Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

VAN HOC TRE EM : ĐỀ TÀI THUYẾT TRÌNH : NGUYÊN TẮC ĐẢM BẢO TÍNH VỪA SỨC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.07 KB, 11 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP: VĂN HỌC TRẺ EM
Câu 1: Đặc trưng của TPVH giành cho trẻ mầm non?
-

Chứa đựng sự hồn nhiên và ngây thơ.
Sự ngắn gọn và rõ ràng.
Giàu hình ảnh, vần điệu và nhạc điệu.
Ngôn ngữ chọn lọc, trong sáng, dễ nhớ, dễ thuộc.
Yếu tố truyện trong thơ và thơ trong truyện.
Mang tính giáo dục nhẹ nhàng mà sâu lắng.

Câu 2: Tác dụng của 1 số thể loại: Câu đố, ca dao, đồng dao, thần thoại, truyền thuyết, truyện
cổ tích?
-

-

-

Câu đố: bí mật, bất ngờ, tươi vui, gợi tò mò. Phát triển tư duy, phát triển ngôn ngữ, phát
triển trí tưởng tượng.
Ca dao: có vần điệu, nhạc điệu, giúp trẻ rèn luyện và phát triển ngôn ngữ. Phản ánh,bộc
lộ tình cảm, cảm xúc, tư tưởng của nhân dân lao động. Giúp trẻ có thêm tình yêu thương
với mọi người.
Đồng dao: dạy cho trẻ những kiến thức, hiểu biết về thế giới xung quanh. Giúp trẻ vừa
học, vừa chơi, phát triển thể chất, phát triển ngôn ngữ.
Thần thoại và truyền thuyết: giúp trẻ hiểu biết các hiện tượng tự nhiên, cảm nhận được
sức mạnh phi thường của con người trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Giúp
các em phát triển trí tưởng tượng, chắp cánh cho ước mơ của trẻ. Giáo dục lòng tự hào
dân tộc cho trẻ nhỏ.
Truyện cổ tích: Khơi dạy tình cảm yêu thương chia sẻ của trẻ thông qua số phận các nhân


vật, đúc kết bài học giáo dục từ cốt truyện. Truyện có nhiều thể loại giúp trẻ phát triển trí
tưởng tượng qua các nhân vật.

Câu 3: Tác dụng, ý nghĩa của kết thúc có hậu trong truyện cổ tích?
Truyện cổ tích thường mang tinh thần lạc quan, có hậu, trong đó kết thúc truyện bao giờ
cái thiện cũng chiến thắng hoặc được tôn vinh, cái ác bị tiễu trừ hoặc bị chế giễu.
- Truyện cổ tích luôn đi kèm những bài học giáo dục sâu sắc: ở hiền gặp lành, gieo gió gặp
bão, tham thì thâm. Từ đó trẻ có vốn hiểu biết sâu sắc hơn về cuộc sống xã hội. Giúp trẻ
ngày càng tích lũy được vốn từ phong phú để mở rộng nhận thức, mở rộng các mối quan
hệ giao tiếp trong thế giới thực tại.
-

Câu 4: Một câu chuyện cổ tích?
TRUYỆN CỔ TÍCH CẬU BÉ THÔNG MINH
Ngày xửa ngày xưa, thưở ấy ở nước ta đang cần người hiền tài giúp nước, các quan trong triều
cũng đã già cả rồi, sức không còn nhiều, nhà Vua bèn sai một viên quan đi dò la khắp nước để
tìm ra người tài giỏi cùng vua lo toan việc nước. Viên quan đã đi khắp nơi, ngựa cũng đi nhiều


cũng đã gầy róc đi, nhưng vẫn chưa tìm được người ưng ý. Đi đến đâu ông cũng ra những câu đố
hóc búa để tìm người tài nhưng chưa ai giải được câu đố của ông.
Một hôm, viên quan đi qua một cánh đồng làng kia, ngựa đi lâu cũng đã mệt, ông ngồi nghỉ ngơi
bên vệ đường, tiện cho ngựa ăn ít cỏ. Thấy hai cha con đang làm ruộng, người cha gầy gò đang
đánh trâu cày, đứa con chừng 7 – 8 tuổi đang đập đất. Ông bèn hỏi:
– Này ông kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường?
Người cha ngơ ngác suy nghĩ không biết trả lời quan sao cho phải, thì đứa con đã nhanh nhảu:
– Quan cho con hỏi quan trước đã: Nếu quan trả lời được ngựa của quan đi một ngày được mấy
bước thì con sẽ cho quan biết trâu nhà con một ngày cày được mấy đường.
Viên quan nghe thấy cậu bé đáp thế thì ngạc nhiên lắm, lúng túng không biết phải làm sao, trong
bụng quan thì mừng thầm “Chắc chắn cậu bé này lớn lên sẽ là người tài rồi, ta việc chi phải tìm

kiếm gì cho mệt nữa”. Thế rồi quan hỏi tên họ quê quán của hai cha con rồi phi ngựa một mạch
về tâu vua.
Thấy viên quan hào hứng trở về, lại tâu đã tìm được người tài thì mua mừng lắm, nhưng để biết
cậu có thật thông minh, vưa bèn sai người mang cho làng đó ba thúng gạo nếp và ba con trâu
đực, ra lệnh năm sau làng phải nuôi cho ba con trâu ấy đẻ thành chín con. Nếu không nộp đủ thì
làng phải chịu tội.
Dân làng nghe chiếu vua ban thì mừng ít mà lo thì nhiều, mừng vì làng cũng được vua để tâm
tới, ắt sau này sẽ được hỗ trợ, nhưng ba trâu đực kia đẻ sao được chín trâu cái đây? Bao nhiêu
cuộc họp làng mở ra, bao nhiêu ý kiến vẫn không giải quyết được vấn đề nhà vua ban, chưa bao
giờ làng lại hối hả và sục sạo như thế, tất cả cho đó như là một tai vạ sắp xảy ra. Việc đến tai em
bé con người thợ cày. Em liền bảo cha:
– Cha ơi, chẳng mấy khi được lộc vua ban, cha cứ thưa với làng ngả thịt hai trâu và đồ hai thúng
gạo nếp để mọi người ăn một trận cho sướng miệng. Còn một trâu và một thúng gạo, ta sẽ xin
làng bán đi làm lệ phí cho hai cha con ta lên đường trẩy kinh.
– Trâu vua ban mà dám ăn thịt thì chẳng phải một năm nữa mà mai cả làng sẽ phải chịu tội luôn
đấy con ạ. Con đừng có dại.
Cậu bé cười và quả quyết:
– Cha cứ tin ở con, con biết tự lo liệu mà, thế nào cũng xong xuôi.
Người cha tặc lưỡi ra trình làng, cả làng ngờ vực: “bao nhiêu các bô lão ở đây còn không tìm ra
cách giải quyết, không lẽ nào thằng bé đó biết được?”. Làng bắt cha con phải làm giấy cam đoan,
xong đâu đấy mới vui vẻ ngả trâu ra thịt.
Sau đó mấy hôm, hai cha con khăn gói lên đường tiến kinh. Đến hoàng cung, cậu bé bảo cha
đứng ở ngoài đợi cậu. Nhân lúc mấy tên lính canh vô ích cậu lẻn vào sân rồng khóc ỏm tỏi. Nhà
Vua và các đại thần đang chầu triều nghe thấy tiếng khóc thì lấy làm lạ. Vua sai lính điệu vào
phán hỏi:
– Thằng bé kia mày có việc gì? Sao lại đến đây mà khóc?
Em bé khúm núm đáp:
– Tâu đức vua, mẹ con chết sớm mà cha con thì không chịu đẻ em bé để chơi với con nên con
buồn lắm. Dám mong đức vua phán bảo cha con sinh em cho con được nhờ.
Nghe nói, vua và các triều thần đều bật cười. Vua lại phán:



– Mày muốn có em thì phải kiếm vợ khác cho bố mày, chứ bố mày là giống đực làm sao mà đẻ
được!
Em bé bỗng tươi tỉnh:
– Vâng, thế mà vua lại lệnh cho làng con nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành chín con để nộp?
Giống đực thì làm sao mà đẻ được kia chứ!
Vua lúc này mới nhớ ra, cười bảo:
– Cái đó là ta thử thôi mà? Thế làng các ngươi không biết đem trâu ấy ra thịt mà ăn với nhau à?
– Tâu đức vua, làng chúng con sau khi nhận được trâu và gạo nếp biết là lộc của vua ban, cho
nên đã làm cỗ ăn mừng với nhau rồi.
Vua và các đại thần gật gù tán thưởng: “Thằng bé quả thật thông minh”, chưa dừng ở đó, vua vẫn
muốn thử cậu thêm. Qua hôm sau, khi hai cha con đang ăn cơm ở nhà công quán, vua cho người
mang tới một con chim sẻ, lệnh cho hai cha con phải dọn thành ba mâm cỗ, cậu bé đứng dậy lấy
một chiếc kim khâu đưa cho sứ giả và bảo:
– Phiền ngài cầm chiếc kim này về tâu đức vua xin rèn cho tôi thành một con dao thật sắc để xẻ
thịt chim.
Vua nghe sứ giả tâu lại thế thì vui mừng khôn xiết, phục hẳn cậu. Vua cho người mời hai cha con
vào cung ban thưởng hậu hĩnh.
Hồi đó, có một nước láng giềng lăm le muốn chiếm bờ cõi của nước ta. Vua nước nọ mới bàn
tính sang thăm dò nước ta xem có nhân tài hay không, bèn cho sứ giả sang tặng vật phẩm cho
nước ta, cũng đưa ra một câu đố cho ta giải. Họ đưa sang một con ốc vặn dài thật dài, nhưng bị
rỗng hai đầu, đố làm sao xâu một sợi chỉ mảnh xuyên qua đường ruột ốc được.
Sau khi nghe sứ thần trình bày mục đích cuộc đi sứ, vua quan đưa mắt nhìn nhau. Nếu như
không trả lời được câu đố oái oăm ấy thì tức là nước ta đã tỏ ra thua kém nước họ, ắt hẳn họ sẽ
cho người cho quân sang gây chiến. Các đại thần ai nấy đều vò đầu suy nghĩ, người thì dùng
miệng hút mong cho chỉ lọt qua, người lại bôi sáp vào chỉ cho cứng để dễ xâu,…nhưng tất cả
mọi cách đều vô dụng. Cuối cùng, triều đình đành tìm cách mời sứ thần tạm nghỉ ở công quán để
có thì giờ đi hỏi ý kiến em bé thông minh nọ.
Lúc đó em bé đang chơi với bạn ở sau nhà, thấy sứ thần trình bày ngọn ngành câu đố của sứ giả

ngoại quốc thì hát lên một câu:
Tang tính tang! Tính tình tang!
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng,
Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang
Tang tình tang…
Rồi bảo: Ông cứ về tâu với đức vua như thế, ắt sẽ được.
Viên quan sung sướng lật đật trở về tâu vua. Vua và các triều thần nghe nói như mở cờ trong
bụng. Ai nấy đều vui mừng, sứ giả thấy ta xâu được chỉ qua con ốc dễ dàng thì lấy làm nể trọng
lắm, bèn ngậm ngùi xin về.
Sau đó, vua phong cho cậu bé làm trạng nguyên. Vua xây dinh thự cho cậu ở một bên hoàng
cung cho em ở để tiện hỏi han.


Câu 5: Tác giả Anđécsen và 1 câu chuyện?
-

Tác giả: Anđécsen là nhà văn người Đan Mạch thiên tài. Ông là con một người thợ giày
ở thành phố Ôđenzê cổ kính nổi tiếng với nghề chạm gỗ. Ông phải tự lập kiếm sống và
lớn lên trong cảnh bần hàn cay đắng.
Anđécsen nổi tiếng là người thông minh, hiếu học. Ông làm thơ, viết truyện nhưng được
mọi người biết đến tài năng là ở những pho truyện cổ tích do ông kể. Nhờ trí tưởng
trượng phong phú kì diệu, ông đã sáng tạo ra những câu chuyện hấp dẫn, có ý nghĩa sâu
xa và sức cuốn hút kì lạ. Với bút pháp vừa trào lộng vừa trữ tình, vừa hiện thực vừa lãng
mạng, truyện cổ tích của ông đã đề cập đến nhiều vấn đề của cuộc sống. Dù là hiện thực
hay hư cấu thì truyện đều bắt rễ từ hiện thực cuộc sống.

-

Truyện Andersen: CÂY LÚA MẠCH


Nếu bạn đi qua cánh đồng lúa mạch sau cơn bão bạn sẽ thấy lúa đen như thể là bị cháy. Tôi
sẽ kể cho bạn nguyên nhân lúa bị đen, qua câu chuyện một chú chim sẻ, chú ta đã nghe từ lời
kể của một ông liễu già mọc ở gần cánh đồng ngô và lúa mạch.
Ông liễu này cao và rất được coi trọng, nhưng vào thời điểm ấy ông đã già cỗi, nhăn nheo.
Thân cây bị chẻ làm đôi, cỏ cây mâm xôi mọc len vào kẽ nứt; ông liễu ngã ra phía trước và
các cành lá của ông xõa xuống mặt đất như một mái tóc xanh dai. Có nhiều cây ngô tốt sống
trên cánh đồng, quây cây lúa mạch. Những bắp ngô được nuôi dưỡng tốt và bắp càng mập
bao nhiêu thì lại vít cây nằm ngả xuống bấy nhiêu. Lúa mạch ta vốn kiêu ngạo nên cứ ngẩng
thẳng và vươn cao đầu lên. Nó nghĩ thầm: "Mình có khối bắp vàng như cây ngô. Mình còn
đẹp hơn hẳn hắn ta nhiều. Những bông hoa của mình đẹp như những nụ táo vậy...". Thế rồi,
Lúa mạch nói:
- Này bác liễu già, bác đã từng thấy cái cây nào đẹp như tôi chưa hả?
Ông liễu gật đầu.
Lúa mạch la lên:
- Cái lão thật dớ dẩn. Lão ta già quá rồi. Cỏ mọc cả vào trong óc lão rồi.
Và chợt một cơn bão ập đến. Đám hoa trên cánh đồng xếp cánh lại và cúi gập những ngọn
đầu xinh xinh. Lúa mạch ta vẫn kiêu ngạo vươn cao cổ lên. Những bông hoa bảo nó:
- Hãy cúi đầu xuống như chúng tôi đi.
Lúa mạch đáp:
- Không thể được tôi sẽ chẳng chịu cúi đầu.
Ông liễu già bảo:
- Hãy xếp những cánh hoa và xếp gọn lá vào. Đừng có nhìn vào các tia chớp kẻo lại nhìn
thấy thiên đàng sớm. Ngay kể cả con người cũng mù nếu họ nhìn vào tia chớp. Nếu bọn ta
vươn đầu lên thì cái gì sẽ xảy ra với đám cỏ dại chúng mình?
Lúa mạch kêu lên khinh bỉ:
- Cỏ dại! Quả thật! Tôi chẳng sợ nhìn lên trời.
Trong giây phút ấy cả thế giới như chìm trong bão tố và tia chớp lửa.



Ngay sau đó, cơn bão đã đi qua, rồi sau một trận mưa mọi vật mới ngọt ngào làm sao. Những
bông hoa dại ngẩng lên hít thở khí trời, những cây ngô lại đung đưa theo chiều gió. Chỉ có
cây lúa mạch nằm xoài trên đất héo tàn, cháy đen. Ông liễu già lắc đầu. Một giọt nước to rơi
xuống từ đám lá liễu như thể ông liễu già đang khóc. Những chú chim sẻ líu lo:
- Tại sao ông lại khóc, ông không thấy sự tươi mát của hoa và lá sao?
Ông liễu già kể lại sự việc xảy ra với cây lúa mạch kiêu ngạo và tôi nghe được câu chuyện
này từ các chú chim sẻ vào cái buổi tối mà tôi gợi chuyện với chúng.
Câu 6: Tác giả Grimm và 1 câu chuyện?
-

Tác giả: Anh em nhà Grimm là hai anh em người Đức. Hai anh em đã cống hiến trọn đời
mình cho việc sưu tầm và nghiên cứu văn học dân gian,đặt nền móng cho nền ngữ văn
Đức và góp phần làm phong phú kho tàng văn hóa của dân tộc Đức. Hai anh em Grimm
được biết tới nhiều nhất với việc xuất bản các bộ sưu tập truyện dân gian và truyện cổ
tích trong đó có nhiều truyện nổi tiếng và phổ biến trên thế giới như Nàng Bạch Tuyết,
Cô bé lọ lem, Nàng công chúa ngủ trong rừng, Cô bé quàng khăn đỏ. Truyện cổ Grimm
mang ý thức giáo dục khá đậm nét thông qua những câu chuyện phê phán những thói hư
tật xấu của các tầng lớp trong xã hội. Là những bài ca đẹp phản ánh và cổ vũ tinh thần
đấu tranh của nhân dân giành lại cuộc sống hạnh phúc. Tố cáo, lên án xã hội bất công của
giai cấp thống trị trong chế độ phong kiến. Giải thích một hiện tượng, sự vật trong tự
nhiên.

-

Truyện Grimm: CÔ BÉ QUÀNG KHĂN ĐỎ
Ngày xửa, ngày xưa, có một cô bé thường hay quàng chiếc khăn màu đỏ, vì vậy, mọi
người gọi cô là cô bé quàng khăn đỏ. Một hôm, mẹ cô bảo cô mang bánh sang biếu bà
ngoại. Trước khi đi, mẹ cô dặn:
- Con đi thì đi đường thẳng, đừng đi đường vòng qua rừng mà chó sói ăn thịt con đấy.
Trên đường đi, cô thấy đường vòng qua rừng có nhiều hoa, nhiều bướm, không nghe lời

mẹ dặn, cô tung tăng đi theo đường đó. Đi được một quãng thì gặp Sóc, Sóc nhắc:
- Cô bé quàng khăn đỏ ơi, lúc nãy tôi nghe mẹ cô dặn đi đường thẳng, đừng đi đường
vòng cơ mà. Sao cô lại đi đường này?
Cô bé không trả lời Sóc. Cô cứ đi theo đường vòng qua rừng. Vừa đi, cô vừa hái hoa, bắt
bướm. Vào đến cửa rừng thì cô gặp chó sói. Con chó sói rất to đến trước mặt cô. Nó cất
giọng ồm ồm hỏi:
- Này, cô bé đi đâu thế?
Nghe chó sói hỏi, cô bé quàng khăn đỏ sợ lắm, nhưng cũng đành bạo dạn trả lời:
- Tôi đi sang nhà bà ngoại tôi.
Nghe cô bé nói đi sang bà ngoại, chó sói nghĩ bụng: À, thì ra nó lại còn có bà ngoại nữa,
thế thì mình phải ăn thịt cả hai bà cháu. Nghĩ vậy nên chó sói lại hỏi:


- Nhà bà ngoại cô ở đâu?
- Ở bên kia khu rừng. Cái nhà có ống khói đấy, cứ đẩy cửa là vào được ngay.
Nghe xong, chó sói bỏ cô bé quàng khăn đỏ ở đấy rồi chạy một mạch đến nhà bà ngoại cô
bé. Nó đẩy cửa vào vồ lấy bà cụ rồi nuốt chửng ngay vào bụng. Xong xuôi, nó lên
giường nằm đắp chăn giả là bà ngoại ốm.
Lúc cô bé quàng khăn đỏ đến, cô thấy chó sói đắp chăn nằm trên giường, cô tưởng “bà
ngoại” bị ốm thật, cô hỏi:
- Bà ơi! Bà ốm đã lâu chưa?
Sói không đáp giả vờ rên hừ… hừ…
- Bà ơi, mẹ cháu bảo mang bánh sang biếu bà.
- Thế à, thế thì bà cám ơn cháu và mẹ cháu. Cháu ngoan quá. Cháu lại đây với bà.
Cô bé quàng khăn đỏ chạy ngay đến cạnh giường, nhưng cô ngạc nhiên lùi lại hỏi;
- Bà ơi! Sao hôm nay tai bà dài thế?
- Tai bà dài để bà nghe cháu nói được rõ hơn Chó sói đáp
- Thế còn mắt bà, sao hôm nay mắt bà to thế?
- Mắt bà to để bà nhìn cháu được rõ hơn.
Chưa tin, cô bé quàng khăn đỏ lại hỏi:

- Thế còn mồm bà, sao hôm nay mồm bà to thế?
- Mồm bà to để bà ăn thịt cháu đấy.
Nói xong, sói nhổm dậy định vồ lấy cô bé. May sao, lúc đó bác hàng xóm chạy sang thấy
thế, sẵn cái búa trong tay, bác liền phang ngay vào đầu Sói một cái. Con Sói gian ác vỡ sọ
chết ngay. Bác hàng xóm liền lấy dao mổ bụng chó Sói và kịp thời cứu được bà. Thế là cả
hai bà cháu đều không việc gì.
Từ dạo ấy, cô bé quàng khăn đỏ không bao giờ dám làm sai lời mẹ dặn.
Câu 7: Tác giả Võ Quảng và 1 bài thơ?
-

Tác giả: Võ Quảng sinh ra trong một gia đình nhà nho trung lưu ở Quảng Nam – Đà
Nẵng. Ông chịu ảnh hưởng lớn của cha, là một nhà nho, về lòng say mê văn học. Ông
chuyên tâm với sáng tác văn học cho trẻ em, hết mình vì trẻ thơ. Ông là một trong những
người đã bỏ nhiều công sức để xây dựng nền móng đầu tiên cho nền văn học thiếu nhi
dưới chế độ mới. Ông chủ yếu viết thơ cho lứa tuổi mẫu giáo và đầu tiểu học. Đó là
những bài thơ xinh xắn, nhẹ nhàng nhưng mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc về thế giới thiên
nhiên sinh động, mới lạ và hấp dẫn. Về thế giới loài vật phong phú, đa dạng và sống
động. Về những bài học đầu tiên về cuộc sống. Võ Quảng có nghệ thuật miêu tả loài vật
rất tinh tế, những con vật qua cách miêu tả của ông hiện lên thật sống động. Nghệ thuật
miêu tả thiên nhiên của ông cũng rất đặc sắc, ông thường phát hiện ra những vẻ đẹp thiên
nhiên gần gũi mà kì diệu. Thơ văn của ông rất giàu nhạc điệu, sử dụng các biện pháp tu
từ để làm cho vốn từ ngữ thật sinh động và hấp dẫn. Hệ thống ngôn ngữ trong thơ văn là
những từ thông dụng, giản dị, dễ hiểu. Sử dụng những chi tiết hài hước, dí dỏm.


-

Bài thơ: MỜI VÀO
- Cốc, cốc, cốc!
- Ai gọi đó?

- Tôi là Thỏ
- Nếu là Thỏ
Cho xem tai
***
- Cốc, cốc, cốc!
- Ai gọi đó?
- Tôi là Nai
- Thật là Nai
Cho xem gạc
***
- Cốc, cốc, cốc!
- Ai gọi đó?
- Tôi là Vạc
- Đúng là Vạc
Cho xem chân
***
- Cốc, cốc, cốc!
- Ai gọi đó?
- Tôi là Gió
- Xin mời vào!
***
Kiễng chân cao
Trèo qua cửa
Cùng soạn sửa
Đón trăng lên
Quạt mát thêm
Hơi biển cả
Reo hoa lá
Đẩy buồm thuyền...
Đi khắp miền

Làm việc tốt

Câu 8: Tác giả Phạm Hổ và 1 bài thơ?
-

Tác giả: Phạm Hổ có bút danh là Hồ Huy, sinh ra ở tỉnh Bình Định, ông là một trong
những thành viên đã sáng lập ra Nhà xuất bản Kim Đồng. Ông tham gia nhiều hoạt động


về văn học nghệ thuật, cố gắng hết mình cho sự trưởng thành và phát triển của văn học
thiếu nhi VN. Phạm Hổ sáng tác nhiều thể loại: thơ, truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết
và phê bình văn học… cho cả người lớn và trẻ em nhưng nói đến ông phải nói đến sự
đóng góp cho nền văn học thiếu nhi nước nhà. Nội dung chủ đạo, xuyên suốt trong thơ
của ông là về chủ đề tình bạn, đặc biệt là đời sống trẻ thơ. Thế giới trẻ thơ với những
khám phá thú vị, bất ngờ. Đặc sắc về nghề thuật trong thơ là nghệ thuật sử dụng chất liệu
dân gian, nghệ thuật sử dụng âm thanh, nhịp điệu độc đáo, nghệ thuật sử dụng hình thức
đối thoại và những câu hỏi tu từ.
-

Bài thơ: CHÚ BÒ TÌM BẠN
Mặt trời rúc bụi tre
Buổi chiều về nghe mát
Bò ra sông uống nước
Thấy bóng mình ngỡ ai
Bò chào: “Kìa anh bạn
Lại gặp anh ở đây!”
Nước đang nằm nhìn mây
Nghe bò cười nhoẻn miệng
Bóng bò chợt tan biến
Bò tưởng bạn đi đâu

Cứ ngoái trước nhìn sau
“Ậm ò” tìm gọi mãi …

Câu 9: Tác giả Trần Đăng Khoa và 1 bài thơ?
-

Tác giả: Trần Đăng Khoa sinh ra ở tỉnh Hải Dương, trong một gia đình nông dân. Trong
gia đình luôn luôn có một bầu không khí thơ ca, đó cũng chính là cái nôi văn hóa đầu tiên
của một tâm hồn thơ trẻ. Thơ của ông chất chứa tình yêu con người, quê hương. Chan
chứa tình yêu thiên nhiên đồng bằng Bắc Bộ. Lòng kính yêu đối với Bác Hồ vĩ đại. Nghệ
thuật đặc sắc của thơ là tâm hồn trẻ thơ qua cách nhìn, cách tả cảnh vật. Trí tưởng tượng
phong phú bay bổng và sự liên tưởng, so sành kì diệu. Ngôn ngữ chính xác, biểu cảm và
giàu âm thanh, nhịp điệu. Cách chọn hình ảnh độc đáo, sáng tạo. Thể thơ linh hoạt: lục
bát, thơ 5 chữ, thơ tự do. Hồn thơ trong sáng, ngôn ngữ giàu nhạc điệu, vần điệu.

-

Bài thơ: TRĂNG ƠI… TỪ ĐÂU ĐẾN?
Trăng ơi... từ đâu đến?
Hay từ cánh rừng xa
Trăng hồng như quả chín
Lửng lơ lên trước nhà


Trăng ơi... từ đâu đến?
Hay biển xanh diệu kỳ
Trăng tròn như mắt cá
Chẳng bao giờ chớp mi
Trăng ơi... từ đâu đến?
Hay từ một sân chơi

Trăng bay như quả bóng
Đứa nào đá lên trời
Trăng ơi... từ đâu đến?
Hay từ lời mẹ ru
Thương Cuội không được học
Hú gọi trâu đến giờ!
Trăng ơi... từ đâu đến?
Hay từ đường hành quân
Trăng soi chú bộ đội
Và soi vàng góc sân
Trăng ơi... từ đâu đến?
Trăng đi khắp mọi miền
Trăng ơi có nơi nào
Sáng hơn đất nước em...
Câu 10: Tác giả Tô Hoài và tác phẩm Dế mèn phiêu lưu kí với 4 bài học?
-

Tác giả: Tô Hoài sinh ra trong một gia đình làm nghề thủ công, tên thật của ông là
Nguyễn Sen. Ông có nhiều bút danh nhưng Tô Hoài là bút danh được dùng nhiều nhất.
Ông chỉ học hết tiểu học, lăn lộn kiếm sống và học trong trường đời. Ông tham gia hoạt
động văn học khá sớm. Ông bắt đầu đến với làng văn bằng những bài thơ lãng mạng
nhưng không thành công, sao đó ông đã nhanh chóng chuyển sang văn xuôi hiện thực và
được dư luận chú ý. Nét nổi bật trong sáng tác của ông là năng lực quan sát và miêu tả
tinh tế, với hiểu biết đời sống và phong tục các dân tộc khá phong phú, lối văn giàu hình
ảnh và luôn biến đổi nhịp điệu, ngôn ngữ sáng tạo, linh hoạt. Nghệ thuật xây dựng nhân
vật, dùng những chi tiết được quan sát tinh tế để miêu tả ngoại hình, gợi tả nội tâm, miêu
tả hành động để thể hiện cá tính nhân vật. Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, qua cái nhìn
của ông thiên nhiên được hiện ra ở nhiều góc độ. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ miêu tả
cụ thể, sinh động, lời văn dí dỏm,lối nói ví von, mang đến cho các em nhỏ một thế giới tự
nhiên phong phú, tươi đẹp, nhí nhảnh.


-

Tác phẩm và 4 bài học:
• 4 bài học:
 Tuổi trẻ cần có cuộc sống tự lập ngay từ đầu.


 Tuổi trẻ bên cạnh ưu điểm còn có nhiều khuyết điểm. Điều quan trọng là

phải biết nhận ra khuyết điểm để sửa chữa (Nếu khuyết điểm trước: ghẹo
chị Cốc để Dế Choắt bị chết oan, trước khi chết Dế Choắt có dặn… => Dế
Mèn nhận ra khuyết điểm).
 Tuổi trẻ cần có khát vọng và hoài bão, cần theo đuổi khát vọng, hoài bão
đến cùng.
 Tuổi trẻ cần có tình bạn thủy chung, sống chết có nhau.


Tác phẩm Dế mèn phiêu lưu kí:

Câu 11: Ca dao tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước?
Ai về Quảng Ngãi quê ta
Mía ngon, đường ngọt, trắng ngà dễ ăn
Mạch nha, đường phổi, đường phèn
Kẹo gương thơm ngọt ăn quen lại ghiền.

Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ,
Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn,
Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn,
Hỏi ai gây dựng nên non nước này?


Đồng Đăng có phố Kì Lừa
Có nàng Tô Thị, có Chùa Tam Thanh
Ai lên Xứ Lạng cùng anh
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em
Tay cầm bầu rượu nắm nem
Mải vui quên mất lời em dặn dò.

Những khi trái nắng trở trời,
Con đau là mẹ đứng ngồi không yên.
Trọn đời vất vả triền miên,
Chăm lo bát gạo đồng tiền nuôi con.

Đường vô xứ Huế quanh quanh,
Non xanh nước biết như tranh họa đồ.
Ai vô xứ Huế thi vô...
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ
Trên trời có đám mây xanh
Ở giữa mây trắng, chung quanh mây vàng
Ước gì anh lấy được nàng
Để anh mua gạch Bát Tràng về xây
Xây dọc rồi lại xây ngang
Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân.

Anh đi vắng cửa vắng nhà
Giường loan gối quế mẹ già ai nuôi?
Cá rô anh chặt bỏ đuôi

Tôm càng bóc vỏ, anh nuôi mẹ già.
Anh em nào phải người xa
Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân
Yêu nhau như thể tay chân
Anh em hòa thuận , hai thân vui vầy
Chồng em áo rách em thương
Chồng người áo gấm xông hương mặc
người
Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!




×