng lồ ở trên lớp. Bởi vậy phải quan tâm dạy cho trẻ
phƣơng pháp tự học ngay từ cấp tiểu học và càng ở cấp học cao hơn càng phải
đƣợc chú trọng.
Trong các phƣơng pháp học thì quan trọng nhất là phƣơng pháp tự học.
Nếu rèn luyện đƣợc cho ngƣời học có thói quen, kỹ năng, phƣơng pháp, ý chí
tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con
ngƣời, kết quả học tập sẽ đƣợc nâng cao gấp bội. Vì vậy, ngày nay ngƣời ta
chú trọng hoạt động học trong quá trình dạy học, tạo ra sự chuyển biến rõ rệt
từ học tập thụ động sang tự học chủ động, vấn đề tự học đƣợc đặt ra ngay từ
trong nhà trƣờng phổ thông, không chỉ tự học ở nhà sau bài lên lớp mà tự học
ở ngay cả trong tiết học có sự hƣớng dẫn của giáo viên.
- Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác
Trong một lớp học trình độ kiến thức và tƣ duy của học sinh không thể
đồng đều tuyệt đối thì khi áp dụng các phƣơng pháp tích cực buộc phải chấp
nhận sự phân hoá về cƣờng độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi
bài học đƣợc thiết kế thành một chuỗi công tác độc lập. Áp dụng phƣơng pháp
tích cực ở trình độ càng cao thì sự phân hoá này càng lớn, việc sử dụng các
phƣơng tiện công nghệ thông tin trong nhà trƣờng phổ thông sẽ đáp ứng yêu cầu
cá thể hoá hoạt động học tập theo nhu cầu và khả năng của mỗi học sinh.