Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

thể chế chính trị ở nước ta tiểu luận chính trị học nâng cao (tiểu luận cao học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.45 KB, 23 trang )

MỞ ĐẦU
Ở mỗi quốc gia trên thế giới đều có những điểm khác biệt trong hệ thống
chính trị đặc biệt là trong thể chế chính trị. Và đối với nước ta cũng vậy, cũng
có những đặc điểm mà các nước khác không có được trong việc tổ chức bộ
máy nhà nước và xây dựng các tổ chức chính trị ở nước ta. Theo Hiến pháp
năm 1992 quy định “ nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà
nước pháp quyền XHCN là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân” Và đây là đặc trưng cơ bản nhất của thể chế nhà nước giúp đem lại
quyền lợi cho những người lao động.
Trước hết khẳng định những thành tựu to lớn mà nhân dân ta đạt được
trong những năm qua, bản chất của nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân,
vì dân, mà nền tảng là công-nông-trí thức, khẳng định vai trò lãnh đạo của
Đảng, và nhấn mạnh Đảng theo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;


xác định vị trí trung tâm của nhà nước trong hệ thống chính trị và đề cao vai
trò của các tổ chức chính trị-xã hội không chỉ là “ chỗ dựa vững chắc của nhà
nước” mà là “ cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân”.

1


NỘI DUNG
Năm 1992, bản Hiến pháp của thời kỳ đổi mới của Quốc hội thông
qua, đặt nền tảng cho việc hình thành thể chế chính trị mới, đáp ứng yêu cầu,
đòi hỏi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thể chế chính
trị Việt Nam, các tổ chức chính trị-xã hội, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí

Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam. Thể chế
chính trị hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước là trụ cột, các tổ
chức chính trị-xã hội, thể hiện ý trí, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân,
hướng tới thực hiện ngày càng đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
I.HIẾN PHÁP
Bản Hiến pháp mới đã được thông qua ngày 15/04/1992, gồm Lời nói
đầu, 12 chương, 147 điều. Những nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động
của thể chế chính trị đổi mới thể hiện trên những nét cơ bản sau:
Trước hết khẳng định những thành tựu to lớn mà nhân dân ta đạt được
trong những năm qua, bản chất của nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân,
vì dân, mà nền tảng là công-nông-trí thức, khẳng định vai trò lãnh đạo của
Đảng, và nhấn mạnh Đảng theo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;

xác định vị trí trung tâm của nhà nước trong hệ thống chính trị và đề cao vai
trò của các tổ chức chính trị-xã hội không chỉ là “ chỗ dựa vững chắc của nhà
nước” mà là “ cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân”.
Nguyên tắc tập quyền trong thể chế nhà nước ghi rõ: quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa ba quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Phủ nhận chính trị đối với nguyên tắc phân quyền, nhưng
không loại bỏ khả năng lợi dụng các hạt nhân hợp lý của nó trên bình diện tổ
chức-kỹ thuật về tổ chức nhà nước, có những thay đổi rất căn bản:

2



Quốc hội, bên cạnh các quy định truyền thống với tính cách là cơ quan
đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất, nhưng không còn
là “cơ sở chính trị của hệ thống cơ quan nhà nước” như quy định trong Hiến
pháp 1980, bản Hiến pháp 1992 đặt cơ sở cho việc phân công quyền lực giữa
các thiết chế nhà nước, tiến tới mô hình tổ chức không có cơ quan nào độc
quyền lực. Cơ cấu bộ máy nhà nước không chỉ thay đổi về hình thức, mà còn
có sự thay đổi trong mô hình quản lý giữa các cơ quan.
Về chế độ kinh tế, chuyển đổi từ kinh tế dựa trên hai hình thức sở hữu
sang nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của
nhà nước. Chính sách đối ngoại của nhà nước được xác định lại cho thực tế và
thể hiện sự mềm dẻo so với Hiếp pháp 1980. Sự lãnh đạo của Đảng đối với
nhà nước và xã hội tiếp tục được khẳng định và đây là nguyên tắc thay đổi

của Cách mạng Việt Nam.
Như vậy, bất chấp những tác động to lớn trong phong trào cộng sản thế
giới và tình hình thế giới cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX, khẳng định bản lĩnh
chính trị của dân tộc ta kiên quyết phấn đấu vì lý tưởng cao cả của chủ nghĩa
xã hội, đồng thời đòi hỏi tiến hành mạnh mẽ là “ của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân”. Tính nhân dân được khẳng định dựa trên cơ sở của liên minh
công-nông-trí thức, tạo ra cơ sở xã hội rộng rãi, khả năng đoàn kết sâu rộng,
mọi lực lượng trong xã hội.
Hiến pháp 1992 là cái mốc đánh dấu một giai đoạn phát triển mới về
thể chế chính trị Việt Nam. Trên thực tế, những năm sau đó , vai trò của Quốc
hội đã được phát huy, thể hiện rõ trong việc cụ thể hóa của Đảng thành pháp
luật, chính sách của nhà nước.

II.THỂ CHẾ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1.Vai trò của Đảng trong thể chế chính trị.
Hiến pháp 1992 ghi rõ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và
xã hội, nhưng nhấn mạnh: “ Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn
khổ của Hiến pháp và pháp luật”. Đảng cộng sản Việt Nam là bộ phận cấu
3


thành của hệ thống chính trị, nhưng là hạt nhân của hệ thống chính trị đó. Sự
lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và đối với xã hội là một nguyên
lý xã hội chủ nghĩa nói chung và của nước ta nói riêng. Giữ vững, củng cố và
tăng cương vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và thể chế chính trị là

yếu tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của công cuộc giải phóng dân tộc và xây
dựng chủ nghĩ xã hội ở nước ta.
Trong lịch sử xây dựng, phất triển của thể chế chính trị, vai trò lãnh đạo
của Đảng được thể hiện khác nhau, thông qua các thời kỳ cách mạng. Sứ
mệnh lịch sử của Đảng, Đảng cầm quyền duy nhất, là lãnh đạo và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, xây
dựng đất nước giàu mạnh, công bằng, dân chủ,văn minh. Nhiệm vụ của Đảng
là xây dựng, bảo đảm, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, làm cho tất cả
quyền lực thuộc về nhân dân. Đảng đảm nhận trách nhiệm trước toàn dân lãnh
đạo nhà nước giữ vững bản chất cách mạng, thật sự là nhà nước của nhân dân,
do dân và vì dân, ngăn ngừa và khắc phục tệ nạn tham liêu, nạn tham nhũng,
tình trạng cán bộ có chức, có quyền, đặc quyền, đặc lợi. Sự lãnh đạo đúng

đắn, sáng tạo của Đảng là nhân tố quyết định chất lượng và hiệu quả bộ máy
nhà nước và các đoàn nhân dân. Vai trò lãnh đạo của Đảng được thể hiện
thông qua các kỳ đại hội Đảng, theo đó, đường lối đổi mới đất nước và con
đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng được nhận thức rõ hơn và triển khai
đạt hiệu quả cao hơn.
2.Cơ cấu tổ chức của Đảng
a.Cơ quan lãnh đạo cấp trung ương.
Đại hội, đại biểu toàn quốc là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng. Đại
hội có nhiệm vụ đáng giá kết quả thực hiện nghị quyết của nhiệm kỳ vừa qua;
quyết định đường lối, chính sách của Đảng nhiệm kỳ tới, bầu ban chấp hành
trung ương; sửa đổi Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng khi cần.
Ban chấp hành trung ương là cơ quan lãnh đạo của toàn Đảng giữa hai

kỳ đại biểu toàn quốc, có nhiệm vụ: tổ chức, chỉ đạo thực hiện các nghị quyết
4


của Đảng, quyết định những chủ trương, chính sách đối nội, đối ngoại, công
tác quần chúng và công tác xây dựng Đảng.
Ban chấp hành trung ương bầu bộ chính trị, bầu Tổng bí thư trong số
ủy viên bộ chính trị, thành lập ban thư kí, bầu ủy viên kiểm tra trung ương,
bầu chủ nhiệm ủy ban kiểm tra trung ương.
Để giúp việc và tham mưu cho Ban chấp hành trung ương mà trực tiếp
là Bộ chính trị, ban thư kí có cơ quan trực thuộc, đó là ban của trung ương,
các Đảng đoàn, ban cán sự Đảng ở các ngành. Hiện nay có các ban: Ban tổ

chức, Ban tư tưởng-văn hóa, Ban kinh tế, Ban đối ngoại, Ban tài chính-quản
trị, Ban nội chính, Ban dân vận.
b.Cơ quan lãnh đạo ở địa phương,
Cơ quan lãnh đạo ở địa phương gồm có: Đảng bộ tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương, Đảng bộ huyện, quận, thị xã thành phố trực thuộc tỉnh.
Đại hội đại biểu Đảng bội là cơ quan lãnh đạo cao nhât của Đảng ở các
cấp địa phương. Đại hội thường triệu tập thường lệ 5 năm một lần. Đại hội có
nhiệm vụ: Thảo luận văn kiện của cấp ủy cấp trên; đánh giá kết quả thực hiện
nghị quyết nhiệm kỳ vừa qua; quyết định nhiệm vụ kỳ tới; bầu ban cấp ủy;
bầu đại biểu đi dự đại biểu cấp trên. Cấp ủy là cơ quan lãnh đạo của Đảng bộ
các cấp giữa hai kỳ đại hội đại biểu Đảng bộ.
Đại hội đại biểu hoặc đại hội Đảng viên tổ chức cơ sở Đảng là cơ quan

lãnh đạo cao nhất của tổ chức cơ sở Đảng. Đại hội cơ sở xã, phường, thị trấn,
5 năm một lầm. Đại hội thảo luận các văn kiện của cấp trên; đánh giá kết quả
thực hiện nghị quyết nhiệm kỳ vừa qua; quyết định nhiệm vụ nhiệm kỳ tới;
bầu cấp ủy, bầu đại biểu đi dự đại hội cấp trên.
3.Đảng lãnh đạo đổi mới, kiện toàn thể chế chính trị.
a. Đại hội VI của Đảng đề ra đường lối đổi mới, nhấn mạnh nhà nước
phải thực hiện tốt hơn nền dân chủ CNXH, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, đồng thời nhà nước phải thực sự quản lý kinh tế, xã hội bằng pháp luật.
Nhà nước phải thể chế hóa đường lối đổi mới của Đảng thành hệ thống chính
5



sách và pháp luật. Nhà nước phải tự hoàn thiện cả cơ quan quyền lực, cơ quan
hành chính và tư pháp, với sự phân công rành mạch ba quyền đó. Trên tinh
thần đó, nộ dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước đã có
bước đổi mới, vừa bảo đảm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa phát
huy trách nhiệm, tính chủ động của cơ quan nhà nước. Do đó, những kết quả
đạt được là:
Kết quả cơ bản và quan trọng nhất là Đảng đã đề ra được và từng bước
bổ sung, hoàn thiện dàn đường lối, một cách đúng đắn, sáng tạo, hình thành
ngày càng rõ con đường đi lên CNXH ở nước ta.
Đảng đã khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa MácLênin là nền tảng tư tưởng và là kim chỉ nam cho hành động của Đảng ở
những bước ngoặt của cách mạng, trước nhứng diễn biến phức tạp của tình
hình, Đảng kịp thời có những định hướng tư tưởng chính trị đúng đắn, uốn

nắn những nhận thức lệch lạc, chống những luận điệu thù địch, tạo cơ sở cho
sự thống nhất tư tưởng toàn Đảng và trong nhân dân. Giữ vững nguyên tắc tập
trung nhân dân, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Có tiến bội về thực hiện
dân chủ trong Đảng và lãnh đạo thực hiện dân chủ trong xã hội.
Đổi mới một bước tổ chức và cán bộ, nâng cao trình đọ và sức chiến
đấu của đội ngũ cán bộ đảng viên; ngăn chặn được sự sa sút, yếu kém của
nhiều tổ chức cơ sở Đảng; bước đầu cải tiến phương thức và phong cahs công
tác; có tiến bộ trong công tác kiểm tra.
b.Những hạn chế và vấn đề đặt ra.
Trong quá trình lãnh đạo thể chế chính trị, Đảng ta cũng nhận rõ những
hạn chế của mình. Sự lãnh đạo của Đảng chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình
đổi mới tổ chức, hoạt động của nhà nước, còn có tình trạng buông lỏng và bao

biện, chồng chéo nên chưa phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực
điều hành của bộ máy nhà nước. Chính vì vậy, “ bộ máy nhà nước ta chưa
thực sự trong sạch, vững mạnh; tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu còn
nghiêm trong, chưa được ngăn chặn; hiệu lực, quản lý điều hành chưa
6


nghiêm. Tổ chức bộ máy nhà nước còn nặng nề, sự phân công và phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp còn có những điểm chưa rõ về chức năng, nhiệm vụ, mối quan
hệ phân cấp trung ương-địa phương còn một số mặt chưa cụ thể, làm cho tình
trạng tập trung quan liêu cũng như phân tán, cục bộ chậm được khắc phục”.

Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng còn lúng túng, chưa đi sâu làm
rõ đặc điểm và yêu cầu về sự lãnh đạo của Đảng trong điều kiện Đảng cầm
quyền, chưa phát huy đầy đủ hiệu lực quản lý của các cơ quan nhà nước, tính
tích cực của đoan thể và quyền làm chủ của nhân dân.
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng cần khắc phục những vấn đề yếu kém
sau:
Trong điều kiện cơ chế thị trường, kinh tế nhiều thành phần mở cửa
giao lưu với các nước, trước những tác động tiêu cực của các nhân tố tư bản
và sự tiến công của các thế lực thù địch, một bộ phận cán bộ, đảng viên có
biểu hiện suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức và lối sống.
Trình độ kiến thức và năng lực lãnh đạo của Đảng có mặt chưa theo
kịp yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý các

cấp nhìn chung còn thiếu nhiều kiến thức, nhất là kiến thức về quản lý kinh tế,
quản lý nhà nước, phần lớn vừa làm vừa học.
Tổ chức cơ sở Đảng ở nhiều nơi yếu kém, thậm chí có nơi rệu rã, tê
liệt, phương thức lãnh đạo và sinh hoạt lúng túng, có tình trạng vừa kém dân
chủ, vừa thiếu kỷ luật, kỷ cương.
Công tác kiểm tra chưa chú trọng đúng mức và vẫn là một khâu yếu,
nhất là việc kiểm tr chấp hành đường lối nghị quyết của Đảng, kiểm tra việc
thực hiện điều lệ Đảng.
c.Những bài học kinh nghiệm của Đảng trong lãnh đạo thể chế chính
trị.
Suốt quá trình lãnh đạo và kiện toàn thể chế chính trị kiểu mới ở nước
ta từ Cách mạng tháng tám đến nay, Đảng ta đã có được những kinh nghiệm,

7


bài học có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn củng cố thể chế chính trị, tăng
cường hiệu lực, sức mạnh của các tổ chức chính trị thành viên đó là:
Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân trong xây dựng, củng cố thể chế chính trị, đặc biệt là thể chế nhà nước.
Nhà nước là trụ cột của thể chế chính trị, vì vậy Đảng thường xuyên chăm lo
bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh. Giữ vững và tăng cường vai trò
lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và các đoàn thể nhân dân là nhân tố
quyết định sự tồn tại, bản chất cách mạng và sức mạnh của thể chế chính trị.
Để thực hiện vai trò đối với thể chế chính trị, Đảng phải không ngừng hoàn

thiện nội dung và phương thức lãnh đạo cho phù hợp với đặc điểm và tính
chất của các tổ chức chính trị, các cấp trung ương và địa phương.
III.THỂ CHẾ NHÀ NƯỚC
1.Quốc hội
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất, cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội
quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh
tế-xã hội, quốc phòng an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ
chức và hoạt động của bộ mày nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của
công dân. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của
nhà nước.
Quốc hội có những nhiệm vụ và có quyền hạn chủ yếu sau: lập hiến và

lập pháp; giám sát tối cao việc tuân thủ Hiến pháp, pháp luật và nghị quyết
của Quốc hội; quyết định kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của đất nước;
quyết định chính sách tài chính tiền tệ, ngân sách nhà nước, quy định thuế;
quyết định chính sách dân tộc; quy định tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà
nước; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm chủ tịch nước; phê chuẩn đề nghị chủ tịch
nước về danh sách thành viên hội đống quuocs phòng; quyết định thành lập,
bãi bỏ các bội; quyết định, quyết xá; quy định hàm cấp lực lượng vũ trang và
ngoại giao; quy định huân huy chương; quyết định chính sách đội đối ngoại.
8


Nhiệm kỳ quốc hội 5 năm. Mỗi năm quốc hội họp hai kỳ do ủy ban

thường vụ quốc hội triệu tập. Ủy ban thường vụ quốc hội là cơ quan trực
thuộc của Quốc hội. Thành viên ủy ban thường vụ Quốc hội không thể đồng
thời là thành viên chính phủ. Uỷ ban thường vụ Quốc hội có những nhiệm vụ
và quyền hạn sau: tổ chức viêch chuẩn bị, triệu tập và chủ trì các kỳ họp Quốc
hội; giải thích hiến pháp, luật và pháp lệnh; ra pháp lệnh về những vấn đề
được Quốc hội giao. Chủ tịch quốc hội chủ tọa các phiên họp của Quốc hội;
ký chứng thực luật, nghị quyết của Quốc hội; lãnh đạo công tác của ủy ban
thường vụ Quốc hội, giữ mối quan hệ với đại biểu Quốc hội…Các phó chủ
tịch Quốc hội giúp chủ tịch làm nhiệm vụ theo sự phân công của chủ tich
Quốc hội bầu cử Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội và đoàn thư ký
kì họp.
Đại biểu Quốc hội không chỉ đại diện cho nhân dân ở địa vị bầu cử ra

mình, mà còn đại diện cho nhân dân cả nước. Họ phải liên hệ chặt chẽ với cử
tri, thu thập, phản ánh trung thực ý kiến và nguyện vọng của cử tri với Quốc
hội và các cơ quan nhà nước hữu quan; có quyền chất vấn những người lãnh
đạo các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, kinh tế..
Theo quyết định của Quốc hội khóa X, để nâng cao chất lượng hoạt
động của Quốc hội, có ¼ tổng số đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách.
Các đại biểu được bầu trong một tỉnh hoặc thành phố trực thuộc trung ương
hợp thành đoàn đại biểu Quốc hội. Đoàn đại biểu Quốc hội có trưởng đoàn,
phó trưởng đoàn, đại biểu hoạt động chuyên trách.
2.Chủ tịch nước.
Chủ tịch nước là người đúng đầu nhà nước, thay mặt nhà nước về đối
nội và đối ngoại. Được bầu trong số đại biểu Quốc hội, chủ tịch nước chịu

trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.
Chủ tịch nước có nhiệm vụ và quyền hạn sau: công bố Hiến pháp, luật,
phấp lệnh; thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân; đề nghi Quốc hội bầu,

9


miễn nhiệm, bãi nhiệm phó chủ tịch nước, thủ tướng chính phủ, chánh án tòa
án nhân dân tối cao, viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao…
Chủ tịch nước đứng đầu Hội đồng quốc phòng và an ninh. Hội đồng
còn có phó chủ tịch nước, các ủy viên. Hội động viên mọi lực lượng và khả
năng của nhà nước để bảo vệ Tổ quốc.

Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của ủy ban thường vụ
Quốc hội; khi xét thấy cần thiết, có quyền tham dự các phiên họp của chính
phủ. Phó chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội, giúp chủ
tịch làm nhiệm vụ và có thể chủ tịch ủy nhiệm thay chủ tịch làm một số
nhiệm vụ.
3.Chính phủ.
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà
nước cao nhất. Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội...; bảo đảm hiệu lực của bộ máy nhà nước từ
trung ương đến cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và
pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn đinh và nâng cao đời sống vật chất và văn hóa

của nhân dân.
Chính phủ gồm có Thủ tướng, các phó thủ tướng, các bội trưởng và
các thành viên khác. Thủ tướng chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và
báo cáo công tác với Quốc hội, ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.
Chính phủ có nhiệm vụ và quyền hạn chủ yếu sau đây: lãnh đạo công
tác của các cán bộ, các cơ quan ngang bộ và các cơ quan thuộc chính phủ; bảo
đảm việc thực hành Hiến pháp và pháp luật trong các cơ quan nhà nước, tổ
chức kinh tế..; thống nhất quản lý việc xây dựng, phát triển nền kinh tế quốc
dân; thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia…
Thủ tướng chính phủ có nhiệm vụ và quyền hạn chủ yếu sau đây: lãnh
đạo công tác chính phủ; đề nghi Quốc hội thành lập hoặc bãi bỏ các bộ và cơ
quan ngang bộ; trình Quốc hội việc phê chuẩn bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách

10


chức phó thủ tướng, Bộ trưởng, các thành viên khác của chính phủ; đình chỉ
việc thi hành hoặc bãi bỏ những quyết định, chỉ thị, thông tư của bộ trưởng;
đình chỉ việc thi hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương trái với Hiến phấp và pháp luật..
Bộ trưởng và các thành viên khác của chính phủ chịu trách nhiệm quản
lý nhà nước về lĩnh vực, ngành mình phụ trách trong phạm vi cả nước, bảo
đảm quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của các cơ quan theo
quy định của pháp luật. Họ phải chịu trách nhiệm trước thủ tướng và trước
Quốc hội về lĩnh vực, ngành mình phụ trách.

4.Tòa án nhân dân.
Tòa án nhân dân tối cao, các tòa án nhân dân địa phương, các tòa án
quân sự và các tòa án khác do luật quy định là các cơ quan xét xử của nước
CHXHCN Việt Nam. Ở cơ sở, thành lập các tổ chức thích hợp của nhân dân
để giải quyết những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân.
Việc xét xử công khai, có hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định của pháp
luật. Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật,
quyết định theo đa số.
Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất. Nó giám sát việc
xét xử của các tòa án nhân dân địa phương, các tòa án quân sự và các tòa án
đặc biệt khác.
Chánh án tòa án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác

trước Quốc hội, ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Chánh án tòa
án nhân dân địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng
nhân dân.
5.Viện kiểm sát nhân dân.
Theo Hiến pháp 1992, Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành việc
kiểm tra, giám sát việc tuân thủ Hiến pháp, pháp luật của các cơ quan nhà
nước, các tổ chức và công dân, đồng thời giữ quyền công tố và kiếm sát hoạt
động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh
11


và thống nhất. Từ năm 2001 , theo Hiến pháp sửa đổi, chức năng kiểm tra

giám sát hoạt động tuân thủ Hiến pháp, pháp luật không còn nữa mà chủ yếu
tập trung vào chức năng công tố và giám sát hoạt động tư pháp. Các viện
kiểm sát nhân dân địa phương, các viện kiểm sát quân sự thực hành công tố
và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong phạm vi trách nhiệm do luật định.
Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chị sự kiểm sát của viện
trưởng viện kiểm sát nhân dân cấp trên và chị sự lãnh đạo thống nhất của Viện
trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao. Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối
cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, ủy ban thường vụ
Quốc hội và nhà nước.Viện trưởng các viện kiểm sát nhân dân địa phương
chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân và trả lời chất vấn
của đại biểu Hội đồng nhân dân.
6.Chính quyền địa phương.

Các đơn vị hành chính của Việt Nam được phân chia như sau: cả nước
chia thành 58 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Tỉnh chia thành huyện,
thành phố thuộc tỉnh và thị xã; thành phố trực thuộc trung ương chia thành
quận, huyện và thị xã. Huyện chia thành xã, thị trấn; thành phố trực thuộc
tỉnh, thi xã chia thành phường và thị xã, quận chia thành phường.
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại
diện cho mọi ý trí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân
địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan
nhà nước cấp trên. Căn cứ vào Hiến pháp, pháp luật, văn bản của cơ quan nhà
nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Uỷ ban nhân dân ra
quyết định, chỉ thị việc kiểm tra thi hành những văn bản đó.
Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu ra là cơ quan chấp hành

của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính của nhà nước ở địa phương, chịu
trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan nhà nước
cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân.

12


Chủ tịch ủy ban nhân dân lãnh đạo, điều hành hoạt động của ủy ban
nhâm dân; có quyền đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những văn bản sai trái
của ủy ban nhân dân cấp dưới; đình chỉ thi hành nghị quyết sai trái cuat Hội
đồng nhân dân cấp dưới, đồng thời đề nghị Hội đồng nhân dân cấp mình bãi
bỏ những nghị quyết đó.

IV.THỂ CHẾ CÁC ĐOÀN THỂ NHÂN DÂN
1.Vị trí, vai trò của các đoàn thể nhân dân trong thể chế chính trị
Hiến pháp Việt Nam quy định công dân có quyền hội jopj, lập hội.
Hiện nay, ở trung ương có trên 170 tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hôi,
đoàn thể nhân dân và hàng trăm tổ chức tương tự ở địa phương. Trong đó có 6
tổ chức có ảnh hưởng sâu rộng trong nhân dân và là thành viên của hệ thóng
chính trị: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam,
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội
nông dân Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân có vai trò quan trọng trong
quá trình bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đât nước.
Thứ nhất, tham gia thành lập các cơ quan nhà nước:Mặt trận chủ trì

việc hiệp thương với các tổ chức xã hội khác để giới thiệu người ra ứng cử đại
biểu Quốc hội và đại biểu Hội đòng nhân dân các cấp. Mặt trạn và các tổ chức
thành viên có đại diện trong tổ chức bầu cử. Mặt trận có quyền đề nghị với
các cơ quan quyền lực nhà nước bãi nhiễm các đại biểu dân cử không xứng
đáng, đồng thời tham gia vào việc bãi miễn đó. Mặt trận có quyền giới thiệu
người để các cơ quan đại biểu của nhân dân bầu làm Hội thẩm nhân dân ở các
tòa án.
Thứ hai, tham gia xây dựng pháp luật: Mặt trận và các tổc chức thành
viên có quyền trình các sự án luật trước Quốc hộ và các dự án pháp lệnh trước
Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Hiện nay đã có Luật mặt trận, Luật công đoàn.
Các tổ chức khác cũng đang tích cực tham gia vào xây dựng văn bản pháp
luật cho tổ chức, ngành mình.

13


Thứ ba, tham gia quản lý nhà nước, kiểm tra, giám sát hoạt động của
các cơ quan nhà nước.
Thứ tư, tham gia tuyên truyền hiến pháp và pháp luật, giáo dục công
dân ý thức chấp hành pháp luật, bảo vệ các quyền tự do, dân chủ của công
dân.
2.Các đoàn thể nhân dân trong hệ thống chính trị
a.Mặt trận Tổ quốc.
Từ khi thành lập đến nay, Mặt trận có những đống góp quan trọng
trong viiecj hình thành và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc dưới sự lãnh đạo

của Đảng. Nhờ đó chúng ta tập trung được sức mạnh nhân dân đạt được thắng
lợi to lớn trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đát nước và
từng bước quá độ lên CNXH trong phạm vi cả nước. Điều 9, Hiến pháp ghi
rõ: “ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị”, liên hiệp tự
nguyện của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội và
các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội…Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của quyền nhân
dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tham gia xây dựng và
củng cố chính quyền nhân dân, cùng nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích
chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ,
nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ
quan nhà nước. Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức

thành viên hoạt động có hiệu quả.
Khác với các đoàn thể nhân dân, Mặt trận là tổ chức có vai trò đặc biệt
quan trọng, nó bao gồm rộng rãi các tổ chức chính trị-xã hội, các nhân sỹ, trí
thức; có chức năng tham chính, tham nghị và giám sát. Mặt trận chỉ có thành
viên mà không có hội viên. Mặt trận quản lý hoạt động của hàng trăm đoàn
thể và hội quần chúng, các tổ chức nhân đạo, các hội hữu nghị.
Mặt trận là liên minh chính trị, có vai trò củng cố và tăng cường khối
đại đoàn kết toàn dân, góp phần tạo nên sự đồng thuận về chính trị và tinh
14


thần trong các tầng lớp nhân dân, thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân với

Đảng, nhà nước; động viên nhân dan phát huy quyền làm chủ ; tham gia xây
dựng phản biện các chủ trương , đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước. Là cơ sở chính trị của chính quyền, Mặt trận là nơi thể hiện rõ ý chí,
nguyện vọng của nhân dân, tập hợp các lực lượng trong nhân dân tham gia
xây dựng và bảo vệ chính quyền, Mặt trận là nền tảng chính trị, là tổ chức
chính trị-xã hội của toàn dân.
Mặt trận là nơi hiệp thương bầu cử các cơ quan quyền lực nhà nước ở
trung ương và địa phương; có đại diện trong cơ qu an đại diện dân cử. Mặt
trận góp phần tham gia phát triển tình hữu nghị, hợp tác giữa nhân dân Việt
Nam với nhân dân các nước. Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc: tựu nguyện,
tự hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động. Phương thức hành
động của Mặt trận là: phối hợp và thống nhất hành động của các tổ chức

thành viên trong Mặt trận; trực tiếp vận động những cá nhân tiêu biểu song
song với việc vận động quần chúng nhân dân…
Trong thực tế, Mặt trận có đóng góp tích cực trong phong trào; toàn
dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư, xóa đói giảm nghèo; phát
triển kinh tế xã hội ở các xã khó khăn, các hoạt động đền ơn đáp nghĩa nhân
đạo, từ thiện, tương thân tương ái; tham gia bảo vệ trật tự, an toàn an ninh ở
cơ sở; thực hiện và giám sát thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở…
b.Tổng liên đoàn lao động Việt Nam
Điều 10 Hiến pháp nghi rõ “ công đoàn là tổ chức chính trị-xã hội của
giai cấp công nhân và người lao động cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội chăm la và bảo vệ quyền lợi cán bộ, công nhân, viên
chức và những người lao động khác; tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tổ

chức kinh tế; giáo dục cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động
khác xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Từ khi ra đời, tổ chức công đoàn có nhiều đóng góp đối với sự nghiệp
đấu tranh cách mạng giải phóng đất nước và xây dựng chủ nghĩ xã hội, đã tích
15


cực tham gia công việc nhà nước và kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ
quan nhà nước, tham gia quản lý xí nghiệp, giáo dục công nhân viên tổ
chức…Cùng với các cơ quan nhà nước, công đoàn chăm lo đời sống và bảo
đảm quyền lợi của công nhân viên chức.
Hiện nay có hơn 6,4 triệu công nhân, chiếm 16% lao động xã hội trong

tổ chức công đoàn cơ sở. Tuy nhiên, đến nay mới chỉ có hơn một nửa doanh
nghiệp ngoài quốc doanh có tổ chức công đoàn.
c.Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
Đoàn thanh niên là tổ chức giáo dục và rèn luyện thế hệ trẻ, là đội hậu
bị, là cánh tay đắc lực của Đảng, đồng thời là nguồn cung cấp cán bộ trẻ có
phẩm chất đạo đức cách mạng và trình độ chuyên môn cao cho các cơ quan
nhà nước và các tổ chức quần chúng, thực hiện tốt lời dạy của Chủ tịch “ đâu
cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên”.
Vai trò quan trọng của Đoàn là tập hợp, giáo dục thanh thiếu nhiên và
nhi đồng thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp
luật của nahf nước. Đoàn có nhiệm vụ tuyên truyền, vận động định hướng tư
tưởng tạo ra sự đoàn kết nhất trí về chính trị, tinh thần trong thanh thiếu niên;

lôi cuốn họ tham gia xây dựng chính quyền tạo điều kiện cho mỗi người phát
huy tài năng, sức mạnh của mình phục vụ nhân dân, đất nước.
Trong thời kỳ đổi mới, Đoàn thanh niên đã phát huy vai trò, thế mạnh
của tổ chức mình, tạo điều kiện cho thanh thiếu niên lao động sản xuất, ổn
định cuộc sống, tham gia sinh hoạt văn hóa, hạn chế các tệ nạn xã hội; tham
gia tích cực vào phong trào xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa,
thực hiện ba mục tiêu: dân số, sức khỏe và môi trường; tổ chức các câu lạc bộ
trẻ, các diễn đàn thanh niên để lồng ghép các nội dung giáo dục chính trị, tư
tưởng, giáo dục truyền thống, đạo đức, lối sống, ý thức pháp luật cho thanh
niên. Đoàn đã phát động các phong trào “ thanh niên lập thân lập nghiệp”, “
thanh niên xung kích”, “ thanh niên tình nguyện” chiến dịch “ mùa hè xanh”
…Đoàn thanh niên là lực lượng tiên phong áp dụng tiến bộ khoa học công

16


nghệ vào sản xuất, năng động, sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh làm giàu
cho bản thân và đất nước.
d.Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam
Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam là tổ chức đại diện tầng lớp phụ nữ cả
nước; bảo vệ quyền bình đẳng dân chủ và lợ ích hợp pháp cho phụ nữ; bồi
dưỡng, đào tạo, nâng cao học vấn cho phụ nữ; giáo dục phụ nữ xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc; đồng thời tuyên truyền nâng cao nhận thức về vai trò đặc biệt
của giới phụ nữ trong việc làm mẹ và giáo dục các thế hệ thanh thiếu niên.
Từ khi ra đời đến nay, Hội liên hiệp phụ nữ đã đạt được nhiều thành

tựu trong việc tạp hợp phụ nữ và quá trình cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân, cũng như cách mạng XHCN. Đảng ta chủ trương phát huy mạnh mẽ hơn
nữa vai trò của phụ nữ trong công cuộc đổi mới, tạo ra những chuyển biến
tích cực của phong trào phụ nữ, tăng cán bộ phụ nữ trong cơ quan Đảng, nhà
nước và các tổ chức đoàn thể; phát huy thế mạnh của phụ nữ trong các lĩnh
vực kinh tế-xã hội, an ninh trật tự,xây dựng gia đình mô hình ấm no, bình
đẳng , hạnh phúc.
Trước đây trong thời kỳ kháng chiến cứu nước, Hội phụ nữ đã phát
động các phong trào “ ba đảm đang” hay “ giỏi việc nước đảm việc nhà”…
Ngày nay, Hội phát động các phong trào “ người phụ nữ mới xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc” hay “ mẹ giỏi con ngoan”…Phụ nữ có vai trò quan trọng trong
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở và kế hoạch hành động quốc gia vì sự tiến

bộ của phụ nữ Việt Nam. Hội phụ nữ có vai trò quan trọng trong phát triển
kinh tế-xã hội ở các địa phương, giúp chị em vay vốn, giúp đỡ cách làm ăn
mới, thực hiện xóa đói giảm nghèo; trong kế hoạch hóa gia đình, phòng chống
tệ nạn xã hội, tham gia hòa giải khu dân cư, xây dựng nếp sống văn minh, gia
đình văn hóa, chống hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan đặc biệt chống tư tưởng
coi thường phụ nữ.

17


e.Hội nông dân Việt Nam
Là tổ chức đòa thể của bà con nông dân, lực lượng chiếm gần 80% dân

số của nước ta, Hội nông dân có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp
cách mạng. Hội là tổ chức đoàn kết, giáo dục nâng cao ý chí và năng lực làm
chủ của nông dân nhằm hướng người sản xuất nhỏ đi lên CNXH. Hội có
nhiều đóng góp to lớn trong việc quy tụ sức mạnh của nông dân để phát triển
kinh tế-xã hội nông thôn, tham gia có hiệu quả vào các cơ quan quyền kực ở
địa phương và trung ương. Hội kiến nghị với nhà nước những vấn đề chính
sách nông nghiệp, giúp đỡ nhà nước xây dựng pháp luật quản lý nông nghiệp,
cải thiện đời sống nông dân. Hội tích cực hỗ trợ nông dân trong phát triển
kinh tế, thực hiện xóa đói giảm nghèo ở nông thôn.
Hội tổ chức ở tất cả các cấp hạnh chính từ trung ương đến cả các cấp
hành chính từ trung ương đến các địa phương có nông dân. Hiện nay, Hội có
khaongr 8 triệu hội viên, chisếm hơn 40% tổng số nông dân.

f.Hội cựu chiến binh Việt Nam
Hội cựu chiến binh đoàn kết những người đã tham gia quân đội, là tổ
chức có vai trò quan trọng trong thể chế chính trị. Tuy nhiên mới thành lập,
nhưng phát huy bản chất, truyền thống “ bộ đội cụ Hồ” , hội đã tích cực tham
gia xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền, chế độ xã hội; giúp nhau cải thiện
đời sống, góp phần giáo dục truyền thống và chủ nghĩa anh hùng cách mạng
cho thế hệ trẻ. Hoạt động của hội rất có hiệu quả, không chỉ góp phần bảo vệ
những nhu cầu, lợi ích chính đáng của các cựu chiến binh, mà còn thực sự là
một tổ chức có uy tín trong nhân dân. Thông qua hộ, các cựu chiến binh tích
cực tham gia và công việc nhà nước và xã hội.
Với đặc điểm là hầu hết thành viên của Hôi cựu chiến binh đã được tôi
luyện trong chiến tranh, sống có kỷ luật, có trình độ cao, có kinh nhiệm trong

hoạt động chính trị, giàu kinh nghiệm trong cuộc sống đặc biệt là rất nhiệt
tình trong công tác xa hội, vì vậy họ rất có uy tín trogn nhân dân. Cựu chiến
binh rất gương mẫu trong thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
18


nước, nhiều người làm kinh tế giỏi, giúp bà con xung quanh xóa đói giảm
nghèo. Hội đã tích cực hoạt động bảo vệ lẽ phải, đấu tranh chống quan liêu,
tham nhũng, chống chủ nghĩa cơ hội trong các cơ quan Đảng và Nhà nước.
Các cựu chiến binh là lực lượng nòng cốt trong các ban thanh tra nhân dân,
giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, thực hiện nghiêm túc các
chương trình, dự án phát triển kinh tế ở địa phương.

Trong những năm qua, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đã
có vai trò to lớn trong phát huy quyền làm chủ của các tầng lớp nhân dân
trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và các thời ký quá độ lên
XHCN. Để tiếp tục phát huy vai trò của các tổ chức trong sự nghiêph đổi mới
hiện nay, trước hết cần đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, quản lý của
Nhà nước đối với các tổ chức đó; đồng thời đổi mới bằng cách dân chủ hóa tổ
chức và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị-xã hội theo hướng
đa dạng hóa các hình thức tập hợp quần chúng, đa dạng hóa chức năng và
nhiệm vụ của tổ chức mình. Nghị quyết đại hội IX đã chỉ rõ “ tiếp tục đổi mới
phương thức hoạt động của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân
dân, khắc phục tình trạng hành chính hóa, phô trương, hình thức, quan liêu, xa
dân. Thực hiện tốt Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tổ chức các phong trào

nhân dân thi đua yêu nước, đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư,
xây dựng đời sống văn hóa, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, gắn liền với các
chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của cả đất nước, từng địa
phương và đại bàn dân cư. Hướng mạnh các hoạt động về cơ sở, cộng đồng
dân cư và từng gia đình”.
V.THỂ CHẾ BẦU CỬ.
1. Các nguyên tắc bầu cử.
Nguyên tắc phổ thông là nguyên tắc quan trọng trong việc tổ chức các
cuộc bầu cử.
Nguyên tắc bầu cử trực tiếp: cử tri tín nhiệm người nào bỏ phiếu thẳng
cho người đó làm đại biểu Quốc hội hay Hội đồng nhân dân. Nguyên tắc bỏ
19



phiếu kín: cử tri bỏ phiếu phải tự mình viết phiếu, tự mình gạch tên người ứng
cử nào mà họ tín nhiệm ở phiếu bầu đã được in sẵn. Nguyên tắc bình đẳng: cử
tri được tham gia vào việc bầu cử, có quyền và nghĩa vụ như nhau.
2.Việc bãi nhiệm đại biểu.
Điều 7 Hiến pháp quy định “ đại biểu Quốc hội bị cử tri hoặc Quốc hội
bãi nhiệm và đại biểu Hội đồng nhân dân bãi nhiệm khi đại biểu đó không
còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”. Để phụ trách công việc bãi
nhiệm đại biểu Quốc hội, cũng như đại biểu của Hội đồng nhân dân, pháp luật
quy định thành lập ủy ban công tác bãi nhiệm, Ban công tác, tổ công tác bãi
nhiệm.

Thể chế chính trị của nước ta hiện nay được thiết lập trên cơ sở kế thừa
thành tựu tinh hoa của thế giới, đặc biệt là mô hình thể chế chính trị của Xô
Viết và kế thừa những giá trị truyền thống chính trị Việt Nam.
VI. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM,GIẢI PHÁP XÂY DỰNG, HOÀN
THIỆN THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ DÂN CHỦ XHCN Ở VIỆT NAM.
1.Mục tiêu.
Xây dựng và hoàn thiện thể chế chính trị dân chủ XHCN là yêu cầu
của sự phát triển kinh tế và dân chr hóa xã hội, đồng thời cũng là xu thế phát
triển khách quan của thời đại.
Trong giai đoạn phát triển mới của đất nước cách mạng nước ta đang
đứng trước vận hội và thử tháchto lớn để tiếp tực đẩy mạnh toàn diện công
cuộc đổi mới, xây dựng và hoàn thiện thể chế chính trị dân chủ XHCN.

Xây dựng và hoàn thiện thế chế chính trị dân chủ XHCN trong giai
đoạn mới và bảo đảm giữ vững ổn định chính trị một cách tích cực, bảo đảm
các điều kiện chính trị một cách tích cực, bảo đảm các điều chính trị-xã hội
thuận lợ và an toàn cho phát triển kinh tế và dân chủ hóa xã hội; bảo đảm cho
việc thực hiện thắng lới mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH vì một xã hội dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

20


2.Quan điểm.
Thứ nhất, kiên định đường lối xây dựng và hoàn thiện của thể chế

chính trị dân chủ XHCN trên nền tảng chủ nghĩ Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, kế thừa những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu có
chọn lọc và sáng tạo kinh nghiệm của các nước trên thế giới.
Thứ hai, xây dựng, hoàn thiện thể chế chính trị dân chủ XHCN phải
bảo đảm giữ vững ổn định chính trị một cách tích cực để phát triển kinh tế và
dân chủ hóa xã hội.
Thứ ba, xây dựng và hoàn thiện thể chế chính trị dân chủ XHCN phải
biết kế thừa, có bước đi, hình thức, và cách làm thích hợp.
Thứ tư, xây dựng và hoàn thiện thể chế chính trị dân chủ XHCN nhất
thiết phải trên cơ sở bảo đảm giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng, năng lực quản lý, điều hành của nhà nước và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân.

3. Giải pháp xây dựng và hoàn thiện thể chế chình trị dân chủ
CNXH ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Một là, đẩy mạnh việc xây dựng hệ thống lập pháp và những quy định
làm cơ sở pháp lý cho việc xây dựng và hoàn thiện thế chế chính trị dân chủ
CNXH.
Hai là, tiếp tực đổi mới tổ chức, phương thức và phong cách lãnh đạo
nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và năng lực cầm quyền của
Đảng.
Ba là, phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân bảo đảm và phát huy quyền dân
chủ của nhân dân.
Bốn là, tăng cường vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ

quốc và các tổ chức chính trị-xã hội đối với các cơ quan quyền lực nhà nước.
Năm là, thể chế hóa, cụ thể hóa cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, nhân dân làm chủ.

KẾT LUẬN
21


Như vậy, nước ta đã và đang hoàn thiện dần bộ máy nhà nước mà đặc
biệt là hệ thống thể chế chính trị ở nước ta. Đảng ta đang ngày càng thể hiện
rõ vai trò lãnh đạo của mình đối với quần chúng nhân dân, không ngừng nâng
đổi mới để phù hợp với sự phát triển của đất nước. Đem lại lợi ích cho nhân

dân và đước nhân dân tin cậy, thực hiện tốt bản chất của nhà nước ta là nhà
nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Cùng với đó là hoạt động của
các tổ chức chính trị-xã hội nhằm đem lại sự công bằng cho nhân dân. Nói
tóm lại, thể chế chính trị Việt Nam đang dần hoàn thiện về mọi mặt về kinh
tế, chính trị, văn hóa, giáo dục… để xây dựng đất nước ngày càng phát triển
theo hướng công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước.

MỤC LỤC
22


23




×