Tải bản đầy đủ (.docx) (111 trang)

thiết kế máy thu hoạch ngô và đậu tương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.2 MB, 111 trang )

GVHD: TS. Nguyễn Tiến Đông

LỜI NÓI ĐẦU
Ngô và đậu tương là cây trông rất phổ biến,về sản lượng và diện tích chỉ sau cây lúa ở Việt
Nam.
Ngô chiếm 1,2 triệu ha là cây lương thực thứ 2 sau lúa là 7,8 triệu ha. Theo đó, trong năm
2015, dự kiến cả nước sẽ giảm khoảng 104.000 ha diện tích gieo trồng lúa đểchuyển
sangtrồng một số cây hằng năm khác, đặc biệt là cây ngô.
Tuy là cây xếp thứ 2 nhưng cây ngô không được quan tâm nhiều vì cây ngô trồng chủ yếu ở
trên đất đồi địa hình không thuận lợi cho máy móc, điển hình vùng Tây Bắc Bộ như Bắc
Kạn,Sơn La … đất ven sông địa hình khó khăn và máy móc nhập thì không thể vào được
như cây lúa.Các công đoạn gần như thủ công: làm đất,lên luống,tra hạt,bỏ phân …vì vậy
năng suất không cao và người dân quanh năm sống với ruộng đồng.
Cây đậu tương là cây có giá trị cao vì đậu tương làm thực phẩm cho con người: dầu ăn,sữa
đậu lành,đậu ăn hàng ngày…cũng như cây ngô,đậu tương được trồng trên cùng đất đồng
màu với ngô,thường 1 năm sẽ có 2 vụ ngô xen 1 vụ đỗ, tất cả các công đoạn đều làm thủ
công trừ công đoạn đậu tương mang về nhà phơi khô rồi thuê máy đập ra hạt, 1 trong 2 công
đoạn tốn nhiều thời gian là lên luống,phương thức giống cây ngô,còn cắt đỗ thì do thân cây
đỗ có những quả vỏ sắc,cắt rất khó khăn vì thế năng suất cắt cực thấp!
Ý tưởng:
Dựa vào thực trạng trên cùng với trải nghiệm thực tế nhiều năm phải ra đồng làm những
công việc khó khăn này chúng em đã nghĩ tại sao không có những chiếc máy do VN sản
xuất để phục vụ chính những người dân VN,những công đoạn nặng nhọc ấy làm mãi sao?
Khi được ra ngoài ăn học mở mang kiến thức ở những trường ĐH lớn cả nước bằng những
đồng tiền từ cây nông nghiệp ấy chúng em nhận ra nông nghiệp VN đang tụt hậu vớithế giới
quá quá nhiều ,có phát triển đó nhưng sự chênh lệch là rất lớn.
Một đặc điểm là người VN rất chịu khó dẫn đến cam chịu,họ làm hết ngày này tháng khác
mà rất ít khi nghĩ tới những chiếc máy thay thế mình chứ chưa nói đến việc máy hiện đại
thay thế hoàn toàn.
Chúng em muốn làm những chiếc máy đơn giản,giá thành phù hợp,thay thế nhữngcông việc
thủ công góp phần thay đổi nhận thức dần dần và để quê hương phát triển, khi đã có được


niềm tin thì chúng em sẽ hướng phát triển cải tiến máy tốt hơn nữa.1 trong những lợi thế là
chúng em rất hiểu điều kiện tại nơi khó khăn ấy !
1

Nhóm sinh viên thực hiện: Nguyễn Thành Đô – Lê Văn Diện


GVHD: TS. Nguyễn Tiến Đông
Máy lên luống cho ngô và đậu tương là máy mini sử dụng động cơ xăng,máy kích thước nhỏ
gọn để có thể vào ruộng khi cây đang phát triển mà ít những máy khác hiện naycó thể làm
được, lên luống là lấy đất ở giữa 2 luống để đắp lên gốc cây cho gốc cây chắc để cây có thể
phát triển cao,lớn sau này.
Ước lượng mỗi ngày 2 người vun được 2 sào bắc bộ bằng máy làm trong khoảng 1-2
tiếng,năng suất khá cao so với làm thủ công.
Bộ phận cắt đậu tương là 1 cơ cấu đơn giản tách dời hẳn với máy,được lắp ở phía trước động
cơnếu được sử dụng,sử dụng động cơ của máy lên luống để dẫn chuyển động cho bộ phận
cắt bằng truyển động đai, bánh răng côn và xích!

2

Nhóm sinh viên thực hiện: Nguyễn Thành Đô – Lê Văn Diện


GVHD: TS. Nguyễn Tiến Đông

MỤC LỤC

3

Nhóm sinh viên thực hiện: Nguyễn Thành Đô – Lê Văn Diện



GVHD: TS. Nguyễn Tiến Đông
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CÂY NGÔ VÀ CÁC MÁY HỖ TRỢ TRỒNG NGÔ
CÓ SẴN TRÊN THỊ TRƯỜNG
A. TỔNG QUAN VỀ CÂY NGÔ
1. Tổng quan về cây ngô

Ngô, bắp hay bẹ (danh pháp hai phần: Zea mays L. ssp. mays) là một loại cây lương thực
được thuần canh tại khu vực Trung Mỹ và sau đó lan tỏa ra khắp châu Mỹ. Ngô lan tỏa ra
phần còn lại của thế giới sau khi có tiếp xúc của người châu Âu với châu Mỹ vào cuối thế
kỷ15, đầu thế kỷ 16.

Cây ngô được du nhập vào Việt Nam từ Trung Quốc. Ban đầu ngô được gọi là “lúa ngô”, về
sau được gọi tắt thành “ngô”.
Trên thế giới, ngô là một trong những cây ngũ cốc quan trọng, diện tích đứng thứ 3 sau lúa
mì và lúa nước; sản lượng thứ hai và năng suất cao nhất trong các cây ngũ cốc. Năm 1961,
diện tích ngô toàn thế giới đạt 105,5 triệu ha; năng suất 19,4 tạ/ha; sản lượng 205 triệu tấn.
Đến năm 2009, diện tích trồng ngô thế giới đạt khoảng 159,5 triệu ha; năng suất bình quân
4

Nhóm sinh viên thực hiện: Nguyễn Thành Đô – Lê Văn Diện


GVHD: TS. Nguyễn Tiến Đông
51,3 tạ/ha; sản lượng 817,1 triệu tấn. Trong đó Mỹ, Trung Quốc, Braxin là những nước đứng
đầu về diện tích và sản lượng.
Ở Việt Nam, ngô là cây lương thực quan trọng thứ hai sau cây lúa và là cây màu quan trọng
nhất được trồng ở nhiều vùng sinh thái khác nhau, đa dạng về mùa vụ gieo trồng và hệ thống
canh tác. Cây ngô không chỉ cung cấp lương thực cho người, vật nuôi mà còn là cây trồng

xóa đói giảm nghèo tại các tỉnh có điều kiện kinh tế khó khăn. Sản xuất ngô cả nước qua các
năm không ngừng tăng về diện tích, năng suất, sản lượng: năm 2001 tổng diện tích ngô là
730.000 ha, đến năm 2005 đã tăng trên 1 triệu ha; năm 2010, diện tích ngô cả nước 1126,9
nghìn ha, năng suất 40,9 tạ/ha, sản lượng trên 4,6 triệu tấn. Tuy vậy, cho đến nay sản xuất
ngô ở nước ta phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu
dùng trong nước, hàng năm nước ta vẫn phải nhập khẩu từ trên dới 1 triệu tấn ngô hạt.

5

Nhóm sinh viên thực hiện: Nguyễn Thành Đô – Lê Văn Diện


GVHD: TS. Nguyễn Tiến Đông
2. Sinh lý học cây ngô

Thân cây ngô trông tương tự như thân cây của các loài tre và các khớp nối (các mấu hay
mắt) có thể có cách nhau khoảng 20–30 cm (8–12 inch). Ngô có hình thái phát triển rất khác
biệt; các lá hình mũi mác rộng bản, dài 50–100 cm và rộng 5–10 cm (2–4 ft trên 2-4 inch);
thân cây thẳng, thông thường cao 2–3 m (7–10 ft), với nhiều mấu, với các lá tỏa ra từ mỗi
mấu với bẹ nhẵn. Dưới các lá này và ôm sát thân cây là các bắp. Khi còn non chúng dài ra
khoảng 3 cm mỗi ngày. Từ các đốt ở phía dưới sinh ra một số rễ.
Ngô là loại thực vật cần thời gian ban đêm dài và ra hoa trong một lượng nhất định ngày
nhiệt độ tăng trưởng > 10 °C trong môi trường mà nó thích nghi.Biên độ ảnh hưởng mà thời
gian ban đêm dài có đối với số ngày cần phải có để ngô ra hoa được quy định theo di truyền
6

Nhóm sinh viên thực hiện: Nguyễn Thành Đô – Lê Văn Diện


GVHD: TS. Nguyễn Tiến Đông

và được điều chỉnh bởi hệ thống sắc tố thực vật. Tính chu kỳ theo ánh sáng có thể bị sai lệch
ở các giống cây trồng cho khu vực nhiệt đới, nơi mà thời gian ban ngày kéo dài ở các cao độ
lớn làm cho cây sẽ phát triển rất cao và chúng không đủ thời gian để ra hoa, tạo hạt trước khi
bị chết vì sương giá. Chính vì vậy, cây Ngô rất thích hợp để trồng ở Việt Nam.
3. Tình hình sản xuất, tiêu thụ ngô ở Việt Nam và thế giới

3.1. Sản xuất
Ngô được gieo trồng rộng khắp thế giới với sản lượng hàng năm cao hơn bất kỳ cây lương
thực nào. Trong khi Hoa Kỳ sản xuất gần một nửa sản lượng chung của thế giới thì các nước
sản xuất hàng đầu khác còn có Trung Quốc, Brasil, México, Argentina, Ấn Độ, Pháp,
Indonesia, Nam Phi và Italia. Sản lượng toàn thế giới năm 2003 là trên 600 triệu tấn - hơn cả
lúa và lúa mì. Năm 2004, gần 33 triệu ha ngô đã được gieo trồng trên khắp thế giới, với giá
trị khoảng trên 23 tỷ USD.
Ngô là cây lương thực được gieo trồng nhiều nhất tại châu Mỹ ( chỉ riêng tại Hoa Kỳ thì sản
lượng đã là khoảng 270 triệu tấn mỗi năm)

7

Nhóm sinh viên thực hiện: Nguyễn Thành Đô – Lê Văn Diện


GVHD: TS. Nguyễn Tiến Đông
Tại VIệt Nam, cây ngô được đánh giá là cây trồng có vai trò hết sức quan trọng trong cơ cấu
cây trồng ở nước ta; năm 2010 là 1126,9 nghìn ha (trong đó trên 90% diện tích trồng ngô
lai), sản lượng đạt trên 4,6 triệu tấn. Tuy vậy sản xuất ngô trong nước vẫn chưa đáp ứng đủ
nhu cầu, hàng năm nước ta phải nhập khẩu lượng lớn ngô nguyên liệu cho chế biến thức ăn
chăn nuôi.
Những năm qua nhà nước cũng đã hết sức quan tâm đầu tư cho việc nghiên cứu phát triển
cây ngô: 2 dự án phát triển giống ngô lai đã được đầu tư: Dự án phát triển giống ngô lai giai
đoạn 2006-2010 và dự án phát triển sản xuất giống ngô lai giai đoạn 2011 - 2015.

Nhà nước có nhiều cơ chế chính sách hỗ trợ giống đã khuyến khích các doanh nghiệp trong
và ngoài nước sản xuất, cung cấp giống, giới thiệu các giống mới có năng suất, chất lượng
tốt vào sản xuất, nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật về sản xuất ngô đã được chuyển giao đến
người nông dân. Tuy nhiên việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất vẫn còn nhiều hạn
chế, với địa hình phức tạp, trên 70% diện tích ngô được trồng trên đất có độ cao, phụ thuộc
vào nước trời, ít đầu tư thâm canh nên năng suất ngô vẫn còn thấp so với tiềm năng của
giống. Năm 2010, NSTB cả nước đạt 40,9 tạ/ha, sản lượng trên 4,6 triệu tấn so với năng suất
ngô có thâm canh là 70 - 80 tạ/ha. Bên cạnh đó các giống ngô có khả năng thích nghi tốt với
điều kiện thời tiết bất thuận như hạn hán và mưa lũ vẫn còn thiếu.
Để cây ngô Việt Nam phát triển một cách bền vững, đáp ứng trên 80% nguyên liệu chế biến
thức ăn chăn nuôi và mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người sản xuất, việc đánh giá đúng
thực trạng sản xuất ngô, đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm mở rộng diện tích trồng ngô là
điều hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay.

Theo ước tính trong năm 2015, vùng thu hoạch ngô sẽ tăng lên từ 1,2 triệu héc ta lên
1,25 triệu héc ta do chính sách mới của Chính phủ trong việc tăng diện tích trồng ngô từ việc
chuyển đổi diện tích trồng lúa kém hiệu quả. Năng suất ngô trung bình dự kiến tăng nhẹ do
việc sử dụng các giống ngô lại tạo mới. Trong năm 2015, sản lượng ngô tăng khoảng 300
nghìn tấn so với dự báo trước đó của USDA.

8

Nhóm sinh viên thực hiện: Nguyễn Thành Đô – Lê Văn Diện


GVHD: TS. Nguyễn Tiến Đông
Sản lượng ngô Việt Nam niên vụ 2014/2015 và dự báo cho năm 2016
Đơn vị



Diện tích thu hoạch nghìn ha
Năng suất
tấn/ha
Sản lượng nghìn tấn

2014
Mới

Ước tính

2015
Chỉnh sửa

2016

Dự báo
1.195 1.179
1.200
1.250
1.300
4,43
4,4
4,45
4,5
4,6
5.293 5.188
5.340
5.625
5.980
Nguồn: Bộ NN&PTN, số liệu ước tính của USDA


Bảng phía dưới đây sẽ chỉ rõ vùng trồng ngô quy hoạch theo vị trí địa lý. Vùng trung du và
khu vực miền núi phía Bắc là khu vực có diện tích trồng ngô lớn nhất sau đó là Tây Nguyên.

Diện tích trông ngô theo khu vực địa lý
Đơn vị: nghìn ha
2011
2012
2013
Toàn quốc
1.121,3
1.156,6
1.172,5
Đồng bằng sông Hồng
96,0
86,4
88,3
Trung du và vùng núi phía Bắc
465,7
502,0
505,8
Bắc Trung Bộ và khu vực ven biển miền Trung 207,6
121,4
205,6
Tây Nguyên
232,6
246,9
252,4
Đông Nam Bộ
78,7

79,3
80,1
Đồng bằng sông Cửu Long
40,7
39,6
40,3
Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam

9

Nhóm sinh viên thực hiện: Nguyễn Thành Đô – Lê Văn Diện


GVHD: TS. Nguyễn Tiến Đông
Sản lượng ngô Việt Nam giai đoạn 2012-2016

3.2.Tiêu thụ
Giá ngô trên thị trường thế giới trong thời gian qua đã có sự biến động đáng kể, bình quân
thời kỳ 1994-1999 là 138-142 USD/tấn; hiện nay là 300-305 USD/tấn. Các nước xuất khẩu
ngô chính vẫn là Mỹ, Achentina, Pháp… Các nước nhập khẩu ngô chính gồm Nhật Bản,
Nam Triều Tiên, Malaysia, Đài Loan…

10

Nhóm sinh viên thực hiện: Nguyễn Thành Đô – Lê Văn Diện


GVHD: TS. Nguyễn Tiến Đông

Việt Nam, hiện tại giá 1 kg ngô hạt dao động từ 7.000 -7.500 đồng. Nhu cầu ngô hạt cần cho

công nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi liên tục tăng trong khi diện tích trồng ngô và năng
suất ngô Việt Nam đã bị chững lại, với đà tăng trưởng của ngành chăn nuôi và nhu cầu ngô
phục vụ công nghiệp sản xuất Ethanol hiện nay đòi hỏi nguồn nguyên liệu ngô là rất lớn. Vì
vậy, sản xuất ngô trên toàn cầu nói chung và ở Việt Nam nói riêng chắc chắn sẽ được tập
trung phát triển mạnh trong thời gian tới
4. Vai trò của cây ngô

4.1. Có giá trị sử dụng rộng trong nhiều ngành sản xuất
Ngô là một loại cây lương thực có giá trị sử dụng rộng rãi, không những trong nông nghiệp
mà còn trong các ngành sản xuất khác:
- Hạt ngô dùng làm lương thực cho người và thức ăn cho chăn nuôi, ngoài ra còn
dùng làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến như trích tinh bột ngô để làm hồ
vải, hoặc dùng vào công nghiệp chế biên đường gluco, doxtrox, deptrin, maldons,
-

công nghiệp chế biến thực phẩm.
Bẹ ngô dùng làm thảm hoặc chế biến giấy cuộn thuốc lá.
Thân ngô được dùng làm chất đốt hoặc nguyên liệu giấy sợi, thân ngô non dùng

-

làm thức ăn cho bò sữa rất tốt.
Cùi ngô làm chất đốt hoặc chế tạo chất dẻo, nylon.
11

Nhóm sinh viên thực hiện: Nguyễn Thành Đô – Lê Văn Diện


GVHD: TS. Nguyễn Tiến Đông
- Râu ngô được dùng làm dược liệu.

Hiện nay ở nước ta, cây ngô vẫn được dùng chủ yếu trong lĩnh vực sản xuất thức ăn chăn

nuôi, còn các ngành sản xuất khác mới chiếm tỷ trọng nhỏ, cần mở rộng trong thời gian tới.
Do có nhiều công dụng và vị trí quan trọng rong sản xuất nông nghiệp nên ngô được trồng ở
rất nhiều nước trên thế giới.
4.2. Là một loại cây xoá đói giảm nghèo, tăng thêm thu nhập cho người nông dân
`Mục đích cơ bản của các chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn là phát triển
kinh tế đất nước, nâng cao đời sống cho nông dân. Với những nghiên cứu sâu rộng của các
cơ quan nghiên cứu, cây ngô đã nằm trong nhóm cây lương thực cần phát triển trong tương
lai. Với giá trị sử dụng và giá trị kinh tế khá cao, cùng với các khả năng nâng cao năng suất,
cây ngô sẽ nâng cao mức thu nhập cho người nông dân, từ đó đáp ứng được mục tiêu xã hội
quan trọng là xóa đói giảm nghèo.
4.3. Sử dụng đất đai có hiệu quả, phá thế độc canh của cây lúa
Với một nền nông nghiệp lúa nước trước kia, cây ngô thường được coi là loại cây lương
thực bổ sung. Nhưng hiện nay, với yêu cầu chuyển đổi, đa dạng hóa cây trồng, việc phát
triển cây ngô là phù hợp. Đi đôi với việc tăng năng suất, chất lượng của cây ngô là việc
chuyển đổi những vùng đất không thích hợp đối với trồng lúa sang cây trồng có hiệu quả
hơn là ngô.
4.4. Tiết kiệm được ngoại tệ
Cây ngô được phát triển sẽ làm giảm lượng ngô nhập khẩu, tiết kiệm được ngoại tệ cho ngân
sách Nhà nước. Đây là một chỉ tiêu cần thiết trong điều kiện nền kinh tế nước ta đang trong
giai đoạn phát triển, rất cần tiết kiệm nguồn vốn cho đầu tư phát triển các vấn đề khác cấp
thiết hơn.

12

Nhóm sinh viên thực hiện: Nguyễn Thành Đô – Lê Văn Diện


GVHD: TS. Nguyễn Tiến Đông

Giá nhập khẩu của một số sản phẩm nông nghiệp năm 2001
Mặt hàng
Muối
Bông sơ
Ngô
Đậu tương

Giá nhập khẩu
22 – 25 USD/ tấn
12.000đ/ kg
80 USD/ tấn
180 USD/ tấn
Nguốn: Báo Thương mai ngày 4 tháng 12 năm 2001
5. Đặc điểm kỹ thuật và quá trình sinh trưởng của cây ngô
5.1. Đặc điểm kỹ thuật
- Là loại cây lương thực ngắn ngày, có thể trồng theo nhiều mùa vụ khác nhau (đông
- xuân, xuân hè và hè thu). Một vụ gieo trồng cho đến khi thu hoạch của ngô kéo
-

dài trong khoảng 3 tháng.
Thích hợp với khí hậu nhiệt đới (Tổng nhiệt cần 2000 - 22000C, lượng mưa (400 -

500 mm/năm)
Đặc trưng của khi hậu nhiệt đới gió mùa là nhiều nắng, lượng mưa nhiều, độ ẩm trung bình
cao, là điều kiện thuận lợi cho sự sinh trưởng của các loài thực vật; là điều kiện tốt để tiến
hành xen canh, gối vụ tăng nhanh vòng quay ruộng đất, thâm canh tăng năng suất ngô.
- Thích hợp với nhiều loại đất
Hoạt động sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào điều kiện khách quan.
Trước hết nông nghiệp khác cơ bản đối với các ngành khác ở chỗ tư liệu sản xuất chủ yếu là
đất đai, không có ngành nào đất đai đóng vai trò chủ đạo như trong nông nghiệp. Ngô là loại

cây trồng có khả năng mọc trên nhiều loại đất khác nhau (nếu có đủ độ ẩm). Để có năng suất
cao thì ngô thường được trồng trên các loạiđất có thành phần có giới từ cát pha đến thịt trung
bình, có độ thấm nước và kết cấu tơi xốp, có chế độ giữ nước tốt, giàu dinh dưỡng, độ pH từ
6 - 7. Trên thực tế, ngô thích hợp với đất phù sa ven sông, đất đen thung lũng, đất đỏ vàng
trên nền đá vôi và đất đỏ bazan. Ngoài ra ngô cũng có thể trồng có năng suất cao ở đất phù
sa cổ, đất đỏ vàng, đất bạc màu nếu có chế độ thâm canh tốt.
- Hoạt động sản xuất cần nhiều lao động
- Có khả năng nâng cao năng suất và sản lượng.
5.2. Các giai đoạn sinh trưởng và phát triển của cây ngô
Thời gian sinh trưởng của cây ngô từ khi gieo đến khi chín trung bình từ 90 - 160 ngày (thời
gian sinh trưởng dài, ngắn khác nhau phụ thuộc vào giống và điều kiện ngoại cảnh)
Cây ngô trong cả đời sống qua các giai đoạn sinh trưởng khác nhau, mỗi giai đoạn có những
đặc điểm và yêu cầu ngoại cảnh khác nhau. Chia thành 5 giai đoạn như sau:
• Giai đoạn nảy mầm (từ trồng đến 3 lá):
13

Nhóm sinh viên thực hiện: Nguyễn Thành Đô – Lê Văn Diện


GVHD: TS. Nguyễn Tiến Đông
+) Giai đoạn này có đặc điểm là phụ thuộc vào lượng các chất dự trữ trong hạt.
Trước khi nảy mầm hạt hút nước và trương lên do vậy nước luôn có sẵn cho hạthấp thu. Ở
giai đoạn này bên trong hạt quá trình oxy hoá các chất dự trữ diễn ramạnh qua quá trình sinh
hoá phức tạp, những chất hữu cơ phức tạp sẽ chuyểnthành các chất đơn giản dễ hoà tan (xảy
ra nhờ hoạt động của các loại men vớiđiều kiện có đủ ẩm, nhiệt độ và thoáng khí).
+) Sau quá trình hút nước là sự nẩy mầm và sinh trưởng cây con
Yêu cầu ngoại cảnh ở giai đoạn này là nước, nhiệt độ và không khí:
- Nước: lượng nước cần thiết cho hạt ngô nảy mầm khoảng 45% trọnglượng khô
tuyệt đối của hạt. Để đảm bảo đủ nước cho hạt nảy mầm, độ ẩm đấtthích hợp trong
-


khoảng 60-70% độ ẩm tương đối.
Nhiệt độ: ngô nẩy mầm thích hợp ở nhiệt độ: 25 - 300C, tối thấp 10-120C,tối cao từ

-

40-450C.
Không khí: lúc hạt nảy mầm tiếp tục cho đến khi ngô được 3 lá, hạt ngôhô hấp

mạnh nên đất gieo hạt cần phải thoáng.
• Giai đoạn cây con (từ lúc ngô 3 lá đến phân hoá hoa):
Bắt đầu từ khi ngô đạt 3 - 4 lá đến 7 - 9 lá (vào khoảng 10 - 40 ngày sau khi gieo đối với
giống ngô 4 tháng). Giai đoạn này cây chuyển từ trạng thái sống nhờ chất dự trữ trong hạt
sang trạng thái hút chất dinh dưỡng của đất và quanghợp của bộ lá. Tuy nhiên giai đoạn này
thân lá trên mặt đất phát triển chậm, lóngthân bắt đầu được phân hoá, các lớp rễ đốt bắt đầu
được hình thành và phát triển mạnh hơn thân lá. Bông cờ bắt đầu phân hoá. Đây là giai đoạn
làm đốt, hình thành các lớp rễ đốt và bắt đầu hình thành cơ quan sinh sản đực.
Điều kiện ngoại cảnh thích hợp cho giai đoạn này:
- Nhiệt độ: thích hợp là 200 - 300C (tối thích 25 - 280C). Giai đoạn này câychịu rét
khoẻ hơn, vì thế tác hại của nhiệt độ thấp giảm hơn giai đoạn trước.Nhiệt độ cao ở
giai đoạn này cây sinh trưởng nhanh, cây yếu; nhiệt độ giảm rễăn nông, ít rễ con,
-

cây còi cọc, quá trình phân hoá đốt bị ảnh hưởng.
Độ ẩm đất: đây là giai đoạn cây ngô có khả năng chịu hạn tốt hơn trong suốt chu kỳ

-

sinh trưởng. Độ ẩm thích hợp khoảng 60 - 65%.
Đất đai và chất dinh dưỡng: Yêu cầu đất tơi xốp và thông thoáng, đảmbảo cung cấp



-

đủ oxy cho rễ phát triển.
Giai đoạn vươn cao và phân hoá cơ quan sinh sản
Giai đoạn này cây ngô sinh trưởng thân lá nhanh, bộ rễ phát triển mạnh ănsâu, toả
rộng.

14

Nhóm sinh viên thực hiện: Nguyễn Thành Đô – Lê Văn Diện


GVHD: TS. Nguyễn Tiến Đông
-

Cơ quan sinh sản bao gồm bông cờ và bắp phân hoá mạnh (từ bước 4 -8của bông
cờ, bước 1 -6 của bắp). Giai đoạn này kết thúc khi nhị cái xuất hiện.Đây là giai
đoạn quyết định số hoa đực và hoa cái và có mối liên hệ chặt chẽ đếnnăng
suất.Điều kiện tốt trong giai đoạn này: đầy đủ chất dinh dưỡng, nước tưới, độ
ẩm 70-75%, nhiệt độ thích hợp khoảng 24–25 0C, nhiệt độ cao hay thấp đều ảnh

hưởng xấu đến quá trình sinh trưởng và phân hoá cơ quan sinh sản.
Thời kỳ nở hoa (trỗ cờ, tung phấn, phun râu, thụ tinh)
Giai đoạn này diễn ra trong khoảng thời gian không dài, trung bình 10 - 15 ngày, tuy nhiên


đây là giai đoạn quyết định năng suất. Cuối giai đoạn này câyngô gần như ngừng phát triển
thân lá, nhưng vẫn tiếp tục hút các chất dinhdưỡng từ đất. Các chất dinh dưỡng và các chất

hữu cơ bắt đầu tập trung mạnhvào các bộ phận sinh sản. Trong điều kiện tốt đặc biệt là thời
tiết thuận lợi quátrình thụ tinh tiến hành tốt bắp mới cho nhiều hạt.
Yêu cầu ngoại cảnh trong giai đoạn này rất khắt khe: nhiệt độ thích hợp của cây ngô khoảng
22 -250C. Nhiệt độ thấp ảnh hưởng đến quá trình tung phấn, phun râu, thụ tinh. Nhiệt độ trên
350C hạt phấn dễ bị chết. Ở giai đoạn này cây ngô cần nhiều nước, độ ẩm 75-80% độ ẩm tối
đa đồng ruộng, trời lặng, gió nhẹ, ít mưa, nắng nhẹ (mưa to làm hạt phấn bị trôi).
• Thời kỳ chín ( bao gồm từ thụ tinh đến chín)
Giai đoạn này kéo dài 35-40 ngày từ khi thụ phấn thụ tinh. Chất dinh dưỡng từ thân lá tập
trung mạnh về hạt và trải qua những quá trình biến đổi sinhlý phức tạp, trọng lượng hạt tăng
nhanh, phôi phát triển hoàn toàn, trong giai đoạn chín dựa vào màu sắc và cấu tạo nên trong
của hạt người ta chia làm 3 giaiđoạn:
+) Giai đoạn chín sữa
+) Giai đoạn chín sáp
+) Giai đoạn chín hoàn toàn
Yêu cầu độ ẩm trong thời kỳ này khoảng 60-70% độ ẩm tối đa đồng ruộng, nhiệt độ trong
khoảng 20 – 220C

15

Nhóm sinh viên thực hiện: Nguyễn Thành Đô – Lê Văn Diện


GVHD: TS. Nguyễn Tiến Đông

6. Kỹ thuật trồng( làm đất) ngô ở nước ta

Trong kỹ thuật trồng ngô, làm đất được xem là biện pháp kỹ thuật quan trọng vì ngô có bộ rễ
chùm rất phát triển, có thể lan rộng với bán kính trên 0,5m và ăn sâu trên 1m đến 2m. Do
vậy, đất trồng ngô cần được cầy sâu, bữa kỹ, sạch cỏ dại.
• Đối với những vùng ngô tập trung, các lô ruộng lớn, tốt nhất làm đất tiến hành bằng

cơ giới với các khâu chính tuần tự như sau:
- Băm cỏ và phế phụ phẩm bằng bừa đĩa nặng
- Cày bằng máy sâu 15 - 18cm
- Băm phá bằng bừa đĩa nặng (1 lần)
- Băm đất nhỏ bằng bừa đĩa nhẹ (2 lần theo 2 chiều vuông góc nhau)
- San bằng và vơ cỏ bằng bừa răng
Đất được chuẩn bị như trên là sẵn sàng cho việc gieo hạt. Nếu không tiến hành gieo bằng
máy thì rạch hàng bằng một thiết bị như lưỡi vun, sau đó gieo bằng tay trên mặt luống
( mùa mưa) hoặc dưới rạch (mùa khô)
• Ở những lô đất nhỏ hoặc không có máy móc cơ khí lớn, việc làm đất có thể tiến
-

hành bằng tay hoặc cơ khí nhỏ. Các bước chính cần tiến hành:
Đốt hoặc vơ sạch cỏ, thân cây trồng vụ trước
Cày bằng máy công nông, bằng trâu bò sâu 10-12 cm
Bừa nhỏ đất và vơ sạch cỏ bằng bừa trâu hoặc phay đất bằng máy công nông
Lên luống hoặc rạch hàng bằng cày trâu hoặc bằng tay, sau đó gieo hạt theo khoảng

cách đã định.
• Đối với ngô đông trên đất ướt sau gặt lúa cần tiến hành:
- Cày bằng trâu tạo luống khoảng 1,1m
- Vén gọn tạo rãnh thoát nước giữa các luống
- Đặt bầu hoặc hạt nảy mầm ở khoảng cách đã định
16

Nhóm sinh viên thực hiện: Nguyễn Thành Đô – Lê Văn Diện


GVHD: TS. Nguyễn Tiến Đông
Để tranh thủ thời gian, ngô Đông trên nền đất ướt có thể áp dụng phương thức làm đất tối

thiểu hoặc không làm đất. Ngay sau khi gặt lúa, khi đất còn ướt đem bầu ngô đặt theo hàng ở
khoảng cách nhất định. Có điều kiện làm rãnh thoát nước giữa các luống với 2 hàng ngô.
Khi cây ngô phát triển đến hết giai đoạn nảy mầm, ta cần phải lên luống cho cây ngô để cây
không bị đổ do thân cầy quá cao, đồng thời trong giai đoạn này cây ngô cũng cần có đất tơi
xốp và thoángđể phát triển. Việc lên luống này tốn nhiều thời gian và công sức.
7. Các phương pháp lên luống của người nông dân và yêu cầu của luống ngô
Sử dụng cuốc: tốc độ 100 (m2/h)
Dùng lưỡi cày kết hợp với bánh xe đạp: 500 (m2/h)

17

Nhóm sinh viên thực hiện: Nguyễn Thành Đô – Lê Văn Diện


GVHD: TS. Nguyễn Tiến Đông
Thông số yêu cầu của luống ngô

18

Nhóm sinh viên thực hiện: Nguyễn Thành Đô – Lê Văn Diện


GVHD: TS. Nguyễn Tiến Đông
B. MỘT SỐ LOẠI MÁY PHỤC VỤ VIỆC LÀM ĐẤT TRÊN THỊ TRƯỜNG
1. Máy làm đất đa năng 1Z-41A dàn xới trước(17.500.000 VND)

Thông số kỹ thuật:
Động cơ:

Động cơ diesel (R176 / R180), 1-xilanh, 4 thì


Truyền động:

Bánh răng

Công suất:

8HP/ 6,3Kw (R180) - 4,2 Kw (R176)

Cấp tốc độ:

-1,0,1,2,3 ( 3 số)

Mức tiêu thụ nhiên liệu:

(g/kw.h)<285

Khởi động:
Thể tích bình chứa nhiên liệu:

Khởi đông giật nổ
5,5L

Chiều rộng phay:

800-13000mm

Chiều sâu phay:

150-300mm


Kich thước:

1750*750*1050

Trọng lượng:

115kg

Tổng trọng lượng:

120kg
19

Nhóm sinh viên thực hiện: Nguyễn Thành Đô – Lê Văn Diện


GVHD: TS. Nguyễn Tiến Đông
Tính năng:

Chức năng:
-

Băm gốc rạ để làm đất cấy cho cả ruộng khô và ruộng nước, theo hình thức băm
phay gốc rạ, chỉ cần phay 2-3 lượt là đạt tiêu chuẩn đất cấy.

-

Cầy, bừa, lên luống để làm đất trồng cây màu.


-

Xới tơi đất và làm cỏ cho cây ăn quả trong vườn.

-

Vun xới đất cho cây trồng như ngô, mía …

-

Phá dỡ gốc cây mầu, cây công nghiệp như mía, dứa, ngô

2. Máy làm đất đa năng TARO 1WG5(11.000.000VND)

20

Nhóm sinh viên thực hiện: Nguyễn Thành Đô – Lê Văn Diện


GVHD: TS. Nguyễn Tiến Đông

Thông tin chung:
Tên sản phẩm: máy làm đất đa năng TARO 1WG5
Kiểu động cơ: 4 thì, một xi lanh, làm mát bằng gió
Dung tích động cơ: 210CC - 7 sức ngựa
Động cơ: 1E44F-5A
Công suất tối đa: 7 Sức ngựa
Tiêu hao nhiên liệu: 5 lít cho 4500m2
Dung tích bình chứa xăng: 2.5L
Độ rộng cày xới: 45-95 cm

Độ sâu cày xới: 18-25 cm
21

Nhóm sinh viên thực hiện: Nguyễn Thành Đô – Lê Văn Diện


GVHD: TS. Nguyễn Tiến Đông
Trọng lượng.: 47kg
Kích thước: 1.48x0.9x0.95 (m)
Khả năng làm việc: 4500m2 đến 7000m2/h
Truyền lức trực tiếp bằng bánh răng (không truyền động bằn dây curoa hay bằng xích) do
đó rất khỏe và bền máy.
Hệ thống hai lần lọc khí cho máy và được đưa lên cao giúp bền máy và tránh tuyệt đội sự
cố do nước và bùn vào hệ thông cấp khí cho máy.

22

Nhóm sinh viên thực hiện: Nguyễn Thành Đô – Lê Văn Diện


GVHD: TS. Nguyễn Tiến Đông
3. Máy xới đất mini GL 500(6.800.000 VND)

Thông số:
DÀN XỚI Số lưỡi xới 8 - 16 lưỡi
Độ rông dãy xới 220 - 560 mm
Độ sâu xới (max) 200 mm
Kiểu truyền động Đai thang nhông truyền, 1 số tiến
Dung tích nhớt hộp nhông 0.5 lít (SAE 90)
Loại 4 thì, 1 xilanh

23

Nhóm sinh viên thực hiện: Nguyễn Thành Đô – Lê Văn Diện


GVHD: TS. Nguyễn Tiến Đông
Dung tích xilanh 163 cc
Công suất lớn nhất 5.5 mã lực/3600 v/p
Hệ thống khởi động Bằng tay
Hệ thống đánh lửa Transitor từ tính (IC)
Dung tích nhớt 0.6 lít (SAE 40)
Dung tích nhiên liệu 3.6 lít
Trọng lượng khô 29 kg
Kích thước 1400 x 580 x 1150 mm
Nhìn chung thì các máy có sẵn trên thị trường chỉ có tính năng xới phá đất hoặc có tạo
luống nhưng chỉ tạo luống được khi chưa trồng cây.Các máy có kích thước lớn nên khó đi
vào giữa 2 luống ngô.

24

Nhóm sinh viên thực hiện: Nguyễn Thành Đô – Lê Văn Diện


GVHD: TS. Nguyễn Tiến Đông
C. CÁC PHƯƠNG ÁN THIẾT KẾ MÁY

Ta sẽ thiết kế máy có tính năng mới mà các máy cũ chưa thực hiện được: Lên luống cho cây
ngô khi cây đang phát triển. Để làm được điều này ta sẽ thiết kế máy sao cho máy có thể đi
vào giữa 2 hàng cây, đồng thời sau này có thể mở rộng tính năng của máy để thu hoạch đỗ
tương.


Hình dạng luống yêu cầu trước và sau khi lên luống
1. Hệ dẫn động

Các máy cũ phần lớn đều dùng bộ truyền gồm 1 bộ truyền đai và 1 hộp giảm tốc, vì những
máy này có kích thước lớn và thực hiện nhiều tính năng, trong đó có cả những tính năng cần
công suất lớn như: xới đất với độ sâu 18-25mm.
Đối với máy mới, việc sử dụng hộp giảm tốc là chưa cần thiết vì độ sâu xới đất của giai đoạn
lên luống chỉ từ 8-10cm. Vì tính kinh tế ta sẽ lựa chọn bộ truyền xích.
2. Khung máy
Vì chế tạo thử nên ta sẽ ghép các loại thép hình trên thị trường để cho đơn giản. Ngoài ra
thì yêu cầu đi được vào giữa 2 hàng cây thì máy cũng cần nhỏ gọn, phương án ghép thép
hình sẽ cho kích thước nhỏ gọn.

25

Nhóm sinh viên thực hiện: Nguyễn Thành Đô – Lê Văn Diện


×